Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Nghiên cứu đánh giá khả năng giải phóng kim loại nặng từ xỉ thải pyrit lộ thiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.79 KB, 15 trang )

Nghiên cứu đánh giá khả năng giải phóng kim
loại nặng từ xỉ thải pyrit lộ thiên

Trịnh Khắc Hoàn

Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
Luận văn Thạc sĩ ngành: Hóa môi trường; Mã số: 60 44 41
Người hướng dẫn: PGS.TS. Trần Hồng Côn
Năm bảo vệ: 2012

Abstract: Nghiên cứu khả năng phong hoá giải phóng kim loại nặng từ sỉ thải pyrit ra
môi trường trong điều kiện xung (thấm nước). Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến
quá trình phong hoá và các quá trình tương tác biến đổi và chuyển hoá của các sản
phẩm sau phong hoá. Trình bày kết quả đạt được: Quá trình kết tủa, cộng kết, hấp phụ
của các nguyên tố kim loại nặng; Nghiên cứu khả năng phong hoá giải phóng các kim
loại nặng trên mô hình bãi thải xỉ pirit lộ thiên.

Keywords: Hóa môi trường; Kim loại nặng; Xỉ thải Pyrit; Giải phóng kim loại; Phong
hóa

Content
Hiện nay, ô nhiễm môi trường đang là một vấn đề nóng bỏng mang tính toàn cầu,
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và đời sống của con người. Đặc biệt là ô nhiễm các
kim loại nặng. Có nhiều nguồn phát thải kim loại nặng trong đó hoạt động sản xuất công
nhiêp, sản xuất hóa chất là chủ yếu.
Do năng lực có hạn, công nghệ sản xuất chưa hiện đại, quy trình còn thiếu nghiêm
ngặt, nên nhiều nhà máy sản xuất hóa chất hiện nay ở nước ta hiệu suất sản xuất còn chưa cao,
bặc biệt trong giai đoạn xử lý và đốt quặng, dẫn đến không tận thu. Như vậy, thiệt hại về kinh
tế là đáng kể. Nhưng lo ngại hơn, với lượng chất thải sau sản xuất, theo thời gian nó sẽ ảnh
hưởng xấu đến môi trường xung quanh, ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người và động thực
vật. Với những lý do đó, chúng tôi lựa chọn đề tài “Nghiên cứu đánh giá khả năng giải


phóng kim loại nặng từ xỉ thải pyrit lộ thiên”.
Thành phần hóa học của pyrit là: Fe – 46,6%; S – 53,4%. Pyrit thường chứa các tạp
chất đồng hình As, Co, Ni, đôi khi Au, Ag, Cu tồn tại ở dạng phi bào thể. Cấu trúc tinh thể
kiểu NaCl trong đó vị trí của nguyên tử clo được thay thế bằng [S
2
]
2-
, phân bố dọc theo trục
bậc 3, còn ion Fe
2+
ở tâm của hình 8 mặt.

2
Pyrit là nguyên liệu quan trọng để điều chế axit sunfuric. Sau khi đốt pyrit để thu SO
2
,
phần rắn còn lại là xỉ pyrit được thải ra môi trường.
Phản ứng xảy ra trong quá trình đốt pyrit
4FeS
2
+ 11O
2

0t

2Fe
2
O
3
+ 8SO

2
Xỉ pyrit được dùng trong quá trình nghiên cứu của luận văn chúng tôi lấy tại bãi thải
của Công ty Superphotphat và hóa chất Lâm thao – Phú Thọ.
Pyrit bị oxi hoá như sau
2FeS
2
+ 7O
2
+ 2H
2
O → 2Fe
2+
+ 4SO
4
2-
+ 4H
+

4Fe
2+
+ O
2
+ 4H
+
→ 4Fe
3+
+ 2H
2
O
Fe

3+
+ 3H
2
O → Fe(OH)
3
+ 3H
+

Phương trình phản ứng tổng hợp
4FeS
2
+ 15O
2
+ 14H
2
O → 4Fe(OH)
3
+ 8SO
4
2-
+ 16H
+

