Nghiên cứu đánh giá phát thải khí nhà kính
trong hoạt động khai thác hải sản và đề xuất các
biện pháp giảm thiểu (nghiên cứu điển hình tại
thành phố Hải Phòng)
Trần Liêm Khiết
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
Luận văn ThS chuyên ngành: Khoa học Môi trường; Mã số: 60 85 02
Người hướng dẫn: PGS. TS. Nguyễn Khanh Vân
Năm bảo vệ: 2012
Abstract: Khái quát về cơ chế, hình thức hoạt động của hoạt động khai thác hải sản – tác
nhân chính gây phát thải Khí nhà kính (KNK) trong hoạt động khai thác hải sản. Nghiên
cứu, tính toán tổng lượng phát thải KNK của các đội tàu trong hoạt động khai thác hải
sản nói chung và tại Hải Phòng nói riêng và dự báo phát thải KNK trong hoạt động thủy
sản trong tương lai. Trình bày các kết quả đạt được: Hoạt động khai thác hải sản ở Việt
Nam, tại Hải Phòng và phát thải khí nhà kính trong hoạt động khai thác hải sản; Kiểm kê
phát thải KNK trong hoạt động khai thác hải sản tại Hải Phòng; Quy hoạch phát triển
thủy sản Hải Phòng đến 2015 định hướng đến 2020, dự báo khả năng và quy mô phát thải
KNK trong tương lai; Đề xuất các biện pháp giảm thiểu phát thải KNK đối với công tác
quản lý hoạt động của ngành thủy sản để giảm thiểu và thích ứng với Biến đổi khí hậu.
Keywords: Khoa học môi trường; Ô nhiễm môi trường; Khí thải nhà kính; Hải
Phòng
Content
MỞ ĐẦU
Những năm cuối thế kỷ 20, nhiều nơi trên thế giới đã phải hứng chịu những tác động
ngày càng gia tăng của thiên tai như bão, lũ lụt, dịch bệnh, … Một vấn đề đang được cả thế giới
quan tâm trong thời gian gần đây là những tác động của ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và
nước biển dâng đối với nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội . Theo các kết quả nghiên
cứu của Ngân hàng thế giới, BĐKH làm gia tăng hạn hán, mưa lớn bất thường, rét hại, bão, lũ,
thiên tai đã gây thiệt hại khoảng 1% GDP toàn cầu (WB, 2010). Một trong những nguyên nhân
chủ yếu làm tăng tốc độ BĐKH là phát thải khí nhà kính vào khí quyển từ hoạt động sản xuất
của con người
Không chỉ chịu tác động tiêu cực của biến đổi khi hậu mà hoạt động thuỷ sản cũng góp
phần đáng kể vào các nguyên nhân gây nên gia tăng hiệu ứng nhà kính. Theo thông báo số 2 về
phát thải KNK, Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE, 2010), đến nay vẫn chưa có kết quả
chính thức cho việc kiểm kê tổng lượng phát thải khí nhà kính ngành thuỷ sản. Cũng theo thông
báo này, phát thải KNK trong lĩnh vực thủy sản bao gồm tiêu thụ năng lượng trong đánh bắt, sử
dụng năng lượng và thức ăn trong nuôi trồng, chế biến thủy sản.
Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu Hải sản, tính đến hết năm 2009 tổng công suất tàu
thuyền tham gia khai thác thủy sản ở Việt Nam vào khoảng 7.637.000CV, tương ứng với lượng
nhiên liệu tiêu thụ khoảng 2.033.615 tấn.
Theo Công ước khung về biến đổi khí hậu, Việt Nam chưa phải là quốc gia bắt buộc phải
cắt giảm phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên chúng ta đã tham gia vào Nghị định thư Kyoto và
cũng là thành viên tích cực trong các diễn đàn về BĐKH trên thế giới. Việc nghiên cứu kiểm kê
phát thải khí nhà kính trong hoạt động sản xuất nói chung và trong hoạt động khai thác hải sản
nói riêng đóng vai trò quan trọng đối với mục tiêu xuất khẩu thủy sản cũng như việc giảm phát
thải khí nhà kính và việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong công cuộc chống lại BĐKH.
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Biến đổi khí hậu
1.1.1. Nguyên nhân của BĐKH
1.1.2. Tác động của BĐKH đến một số hệ sinh thái biển điển hình
Hệ sinh thái rạn san hô
Hệ sinh thái rừng ngập mặn
Hệ sinh thái rong cỏ biển
Hệ sinh thái cửa sông
1.1.3. Tác động của BĐKH đến nguồn lợi thủy sản
Ảnh hưởng của bão, áp thấp nhiệt đới
Sự ấm lên của môi trường nước
Hiện tượng axit hóa môi trường nước biển
Gia tăng mực nước biển
1.1.4. Tác động của BĐKH đối với hoạt động khai thác hải sản
Sự thay đổi khí hậu có tác động đến các hệ sinh thái biển, làm biến động chủng quần và
nguồn lợi cá biển vì vậy làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của cộng đồng ngư dân khu vực
ven biển. Hiện tượng san hô chết hàng loạt trong 20 năm qua do một số nguyên nhân trong đó có
nguyên nhân do nhiệt độ ở các vùng biển tăng.
Các ảnh hưởng tiềm tàng của biến đổi khí hậu đối với môi trường và các hệ thống kinh tế
xã hội có thể được đánh giá qua sự nhạy cảm, mức độ thích nghi và mức độ dẽ bị tổn thương của
hệ thống. Tại Việt Nam, hiện chưa có các nghiên cứu đầy đủ về tác động của biến đổi khí hậu
đối với khai thác hải sản. Tuy nhiên, với những nguy cơ và thách thức đang tiềm ẩn đối với lĩnh
vực khai thác thuỷ sản, các ảnh hưởng tiềm tàng của biến đổi khí hậu có thể sẽ rất lớn.
1.2. Khí nhà kính
1.2.1. Khái niệm về khí nhà kính
Khí nhà kính là những khí có khả năng hấp thụ các bức xạ sóng dài (hồng ngoại) được
phản xạ từ bề mặt trái đất khi được chiếu sáng bằng ánh sáng mặt trời, sau đó phân tán nhiệt lại
cho trái đất, gây nên hiệu ứng nhà kính. Các khí nhà kính chủ yếu bao gồm: hơi nước, CO
2
, CH
4
,
N
2
O, O
3
, các khí CFC .
1.2.2. Hiệu ứng nhà kính
Hiệu ứng nhà kính, xuất phát thuật ngữ “effet de serre” trong tiếng Pháp, do Jean Baptiste
Joseph Fourier lần đầu đặt tên, dùng để chỉ hiệu ứng xảy ra khi năng lượng bức xạ của tia sáng
mặt trời, xuyên qua các cửa sổ hoặc mái nhà bằng kính, được hấp thụ và phân tán trở lại thành
nhiệt lượng cho bầu không gian bên trong, dẫn đến việc sưởi ấm toàn bộ không gian bên trong
chứ không phải chỉ ở những chỗ được chiếu sáng.
