Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Điều tra khảo sát, thống kê lượng thải, đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường do khí thải công nghiệp vá đề xuất các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường do khí thải công nghiệp cđ7 đánh giá khả năng áp dụng công nghệ sạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (964.93 KB, 100 trang )

BỘ
BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU CƠ KHÍ




TUYỂN TẬP BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
DỰ ÁN PHỤC VỤ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NĂM 2007

NHÓM CHUYÊN ĐỀ 7
KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ SẠCH
VÀ THÂN THIỆN MÔI TRƯỜNG

Thuộc dự án:
“ĐIỀU TRA, KHẢO SÁT THỐNG KÊ LƯỢNG THẢI, ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ Ô NHIỄM
MÔI TRƯỜNG DO KHÍ THẢI CÔNG NGHIỆP VÀ ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP GIẢM
THIỂU Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG DO KHÍ THẢI CÔNG NGHIỆP”










Hà Nội - 2007





Bộ công thơng
Viện nghiên cứu cơ khí








Báo cáo chuyên đề

Tên chuyên đề:
đánh giá khả năng áp dụng công nghệ sạch và thân
thiện môI truờng

Thuộc nhiệm vụ năm 2007: điều tra, khảo sát thống kê lợng
thải, đánh giá mức độ ô nhiễm môi trờng do khí thải
công nghiệp và đề xuất các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm
môi trờng do khí thải công nghiệp
Thuộc dự án: Cải thiện chất lợng không khí các đô thị do
nguồn thải công nghiệp



Chủ trì thực hiện dự án: TS. Dơng Văn Long
Đơn vị thực hiện dự án

: TT. CN&TB Môi Trờng





H Nội, 2007

2
MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ 4
I. TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ SẠCH VÀ THÂN THIỆN MÔI TRƯỜNG
(CNS&TTMT). 5
1.1 Khái niệm công nghệ sạch và thân thiện môi trường 5
1.2. Nhu cầu và lợi ích của việc áp dụng công nghệ sạch và thân thiện môi
trường đối với ngành công nghiệp trên thế giới và việt nam: 6
1.2.1. Vấn đề ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu toàn cầu 6
1.2.2. Nhu cầu về năng lượng trên thế giới: 8
1.2.3. Lợ
i ích của việc áp dụng công nghệ sạch và thân thiện môi trường: 10
II. HIỆN TRẠNG ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ SẠCH VÀ THÂN THIỆN MÔI
TRƯỜNG TRÊN THẾ GIỚI 12
2.1. Tình hình ô nhiễm không khí do nguồn thải công nghiệp trên thế giới 12
2.2. Hiện trạng và định hướng cho áp dụng công nghệ sạch và thân thiện
môi trường trên thế giơí 15
III. ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CNS&TTMT Ở VIỆT NAM 20
3.1. Tình hình ô nhiễm không khí do các nguồn thải công nghiệp tại Việt
Nam: 20
3.2. Hiện trạng áp dụng công nghệ sạch và thân thiện môi trường đối với

công nghiệp Việt Nam và định hướng cho tương lai. 22
3.2.1 Lợi ích trong việc bảo vệ môi trường và tiết kiệm năng lượng: 24
3.2.1.1. EM – công nghệ sạch cho xử lý rác thải 24
3.2.1.2. Công nghệ sạch sản xuất axit sunfuric 25
3.2.2. Lợi ích về mặt kinh tế mang lại cho doanh nghiệp. 27

3
3.3. Định hướng trong tương lai: 28
3.4. Đánh giá khả năng áp dụng CNS&TTMT của các doanh nghiệp Viêt
Nam 30
3.4.1. Thuận lợi 31
3.4.2. Khó khăn 35
KẾT LUẬN 40

4
ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ cuối thập kỷ 60 thế kỷ trước, ảnh hưởng của sản xuất và sử dụng năng lượng
trong các ngành công nghiệp đến môi trường đã gây sự chú ý rộng rãi đối với
công chúng. Cho đến nay, ô nhiễm môi trường kéo theo các thảm họa môi
trường và sự nóng lên của trái đất, không chỉ là vấn đề của mỗi quốc gia mà là
vấn đề toàn cầu, bên cạnh đó nhu cầu s
ử dụng năng lượng, tiêu thụ nhiên liệu
ngày càng lớn trong khi một số nguồn tài nguyên không tái tạo được hoặc được
sử dụng không hiệu quả là nguyên nhân dẫn đến việc tăng chi phí sản xuất làm
cho giá dầu thế giới tăng cao. Đó chính là những động lực chính thúc đẩy sự phát
triển của công nghệ sạch và thân thiện môi trường trở thành vấn đề có ý nghĩa
thời sự. Những công nghệ s
ạch đang được nhiều nước lựa chọn vì mục tiêu phát
triển bền vững.
Hơn nữa theo Báo cáo Cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF),

chỉ số cạnh tranh tăng trưởng của nền kinh tế nước ta từ vị trí thứ 60/101 năm
2003 đã tụt xuống vị trí thứ 79/104 năm 2004 và 81/117 năm 2005, thấp hơn vị
trí của nhiều nước trong khu vực. M
ột trong những nguyên nhân quan trọng làm
cho chỉ số cạnh tranh của nước ta thấp và vị trí xếp hạng liên tục bị giảm là do
chỉ số ứng dụng công nghệ thấp (đứng thứ 92/117).
Do vậy, việc đánh giá khả năng áp dụng công nghệ sạch và thân thiện môi
trường là cần thiết trong quá trình xây dựng chính sách và kế hoạch phát triển
công nghệ.


5
I. TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ SẠCH VÀ THÂN THIỆN MÔI TRƯỜNG
(CNS&TTMT).
1.1 Khái niệm công nghệ sạch và thân thiện môi trường
Chương trình Nghị sự thế kỷ 21 đã nhận thức rằng cần một cách tiếp cận mới để
ngăn ngừa ô nhiễm công nghiệp: “Một sự thừa nhận đang tăng lên rằng các hoạt
động sản xuất, công nghệ và quản lý sử dụng tài nguyên một cách không hiệu
qu
ả hình thành nên các chất thải không được tái sử dụng, thải chất thải có
những tác động xấu đến sức khỏe con người và môi trường và sản xuất ra các
sản phẩm mà khi sử dụng lại gây ra thêm các tác động và khó tái chế. Do đó cần
phải thay thế các hoạt động này bằng công nghệ sạch và thân thiện môi trường
kèm theo đó là các thực hành quản lý và bí quyết phù hợp giúp giảm thiểu chất
thải thông trong suốt toàn bộ quy trình s
ản phẩm.
Vậy có thể hiểu: “Công nghệ sạch là quy trình công nghệ hoặc giải pháp kỹ
thuật không gây ô nhiễm môi trường, thải hoặc phát ra ở mức thấp nhất chất gây
ô nhiễm môi trường".
Công nghệ sạch và thân thiện môi trường bao gồm năng lượng gió, năng lượng

mặt trời, sinh khối, thủy năng, công nghệ thông tin, động cơ điện, quang năng,
và nhiều thiết bị khác mà hiệ
n được cho là có hiệu quả năng lượng hơn. Đó là
các phương tiện tạo ra điện và nhiên liệu ít ảnh hưởng và thân thiện với môi
trường.
Có thể áp dụng công nghệ sạch và thân thiện môi trường đối với các quy trình
sản xuất trong bất kỳ ngành công nghiệp nào và bất kỳ sản phẩm công nghiệp
nào. Ðối với các quá trình sản xuất, công nghệ sạch nhằm giảm thiểu các tác
động môi trường và an toàn củ
a các sản phẩm trong suốt chu trình sống của sản
phẩm, bảo toàn nguyên liệu, nước, năng lượng, loại bỏ các nguyên liệu độc hại,
nguy hiểm, giảm độc tính của các khí thải, chất thải ngay từ khâu đầu của quy
trình sản xuất.
Khái niệm công nghệ sạch và thân thiện môi trường và sản xuất sạch hơn là hai
khái niệm khác nhau, tuy nhiên chúng vẫn được lồng ghép cùng nhau vì mục tiêu
giảm thiểu ô nhiễm và xử d
ụng năng lượng hiệu quả.