Khi pyrit tiếp xúc với dung dịch giàu sulfat thì nó có thể chuyển đổi thành jarozit có
công thức chung là M
+
Fe
3
3+
(SO

4
)
2
(OH)
6
, trong đó M
+
là K
+
, Na
+
, NH
4
+
, Ag
+
(Pb
2+
), sau khi
FeS
2
→ Fe(OH)
3

K
+
+ 3Fe(OH)
3
+ 2SO
4

2-
+ 3H
+
→ KFe
3
(SO
4
)
2
(OH)
6
+ 3H
2
O
Axit H
2
SO
4
và Fe
3+
được giải phóng ra trong quá trình oxi hoá sulfua sắt có thể tác
dụng lên các khoáng vật sulfua khác và đẩy nhanh quá trình phân huỷ chúng theo phản ứng
MS + H
2
SO
4
→ H
2
S + MSO
4


2MS + 2Fe
2
(SO
4
)
3
+ 2H
2
O + 3O
2
→ 2MSO
4
+ 4FeSO
4
+ 2H
2
SO
4

(M là các kim loại hoá trị hai: Cu, Pb, Zn )
Vì vậy, khi pyrit bị oxi hoá, giải phóng H
+
làm tăng độ axit của môi trường
Khảo sát ảnh hưởng nồng độ sắt(II) đến khả năng cố định một số kim loại nặng
Zn, Cu, Pb, As, Cd, Mn

3
0
20

40
60
80
100
120
10 15 20 25
Nồng độ Fe(II) ban đầu
Hiệu suất tách loại
Zn
Cu
Pb
As
Cd
Mn

Khi nồng độ sắt(II) ban đầu tăng, lượng Fe(OH)
3
tạo thành nhiều hơn thì hầu hết các
ion kim loại được hấp phụ và cộng kết cùng Fe(OH)
3
cũng tăng.
Đối với Mn(II) khả năng cố định dường như không đổi khi nồng độ Fe(II) thay đổi.
Điều này chứng tỏ khả năng cộng kết hay kết tủa của Mn(II) với sắt(III)hydroxit chỉ xảy ra ở
một giới hạn nhất định.
Quá trình cộng kết – hấp phụ asen cùng sắt(III)hydroxit có thể giải thích dựa vào cơ
chế sau:
+ Cơ chế thứ nhất xảy ra do As(V) có khả năng tạo với Fe(OH)
3
mới sinh theo phương
trình: Fe(OH)

3
+ H
3
AsO
4
→ [FeAsO
4
] + 3H
2
O
+ Cơ chế thứ hai là do Fe(OH)
3
có khả năng hấp phụ ion Fe
3+
tạo thành các hạt keo
dương có công thức: Fe(OH)
3
. nFe
3+
. H
2
O. Do đó các ion AsO
4
3-
, HAsO
4
2-
, H
2
AsO

4
-
có khả
năng bị giữ lại trên bề mặt các hạt keo đó.
Đối với các nguyên tố khác, khả năng bị hấp phụ lên sắt(III)hydroxit tăng khi nồng độ
của sắt(II) tăng.


Sự biến thiên nồng độ các ion kim loại nặng trong quá trình rửa xỉ.
Để khảo sát khả năng giải phóng kim loại nặng từ xỉ pyrit trong quá trình rửa trôi,
chúng tôi tiến hành như sau:
Cho nước có thành phần như nước mưa tự nhiên thấm qua lớp xỉ từ trên xuống dưới
với tốc độ 1 giọt/s , cứ sau 400 ml thì lấy 100 ml mẫu đem phân tích As theo phương pháp so

4
màu trên giấy tẩm HgBr
2
, phần còn lại axit hóa bằng HNO
3
đặc, sau đó phân tích bằng máy
ICP-MS.
0
10
20
30
40
50
60
70
80