1.2.3. Các nguồn phát thải khí nhà kính trong hoạt động khai thác hải sản
Trong hoạt động khai thác thủy sản, nguồn phát thải chính CO
2
là từ việc sử dụng nhiên
liệu trực tiếp chạy máy tàu, máy phát điện và một phần nhỏ do hoạt động làm lạnh để bảo quản
sản phẩm khai thác và sản xuất nước đá. Một phần khác đó là việc sử dụng nhiên liệu gián tiếp
cho việc vận chuyển và sơ chế các sản phẩm trong quá trình đánh bắt. Các sản phẩm không
mong muốn trong khai thác là cá tạp (trash fish) cũng góp phần vào việc tạo ra khí nhà kính trực
tiếp và gián tiếp.
1.3. Tổng quan về nghiên cứu phát thải KNK trong hoạt động khai thác hải sản
1.3.1. Thế giới
Từ những năm 1800 nhiên liệu hóa thạch bắt đầu được sử dụng cho các tàu khai thác hải
sản có gắn động cơ chạy bằng hơi nước và liên tục tăng nhanh trong suốt thế kỷ 20. Sử dụng
nhiên liệu hóa thạch đã trở thành nét đặc trưng của các đội tàu khai thác hải sản hiện đại
(Tyedmers, 2001, 2004), nó đã tạo điều kiện cho việc áp dụng các công nghệ hiện đại trong hoạt
động khai thác hải sản, nâng cao chất lượng sản phẩm và cải thiện điều kiện làm việc của ngư
dân.
Các nghiên cứu của Wiviott and Mathews, 1975; Rochereau, 1976; Leach, 1976;
Edwardson, 1976; Rawitscher 1978; Lorentzen, 1978; Allen 1981; Watanabe and Uchida, 1984;
Watanabe and Okubo, 1989; Tyedmers, 2000 đã chỉ ra rằng nhiên liệu hóa thạch đầu vào cho
ngành thủy sản chiếm từ 75% đến 90% tổng năng lượng sử dụng, 10% đến 25% còn lại bao gồm
các năng lượng được đầu tư trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến việc xây dựng, bảo trì, cung cấp
ngư cụ và lao động.
Năm 2008, Dr. Robert G. Latorre và Joseph P. Cardella V đã thực hiện một nghiên cứu
đánh giá lượng phát thải khí của đội tàu khai thác hải sản của Mỹ. Nghiên cứu này nhằm vào đội
tàu có chiều dài lớn hơn 22,9m (1050 chiếc). Kết quả cho thấy, lượng khí CO
2,
NOx, CO và CH
4
được thải ra trong một ngày lần lượt là 16995 tấn, 306 tấn, 40 tấn và 13 tấn.
Năm 2012, Peter Tyedmers và Robert Parker thuộc Đại học Dalhousie đã tiến hành
nghiên cứu về tiêu thụ nhiên liệu và phát thải khí nhà kính của ngành khai thác cá Ngừ toàn cầu.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng các sản phẩm từ việc khai thác cá ngừ tiêu thụ nhiều năng lượng hơn
so với nuôi trồng và các sản phẩm có nguồn gốc từ chăn nuôi, tổng lượng nhiên liệu tiêu thụ của
nghề khai thác cá ngừ toàn cầu năm 2009 khoảng 3 tỷ lít, tương đương với phát thải 9 triệu tấn
CO
2
.
1.3.2. Trong nước
Theo nghiên cứu thực nghiệm của KidiTech tại Công ty đánh cá Nam Triệu, Hải Phòng
(2009) việc thay thế hệ thống đèn khai thác thủy sản truyền thống bằng hệ thống đèn LED sẽ
giảm chi phí và giảm tiêu hao năng lượng đồng nghĩa với giảm khí thải nhà kính. Với tàu sử
dụng 40 bóng đèn cao áp, giàn đèn có trọng lượng 400 kg, tiêu thụ 200 lít dầu diesel/ngày. Khi
thay thế bằng 100 bóng đèn LED, trọng lượng giàn đèn chỉ còn 125 kg và lượng dầu tiêu thụ tụt
xuống mức 30 lít/ngày. Với thời gian đi biển xa bờ 20 ngày/tháng, lượng nhiên liệu tiêu thụ từ
4.000 lít dầu/tháng giảm xuống còn 600 lít dầu/tháng nhờ công nghệ LED. Có nghĩa là mỗi đợt
đi biển, 1 con tàu công suất lớn có thể tiết kiệm tiền dầu gần 3.000 đô la Mỹ nếu dùng hệ thống
đèn dẫn dụ theo công nghệ LED đồng thời giảm phát thải khoảng 3.026 tấn khí nhà kính.
CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣơng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là:
+ Nghiên cứu vai trò của phát thải KNK đối với BĐKH và quá trình phát thải KNK của
một số lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, trong đó có thủy sản.
+ Quá trình phát thải khí nhà kính từ việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch (dầu diessel)
trong hoạt động khai thác hải sản tại Hải Phòng.
2.2. Nội dung và phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi không gian : Hoạt động khai thác thủy sản có phạm vi rất rộng lớn đó là toàn bộ
vùng biển, tuy nhiên luận văn nghiên cứu phát thải KNK của hoạt động khai thác hải sản Hải
Phòng, do đó phạm vi không gian chủ yếu của luận văn chính là ngư trường khai thác của các
đội tàu khai thác hải sản Hải Phòng, được trình bầy trên hình 3.
Phạm vi thời gian của luận văn: Đối với quá trình kiểm kê, tính toán phát thải KNK là từ
2000 đến 2009 và năm 2011, đây là khoảng thời gian có số liệu thống kê khá đầy đủ và chi tiết
nhất đối với hoạt động khai thác thủy sản của Hải Phòng. Đối với dự báo phát thải KNK là
khoảng thời gian từ đây đến năm 2020.
Hình 1. Ngư trường khai thác của các đội tàu khai thác hải sản Hải Phòng
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp điều tra thu thập cơ sở số liệu.
2.3.2. Phương pháp thống kê, tổng hợp và phân tích số liệu
2.3.3. Phương pháp kiểm kê khí nhà kính
+ Yêu cầu của cơ sở số liệu
Để có thể kiểm kê tính toán lượng phát thải KNK trong khai thác hải sản đề tài cần điều
tra thống kê các số liệu về cơ cấu tàu thuyền (số lượng tàu, loại nghề, loại tàu, loại máy thủy…)
và lượng nhiên liệu tiêu thụ của các loại tàu thuyền chính trong hoạt động khai thác hải sản.
+ Kiểm kê tính toán phát thải KNK:
Để kiểm kê KNK của hoạt động khai thác hải sản đề tài sử dụng công thức tổng quát tính
tổng lượng KNK phát thải cho tàu khai thác sử dụng dầu diezen (IPCC, 2001):
GHG = ∑
i
(F
i
x H
i
x E
i
)
Trong đó: GHG: tổng lượng khí thải nhà kính phát thải trong 1 năm (tấn/năm)
F: Lượng nhiên liệu tiêu thụ trong năm (tấn/năm)
H: Nhiệt đốt cháy của nhiên liệu (TJ/tấn) (H = 42,7 MJ/kg nhiên liệu diezen,
IPCC, 1997).
E: Hệ số phát thải của nhiên liệu cho các loại khí (tấn/TJ nhiên liệu) (CO
2
: 74,3
g/MJ – Vreuls, 2006; N
2
O: 0,0006 g/MJ; CH
4
: 0,005 g/MJ – IPCC, 1997)
i: dạng nhiên liệu sử dụng
Ở đây, lượng nhiên liệu tiêu thụ của tàu khai thác hải sản được tính toán dựa trên công
thức:
F = CV*g
e
*H*BAC
Trong đó:
CV: là tổng công suất của tàu.