6
1.2. Nhu cầu và lợi ích của việc áp dụng công nghệ sạch và thân thiện môi
trường đối với ngành công nghiệp trên thế giới và việt nam:
Vào ngày 3/12/1907, trong bài diễn văn đọc trước Quốc hội Mỹ, Tổng thống
Roosevelt đã nhắn gởi một thông điệp đến các công dân Mỹ: “Lãng phí và phá
hoại các nguồn tài nguyên của chúng ta thay vì tăng sự hữu ích của chúng sẽ phá
hủy thịnh vượng mà chúng ta có trách nhiệm truyền đạt cho con cháu, mở rộ
ng
và phát triển…”. Có thể sẽ không ai nhớ đến thông điệp này và ý nghĩa của nó
nếu như 77 năm sau, vào ngày 3/12/1984 xảy ra một sự cố môi trường nghiêm
trọng: một đám mây khí methyl isocyanate chết người ròi rỉ từ nhà máy Bhopal

(Ấn Độ) của Công ty Union Carbide (Mỹ) làm hơn 3.000 người chết và hơn
25.000 người bị thương. Hiện nay, trên khắp thế giới và cả Việt Nam, vấn đề ô
nhiễm môi trường đang là mối quan tâm hàng
đầu của chính quyền và các tổ
chức quốc tế do những tác động xấu của chúng làm suy giảm nặng nề đến chất
lượng môi trường tự nhiên và chất lượng cuộc sống con người.
Trong các hoạt động của con người thì hoạt động công nghiệp và các sản phẩm
thải ra từ các nhà máy là hoạt động và là những tác nhân gây ô nhiễm nhiều nhất
đến môi trường. Chất thải từ hoạt động công nghiệ
p có thể là khí thải, nước thải,
rác thải, chất thải độc hại, các sản phẩm bị lỗi, thất thoát trong quá trình sản suất,
sử dụng năng lượng và nước vượt định mức, sử dụng nguyên liệu thô không hiệu
quả. Nguyên nhân làm phát sinh chất thải chủ yếu do công tác lựa chọn và chất
lượng của nguyên liệu đầu vào chưa đảm bảo; thiết bị sử dụng và công nghệ áp
dụng cho sản xuất có khiếm khuyết; đặc tính sản phẩm; nguyên liệu, sản phẩm
trung gian, thành phẩm bị lãng phí; thất thoát năng lượng; hoặc sai sót trong
quản lý. Do đó việc áp dụng công nghệ sạch và thân thiện môi trường đang là
vấn đề thời sự và được nhiều nước lựa chọn vì mục tiêu phát triển kinh tế bền
vững
Sự nóng lên toàn cầu, giá dầu tăng cao và thảm hoạ môi trường là nhữ
ng động
lực chính thúc đẩy sự phát triển của năng lượng sạch, công nghệ sạch.
1.2.1. Vấn đề ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu toàn cầu
Tình trạng trái đất ấm lên đặt ra nhiều vấn đề bức xúc đối với tất cả các quốc gia.
Tại hội nghị của Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) của LHQ với

7
sự tham gia của đại diện 119 nước họp tại Băng-cốc (Thái-lan) tuần đầu tháng 5
này, IPCC đã công bố bốn bản báo cáo đánh giá về việc chất thải làm thay đổi
khí hậu trái đất nêu rõ, chất thải gây hiệu ứng nhà kính toàn cầu liên tục tăng do

hoạt động của con người; giai đoạn 1970-2004, lượng khí thải CO2, CH2, N2O
và các loại chất thải có nguy cơ làm tăng nhiệt độ toàn cầu, đã tăng 70%; l
ượng
khí CO2 thải ra tăng 80%, chiếm 77% tổng khối lượng khí thải gây hiệu ứng nhà
kính; ngành thải nhiều GHG nhất là năng lượng, tăng 145%, giao thông vận tải
tăng 120%, sản xuất công nghiệp tăng 65% và đốt rừng tăng 40% Hậu quả của
biến đổi khí hậu bộc lộ rõ khắp nơi: nước Pháp trải qua tháng 4 nóng nhất kể từ
năm 1950 với nhiệt độ trung bình trên cả nước là 14oC (cao hơn cùng k
ỳ mọi
năm 4oC), miền bắc khát mưa, các mạch nước ngầm cạn kiệt đến mức báo động.
Tổng thống Mỹ G.Bush phải ban bố tình trạng thảm họa tại Grin-bớc ở tây-nam
bang Can-dát, khu vực vừa xảy ra lốc xoáy. Mỗi năm Bolivia bị thiệt hại 443
triệu USD do thiên tai liên quan hiện tượng El Nino. Một hòn đảo mới đã xuất
hiện ở nơi trước đây là phần b
ờ biển phía đông bán đảo Grin-len, được các nhà
khoa học Mỹ đặt tên là "đảo ấm lên". Theo các nhà khoa học Mỹ và châu Âu,
khí thải gây hiệu ứng nhà kính làm nhiệt độ trái đất tăng và thay đổi tính chất đại
dương. Các Giáo sư Ðại học British Columbia (Canada) cảnh báo rằng, mực
nước biển trên thế giới có thể dâng cao thêm 7m nếu toàn bộ khối băng ở Grin-
len trong Biển Bắc tan chảy. Báo Phố Wall dẫn lời các nhà khoa học lưu ý thời
tiết nóng lên làm gia tăng các bệnh dị ứng và hen tại đô thị các nước phương Tây
vì cây cối hấp thụ CO2 nhiều hơn tới 20% do sử dụng nhiều xe gây ô nhiễm cao.
Hiện tại 35 triệu người dân Mỹ bị sốt dị ứng theo mùa và 20 triệu người bị hen,
v.v.
Báo cáo của IPCC khẳng định, theo "kịch bản tốt nhất, nhiệt độ trái đất sẽ cao
hơn nhiệt độ thời tiền công nghi
ệp 2-2,4oC và đủ để đẩy thế giới vào hỗn loạn,
khốn cùng. Châu Phi sẽ thiếu lương thực, nước uống nghiêm trọng vào năm
2080. Rừng Amazon và các khu rừng nhiệt đới của Mexico sẽ biến thành hoang
mạc. Châu Á không phải là ngoại lệ. Reuters dẫn nhận định của các nhà khoa

học nêu rõ, đa số dân châu Á đang đối mặt nguy cơ nước biển dâng cao và
những trận cuồng phong gây lũ lớn nhấn chìm toàn bộ nh
ững vùng trũng. Theo