90
0.5 1 1.5 2 2.5 3 3.5 4 4.5 5
Thể tích nước rửa qua cột (lít)
Nồng độ kim loại (ppb)
Cr
Co
Ni
As
Cd

0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
0.5 1 1.5 2 2.5 3 3.5 4 4.5 5
Thể tích nước qua cột (lít)
Nồng độ kim loại (ppm)
Mn
Cu
Pb
Zn
Fe

Từ đồ thị chúng ta thấy ở mẫu đầu nồng độ ion kim loại cao sau đó giảm mạnh và từ
các mẫu 5 trở đi thì thấp và giảm rất ít. Điều này có thể giải thích là do trong mẫu xỉ ban đầu
có một phần dạng tan của các kim loại này như dạng sunfat nên trong những mẫu rửa xỉ đầu

tiên các dạng này tan ra và làm cho nồng độ các ion kim loại cao.
Sự có mặt của những dạng tan trong xỉ là hệ quả của các quá trình sau đây:
1. Quá trình đốt đã chuyển hóa các dạng sunfua thành các oxit có độ tan lớn hơn trong
nước.

5
2. SO
2
hấp phụ lên Fe
2
O
3
khi gặp độ ẩm do có nước trong môi trường sẽ chuyển thành
H
2
SO
3
/ H
2
SO
4
và các axit này hòa tan các oxit có trong xỉ.
3. Sự xâm nhập của CO
2
và nước tạo ion HCO
3
-
làm tan một số oxit trong xỉ.
Sự biến thiên pH và nồng độ các ion kim loại nặng trong điều kiện xung không tích
lũy.

Để nghiên cứu khả năng giải phóng các kim loại nặng từ bãi thải xỉ pyrit trong điều
kiện xung không tích lũy, chúng tôi tiến hành như sau
Cho 120 ml nước có thành phần tương tự nước mưa tự nhiên thấm qua lớp xỉ, lấy 100
ml mẫu đem phân tích As, do pH và axit hóa phần còn lại sau đó phân tích bằng máy ICP-
MS. Sau khi lấy mẫu, mở van và sau 24h lấy mẫu một lần.

0
50
100
150
200
250
300
350
400
2 4 6 6 10 12 14 16 18 20 22 24 26 28 30
thời gian
Nồng độ ion kim loại (ppb)
Cr
Co
Ni
As
Pb
Cd


6
0
2
4

6
8
10
12
2 4 6 6 10 12 14 16 18 20 22 24 26 28 30
thời gian
Nồng độ ion kim loại (mg/l)
Mn mg/l
Cu mg/l
Zn mg/l
Fe mg/l

Xung nước không tích lũy nhằm mô phỏng các quá trình xảy ra khi có một lượng nước
mưa đi qua khối xỉ ra ngoài và đi vào môi trường xung quanh, lặp đi lặp lại trong một thời
gian nhất định. Với quá trình như thế này thì lượng các kim loại nặng được phong hóa và đi
theo môi trường nước ra ngoài chỉ nằm trong giới hạn thời gian giữa hai lần xung nước.
Trong các điều kiện thực hiện thí nghiệm như đã trình bày ở trên, với chu kỳ hai ngày
lấy mẫu một lần. Nhìn vào hình, ta thấy trong 6 ngày đầu nồng độ các ion kim loại tăng và sau
đó giảm dần. Điều này được giải thích như sau
Ở những ngày đầu (những xung nước đầu) nồng độ các kim loại nhìn chung đều tăng
là do khi xỉ đã được rửa đến nồng độ kim loại giảm thấp nhất nên không có sự tham gia của
các dạng tan của kim loại trong quá trình này. Mặt khác sự phong hóa oxi hóa phần sufua còn
lại xảy ra mạnh làm cho nồng độ kim loại tăng.
Những ngày sau nồng độ kim loại giảm dần là do lượng sufua còn lại trong xỉ giảm và
quá trình phong hóa cũng bị giảm do bề mặt có thể bị che phủ bởi Fe(OH)
3
– sản phẩm của sự
thủy phân Fe
3+
sau phong hóa.