H: là tổng số giờ hoạt động của các tàu khai thác trong năm.
BAC: là hệ số hoạt động của tàu khai thác.
g
e
: Suất tiêu hao nhiên liệu của tàu khai thác
2.3.4. Phương pháp dự báo phát thải KNK trong hoạt động kinh tế thủy sản
Trên cơ sở kiểm kê tính toán được tổng lượng phát thải KNK, hệ số phát thải KNK của các
đội tàu (nói cách khác chính là các hình thức đánh bắt) trong hoạt động khai thác hải sản ở Hải
Phòng tính đến 2011, căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế thủy sản của Hải Phòng đến năm
2020 và Quy hoạch tổng thế phát triển ngành thủy sản Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn 2030,
luận văn đã dự báo tương lai lượng phát thải KNK trong hoạt động thủy sản và lấy đó làm cơ sở
đề xuất các biện pháp giảm thiểu, giải pháp thích ứng với BĐKH của hoạt động khai thác thủy
sản.
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Hoạt động khai thác hải sản ở Việt Nam, tại Hải Phòng và phát thải khí nhà kính
trong hoạt động khai thác hải sản
3.1.1. Thực tế hoạt động khai thác hải sản tại Việt Nam và phát thải KNK
a. Biến động số lượng tàu thuyền và công suất khai thác
Giai đoạn 2000-2009 số lượng tàu lắp máy cả nước tăng từ 72.909 chiếc lên 120.326
chiếc, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 5.269 chiếc/năm. Tổng công suất tàu tăng từ
3.232.812cv lên 7.636.743cv, bình quân hàng năm tổng công suất tăng thêm 489.326cv.
Cơ cấu đội tàu khai thác hải sản của cả nước giai đoạn 2000-2009 đã có sự tăng trưởng rõ
rệt về số lượng tàu và tổng công suất. Số lượng tàu lắp máy cả nước đã tăng từ 72.909 chiếc lên
120.326 chiếc, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 5.269 chiếc/năm. Tổng công suất tàu tăng từ
3.232.812cv lên 7.636.743cv, bình quân hàng năm tổng công suất tăng thêm 489.326cv.
b. Cơ cấu đội tàu khai thác
Theo số liệu tổng hợp từ Cục khai thác và bảo vệ nguồn lợi hải sản và các Cơ quan quản
lý nghề cả ở 28 tỉnh ven biển, tính đến hết tháng 12/2009 cả nước có 125.546 tàu khai thác hải
sản. Trong đó có 5.220 tàu không lắp máy, chiếm 4,2% và 120.326 tàu lắp máy, chiếm 95,8%.
Số lượng tàu thuyền không lắp máy đều thuộc nhóm nghề khác, còn lại những nghề khai thác
được thống kê (16 nghề) đều trang bị tàu lắp máy.
Trong đó, số lượng tàu lắp máy ở khu vực vịnh Bắc Bộ có 34.611 chiếc, chiếm 28,8% số
lượng tàu lắp máy trong toàn quốc; khu vực miền Trung có 45.186 chiếc, chiếm 37,6%; khu vực
Đông Nam Bộ có 24.570 chiếc, chiếm 20,4%; khu vực Tây Nam Bộ có 15.959 chiếc, chiếm
13,3%. Số lượng tàu khu vực vịnh Bắc Bộ và miền Trung tuy nhiều về số lượng nhưng đa phần
là tàu công suất <20cv; số lượng tàu khu vực Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ số lượng ít hơn các
khu vực khác nhưng tỷ lệ tàu công suất lớn thì nhiều hơn. Điều này phản ánh quy mô của đội tàu
khu vực phía Nam lớn hơn khu vực phía Bắc.
Kết cấu vỏ tàu chủ yếu là vỏ gỗ. Khả năng chịu sóng gió của các tàu kém. Các tàu công
suất lớn thường có vỏ tàu chắc chắn hơn nhóm tàu công suất nhỏ. Đa số ngư dân thường lắp máy
thủy hoặc máy bộ cải hoán đã qua sử dụng, chất lượng còn lại chỉ khoảng 70 - 80% so với máy
mới. Các tàu có công su ất nhỏ hơn 20cv chu
̉
yếu l ắp máy do Trung Quốc sản xuất. Điều này thể
hiện sự lạc hậu của nghề khai thác hải sản nước ta và đó có thể là một trong những nguyên nhân
làm gia tăng lượng phát thải KNK.
3.1.2. Thực tế hoạt động khai thác hải sản tại Hải Phòng
Theo thống kê của chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản Hải Phòng (2011), Hải Phòng có
3.999 tàu thuyền hoạt động thuỷ sản, trong đó: Số tàu > 20 CV là 1.347 tàu với các nghề chính
chụp mực, lưới kéo và lưới rê; số tàu < 20 CV là 2652 tàu. Tổng số lao động hoạt động nghề cá
trên 15 nghìn lao động, tập trung chủ yếu ở các huyện Thủy Nguyên, Kiến Thụy, Đồ Sơn và Cát
Hải. Như vậy, so với năm 2008 (2.863 chiếc) chỉ sau 4 năm, tổng số tàu thuyền khai thác hải sản
của Hải Phòng đã tăng thêm 1.136 chiếc (Chi cục Bảo vệ Nguồn lợi Thủy sản Hải Phòng). Số
lượng tàu kích thước lớn chiếm tỉ lệ nhỏ trong cơ cấu tàu thuyền của thành phố. Máy tàu chủ yếu
là máy cũ và giá trị sử dụng còn lại khoảng từ 70-80% (Nguyễn Long, 1999).
Số lượng tàu khai thác hải sản của Hải Phòng tăng liên tục trong những năm từ 1976 đến
1995, sau đó chững lại. Những năm gần đây số lượng tàu thuyền không những không tăng mà
giảm đi. Tổng công suất máy tàu tăng đều hàng năm, từ năm 1976 đến 2003, sau đó giảm dần.
Giai đoạn 1995 – 2000, số lượng tàu biến động theo chiều hướng giảm về số lượng, tuy nhiên
công suất máy tàu tăng liên tục, chứng tỏ trong giai đoạn này có sự chuyển đổi cơ cấu đội tàu
khai thác. Các tàu có kích thước nhỏ, công suất máy thấp được dần thay thế bằng tàu có kích
thước và công suất máy lớn hơn.
3.2. Kiểm kê phát thải KNK trong hoạt động khai thác hải sản tại Hải Phòng
3.2.1. Mức tiêu thu nhiên liệu của một số đội tàu khai thác
Tổng lượng nhiên liệu tiêu thụ của đội tàu chụp mực tại Hải Phòng năm 2011 là
17.109,65 tấn, tương ứng với tổng công suất là 45.773cv. Trong đó, đội tàu có nhóm công suất từ
20 - 50cv tiêu thụ 1.395,93 tấn, nhóm công suất từ 50 – 90cv tiêu thụ 2.382,42 tấn, nhóm công
suất từ 150 - 250cv tiêu thụ 4.257,38 tấn và đội tàu có công suất trên 250cv tiêu thụ 1.624,52 tấn.