8
một công trình nghiên cứu, tỷ lệ cư dân sống ở dọc bờ biển là 1/10 mà phân bố
chủ yếu ở châu Á; nước biển dâng cao gây lũ lụt liên tiếp tại châu lục này, đặc
biệt tại các vùng châu thổ đông dân của Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Ðộ, Việt
Nam, Bangladesh Trung Quốc có 143 triệu người sống dọc bờ biển đứng trước
nguy cơ hứng chịu nhiều cơn bão từ bi
ển. Cựu Thủ tướng Lý Quang Diệu thừa
nhận là một quốc gia mở rộng lãnh thổ bằng lấn biển Singapore đang gặp một
vấn đề hết sức nghiêm trọng liên quan cách thức và vật liệu xây dựng đê biển,
biện pháp cải tạo đáy biển; trái đất ấm lên thật sự là thách thức lớn đối với quốc
đảo Sư Tử trong tương lai. Chính phủ Indonesia cho biết t
ừ nay đến năm 2030
nước này có thể mất khoảng 2.000 hòn đảo. Giám đốc Trung tâm Cảnh báo thảm
họa quốc gia Thái-lan Xmít Ða-ma-xa-rô-gia (người đưa ra lời cảnh báo sóng
thần trước khi xảy ra thảm họa hồi cuối năm 2004) dự báo thủ đô Băng-cốc có
thể bị ngập sâu dưới nước trong 20 năm nữa do mực nước biển tăng và lún đất.
IPCC cho rằng, 90% trong tổng số hơn một tỷ dân châu Á s
ẽ chịu tác hại do khí
hậu ấm lên vào năm 2050. Các dải san hô và các loài sinh vật biển ở châu Á,
Australia và nhiều nơi khác sẽ bị đe dọa nghiêm trọng Từ khi nhậm chức tháng
1-2007, Tổng thư ký liên hợp quốc, ông Ban Ki Mun nhiều lần khẳng định vấn
đề trái đất ấm lên là một trong những ưu tiên hàng đầu trong hoạt động của ông
vì biến đổi khí hậu không chỉ gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã hộ
i và
môi trường mà còn ảnh hưởng hòa bình và an ninh thế giới.
Nghị định thư Kyoto về hạn chế khí thải gây hiệu ứng nhà kính (ra đời năm

1997) theo hướng đẩy mạnh các nỗ lực đi tới thiết lập cơ chế toàn cầu mới hạn
chế sự ấm lên của trái đất.
1.2.2. Nhu cầu về năng lượng trên thế giới:
Tăng cường hiệu quả kinh tế trong sản su
ất và sử dụng năng lượng là một trong
những biện pháp quan trọng nhất có thể tiến hành (cùng với việc giảm thâm hụt
ngân sách) để đưa kinh tế quay trở lại con đường phát triển.
Những nỗ lực để tăng nguồn cung cấp năng lượng đòi hỏi phải chi phí lớn ở các
nước đang phát triển. Năm 1980 các nước này đã phải chi khoảng 70 tỷ đô la để
nh
ập khẩu dầu (34 đôla/ thùng). Ngoài ra phần đầu tư trong nước để mở rộng
cung cấp năng lượng đã tăng từ 1 đến 2% GDP năm 1970 lên 2 tới 3% GDP năm

9
1980. Nhu cầu giao dịch với nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư cho năng lượng
chiếm khoảng 25 tỷ đôla năm 1982, tương đương với 1/3 nhu cầu giao dịch đối
với các loại hàng hóa. Chi phí này có thể còn cao hơn nhiều trong tương lai nếu
mở rộng cung cấp năng lượng không được ưu tiên hàng đầu để đáp ứng nhu cầu
cho dịch vụ năng lượng. Năm 1980 ngân hàng thế giới đã
ước tính rằng để đạt
được mục đích tăng trưởng (mức tiêu thụ năng lượng bình quân đầu người 0,45
đến 0,82 kW trong khoảng thời gian từ năm 1980 đến 1995) thì giá trị đầu tư cho
lĩnh vực cung cấp năng lượng của các nước đang phát triển trung bình sẽ vào
khoảng 130 tỷ USD mỗi năm (tính theo giá trị đồng đôla năm 1982), tương ứng
với 4% GDP. Trong đó một nửa tổng giá tr
ị đầu tư là tiền thu được từ trao đổi
với nước ngoài. Như vậy trung bình hàng năm cần phải tăng 15% giá trị thực về
phân phối trao đổi hàng hóa để đầu tư mở rộng cung cấp năng lượng. Mặc dù
đầu tư nhiều cho việc mở rộng cung cấp năng lượng, nhập khẩu dầu lửa của các
nước đang phát triển vẫn tăng lên khoảng 1/3 l

ần mỗi năm. Điều này có nghĩa là
mỗi ngày các nước này phải nhập khoảng 8 triệu thùng dầu (theo dự báo của
Ngân hàng thế giới).
Một phần tư dân số thế giới hiện đang sống ở các nước công nghiệp phát triển
tiêu thụ một lượng năng lượng lớn (tính theo tỷ lệ thu nhập bình quân đầu người)
gấp 6 lần so với các nước đang phát triển, chiếm kho
ảng 2/3 tổng mức sử dụng
năng lượng toàn cầu. Mặc dù vậy, những nghiên cứu của các tổ chức WEC và
HASA về xu thế cung cấp năng lượng trong 40 đến 50 năm tới đã ước tính
khoảng 1/2 đến 2/3 nhu cầu sử dụng năng lượng tăng thêm vẫn tập trung vào các
nước công nghiệp phát triển.
Tương tự đối với các nước công nghiệp phát triển, những mục tiêu kinh tế c
ủa
các nước đang phát triển có thể đạt được với nguồn tài chính ít hơn nếu chỉ tiêu
về hiệu quả kinh tế được chú trọng, chỉ tiêu này giảm chỉ khi chúng ta đầu tư vào
mở rộng cung cấp năng lượng hoặc nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong
sản xuất. Mỹ là một ví dụ điển hình. Do chi phí cung cấp năng lượng tăng lên
nhanh chóng nên tỷ lệ
đầu tư cho cung cấp năng lượng thậm chí còn lớn hơn chi
tiêu cho thiết bị và xây dựng nhà máy mới (từ 25% những năm 1970 đến 40%
năm 1982).

10
Trong bối cảnh này, những nỗ lực cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng ở các
nước OECD có thể giảm được lãi suất. Trong các phương án đầu tư thì đầu tư
phát triển công nghệ năng lượng sạch, xây dựng cơ sở hạ tầng thân thiện môi
trường nhằm cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng tốn ít chi phí và có lợi hơn là
đầ
u tư để mở rộng cung cấp nguồn năng lượng tương đương. Vì vậy, tiết kiệm
năng lượng là nguồn đầu tư hiệu quả về năng lượng giúp các nước giảm được tỷ

lệ lãi suất do giảm tổng nhu cầu về tài chính.
1.2.3. Lợi ích của việc áp dụng công nghệ sạch và thân thiện môi trường:
Trong sự phát triển lâu dài, việc áp dụng CNS &TTMT là phương cách tốt
để kết
hợp các lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường trong công ty. Áp dụng
CNS&TTMT không chỉ giúp tránh được các tác động môi trường và sức khỏe
xấu mà còn mang lại nhiều những lợi ích trực tiếp cho các doanh nghiệp.
- Lợi ích về mặt kinh tế - xã hội.
+ Xét dưới góc độ kinh tế: Mục tiêu của CNS&TTMT là tránh sự ô nhiễm bằng
cách sử dụng tài nguyên, nguyên vật liệu và năng lượng một cách hiệu quả nhất.
Việc áp dụng CNS&TTMT trong s
ản xuất sẽ giúp giảm chi phí đầu vào, sản
lượng sản phẩm tăng cao, chất lượng sản phẩm được duy trì ổn định. Từ đó cải
thiện vị trí của doanh nghiệp tăng lợi thế so sánh, sức cạnh tranh trên thị trường
thông qua người tiêu dùng. Mặt khác lượng chất thải công nghiệp cũng sẽ giảm
đi dẫn tới chi phí thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải được gi
ảm xuống, tiết
kiệm nguy cơ phải trả cho chi phí đền bù, thiệt hại do ô nhiễm gây ra cũng sẽ
được giảm thiểu
+ Xét về phương diện xã hội : áp dụng CNS&TTMT cũng mang lại nhiều lợi ích
to lớn.Việc áp dụng CNS&TTMT sẽ nâng cao năng suất sản phẩm mà không
làm tăng chi phí đầu vào. Từ đó nhu cầu và các chi phí xã hội có liên quan cho
việc khai thác các nguồn tài nguyên được giảm thiểu. CNS&TTMT hạn chế
lượng chấ
t thải và làm giảm nhẹ ô nhiễm ngay tại nguồn phát sinh nên sẽ làm
giảm rủi ro đối với sức khỏe con người. Đồng thời cũng sẽ làm giảm nguy cơ
vượt qua khả năng chứa đựng và hấp thụ chất thải của môi trường.
- Lợi ích về mặt môi trường. Khi áp dụng CNS&TTMT các doanh nghiệp sẽ có
cơ hội giảm lượng tài nguyên tiêu thụ tránh được nguy cơ làm cạn kiệt một s