PH chỉ giảm lúc đầu ( từ 6,2 → ~5,5) sau đó hầu như không thay đổi do sự phong hóa
tương đối ổn định, đồng thời sự pha loãng của mỗi lần xung gần như là như nhau.
Sự biến thiên pH và nồng độ các ion kim loại nặng trong điều kiện xung có tích
lũy.
Điều kiện xung có tích lũy được thiết kế để thí nghiệm nhằm mô phỏng các xung nước
đi từ lớp xỉ này sang lớp xỉ khác tạo ra các quá trình tích lũy các sản phẩm phong hóa dọc
theo dòng chảy của các xung nước trước khi đi ra môi trường xung quanh.

7
Để nghiên cứu khả năng giải phóng các kim loại nặng từ bãi thải xỉ pyrit trong điều kiện xung
không tích lũy, thí nghiệm tiến hành tương tự trên, tuy nhiên điểm khác là cho 150ml nước có
thành phần như nước mưa thấm qua, lấy 50 ml mẫu thu được đem phân tích, phần còn lại
thêm nước vào cho đủ 150 ml để lại và lấy mẫu tiếp theo sau 48h. Mẫu tiếp theo tiến hành
tương tự.
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
1800
2000
2 4 6 8 10 12 14 16 18 20 22 24 26 28 30
Ngày
Nồng độ kim loại (ppb)
Cr
Co

Ni
As
Pb
Cd

0
100
200
300
400
500
600
2 4 6 8 10 12 14 16 18 20 22 24 26 28 30
Ngày
Nồng độ kim loại (mg/l), pH
Mn
Cu
Zn
Fe
pH


Nhìn vào hình, ta thấy sự biến thiên nồng độ của các kim loại tăng dần theo thời gian.
Trong những ngày đầu, khi pH của dung dịch đang còn cao thì khả năng giải phóng kim loại
ra môi trường nước còn thấp. Tuy nhiên, khi pH của pha nước giảm dần do quá trình thuỷ
phân của các kim loại tạo thành trong quá trình phong hoá thì nồng độ các kim loại tăng dần.
Khả năng oxi hoá của quặng xảy ra mạnh hơn vì không chỉ có oxi trong pha nước mà còn có

8
cả oxi của không khí. Khi pH của dung dịch giảm đến 3,8 (pH pha nước) thì nồng độ của các

kim loại tăng mạnh. Ở pH này, khả năng bị hấp thụ của các ion kim loại lên sắt(III)hidroxit
giảm nên nồng độ của chúng trong pha nước cho vào tăng. Mặt khác với pH giảm, khi để
quặng trong hai ngày, sau đó cho pha nước vào ở pH 3,5 thì nồng độ của các ion kim loại đã
có bước tăng vọt, nồng độ cao gấp 2 đến 3 lần so với mẫu trước, thậm chí asen cao gấp 4 lần.
Vì vậy, trong điều kiện này khả năng giải phóng kim loại vào môi trường nước rất lớn.
Ảnh hưởng của ion photphat đến khả năng giải phóng kim loại nặng
Để nghiên cứu ảnh hưởng của ion photphat đến khả năng giải phóng kim loại từ
quặng, photphat được cho vào pha nước với nồng độ tương ứng cho mỗi lần thực hiện thí
nghiệm là 5 ppm, 10 ppm, 15 ppm, 20 ppm, 25 ppm. Thí nghiệm được thực hiện ở nhiệt độ
27±1
0
C và lần lượt điều chỉnh ở các giá trị pH khác nhau 8, 7, 6, 5.
0
20
40
60
80
100
120
140
160
5 10 15 20 25
Nồng độ photphat(ppm)
Nồng độ kim loại (ppb)
Cr
Co
Ni
As
Pb
Cd