Với đội tàu lưới kéo, tổng lượng nhiên liệu tiêu thụ năm 2011 là 11.050,03 tấn. Trong đó,
đội tàu có công suất nhỏ hơn 20cv (504,90 tấn), đội tàu từ 150 – 250cv (947,53 tấn) và đội tàu có
công suất lớn hơn 250cv (957,01 tấn) tiêu thụ dưới 1000 tấn/năm, đội tàu có công suất từ 25 –
50cv tiêu thụ lượng nhiên liệu lớn nhất (3.858,37 tấn), tiếp đến là đội tàu từ 90 – 150cv (2.589,82
tấn) và đội tàu có nhóm công suất từ 50 – 90cv (2.192,39 tấn)
Đội tàu lưới rê với 1.558 chiếc tương ứng với mức công suất 38.109,80 cv, tiêu thụ lượng
nhiên liệu là 12.663,31 tấn năm 2011. Trong đó, đội tàu có mức công suất từ 50 – 90cv (969,91
tấn) và đội tàu công suất lớn 250cv (903,22 tấn) có mức tiêu thụ nhiên liệu nhỏ hơn 1000
tấn/năm. Các đội tầu còn lại đều có mức tiêu thụ nhiên liệu lớn hơn 1000 tấn/năm. Đáng chú ý là
đội tàu công suất nhỏ hơn 20cv có mức tiêu thụ lớn nhất là 6.953,01 tấn, các đội tàu còn lại
tương ứng với mức tiêu thụ nhiên liệu là 1.086,87 tấn (20 – 50cv), 1.306,26 tấn (90 – 150cv) và
1.44,05 tấn với đội tàu từ 150 – 250cv.
Tổng lượng nhiên liệu tiêu thụ năm 2011 của đội tàu còn lại là 9.257,56 tấn. Trong đó,
nhóm tàu có công suất nhỏ hơn 20cv tiêu thụ lượng nhiên liệu lớn nhất (4.843,75 tấn) tiếp đến là
nhóm tàu từ 20 - 50cv (1.297 tấn) và 50 - 90cv (1.016,19 tấn). Các nhóm công suất còn lại lần
lượt là 905,09 tấn (90 - 150cv), 810,50 tấn (> 250cv) và 184,49 tấn (150 - 25-cv).
Bảng 1. Tổng lượng nhiên liệu của các đội tàu khai thác hải sản tại Hải Phòng
Nhóm công suất
(cv)
Số lƣợng tàu
(chiếc)
Tổng công suất
(cv)
Lƣợng nhiên liệu
tiêu thụ (tấn)
<20
2.584
36.692,8
12.301,66
20-50
672
23.054
7.638,70
50-90
317
20.987
6.560,91
90-150
279
32.424
12.250,56
150-250
105
19.263
7.033,46
>250
41
13.863
4.295,26
Tổng
3.998
146.283,8
50.080,54
Như vậy, với tổng công suất 146.283,8cv trong một năm đội tàu khai thác hải sản Hải
Phòng tiêu thụ khoảng 50.080,54 tấn dầu diesel. Trong đó, nhóm tàu có công suất nhỏ hơn 20cv
tiêu thụ lượng lớn nhất (12.301,66 tấn), tiếp đến là nhóm tàu có công suất từ 50 – 90cv
(12.205,56 tấn), điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế do đây là 2 nhóm tàu có tổng công suất
lớn nhất. Nhóm tàu sử dụng nhiên liệu ít nhất là nhóm có công suất lớn hơn 250cv với 4.295,26
tấn.
3.2.3. Tổng lượng phát thải KNK trong hoạt động khai thác hải sản Hải Phòng
Lượng phát thải khí nhà kính được tính toán cho từng đội theo 6 nhóm công suất, các khí
nhà kính được tính toán bao gồm CO
2
, N
2
O và CH
4
sau đó được quy đổi ra CO
2e
tương đương.
CO
2e
được tính toán dựa trên mức độ làm khí quyển Trái đất ấm của các khí nhà kính khác so với
CO
2
trong vòng 100 năm.
Tổng lượng phát thải khí CO
2
của đội tàu chụp mực là 54.282,24 tấn, khí NO
2
là 0,44 tấn
và khí CH
4
là 3,65 tấn tương đương với 54.504,19 tấn CO
2e
. Trong đó, nhóm tàu có công suất từ
90 - 150cv có lượng phát thải CO
2e
lớn nhất (23.730,65 tấn), tiếp đến là nhóm tàu có công suất từ
150 - 250cv (13.562,24 tấn), nhóm tàu từ 50 - 90cv (7589,39 tấn), nhóm tàu lớn hơn 250cv
(5175,05 tấn), nhóm tàu từ 20 - 50cv (4446,86 tấn), riêng nhóm tàu có công suất nhỏ hơn 20cv
không có tàu hoạt động nghề chụp mực nên lượng phát thải bằng không.
Đối với đội tàu hoạt động nghề lưới kéo, tổng lượng phát thải khí CO
2e
là 35.200,77 tấn.
Trong đó, nhóm tàu có công suất từ 20 – 50cv có lượng phát thải CO
2e
lớn nhất (12.291,16 tấn),
tiếp đến là nhóm tàu có công suất từ 90 - 150cv (8.250,10 tấn), nhóm tàu từ 50 - 90cv (6.984,05
tấn), nhóm tàu lớn hơn 250cv (3.048,63 tấn), nhóm tàu từ 150 - 250cv (3.018,45 tấn), rnhóm tàu
có công suất nhỏ hơn 20cv phát thải ít nhất (1.608,39 tấn)
Với đội tàu lưới rê, tổng lượng phát thải CO
2e
tương đương khoảng 40.340,00 tấn. Trong
đó nhóm tàu có công suất nhỏ hơn 20cv phát thải lớn nhất (22.149,38 tấn), các nhóm tàu còn lại
đều có lượng phát thải nhỏ hơn 5000 tấn/năm. Cụ thể, nhóm tàu có công suất từ 20 – 50cv phát
thải 3.462,30 tấn, nhóm từ 50 – 90cv là 3.089,71 tấn, nhóm tàu từ 90 – 150cv phát thải 4.161,19
tấn, nhóm tàu có công suất từ 150 – 250cv phát thải 4.600,13 tấn và nhóm >250cv phát thải
2.877,28 tấn.
Đối với đội tàu hoạt động trong những nghề khác, tổng lượng phát thải CO
2
e tương
đương khoảng 29.490,71 tấn. Trong đó, nhóm tàu công suất nhỏ hơn 20cv có lượng phát thải lớn
nhất (15.430,17 tấn), điều này hoàn toàn hợp lý vì có tới 80% tàu có công suất dưới 20cv hoạt
động ơ nghề này, tiếp đến là nhóm tàu có công suất từ 20 – 50cv (4.133,39 tấn). Hai nhóm tàu có
lượng phát thải thấp nhất là nhóm từ 150 – 250cv (1.224,83 tấn) và nhóm lớn hơn 250cv
(2.581,92 tấn)
Bảng 2. Tổng lượng phát thải KNK của các đội tàu khai thác hải sản Hải Phòng
Nhóm công suất
Tổng công suất (cv)
CO
2
(tấn)
N
2
O
(tấn)
CH
4
(tấn)
CO
2e
(tấn)
<20
36.693
39.028,36
0,32
2,63
39.187,94
20-50
23.054
24.234,62
0,20
1,63
24.333,71
50-90
20.987
20.815,21
0,17
1,40
20.900,32
90-150
32.424
38.866,24
0,31
2,62
39.025,16
150-250
19.263
22.314,41
0,18
1,50
22.405,65
>250
13.863
13.627,17
0,11
0,92
13.682,89
Tổng công suất (cv)
146.284
158.886,02
1,28
10,69
159.535,67
Với tổng công suất máy là 146.284 cv, năm 2011 đội tàu khai thác hải sản của Hải Phòng
tiêu thụ 50.080,54 tấn nhiên liệu (dầu diesel) tương ứng với lượng phát thải 159.535,67 tấn CO
2e
tương đương. Trong đó, nhóm tàu có công suất dưới 20cv phát thải lớn nhất với 39.187,94 tấn,
tiếp đến là nhóm tàu từ 90-150cv (39.025,16 tấn), nhóm tàu có công suất lớn hơn 250cv phát thải
ít nhất với 13.682,89 tấn.