11
nguồn tài nguyên không tái tạo thậm chí cả tài nguyên tái tạo như nước từ đó góp
phần hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
- Các tổ chức cho vay tài chính hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam ngày
càng nhận thức được các tác hại của việc hủy hoại môi trường và tài nguyên do
hoạt động sản xuất công nghiệp gây ra. Việc lập kế hoạch về CNS&TTMT và
BVMT gắn liền với kế
hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ mang lại
ấn tượng tốt về công tác BVMT của doanh nghiệp tới các tổ chức cho vay vốn.
Khi đó khả năng tiếp cận với các nguồn vốn hỗ trợ tài chính sẽ được thuận lợi
hơn.
- Thị trường hàng hóa hiện nay đặc biệt là các thị trường khó tính như EU, Nhật,
Mỹ… ngày càng quan tâm tới hình ảnh của doanh nghiệp thông qua hoạt động
BVMT. Khi doanh nghiệp đáp ứng tốt các tiêu chuẩn về môi trường trong nước
và có các giải pháp tiếp cận về quản lý môi trường như thực hiện việc
CNS&TTMT, xây dựng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn ISO 14001, nhãn sinh
thái … doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội để mở rộng thị trường cho sản phẩm của
mình.
- Áp dụng CNS&TTMT sẽ giúp cho các doanh nghiệp tuân thủ các luật định về
môi trường một cách dễ dàng hơn, đơn giả
n và rẻ tiền hơn do các chất thải đã
được giảm thiểu ngay tại nguồn phát sinh.
- Cùng với việc áp dụng CNS&TTMT, việc nhận thức được tầm quan trọng của
một môi trường lao động đảm bảo an toàn và trong lành của đội ngũ cán bộ công
nhân viên ngày càng gia tăng. Từ đó họ sẽ có ý thức hơn trong lao động sản xuất
nhằm kiểm soát nguồn gây ô nhiễm, sức khỏe của người lao
động được quan tâm
và cải thiện. Năng suất lao động tăng sẽ tạo ra lợi nhuận và phúc lợi xã hội cao
hơn.


12
II. HIỆN TRẠNG ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ SẠCH VÀ THÂN THIỆN MÔI
TRƯỜNG TRÊN THẾ GIỚI
2.1. Tình hình ô nhiễm không khí do nguồn thải công nghiệp trên thế giới
Chất thải chứa axit, chất phóng xạ và các chất thải từ đốt cháy nguyên liệu hóa
thạch… luôn là những bức xúc về môi trường ở mọi quốc gia.
Từ cuối thập kỷ 60 thế kỷ trước, ảnh hưởng của sản xuất và sử dụng nă
ng lượng
đến môi trường đã gây sự chú ý rộng rãi đối với công chúng. Vấn đề ô nhiễm
môi trường do nhiệt từ các nhà máy điện, sự phá hủy bề mặt ở những khu vực
khai thác than, ô nhiễm không khí, an toàn các lò phản ứng hạt nhân, và xử lý
chất thải phóng xạ luôn thu hút mối quan tâm của cả cộng đồng. Trong đó hai
vấn đề chủ yếu đặc biệt liên quan đến cộng đồng là:
- Ô nhiễ
m axit từ quá trình đốt cháy nhiên liệu hóa thạch.
- Xử lý chất thải phóng xạ từ quá trình sản xuất năng lượng hạt nhân.
Ô nhiễm axit: Thuật ngữ “mưa axit” đã có từ nhiều thập kỷ qua khi ô nhiễm
không khí ở các thành phố, thị trấn công nghiệp do các chất thải có chứa axit làm
ăn mòn bề mặt kim loại, phá hoại hủy nguyên liệu và thực vật. Những vấn đề
trên chỉ được nhận th
ức là nghiêm trọng vào cuối năm 1960.
Ô nhiễm axit liên quan đến SO
2
, NO
x
, hydrocacbon và O
3
. Phạm vi ô nhiễm
không khí có thể gây ảnh hưởng đến hàng trăm kilomet từ nguồn phát thải và có

thể tạo ra quá trình axit hóa đất, sông hồ và trực tiếp ảnh hưởng đến động thực
vật và nhà cửa. Khí SO
2
chủ yếu phát sinh từ quá trình đốt nhiên liệu có hàm
lượng lưu huỳnh cao (than hoặc dầu nặng), trong khi đó phát thải NO
x
tăng lên
chủ yếu từ các phương tiện giao thông và các nhà máy sử dụng năng lượng hóa
thạch. Ozon là một trong những thành phần ô nhiễm không khí quan trọng phát
sinh trong các phản ứng liên quan đến Hydrocacbon và NO
x
.
Ô nhiễm axit không chỉ xảy ra trong phạm vi của từng quốc gia mà nó còn là vấn
đề nguy hiểm mang tính toàn cầu bởi vì những thành phần ô nhiễm có thể vượt
qua biên giới và lan truyền sang các quốc gia khác. Ví dụ nguồn phát thải khí
SO
2
ở các nước châu Âu tương đối lớn, các nguồn phát thải ở Thụy Sỹ đã làm
cho lượng SO
2
ở Thụy Điển tăng lên khoảng 20%. Tương tự đối với vùng Bắc

13
Mỹ, hơn một nửa lượng axit lắng đọng có nguồn gốc từ Mỹ, đây là tình huống đã
gây ra mâu thuẫn giữa Canada và Mỹ
Ô nhiễm axit còn là nguyên nhân gây ra sự ăn mòn các công trình và tượng đài,
phá hoại mùa màng, hệ sinh thái ao hồ, làm chết hoặc mất khả năng sinh sản ở
các loại cá, phá hủy các khu rừng… Mối đe dọa do mưa axit đối với các khu
rừng gây nguy hại đến tình hình kinh tế của một số
nước cũng chính là áp lực lớn

đặt lên vai các chính phủ để triển khai các hành động cho vấn đề này.
Sự phá hủy rừng xảy ra đặc biệt nghiêm trọng đối với các nước Trung và Bắc
Âu. Ở Tây Đức, nơi có độ che phủ rừng là 29% tổng diện tích đất, năm 1984
người ta phát hiện ra rằng khoảng hơn 50% rừng bị phá hủy và 1,5% diện tích
rừng bị chết hoặc bị phá hủy nặng n
ề, nhất là các loại gỗ mềm. Hơn nữa, sự phá
hủy sảy ra nhanh chóng trên phạm vi ngày càng rộng. Ba nguyên nhân chính gây
ra phá hủy rừng là:
- Mưa axit: SO
2
và NO
x
tạo ra mưa axit, điểu này làm thay đổi cấu trúc hóa
học của đất và cây trồng.
- Ozon: Ozon trực tiếp phá hủy lá cây gây mất dinh dưỡng và tăng tính nhạy
cảm cho nấm và sâu tấn công.
- Ảnh hưởng kết hợp của các thành phần ô nhiễm không khí khác nhau và
các yếu tố môi trường tạo ra những phản ứng độc hại.
Ví dụ ở Scandinavia, amoni có thể góp phần vào việc phá hủy rừng. Trong
những năm t
ới, vấn đề ô nhiễm axit có thể con nguy hiểm hơn. Trong khi tổng
phát thải SO
2
hàng năm ở các nước châu Âu trong những năm 1972-1982 không
thay đổi, thì những năm 1980-2002 tổng lượng này ước tính đã tăng lên 30% do
nhu cầu dùng than tăng lên khi chưa tìm ra nguồn năng lượng mới.
Những phương pháp nhằm giảm thiểu tác động của mưa axit tại một điểm (ví dụ
trường hợp dùng vôi để rửa đất thường không thực hiện hiệu quả trên diện rộng.
Giải pháp cho vấn đề
lắng đọng axit phải được triển khai ngay tại các nguồn ô