Ảnh hưởng của ion photphat đến khả năng giải phóng kim loại
Cr, Co, Ni, As, Pb, Cd tại pH = 8


9
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
5 10 15 20 25
Nồng độ photphat (ppm)
Nồng độ kim loại (ppm)
Mn
Cu
Zn
Fe

Ảnh hưởng của ion photphat đến khả năng giải phóng kim loại Mn, Cu, Zn, Fe tại pH = 8
Tại pH = 8 đồng thời có mặt ion photphat ta thấy nồng độ kim loại đều rất thấp vì ở
pH này trong điều kiện này kim loại nằm ở dạng kết tủa hidroxit, photphat. Riêng As nồng độ
tăng dần vì anion photphat hấp phụ cạnh tranh làm cho anion asenat ít bị hấp phụ bởi keo sắt
là keo dương.

0
50
100

150
200
250
300
350
5 10 15 20 25
Nồng độ photphat (ppm)
Nồng độ kim loại
Cr
Co
Ni
Pb
Cd
As

Ảnh hưởng của ion photphat đến khả năng giải phóng kim loại
Cr, Co, Ni, As, Pb, Cd tại pH = 7


10
0
10
20
30
40
50
60
70
80
5 10 15 20 25

Nồng độ photphat (ppm)
Nồng độ kim loại (ppm)
Mn
Cu
Zn
Fe

Ảnh hưởng của ion photphat đến khả năng giải phóng kim loại Mn, Cu, Zn, Fe tại pH
= 7
Tại pH = 7 đồng thời có mặt ion photphat ta thấy nồng độ kim loại đều thấp nhưng so
với ở pH = 8 thì cao hơn vì khi pH giảm sự thủy phân cùng như nồng độ PO
4
3-
vì vậy dạng
kết tủa giảm, dạng tan tăng

0
50
100
150
200
250
300
5 10 15 20 25
Nồng độ photphat (ppm)
Nồng độ kim loại (ppb)
Cr
Co
Ni
As

Pb
Cd


Ảnh hưởng của ion photphat đến khả năng giải phóng kim loại Cr, Co, Ni, As, Pb, Cd tại pH
=6

11
0
5
10
15
20
25
30
35
5 10 15 20 25
Nồng độ photphat (ppm)
Nồng dộ kim loại (ppm)
Mn
Cu
Zn
Fe


Ảnh hưởng của ion photphat đến khả năng giải phóng kim loại Mn, Cu, Zn, Fe tại pH =6
Tại pH = 6, ta nhận thấy cũng tương tự như tại pH = 7, pH = 8 khi nồng độ photphat
tăng thì nồng độ kim loại giảm ( trừ As) nhưng sự giảm nồng độ kim loại không mạnh bằng ở
giá trị pH lớn hơn.


0
50
100
150
200
250
300
350
400
5 10 15 20 25
Nồng độ photphat(ppm)
Nồng độ kim loại (ppb)
Cr
Co
Ni
As
Pb
Cd

Ảnh hưởng của ion photphat đến khả năng giải phóng kim loại Cr, Co, Ni, As, Pb, Cd tại pH
=5


12
0
5
10
15
20
25

30
35
40
45
5 10 15 20 25
Nồng độ photphat (ppm)
Nồng độ kim loại (ppm)
Mn
Cu
Zn
Fe