3.2.4. Hệ số phát thải KNK của một số đội tàu khai thác hải sản Hải Phòng
Việc ước tính hệ số phát thải khí nhà kính của các đội tàu khai thác hải sản rất cần thiết
phải có số liệu sản lượng khai thác của từng nghề, tuy nhiên số liệu sản lượng hải sản khai thác
tại Hải Phòng chỉ được thống kê theo nhóm thương phẩm mà chưa được thống kê theo nghề khai
thác. Do đo, để có được ước tính sơ bộ về hệ số phát thải khí nhà kính cho các đội tàu khai thác
hải sản Hải Phòng, đề tài phải sử dụng số liệu tham chiếu từ tỷ lệ phần trăm sản lượng của các
đội tàu cả nước trung bình 3 năm (2007, 2008 và 2009).
Bảng 3. Hệ số phát thải khí nhà kính của một số đội tàu khai thác hải sản Hải Phòng
Nghề khai thác
Sản lƣợng (tấn)
CO
2e
(tấn)
Tấn CO
2e
/tấn sản phẩm
Lưới kéo
17.702,30
35.200,77
1,99
Lưới rê
5.744,19
40.340,00
7,02
Chụp mực
5.999,19
54.504,19
9,09
Nghề khác
10.817,33
29.490,71
2,73
Tổng
40.263,00
159.535,67
3,96
Từ bảng cho thấy, trung bình để khai thác được 1 tấn sản phẩm chúng ta đã phát thải ra
môi trường 3,96 tấn CO
2e
tương đương. Trong đó nghề chụp mực là nghề có hệ số phát thải lớn
nhất (9,09 tấn CO
2e
/tấn sản phẩm ), tiếp đến là nghề lưới rê (7,02 tấn CO
2e
/tấn sản phẩm), nghề
có hệ số phát thải thấp nhất là nghề lưới kéo (1,99 tấn CO
2e
/tấn sản phẩm), các tàu hoạt động ở
các nghề khác trung bình phát thải 2,73 tấn CO
2e
/tấn sản phẩm.
Khi so sánh với kết quả nghiên cứu của một số nước như Ấn Độ (1,67 tấn CO
2e
/tấn sản
phẩm) và Anh (1,70 tấn CO
2e
/tấn sản phẩm) cho thấy mức phát thải khí nhà kính của nghề khai
thác hải sản Hải Phòng cao hơn rất nhiều. Điều này hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế về
công nghệ khai thác cũng như mức độ khai thác quá mức nguồn lợi của nghề khai thác hải sản
Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng.
3.3. Quy hoạch phát triển thủy sản Hải Phòng đến 2015 định hƣớng đến 2020, dự báo khả
năng và quy mô phát thải KNK trong tƣơng lai
3.3.1. Quy hoạch phát triển thủy sản Hải Phòng đến 2015 định hướng đến 2020.
Chỉ tiêu quy hoạch
Các chỉ tiêu quy hoạch, sắp xếp lại nghề khai thác hải sản ở Hải Phòng đến năm 2015
được xác định theo 2 phương án sau:
Theo phƣơng án I (Phương án lựa chọn) đến năm 2015 các chỉ tiêu quy hoạch, sắp xếp
lại nghề khai thác hải sản ở Hải Phòng được xác định như sau:
Bảng 4. Các chỉ tiêu quy hoạch nghề khai thác hải sản của thành phố Hải Phòng đến năm 2010
và 2015 theo phương án I
TT
Tên chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2004
Năm 2010
Năm
2011**
Năm 2015
1
Tổng số tàu thuyền
chiếc
3.615
2.741
2.561
2
Tàu thuyền máy
chiếc
2.406
2.136
3.999*
2.256
3
Tàu thuyền > 90cv
chiếc
586
664
434
761
4
Thuyền thủ công
chiếc
1.209
605
-
305
5
Sản lượng khai thác
tấn
31.722
32.000
40.263
34.000
6
Sản lượng cá
tấn
22.419
23.170
25.817
24.590
7
Sản lượng mực
tấn
3.320
2.905
5.618,7
3.120
8
Sản lượng tôm
tấn
1.853
915
2.181,7
900
9
Hải sản khác
tấn
4.13
5.010
18.909,7
5.390
10
Sản lượng xa bờ
tấn
16.381
18.000
13.687
20.500
11
Sản lượng gần bờ
tấn
15.341
14.000
26.576
13.500
12
Lao động đánh cá
người
11.347
10.358
7.254
9.900
(Nguồn: ** Cục thống kê Hải Phòng, số liệu thống kê năm 2011. * Chi cục Bảo vệ Thủy sản Hải
Phòng)
Như vậy, khi so sánh một số chỉ tiêu quy hoạch năm 2010 với số liệu thống kê 2011 cho
thấy, sự phát triển của nghề khai thác hải sản Hải Phòng đã phá vỡ quy hoạch. Theo phương án
lựa chọn (Phương án I), tổng số thuyền máy Hải Phòng phải giảm từ 2.406 chiếc năm 2004
xuống còn 2.136 chiếc năm 2010 và đến năm 2015 ổn định ở mức 2.300 chiếc.
3.3.2. Dự báo quy mô phát thải khí nhà kính trong hoạt động khai thác hải sản Hải Phòng
năm 2020
Nhóm
công
suất(cv)
Số
lƣợng
tàu (chiếc)
Công
suất (cv)
Lƣợng nhiên
liệu tiêu
thụ (tấn)
CO
2
(tấn)
N
2
O
(tấn)
CH
4
(tấn)
CO
2e
(tấn)
< 20
1.405
19.946
6.687,18
21.215,82
0,17
1,43
21.302,56
20 - 50
366
12.532
4.744,59
15.052,74
0,12
1,01
15.114,29
50 - 90
173
11.409
4.030,30
12.786,57
0,10
0,86
12.838,85
90 - 150
409
47.598
17.560,24
55.711,79
0,45
3,75
55.939,59
150 - 250
154
28.278
10.145,17
32.186,67
0,26
2,17
32.318,28
> 250
60
20.351
5.926,12
18.801,27
0,15
1,27
18.878,14
Tổng
2.566
140.114
49.093,60
155.754,85
1,26
10,48
156.391,71
Từ bảng 24 cho thấy, tổng lượng phát thải khí nhà kính của các đội tàu khai thác hải sản
Hải Phòng năm 2020 khoảng 156.391,71 tấn CO
2e
tương đương, giảm 3143.95 tấn (1,97%) so
với năm 2011, tương đương với mức giảm bình quân 0,22%/năm. Đây là mức giảm quá thấp so
với mục tiêu giảm 20% phát thải KNK vào năm 2020 của ngành nông nghiệp, hơn nữa khai thác
hải sản lại là lĩnh vực sử dụng nhiều năng lượng nhất trong các lĩnh vực khác nhau của ngành sản
xuất nông nghiệp.