nhiễm, sự phát thải được kiểm soát. Rất may cho chúng ta hiện nay có nhiều
phương pháp có thể lựa chọn để kiểm soát sự phát thải một cách hiệu quả. Một
câu hỏi kinh tế rất khó trả lời nảy sinh liên quan đến vấn đề lựa chon phương
pháp kiểm soát là : Chi phí kiểm soát là bao nhiêu. Điều này rất khó có thể định

14
lượng toàn bộ khu vực rộng lớn do ô nhiễm axit gây ra. Song không có nghĩa
rằng về quản lý người ta không làm gì và chỉ chờ cho đến khi nghiên cứu những
vấn đề này sáng sủa hơn.
Ví dụ công nghệ quan trọng cho việc kiểm soát ô nhiễm môi trường có hiệu quả
là công nghệ đốt cháy tầng lỏng với tính linh hoạt trong sử dụng nhiên liệu dầu
nặng, than các loại, gỗ, rác thải có khả năng tái sử dụng hoặ
c các chất thải hữu
cơ khác… Tương tự, việc chuyển sang dùng methanol thay thế cho nhiên liệu xe
gắn máy không chỉ làm giảm lượng lớn phát thải NO
x
từ những phương tiện giao
thông này mà còn tăng thêm các lợi ích khác, giảm tổng chi tiêu cho năng lượng.
Thực ra để có được cả lợi ích và chi phí trong việc lựa chọ những công nghệ
kiểm soát ô nhiễm là điều rất khó khăn. Trong thực tế, các nhà khoa học định
chiến lược năng lượng phải cố gắng xác định được những giải pháp và xây dựng
những quy định kiểm soát môi trường sao cho có thể thúc đẩ
y khai thác những
phương pháp tiếp cận môi trường có hiệu quả nhất.
Xử lý chất thải phóng xạ: Chất thải phóng xạ phát sinh từ quá trình sản xuất năng
lượng hạt nhân phải được cách ly với sinh quyển trong hàng nghìn năm, hoặc
thậm chí hàng vạn, hàng chục vạn năm. Bởi vậy, loại chất thải này phải được xử
lý theo những phương pháp đặc biệt, thậm chí phải đảm bả
o an toàn liên tục, với
một xác suất nhỏ dò rỉ chất thải phóng xạ trong thời gian hàng nghìn năm.

Trong thực tế các nhà máy điện nguyên tử đã và đang cung cấp một nguồn năng
lượng quan trọng ở nhiều quốc gia, song kế hoạch bảo quản chất thải có hiệu quả
trong thời gian dài hạn phải quan trọng đã đi sâu vào lĩnh vực xử lý chất thải
phóng xạ, mộ
t số kiến nghị xử lý chất thải phóng xạ đã được triển khai. Tuy
nhiên chưa phù hợp và chưa đảm bảo độ an toàn cao. Từ đó dẫn đến những nhận
thức khiến cho nhiều người tin rằng sự nguy hiểm của năng lượng hạt nhân còn
lớn hơn lợi ích của nó. Vấn đề là lượng chất thải phóng xạ phải được cô lập khỏi
môi trường ho
ặc phải được bảo quản thật an toàn. Không có bất kỳ trở ngại kỹ
thuật nào cho việc cô lập những loại chất thải này với môi trường là không khắc
phục được. Mọi vấn đề xử lý chất thải phải được xem như là những nguyên tắc
về kỹ thuật, công nghệ và phải được giải quyết triệt để.

15
2.2. Hiện trạng và định hướng cho áp dụng công nghệ sạch và thân thiện
môi trường trên thế giơí
Ðối với ngành công nghiệp, giải quyết vấn đề môi trường theo phương pháp
truyền thống là xử lý chất thải cuối đường ống là một giải pháp hoàn toàn không
hợp lý, gây tốn kém cho doanh nghiệp cũng như lãng phí tài nguyên thiên nhiên.
Từ rất sớm, công nghệ sạch và thân thiện môi trường đã được giới thiệu trên thế
gi
ới, đặc biệt trong các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Canada, Hà Lan,
Thụy Điển với mục đích giảm lượng phát thải tại nguồn trong quá trình sản xuất.
Việc phát triển CNS&TTMT kết hợp với các kiến thức về SXSH là cách tiếp cận
chủ động theo hướng “dự đoán và phòng ngừa” ô nhiễm từ các chất thải phát
sinh trong các hoạt động sản xuất công nghiệp.
Một trong những n
ước châu Âu đầu tiên giới thiệu trương trình SXSH áp dụng
CNS&TTMT là Áo (1992), tiếp theo là Đức (1994). Kể từ năm 1994, Chương

trình Phát triển Liên hợp Quốc (UNDP) kết hợp với Tổ chức Phát triển Công
nghiệp Liên Hiệp Quốc (UNIDO) thành lập các trung tâm sản xuất sạch hơn tại
Trung Mỹ, Nam Mỹ, Châu Phi, Châu Á và Châu Âu nhằm giới thiệu phát triển
chương trình SXSH áp dụng CNS&TTMT.
Trong những năm qua CNS&TTMT đã được áp dụng rộng khắp trên thế giới và
đ
ã được chứng minh là một công cụ hữu hiệu để hỗ trợ phát triển bền vững, bởi
các ưu điểm là mang lại cả lợi ích môi trường và lợi ích kinh tế từ cách tiết kiệm
các nguyên nhiên vật liệu đầu vào, giảm thiểu ở mức thấp nhất chất thải và mức
độ độc hại của chất thải đầu ra.
Tại khóa họp hằng năm lầ
n thứ 40 diễn ra tại Kyoto (Nhật Bản) với sự tham dự
của hơn 3.000 đại biểu từ 67 nền kinh tế thành viên, Ngân hàng Phát triển châu
Á (ADB) công bố kế hoạch của Nhật Bản góp 100 triệu USD để ADB lập Quỹ
Năng lượng sạch châu Á nhằm đối phó sự ấm lên của trái đất và Quỹ Tạo điều
kiện thuận lợi cho môi trường đầu tư ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Quỹ Năng lượng sạch đặc biệt lưu ý các nước như Trung Quốc, Ấn Ðộ,
Indonesia, Pakistan, Philippines và Việt Nam. Nhật Bản cam kết tài trợ 2 tỷ USD
cho các chương trình tương tự trong năm năm tới thông qua Ngân hàng Hợp tác
quốc tế (JBIC) thực hiện các dự án phối hợp ADB khuyến khích đầu tư và ngăn

16
chặn sự biến đổi khí hậu. Quyết định của ADB và Nhật Bản được đánh giá là
thiết thực, góp phần thúc đẩy nỗ lực chung của châu Á làm dịu khí hậu, ngăn
chặn sự ấm lên của trái đất.
Một số quốc gia châu Á áp dụng CNS&TTMT vào quá trình sản xuất công
nghiệp nhằm mục đích cải thiện chất lượng môi trường đã thu được những thành
công đáng kể như
trường hợp của nhà máy chế tạo kim loại ở Singapore đẩu tư
180.000USD để chuyển sang áp dụng CNS&TTMT, mỗi năm tiết kiệm được