Ảnh hưởng của ion photphat đến khả năng giải phóng kim loại Mn, Cu, Zn, Fe tại pH =5
Theo các kết quả trên ta thấy chỉ có asen là có nồng độ tăng khi tăng nồng độ của ion
photphat. Điều này có thể giải thích như sau: keo sắt tạo thành trong quá trình thí nghiệm là
các hạt keo dương, nó dễ dàng hấp phụ các ion asenat, photphat. Vì vậy sẽ xảy ra sự hấp phụ
cạnh tranh giữa các ion này làm cho lượng asenat bị hấp phụ ít hơn. Khi nồng độ photphat
càng tăng thì lượng asenat hấp phụ càng ít nên lượng asen trong pha nước sẽ tăng theo độ tăng
của photphat cho vào.
Đối với các ion kim loại khác, khi tăng nồng độ của photphat thi hàm lượng của các
ion kim loại này giảm do tạo thành các muối photphat ít tan ở các mức độ khác nhau.
M
2+
+ PO
4
3-
→ M
3
(PO
4

)
2

Khi pH có giá trị lớn, sự ảnh hưởng bới ion photphat mạnh hơn ở pH bé. Thể hiện ỏ
các hình trên là sự giảm nồng độ kim loại ít dần khi tăng nồng độ photphat tại pH= 8, 7, 6 , 5(
độ dốc giảm dần). Điều này được giải thích là do các muối photphat thường có độ tan nhỏ hơn
nhiều so với hidroxit. Mặt khác, cùng một lượng photphat cho vào nhưng ở pH cao ( 8, 7)
lượng PO
4
3-
lớn làm cho ion kim loại chủ yếu nằm ở dạng photphat không tan, và lượng tan sẽ
giảm tuyến tính cùng với sự tăng nồng độ photphat. Còn ở pH thấp hơn ( 6, 5 ) khi đó ion
photphat chuyển sang các dạng hydrophotphat, các muối này có độ tan lớn hơn.
Ảnh hưởng của pH đến khả năng giải phóng kim loại nặng
Để khảo sát ảnh hưởng của pH đến khả năng giải phóng kim loại nặng từ xỉ pyrit,
chúng tôi tiến hành như sau:
Cho 1,5 ml dung dịch H
2
SO
4
98% vào H
2
O định mức 100 ml thu được dung dịch có pH
= 1. Từ dung dịch này ta lần lượt pha thành 100 ml mỗi dung dịch có pH = 2, 3, 4, 5, 6 có
thành phần như nước mưa thấm qua,

13
Cho 100 ml dung dịch có pH =6 thấm với tốc độ 1 giọt/s qua xỉ, mở van và lấy mẫu.
Mẫu tiếp theo với pH = 5, 4, 3 tiến hành tương tự. Lấy mẫu thu xác định As bằng phương
pháp so màu trên giấy tẩm HgBr

2
và xác định các kim loại khác bằng máy ICP-MS
0
200
400
600
800
1000
1200
6 5 4 3 2
pH
Nồng độ kim loại (ppb)
Cr
Co
Ni
As
Pb
Cd


0
200
400
600
800
1000
1200
6 5 4 3 2
pH
Nồng độ kim loại (ppb)

Cr
Co
Ni
As
Pb
Cd


Từ bảng kết quả chứng tỏ khi pH có giá trị cao 6,0 thì nồng độ các kim loại rất thấp,
Ở pH này các kim loại hoặc đã bị thuỷ phân kết tủa hoặc cộng kết – hấp phụ trên
sắt(III)hidroxit.
Khi pH càng giảm thì nồng độ của các kim loại tăng. Khi pH giảm đến 3 thì nồng độ
các kim loại tăng mạnh vì ở pH này thì lượng sắt(III)hydroxit kết tủa đã bị tan ra và đồng thời
giải phóng các kim loại cộng kết – hấp phụ trên nó. Mặt khác ở pH này thì không có khả năng