Theo Quyết định phê duyệt đề án “Giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp, nông
thôn đến năm 2020” đã đặt mục tiêu đến năm 2020, giảm phát thải 20% lượng KNK trong nông
nghiệp, nông thôn. Để đạt được mục tiêu này ngành Nông nghiệp nói chung và ngành khai thác
hải sản Hải Phòng nói riêng phải đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm giảm phát thải khí nhà kính
trong tương lai một cách hiệu quả.
3.4. Đề xuất các biện pháp giảm thiểu phát thải KNK
1) Giải pháp chuyển đổi, hạn chế và lộ trình cắt giảm tàu thuyền khai thác
Hải Phòng cần phải rà soát, điều chỉnh và bổ xung quy hoạch thủy sản cho phù hợp với
điều kiện phát triển thực tế, thực hiện lộ trình chuyển đổi, hạn chế và cắt giảm tàu thuyền khai
thác theo đúng quy hoạch.
2) Giải pháp nâng cao năng lực dự báo ngư trường để giảm thiểu thời gian di chuyển
giúp đánh bắt có hiệu quả hơn
Đối với Hải Phòng, cần phải có các nghiên cứu xây dựng các bản dự báo ngư trường khai
thác cho các đội tàu khai thác hải sản Hải Phòng để giảm đến mức tối đa thời gian tìm kiếm ngư
trường nhăm nâng cao hiệu quả đánh bắt cũng như tiết kiệm nhiên liệu tiêu thụ.
3) Giải pháp về cải tiến kỹ thuật và công nghệ trong hoạt động khai thác hải sản
- Giảm tốc độ để tiết kiệm nhiên liệu: Giảm tốc độ là giải pháp đơn giản nhất để giảm tiêu
thụ nhiên liệu. Một tàu 19,8m điều hành một động cơ 540HP làm giảm tốc độ từ 10 hải lý/giờ
đến 8 hải lý/giờ sẽ làm giảm tiêu thụ nhiên liệu hàng giờ bằng 70%. Những tàu đóng mới phải
tuân theo chỉ số thiết kế hiệu quả năng lượng (Energy Efficiency Design Index - EEDI).
- Cải tiến và lựa chọn ngư cụ khai thác hiệu quả nâng cao năng lực khai thác như: Cải
tiến thay thế hệ thống đèn khai thác thủy sản truyền thống bằng hệ thống đèn LED sẽ giảm chi
phí và giảm tiêu hao năng lượng đồng nghĩa với giảm khí thải nhà kính; Giảm số lượng diện tích
bề mặt lưới, tăng kích thước mắt lưới, dây bện mỏng, sợi hiện đại và cải thiện tất cả ván kéo lưới
kết hợp để giảm sự kéo và giảm tiêu hao nhiên liệu.
4) Giải pháp xây dựng mô hình tổ chức sản xuất và dịch vụ nghề cá trên các vùng biển
Căn cứ vào định hướng về tổ chức khai thác trong thời gian tới, căn cứ vào kết quả điều
tra tình hình hoạt động của các mô hình tổ chức sản xuất và kết quả tính toán số lượng tàu thuyền
khai thác trong một mô hình ở các tuyến biển đề xuất mô hình tổ chức sản xuất.
Với các mô hình trên sẽ đảm bảo vừa phát huy được sự tham gia của ngư dân, doanh
nghiệp, hợp tác xã, trên cùng một ngư trường; vừa làm tăng năng suất và hiệu quả kinh tế,
giảm lượng tiêu hao nhiên liệu năng lượng, giảm lượng phát thải KNK.
5) Giải pháp phân định ranh giới quản lý nghề cá
Căn cứ vào điều kiện cụ thể của địa phương mình để tổ chức phân định ranh giới quản lý
trên bản đồ và thực địa nhằm đảm bảo mục đích vừa đảm bảo khai thác và quản lý tàu cá hoạt
động trên các vùng biển một cách hiệu quả; vừa là cơ sở để hướng dẫn ngư dân khai thác đúng
ngư trường theo qui định, tránh trường hợp xung đột tranh chấp ngư trường và khai thác vượt ra
ngoài hải phận cho phép.
3.5. Một số kiến nghị chung đối với công tác quản lý hoạt động của ngành thủy sản để
giảm thiểu và thích ứng với BĐKH
Trong quá trình nghiên cứu, kiểm kê phát thải KNK do sử dụng nhiên liệu của tàu thuyền
khai thác thủy sản, khi nghiên cứu phân tích các quy hoạch phát triển ngành nông nghiệp nói
chung và thủy sản nói riêng, học viên nhân thấy có những vấn đề sau cần được kiến nghị với Nhà
nước, Chính phủ và với ngành thủy sản, cụ thể:
Trong định hướng quy hoạch phát triển thủy sản Hải Phòng nói riêng và của ngành thủy
sản cả nước nói chung, chúng ta mới chỉ quan tâm đến định hướng “đầu tư chuyển đổi, cải hoán,
nâng cấp hoặc đóng mới tàu để hiện đại hóa đội tàu đáp ứng nhu cầu vừa khai thác vừa bảo vệ
vùng biển“ bản thân những quy hoạch này cũng mới thấy rõ được sự cần thiết phải chuyển đổi
tàu công suất nhỏ sang công suất lớn, thiết bị lạc hậu, tốn nhiên liệu ở khía cạnh kinh tế và
củng cố an ninh quốc phòng. Tuy nhiên trên quan điểm phát triển bền vững mà ngành đã đề ra,
học viên thấy các nhà quy hoạch và quản lý ngành thủy sản cần quán triệt hơn nữa đến việc cần
đầu tư chuyển đổi, hiện đại hóa phương tiện đánh bắt nhằm giảm thiểu năng lượng tiêu thụ còn
vì mục tiêu khác - cũng không kém quan trọng, đó chính cũng là giảm thiểu phát thải KNK trong
hoạt động thủy sản.
Trong đề án Giảm phát thải KNK trong nông nghiệp, nông thôn đến năm 2020 mục tiêu
đến năm 2020, giảm phát thải 20% lượng KNK trong nông nghiệp, nông thôn. Ngành nông
nghiệp theo sự phân chia của Nhà nước bao gồm nhiều lĩnh vực sản xuất, trong đó thủy sản chỉ
là một lĩnh vực, tuy nhiên do đặc thù của từng lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực thủy sản này đòi hỏi
cần sử dụng nhiều nhiên liệu hóa thạch hơn một số lĩnh vực khác, do đó nếu áp chung mục tiêu
giảm phát thải 20% lượng KNK trong nông nghiệp vào cho thủy sản là chưa hợp lý. Nhà nước
cần đầu tư nghiên cứu chi tiết hơn để đưa ra những định mức giảm thiểu phát thải KNK cụ thể
hơn, phù hợp với đặc thù của từng ngành sản xuất.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghiên cứu ảnh hưởng của BĐKH đối với hoạt động của ngành thuỷ sản, đặc biệt trong vấn
đề khai thác đánh bắt hải sản của Hải Phòng, luận văn đã rút ra một số nhận xét sau:
1) BĐKH là một thực tế của thế kỷ 21 mà cả hành tinh nói chung và Việt Nam nói riêng
phải đối mặt. Nguyên nhân của BĐKH có hai nhóm: do các quá trình tự nhiên và những hoạt
động của con người. KNK là tác nhân quan trọng gây nên sự BĐKH (gia tăng nhiệt độ của Trái
Đất và nước biển dâng), sự gia tăng KNK chủ yếu do hoạt động của con người vì vậy con người
cần chủ động điều tiết, giảm thiểu sự gia tăng này trong các hoạt động KT-XH của mình.