87.000 USD nên đã thu hồi được vốn chỉ sau hai năm. Nhà máy xi măng PT
Semen Cibinong ở Indonexia đầu tư 375.000 USD để áp dụng CNS, mỗi năm đã
tiết kiệm được 350.000 về năng lượng và nhiên liệu, hoàn vốn chỉ cần hơn một
năm, chưa kể tă
ng năng suất 9%. Ở các Ấn Độ, nhà máy giấy và bột áp dụng
CNS đã giảm được 25% so với thiết bị xử lý cuối đường ống, 35% cho vốn bảo
dưỡng và vận hành, giảm được 20-40% lượng chất ô nhiễm, tiết kiệm
40.000USDv.v
Hiện nay Công nghệ sạch là một vấn đề có ý nghĩa thời sự. Những công
nghệ sạch đang được nhiều nước lựa chọn vì mục tiêu phát tri
ển kinh tế bền
vững. Hàng loạt công ty công nghệ sạch đã và sẽ ra đời, như trong lĩnh vực năng
lượng mặt trời có China's Suntech Power and Silicon Valley's SunPower. Các
công ty vốn mạo hiểm, như ở Silicon Valley cũng đã bắt đầu đầu tư vào lĩnh vực
này, với các công nghệ sử dụng năng lượng mặt trời và pin nhiên liệu.
Trong việc áp dụng CNS&TTMT nhằm mục đích tiết kiệm năng lượng và gi
ảm
thiểu ô nhiễm, kinh nghiệm của thành phố California (Mỹ) trong việc sử dụng
năng lượng mặt trời là một điển hình và có ảnh hưởng sâu sắc. Năm 1977, luật
pháp California đã thông qua mức tín dụng 55% cho năng lượng Mặt trời. Đó là
một khích lệ tài chính duy nhất cho toàn nước Mỹ trong việc sử dụng năng lượng
Mặt trời. Cả các hệ thống sử dụng năng l
ượng Mặt trời tích cực và thụ động,
cũng như các hệ thống sản xuất điện Mặt trời đều được áp dụng mức tín dụng
ban đầu này. Sau đó, năm 1978, mức tín dụng này còn được áp dụng cho cả các
hệ thống lò sưởi nhiệt và năng lượng gió. Ngoài ra còn thêm nhiều văn bản về tài
chính, đào tạo nghề nghiệp và các quyền sử dụng năng lượng Mặ
t trời. Nhiều nơi
trong bang đã thông qua sắc lệnh khuyến khích sử dụng các hệ thống năng lượng


17
Mặt trời bằng cách thiết lập các tiêu chuẩn tối thiểu cho các công trình có sử
dụng hiệu quả nguồn nhiệt Mặt trời. Ở San Diego, một sắc lệnh có hiệu lực vào
năm 1980 đòi hỏi tất cả các khu trung cư mới phải sử dụng các hệ thống sưởi ấm
bằng năng lượng Mặt trời.
Năm 1978, Chương trình thương mại hóa nguồn năng lượng m
ặt trời của
California đã hoàn tất. Nhờ vào việc xóa bỏ tín dụng sử dụng năng lượng Mặt
trời trên toàn bang, ngành công nghiệp năng lượng Mặt trời ở California đã phát
triển nhanh chóng. Cuối năm 1978, ở California đã lắp đặt được hơn 30.000 thiết
bị dùng năng lượng Mặt trời. Ngoài ra hằng trăm cơ sở sản xuất và hàng trăm cơ
sở lắp đặt máy móc thi
ết bị dùng năng lượng Mặt trời bước vào hoạt động kinh
doanh.
Với số dân đứng hàng thứ mười ở Mỹ, California hiện đã có khoảng một phần tư
số dân sử dụng năng lượng Mặt trời. Cuối năm 1978 đã lắp đặt 3000 hệ thống
nóng lạnh dùng năng lượng Mặt trời, một lượng tương đương như vậy đã có
trong cả
nước năm trước đó. Trên cơ sở tốc độ phát triển như vậy, trong hai năm
1981 và 1982, California đã triển khai kế hoạch lắp đặt 150.000 thiết bị nóng
lạnh tại gia đình và 200.000 hệ thống nước nóng dùng năng lượng Mặt trời, tăng
nhiều lần so với năm 1978. Những khu nhà mới phát triển rộng lớn ở Davis, mỗi
khu có hàng trăm căn hộ đang sử dụng ngu
ồn năng lượng Mặt trời, đáp ứng được
50-75% nhu cầu đun nấu. Năm 1985 California thực hiện kế hoạch lắp đặt 1.5
triệu thiết bị dùng năng lượng Mặt trời và giải quyết công ăn việc làm cho
30.000 người lao động trong ngành công nghiệp này. Nếu điều tương tự như vậy
được triển khai trong phạm vi cả nước thì sẽ tương ứng với 15 triệu thi
ết bị nóng
lạnh dùng năng lượng Mặt trời và lao động trong ngành công nghiệp này sẽ là

hơn một phần tư triệu người.
Dùng phép ngoại suy những gì đạt được ở California cho ta kế hoạch phát triển
trong tương lai của cả nước Mỹ, mặc dù có bị ảnh hưởng bởi những nguồn nhiên
liệu khác, ảnh hưởng của khí hậu, kiến trúc các căn hộ, vốn xây dựng, tỷ lệ xây
dựng mới và cả những chính sách thúc đẩy… Nhưng việc sử dụng năng lượng
Mặt trời có thể thực hiện được trên toàn nước Mỹ, và được xem như một trương
trình quốc gia trên diện rộng, năng lượng mặt trời có thể đảm bảo được khoảng

18
20% nhu cầu năng lượng trong cả nước, tương đương với 10 triệu thùng dầu một
ngày vào năm 2000 so với các nguồn năng lượng khác.

Nguồn năng lượng Tương đương với triệu
thùng dầu ngày
1. Thiết bị dùng năng lượng Mặt trời và thiết bị đun
nóng nước (bao gồm cả tích cực và thụ động)`
3
2. Các công nghệ sử dụng tại chỗ khác 2
3. Gỗ và chất thải từ gỗ 3
4. Thủy điện (các trạm lớn) 2
Tổng Cộng 10

Mọi đóng góp của nguồn năng lượng trong công nghệ sạch, kể cả pin quang điện
đều mang lại hiệu quả to lớn. Tuy nhiên trong thời gian ngắn chúng ta vẫn cần
nhiều nỗ lực tập trung vào phổ biến những sang kiến sử dụng năng lượng Mặt
trời tại chỗ.
Còn trong khoảng thời gian dài, các công nghệ thay thế ít có sự thay đổi, thậm
chí còn không rõ ràng trong một số trường h
ợp, như trong trường hợp các vệ tinh
nhân tạo sử dụng năng lượng Mặt trời nếu chứng minh là có tính khả thi. Ở

những lĩnh vực khác như năng lượng nhiệt đại dương, công nghệ khả thi này đầy
triển vọng nhưng lại chưa có gì đảm bảo về quy mô, chi phí, hiệu quả làm việc
và thời gian hoạt động. Còn phải cần tới 10 đến 15 năm nữa cho các nghiên cứ
u
và triển khai các công nghệ mới có thể đưa ra được những ưu tiên cuối cùng và
những khả năng cuối cùng để thực thi các công nghệ mới này. Trong khí đó,
Quốc hội vẫn phải cấp vốn để nghiên cứu các công nghệ như tháp năng lượng,
vệ tinh điện Mặt trời, nhiệt đại dương và các trạm năng lượng sức gió lớn.
Nguồn vốn cơ bản khác còn dành cho nghiên cứ
u phát triển và thương mại hóa
lĩnh vực pin quang điện và trồng rừng phát triển năng lượng. Năm 1990 khi
những rủi ro về một số công nghệ đã được giải quyết, người ta đã thấy được khả
năng cần phải thương mại hóa công nghệ nào.