14
oxi hoá Mn(II) lên MnO
2
ở dạng kết tủa nên chủ yếu tồn tại ở dạng Mn(II). Vì vậy, nồng độ
các ion kim loại tăng mạnh, kể cả asen và sắt.
KẾT LUẬN
Trong quá trình nghiên cứu đánh giá khả năng giải phóng kim loại từ xỉ thải Pyrit lộ
thiên, chúng tôi rút ra những kết luận sau
1. Quá trình rửa trôi các dạng chất tan trong xỉ làm giải phóng một lượng lớn kim loại
nặng vào môi trường
2. Phong hoá quặng là một trong những con đường giải phóng kim loại vào môi trường
nước và là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường.
3. Trong pha nước có mặt ion photphat, asen là nguyên tố gây ô nhiễm môi trường và
ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người (có thể gây ung thư) được giải phóng mạnh do
khả năng hấp phụ cạnh tranh của ion photphat. Còn các nguyên tố kim loại nặng khác

thì giảm mạnh khả năng giải phóng ra môi trường nước khi ở pH cao
4. Khả năng chuyển hoá từ sắt(II) lên sắt (III) và khả năng thuỷ phân của sắt(III) thành
sắt(III)hydroxit đóng vai trò quan trọng, đôi khi mang tính quyết định đối với việc giải
phóng các kim loại nặng và asen vào môi trường nước

References
Tiếng Việt
1. Nguyễn Thị Kim Dung (2011), Nghiên cứu quá trình ô nhiễm asen và mangan trong
nước dưới tác động của môi trường oxi hoá khử tự nhiên và ứng dụng xử lý chúng tại
nguồn, Luận án tiến sĩ Hoá học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Thuỳ Dương (2007), Nghiên cứu mối quan hệ giữa môi trường nuôi trồng
tới khả năng tích luỹ một số kim loại nặng của loài Nghêu(Meretrixlyrata) tại xóm I-
II, xã Nam Thịnh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, Khoá luận tốt nghiệp Đại học, Đại
học dân lập Hải Phòng.
3. Hồ Sĩ Giao, Mai Thế Toàn (2011), Những điểm nóng môi trường trong hoạt động khai
thác mỏ ở Việt Nam, Hội nghị khoa học kỹ thuật mỏ quốc tế 2010
4. Trần Tứ Hiếu,Nguyễn Văn Nội (2008), Cơ sở Hoá học môi trường, Đại học Quốc gia
Hà Nội.
5. Phạm Ngọc Hồ-Đồng Kim Loan-Trịnh Thị Thanh (2010), Giáo trình cơ sở môi
trường nước, Nhà xuất bản giáo dục.
6. Doãn Văn Kiệt, Một số nguyên tố vi lượng thường gặp trong nước và ảnh hưởng của
chúng, Đại học tây Bắc.

15
7. Tuấn Nghĩa (2011), Kiểm soát ô nhiễm môi trường mỏ. báo kinh tế đối ngoại.
8. Hoàng Nhâm(2001), Hoá học vô cơ, tập 2,3, Nhà xuất bản giáo dục.
9. Đỗ Thị Vân Thanh – Trịnh Hân (2011), Khoáng vật học, nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà Nội.
10. Đặng Trung Thuận (2000), Giáo trình địa hoá học, Đại học quốc gia Hà Nội.
11. Vũ Văn Tùng (2012), Nghiên cứu khả năng giải phóng kim loại nặng từ các bãi thải,

đuôi quặng nghèo đồng sulfua, Luận văn thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội.


Tiếng Anh
12. Bates, M.N., Smith, A.H., and Hopenhayn-Rich, C. (1992), Arsenic ingestion and
internal cancers a review, Am.J.Epidemiol.135:462-476.
13. Churl Gyu Lee,Hyo-Teak Chon, Myung Chae Jung (2011), “Heavy metal
contamination in the vicinity ò the Daduk Au-Ag-Pb-Zn mine in Korea”, Applied
Geochemistry 16 (2011) 1377-1386.
14. Cunningham, W.P and Saigo, B.W (2001), Environmental Science: A global concern.
6
th
edt, McGraw-Hill Companies, Inc.
15. Global Mining Campaign (2001), “The impact of handrock mining on the
environment and human health”, Uccn puplished paper International Meeting,
Warrenton, Virginia, USA September 15-19, 2001, 10pp.


×