2) BĐKH ảnh hưởng mạnh mẽ đến một số HST biển điển hình – nơi sống, bãi đẻ và nơi
đảm bảo nguồn thức ăn các loài hải sản. Chính vì thế luận văn đã xác định rõ những ảnh hưởng
của BĐKH đến nguồn lợi hải sản cũng như đối với hoạt động khai thác hải sản.
3) Vận dụng các phương pháp điều tra thu thập số liệu, thống kê tổng hợp và phân tích số
liệu, luận văn đã tiến hành kiểm kê phát thải KNK trong khai thác hải sản của đội tàu Hải Phòng.
Trên cơ sở các thông số thống kê phát thải hiện tại, kết hợp với phân tích các số liệu quy hoạch
phát triển thuỷ sản của Hải Phòng, Vịnh Bắc Bộ, luận văn đã sử dụng phương pháp dự báo để
tính toán phát thải KNK trong hoạt động thuỷ sản tới năm 2020.
4) Trong hoạt động thuỷ sản (một lĩnh vực sản xuất kinh tế quan trọng của ngành Nông
nghiệp Việt Nam), một lượng lớn nhiên liệu đã`được tiêu thụ trong hoạt động đánh bắt và tương
đương với nó là một lượng KNK xác định cũng được thải ra. Nhằm kiểm soát được nguồn thải
gây hiệu ứng KNK, luận văn đã tiến hành phân tích thống kê hoạt động của đội tàu khai thác
đánh bắt hải sản của cả nước nói chung và của Hải Phòng nói riêng, cụ thể:
Tính đến hết tháng 12/2009 cả nước có 125.546 tàu khai thác hải sản. Trong đó
120.326 tàu lắp máy, chiếm 95,8%, tương ứng với tổng công suất là 7.636.743cv, so với 2000
(72.909 chiếc, tương ứng 3.232.812cv) bình quân hàng năm tổng công suất tăng thêm 489.326cv.
Tổng số lượng tàu hoạt động khai thác hải sản Hải Phòng tính đến hết năm 2011
là 3.999 chiếc. Trong đó, tàu lớn hơn 20 CV là 1.347 tàu, tàu có công suất nhỏ hơn 20 CV là
2.652 tàu; với trên 15 nghìn lao động, tập trung chủ yếu ở các huyện Thủy Nguyên, Kiến Thụy,
Đồ Sơn và Cát Hải
Theo thống kê tổng lượng nhiên liệu tiêu thụ của các đội tàu hoạt động khai thác
hải sản Hải Phòng năm 2011 là 50.080,54 tấn dầu diesel. Trong đó, đội tàu chụp mực tiêu thụ
17.109,65 tấn; đội tàu lưới kéo là 11.050,03 tấn; tàu lưới rê 12.663,31 tấn; đội tàu hoạt động
những nghề khác là 9.257,56 tấn.
Ước tính tổng lượng phát thải khí của đội tàu hoạt động khai thác hải sản Hải
Phòng năm 2011 là 159.535,67 tấn CO2e quy đổi (CO
2
:158.886,02 tấn, N₂O: 1,28 tấn và CH₄:
10,69 tấn). Trong đó, nhóm tàu chụp mực phát thải 54.504,19 tấn CO2e quy đổi (CO
2
: 54.282,24
tấn, N₂O: 0,44 tấn và CH₄: 3,65 tấn); Đội tàu lưới kéo phát thải 35.200,77 tấn CO2e quy đổi
(CO
2
: 3.5057,43 tấn, N₂O: 0,28 tấn và CH₄: 2,36 tấn); Đội tàu lưới rê phát thải 40.340,00 tấn
CO2e quy đổi (CO
2
: 40.175,73 tấn, N₂O: 0,32 tấn và CH₄: 2,70 tấn); Đội tàu hoạt động những
nghề khác phát thải 29.490,71 tấn CO2e quy đổi (CO
2
: 29.370,62 tấn, N₂O: 0,24 tấn và CH₄:
1,98 tấn).
Luận văn đã xác định được trung bình để khai thác được 1 tấn sản phẩm chúng ta
đã phát thải ra môi trường 3,96 tấn CO2e tương đương. Trong khi đó nghề chụp mực là nghề có
hệ số phát thải lớn nhất (9,09 tấn CO2e/tấn sản phẩm), tiếp đến là nghề lưới rê (7,02 tấn
CO2e/tấn sản phẩm), nghề có hệ số phát thải thấp nhất là nghề lưới kéo (1,99 tấn CO2e/tấn sản
phẩm), các tàu hoạt động ở các nghề khác trung bình phát thải 2,73 tấn CO2e/tấn sản phẩm.
Nhìn chung, nhóm tàu chụp mực có mức phát thải lớn nhất, điều này hoàn toàn
phù hợp thực tế vì ngoài hoạt động di chuyển tìm kiếm ngư trường, nghề này còn sử dụng bóng
đèn cao áp (30-60 bóng/tàu, công suất 1000W/bóng) để dẫn dụ cá. Mặc dù thế, nghề này khai
thác những hải sản có giá trị kinh tế cao (mực, cá thu…) nên vẫn được ngư dân sử dụng với tỷ lệ
cao. Để giảm phát thải KNK, việc ứng dụng công nghệ mới, tiết kiệm năng lương, giảm phát thải
KNK đối với nghề này đang thực sự cần thiết. Một biện pháp rất hiệu quả đã được một số ngư
dân sử dụng đó là thay thế bóng đèn cao áp bằng bóng đèn LED, công nghệ này giúp giảm được
6,5 lần lượng nhiên liệu tiêu thụ, tuy nhiên chi phí ban đầu lại khá cao.
Mặt khác, nghề lưới kéo đáy tuy có mức phát thải thấp nhất nhưng lại có mức độ
hủy diệt nguồn lợi hải sản, môi trường mạnh nhất (phá hủy cấu trúc nền đáy, các HST rạn san
hô, cỏ biển…), do đó nhiều nước trên thế giới đã cấm nghề này. Ở nước ta nghề này không được
khuyến khích hoạt động nhưng trong điều kiện kinh tế của ngư dân còn hạn chế và những do
hiệu quả kinh tế nhất định, nghề này vẫn còn được ngư dân sử dụng.
5) Căn cứ vào những hệ số phát thải của một số đội tàu, dựa trên phân tích quy hoạch thủy
sản của Hải Phòng, Vịnh Bắc Bộ, luận văn cũng ước tính quy mô phát thải KNK của các đội tàu
khai thác hải sản Hải Phòng năm 2020 khoảng 156.391,71 tấn CO2e tương đương. Như vậy
lượng phát thải KNK của năm 2020 đã giảm 3143.95 tấn (1,97%) so với năm 2011, tương đương
với mức giảm bình quân 0,22%/năm. Tuy nhiên mức giảm này lại không được tính đến trong
quy hoạch phát triển thủy sản của Hải Phòng cũng như cho khu vực Vịnh Bắc Bộ, đó chỉ là kết
quả của việc giảm số lượng tàu thuyền do áp lực khai thác quá mức đến nguồn lợi. Do đó để
PTBV quy hoạch ngành những giai đoạn tới cần lồng ghép mục tiêu phát triển với kịch bản
BĐKH, cũng như đặt ra mức giảm phát thải KNK trong các giai đoạn của quy hoạch.