19
Đầu tư của chính quyền cho việc nghiên cứu và triển khai đã được tăng lên đến
mức trên tỷ đôla so với nghiên cứu và triển khai năng lượng hạt nhân công nghệ
mà tương lai chưa có gì đảm bảo. Tất nhiên sự lựa chọn giữa các khả năng phải
được xem xét theo tiềm năng thị trường và phải được cân nhắc theo mức độ rủi
ro công nghệ.
Mức ưu tiên cao sẽ dành cho nghiên cứ
u phát triển hơn nữa các dự án sử dụng
năng lượng Mặt trời tại chỗ, pin quang điện và trồng rừng phát triển năng lượng;
Mức ưu tiên thấp hơn sẽ dành cho nghiên cứu phát triển các nguồn nhiệt điện
Mặt trời và các trạm năng lượng sức gió lớn; và cuối cùng là mức ưu tiên cho
nghiên cứu phát triển các vệ tinh năng lượng Mặt trời và các dự án s
ản xuất nhiệt
đại dương.
Từ đó, một trương trình hiện thực triển khai năng lượng Mặt trời sẽ bao gồm ba
giai đoạn: Trước hết, trong thời gian ngắn thúc đẩy nhanh việc thương mại hóa

các công nghệ hiện có. Thứ hai, trong vòng 10 năm, nghiên cứu xác định những
công nghệ thay thế mới tốt nhất. Và cuối cùng là thương mại hóa các công nghệ
mới thay thế đã xác định
ở giai đoạn hai và chuyển giao dần trong tương lai. Đó
là hướng đi đúng và hoàn toàn thiết thực.



20
III. ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CNS&TTMT Ở VIỆT NAM
3.1. Tình hình ô nhiễm không khí do các nguồn thải công nghiệp tại Việt
Nam:
Trong thời gian qua, sản xuất công nghiệp của Việt Nam luôn duy trì được tốc
độ tăng trưởng cao, đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp tích cực vào
nhịp độ phát triển kinh tế đất nước. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công
nghiệp bình quân 5 năm 1996 – 2000 đạt 13,9% năm. Trung bình trong 5 nă
m
(2001 – 2005) mức tăng trưởng đạt đến 16% năm, vượt chỉ tiêu do Đại hội Đảng
IX đề ra cho ngành công nghiệp. Cơ cấu kinh tế cả nước sau 5 năm thực hiện
đường lối Đại hội Đảng IX đã có những bước chuyển biến tích cực theo hướng
công nghiệp hóa.
Việt Nam là thành viên của AFTA đã gia nhập Tổ chức Thương mại Quốc tế
(WTO), đây là những cơ hộ
i và cũng là những thách thức đối với ngành công
nghiệp Việt Nam. Trước tình hình này, Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam
tại Đại hội Đảng X năm 2006 cũng đề ra nhiệm vụ và các chỉ tiêu trước mắt cần
đạt được trong phát triển công nghiệp Việt Nam, đó là : Tổng sản phẩm trong
nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp hơn 2,1 lần năm 2000. Trong 5 năm
2006 – 2010, tốc độ tăng trưởng GDP 7,5 – 8% n
ăm và phấn đấu đạt trên 8%

năm. GDP bình quân đầu người năm 2010 theo giá hiện hành đạt khoảng 1.050 -
1.100 USD. Cơ cấu ngành trong GDP năm 2010: khu vực nông nghiệp khoảng
15 – 16%; công nghiệp và xây dựng 43 – 44%; dịch vụ 40 – 41%. Kim ngạch
xuất khẩu tăng 16% năm. Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách đạt 21 – 22%. Vốn
đầu tư toàn xã hội đạt khoảng 40% GDP.
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động công nghiệp nước ta tập trung vào một số
lĩnh vự
c chủ yếu sau: công nghiệp điện, công nghiệp hóa chất, công nghiệp phân
bón, công nghiệp rượu bia, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp luyện kim,
công nghiệp xử lý bề mặt kim loại, công nghiệp cơ khí, công nghiệp vật liệu xây
dựng, công nghiệp dệt, nhuộm, công nghiệp giấy, công nghiệp in, công nghiệp
chế biến gỗ, công nghiệp gương kính… Những khu vực tập trung nhiều nhất các
cơ sở công nghiệp, các khu công nghiệp tậ
p trung là các đô thị lớn như Hà Nội,
Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ.

21
Song song với quá trình tăng trưởng và phát triển, các cơ sở sản xuất công
nghiệp đã trở thành một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường
không khí lớn nhất nước ta.
Ô nhiễm không khí gia tăng do tốc độ công nghiệp hóa mạnh mẽ và đô thị hóa
nhanh chóng. Các chất ô nhiễm không khí là : khí SO
2
, NO
2
, CO, H
2
S, bụi lơ
lửng, chì (Pb) và các chất hữu cơ bay hơi (như hơi xăng dầu), CH
4

phát sinh
trong quá trình khai thác hầm lò. Sự tập trung thái quá các cơ sở công nghiệp
trong các khu vực đô thị lớn của nước ta cũng là nguyên nhân gia tăng những
vấn đề ô nhiễm không khí, vốn đã quá tải bởi khí bụi và tiếng ồn từ các hoạt
động giao thông và sinh hoạt. Nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí của các
ngành công nghiệp chủ yếu là: Sử dụng nguyên liệu từ nhiên liệu than, dầu FO,
dầu dieCNS&TTMTen; Quá trình luyện gang, luyện thép, luyện cốc, luyệ
n hợp
kim feru, sản xuất đất đèn, sản xuất gạch chịu lửa; Công nghiệp hóa chất, Công
nghiệp khai khoáng, Công nghệ chế biến nguyên liệu và sản xuất sản phẩm ( ví
dụ như ngành giấy, dệt nhuộm…)…
Khí thải của các cơ sở công nghiệp phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau, phụ
thuộc vào loại hình sản xuất của doanh nghiệp. Thông thường, khí thải được phát
sinh từ những nguồn sau:
a, Khói thải từ nguồn đốt nhiên liệu: Hầu hết các cơ sở sản xuất công nghiệp đều
sử dụng các loại nguyên liệu có nguồn gốc khác nhau để làm chất đốt nhằm cung
cấp năng lượng cho quá trình vận hành.
b, Các loại khí thải từ dây chuyền công nghệ: Tùy theo loại hình công nghệ của
doanh nghiệp sẽ có các loại khí thải chứa bụi hoặc hơi khí độc tương ứng. Sơ bộ
có thể phân loại các chất gây ô nhiễm không khí tương ứng với các loại ngành
nghề như sau:
- Các chất gây ô nhiễm không khí dạng hạt: Là các chất ô nhiễm lơ lửng trong
không khí như bụi hạt, bụi sương, khói hạt (các phần rắn do thể hơi ngưng tụ
lại);
- Các chất ô nhiễm dạng khí: Là các hợp chất hóa học độc hại, tồn tại ở thể khí
như các loại chất lưu hu
ỳnh, các hợp chất ni tơ, các hợp chất clo, các hợp chất

22
flo, các hợp chất cácbon, các chất khí có nguồn gốc hữu cơ và một số khí thải

đặc trưng khác của các ngành sản xuất dược phẩm, hương liệu, mỹ phẩm
Khí thải gây ô nhiễm môi trường không khí, ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe
con người. Đặc biệt, các hợp chất hóa học độc hại dạng khí có thể làm suy giảm
tầng ôzôn, gây ra hiện tượng hiệu ứng nhà kính, làm nóng dần Trái đấ
t, đe dọa
nghiêm trọng tới môi trường sống của con người
Hiện trạng môi trường không khí ở nước ta cũng không mấy sáng sủa. Theo Báo
cáo hiện trạng môi trường 2000, nồng độ bụi ở các khu dân cư bên cạnh các nhà
máy đều vượt TCCP từ 1,5 đến 3 lần, có trường hợp cá biệt lên tới 5 lần. Nồng
độ ô nhiễm SO2, CO2, NO2 trong không khí ở các đô thị nhìn chung chưa gây ra
ô nhiễm nặng, nhưng nồng độ đ
o được tại các khu dân cư gần một số nhà máy
như Nhà máy xi măng Hải Phòng, cụm công nghiệp Tân Bình (TP. Hồ Chí
Minh) thì lại vượt TCCP từ 1,4 - 2,7 lần. Điều này cho thấy, vấn đề ô nhiễm
dạng khí chủ yếu là do các sơ sở sản xuất công nghiệp gây ra.

3.2. Hiện trạng áp dụng công nghệ sạch và thân thiện môi trường đối với
công nghiệp Việt Nam và định hướng cho tương lai.
Trong những năm qua, đấ
t nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt
được những thành tựu rất quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược 10 năm
phát triển kinh tế - xã hội. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 5 năm (2001-2005)
tăng bình quân 7,5% năm; Công nghiệp và xây dựng liên tục tăng trưởng cao,
giá trị tăng thêm 10,2% năm; cơ cấu sản xuất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh
tranh có bước chuyển bi
ến tích cực. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16% năm,
cao hơn 1,9% năm so với 5 năm trước. Cả nước đã có trên 100 khu công nghiệp,
khu chế xuất, nhiều khu hoạt động có hiệu quả; tỉ lệ ở nông thôn và miền núi
tăng trưởng cao hơn tốc độ trung bình của cả nước. Nông nghiệp tiếp tục phát
triển khá; giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,4% năm. Nă

ng
suất, sản lượng và hàm lượng công nghệ trong sản phẩm nông nghiệp và nuôi
trồng thủy sản tăng đáng kể. Dịch vụ có bước phát triển cả về quy mô, ngành
nghề, thị trường và có tiến bộ về hiệu quả với sự tham gia của nhiều thành phần
kinh tế; giá trị sản xuất của các ngành dịch vụ tăng 7,6% năm.

23
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của ĐCSVN đề ra mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 là “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt
được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự
phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trang kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời
sống vậ
t chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Tạo được nền tảng để đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển kinh tế tri thức, đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”
Nghị quyết cũng đưa ra các chỉ tiêu định hướng cụ thể về kinh tế, xã hội và môi
trường; theo đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh
gấp hơn 2,1 lần năm 2000, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2006-
2010 đạt 7,5-8% năm và phấn đấu đạt trên 8% năm, cơ cấu ngành trong GDP
năm 2010; khu vực nông nghiệp khoảng 15-16%; công nghiệp và xây dựng 43-
44%; dịch vụ 40-41%. Về môi trường, đưa tỉ lệ che phủ rừng vào năm 2010 lên
43-43%; năm 2010, 95% dân cư thành thị và 75% dân cư ở nông thôn được sử
dụng nước sạch; năm 2010, 100% các cơ sở sả
n xuất mới xây dựng phải áp dụng
công nghệ sạch hoặc được trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải;
trên 50% cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường; 100% số đô
thị loại 3 trở lên, 50% số đô thị loại 4 và tất cả các khu công nghiệp, khu chế
xuất có hệ thống xử lý nước thải; 80-90% chất thải rắn, 100% chất th
ải y tế được
thu gom và xử lý đạt tiêu chuẩn.

Để đạt được những mục tiêu đó, ngay từ bây giờ ngành công nghiệp nước ta
phải thực hiện những hướng đi mới phù hợp, trong đó việc áp dụng công nghệ
sạch và thân thiện môi trường trong ngành công nghiệp là một trong những ưu
tiên hàng đầu.
Việt Nam tuy mới bước đầu ứng dụng công nghệ sạch, song cũng đã có một số

kết quả đáng kể, đặc biệt là ngành thuỷ sản và công nghiệp khai thác chế biến.
Nếu như trước kia, các nhà máy chế biến thuỷ sản phải tốn nhiều năng lượng để
sản xuất đá ướp lạnh, thì nay nhờ công nghệ sạch, việc bảo quản không cần tốn
kém như vậy.
Việt Nam cũng đã giới thiệu ra thế giới một số
sản phẩm công nghệ sạch và thân
thiện môi trường đã được phổ biến như sử dụng khí dầu hóa lỏng làm nhiên liệu

24
xe máy của tiến sĩ Bùi Văn Ga, ở Trung tâm Nghiên cứu bảo vệ môi trường, ĐH
Đà Nẵng I, hay công nghệ khử trùng bằng dung dịch điện hoá hoạt tính của tiến
sĩ Nguyễn Hoài Châu, Viện công nghệ Môi trường.
Đối với các doanh nghiệp, đầu tư vào công nghệ sạch và thân thiện môi trường
có nghĩa là hoàn thiện quá trình sản xuất đáp ứng yêu cầu thị trường quốc tế,
đồng thời giảm các tác
động đến môi trường.
Dưới đây chúng tôi xin đưa ra một số ví dụ điển hình do lợi ích của việc áp dụng
CNS&TTMT đem lại cho doanh nghiệp:

3.2.1 Lợi ích trong việc bảo vệ môi trường và tiết kiệm năng lượng:
3.2.1.1. EM – công nghệ sạch cho xử lý rác thải
Theo công ty môi trường đô thị Hà Nội, bình quân lượng chất thải hàng ngày vào
khoảng 2.995 mét khối, trong đó rác thải sinh hoạt chiếm 81%. Thế nhưng l
ượng

rác thải được thu gom này chỉ mới đạt 50-60%, số còn lại bị trút xuống đường
phố, rãnh cống, kênh thoát nước…Xử lý rác thải thế nào cho sạch và hiệu quả,
không gây hại đến môi trường sống là sự trăn trở của nhiều người trước thực
trạng môi trường ở Hà Nội.
EM là tên viết tắt tiếng anh chính là Effective Microorganisms, tức là vi sinh vật
có ích. Đây là chế phẩm do GS.TS Teruo Higa (Nhật) tạo ra, đã
được đưa vào
ứng dụng từ những năm 80. Nó hiệu quả trong việc xử lý chất thải hữu cơ: giảm
mùi hôi, tăng khả năng phân hủy thành mùn, giảm thể tích và có thể sử dụng làm
phân bón hữu cơ. Nước tiết ra từ chất thải hữu cơ đã được xử lý bằng EM không
có mùi hôi và có thể sử dụng như một chất cáy vi sinh vật.
Ở Việt Nam, từ trước
đến nay vẫn sử dụng phổ biến hình thức chôn lấp để xử lý
rác thải. Trong 3 năm gần đây, ở một số bãi rác chôn lấp, người ta áo dụng EM
vào xử lý rác, đem lại hiệu quả nhất định. Đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước:
“Nghiên cứu thử nghiệm và tiếp thu công trình EM trong lĩnh vực nông nghiệp
và vệ sinh môi trường” cho thấy hiệu quả nhiều mặt của chế
phẩm EM đến cây
trồng, vật nuôi và xử lý môi trường. EM đồng thời cũng gợi ra ý tưởng áp dụng
vao xử lý rác hữu cơ ngay trong các hộ gia đình. Quy trình xử lý rất đơn giản:
rác hữu cơ được cho vào thùng chứa hai tầng (một thùng chứa rác và một thùng

×