6) Phân tích so sánh các giá trị của hệ số phát thải cho thấy: mức phát thải KNK trong hoạt
động khai thác hải sản ở nước ta vẫn cao hơn rất nhiều so với các nước trên thế giới. Để thực
hiên mục tiêu giảm phát thải KNK trong tương lai, luận văn đã đưa ra một số giải pháp nhằm
giảm phát thải như: Chuyển đổi, hạn chế và xây dựng lộ trình cắt giảm tàu thuyền khai thác;
Nâng cao năng lực dự báo ngư trường (giảm thiểu thời gian di chuyển, giúp đánh bắt có hiệu quả
hơn); Cải tiến kỹ thuật và công nghệ trong hoạt động khai thác hải sản; Xây dựng mô hình tổ
chức sản xuất và dịch vụ nghề cá trên các vùng biển; Phân định ranh giới quản lý nghề cá.
7) Hiện nay xuất khẩu thủy sản của nước ta đạt khoảng 6 tỷ USD (Vasep, 2012), Ngành
thủy sản đang hướng tới mục tiêu đưa kim ngạch xuất khẩu đạt 10 - 10,5 tỷ USD vào năm 2020.
Xuất khẩu thủy sản nước ta chủ yếu sang các nước Nhật, Mỹ, EU đây là các thị trường có yêu
cầu rất cao về chất lượng cũng như xuất xứ sạch của hàng hóa. Để đạt được mục tiêu trên chúng
ta phải nâng cao tính canh tranh của hàng thủy sản xuất khẩu bằng cách nâng cao chất lượng sản
phẩm và giảm tối đa các tác động tới môi trường. Do đó ngoài kiểm kê phát thải KNK trong hoạt
động khai thác, chúng ta cần có những nghiên cứu sâu hơn nhằm kiểm kê, đánh giá và giảm phát
thải trong toàn bộ vòng đời của sản phẩm thủy sản từ khâu khai thác đến bảo quản, chế biển, vận
chuyển và tiêu thụ sản phẩm.
References
Tiếng việt
1. Lê Hồng Cầu, Trần Liêm Khiết và ctv, 2010.Đánh giá ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tại
Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Bến Tre đối với nghề khai thác hải sản và đề xuất các biện
pháp quản lý phù hợp. Viện Nghiên cứu Hải sản.
2. Vũ Việt Hà, 2008. Nguồn lợi hải sản vùng biển Hải Phòng, hiện trạng khai thác, bảo vệ định
hướng phát triển ngành đến năm 2020. Viện nghiên cứu Hải sản
3. Lưu Đức Hải. (2000), Cơ sở khoa học môi trường. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Vũ Duyên Hải.(2005), Hệ số hoạt động của tàu. Viện Nghiên cứu Hải sản
5. Phan Nguyên Hồng, 1991. Sinh thái thảm thực vật RNM Việt Nam. Luận án tiến sĩ khoa học
sinh học: 115-122.
6. Nguyễn Đăng Ngải, (2004). Sự biến đổi quần xã rạn san hô khu vực Hạ Long – Cát Bà. Kỷ
yếu hội thảo Việt Nam – Italy “Bảo tồn đa dạng sinh học dải ven biển Việt Nam”. NXB
Đại học Quốc Gia Hà Nội.
7. Bùi Xuân Thông, 2005c. Các sản phẩm khoa học về khí tượng thủy văn. Đề tài khoa học số 1
– KHCN 06 01 thuộc chương trình biển cấp Nhà nước giai đoạn 2001 – 2005.
8. Nguyễn Phi Toàn, (2010). Báo cáo tổng kết dự án. Điều tra thực trạng và giải pháp đăng ký,
đăng kiểm và quản lý tàu cá Việt Nam. Viện Nghiên cứu Hải sản.
9. Võ Sĩ Tuấn, 2000. Rạn san hô ở Côn Đảo. Tài liệu của WWF, Nhà xuất bản Lao Động.
10. Nguyễn Huy Yết, 1999. Điều tra nghiên cứu sự suy thoái san hô ở vùng biển ven bờ phía bắc
Việt Nam, đề xuất các giải pháp bảo vệ và phục hồi. Đề tài cấp trung tâm. Lữu trữ tại Viện
Tài nguyên và Môi trường Biển.
11. Chi cục Bảo vệ Nguồn lợi Thủy sản Hải Phòng. (2012),Tổng kết khai thác vụ cá Bắc 2011-
2012 và kế hoạch triển khai vụ cá Nam năm 2012
12. Bộ Thủy Sản. (2005), Báo cáo tổng kết công tác phòng chóng lụt bão, đảm bảo an toàn cho
tàu cá.
13. Thông tư số 02/TT-BGTVT ngày 14 tháng 2 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải
về định mức tiêu hao nhiên liệu dùng cho phương tiện thuỷ
14. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển thủy sản Hải Phòng đến năm 2020, (2004).
Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản
15. Quy hoạch tổng thế phát triển ngành thủy sản Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn 2030,
(2012). Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản, Tổng cục thủy sản
Tiếng Anh
16. Piers Forster (UK), Venkatachalam Ramaswamy (USA), (2007), Changes in atmospheric
constituents and in radiative focing, ICCP, pp.212-213.
17. Nicola Robinson. (2003), EU Stakeholder Workshop on Low-Emission Shipping: Day 1:
Research, Abatement Technologies & Best Practice, DG Environment, European
Commission.
18. Dr.Peter Tyedmers & Mr.Robert Parker.(2012), Fuel Consumption and Greenhouse Gas
Emissions from Global Tuna Fisheries: A preliminary assessment . School for Resource
& Environmental Studies, Dalhousie University, Canada
19. Peter Tyedmers. (…) Energy consumed by north Atlantic fisheries. School for Resource and
Environmental Studies, Dalhousie University, Canada
20. Dr. Robert G. Latorre and Joseph P. Cardella V. Development of Fishing Vessel Diesel
Propulsion Engine Emission Assessment, Report 8-1-08
21. IPCC, 2007: Climate Change 2007: The Physical Science Basis. Contribution of Working
Group I to the Fourth Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate
Change [Solomon, S., D. Qin, M. Manning, Z. Chen, M. Marquis, K.B. Averyt, M.Tignor
and H.L. Miller (eds.)]. Cambridge University Press, Cambridge, United Kingdom and
New York, NY, USA.
22. Morgan S. Pratchett, Johann D. Bell,Patrick Lehodey, Patrick Lehodey, Philip L. Munday
and Shaun K. Wilson.(2008). Threat of climate change to fish and fisheries, Australian
Institute of Marine Science, Australian. pp.48-49.
23. U.S. Environmental Protection Agency.(1998), Proposed Emission Standards for New CI
Marine Engines, EPA420-F-98-044.
Internet
24. [cited 2007 17 May].
25. 2007 17 May].
26.
27.
28.
29.