Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty điện lực i phần 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.43 KB, 62 trang )

Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
LỜI NÓI ĐẦU
Trong kỷ nguyên mới của thời đại, đất nước ta vẫn đang củng cố phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước và tiếp tục mở cửa hội
nhập với nền kinh tế thế giới. Điều đó mang lại cho các doanh nghiệp cơ hội lớn để tự
khẳng định mình nhưng cũng đặt họ trước những thách thức khó khăn. Đứng giữa một
thị trường mà số lượng chủng loại các doanh nghiệp rất phong phú, đa dạng, nếu như
không giữ vững sự ổn định và có những bước chuyển mình về sản xuất kinh doanh thì
việc phá sản hay giải thể doanh nghiệp là khó tránh khỏi.
Vốn là một bộ phận vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự ra đời và
phát triển của một doanh nghiệp. Sử dụng vốn như thế nào để đạt hiệu quả cao là một
vấn đề sống còn đối với mỗi doanh nghiệp Đó là bởi vì có sử dụng vốn có hiệu quả,
doanh nghiệp mới có khả năng bảo toàn và phát triển vốn, mới có khả năng tái đầu tư
sản xuất kinh doanh cả về chiều rộng và chiều sâu, mới khẳng định được vị thế của
mình trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt.
Thấy được tính cấp thiết của vấn đề hiệu quả sử dụng vốn cùng với những kiến
thức thực tế trong thời gian thực tập tại Công ty điện lực I em đã lựa chọn đề tài “
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TẠI CÔNG TY ĐIỆN LỰC I” để làm
chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3 chương sau:
Chương I: Lý luận về vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty điện lực I.
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty điện
lực I.
Tôi xin cảm ơn cô giáo Vũ Thị Yến cùng các cô chú, anh chị trong Công ty điện
lực I đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ VỐN VÀ
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 1
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP.
I. VỐN VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VỐN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP.


1. Tổng quan về vốn của doanh nghiệp.
1.1. Tổng quan về doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là một chủ thể kinh tế độc lập, có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh - tức là thực
hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích tối đa hoá lợi
nhuận, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp và mục tiêu tăng trưởng, phát triển.
Doanh nghiệp là một cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân. Có
nhiều hoạt động kinh tế chỉ có thể thực hiện bởi các doanh nghiệp chứ không phải các
cá nhân. Bởi vậy sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp là hết sức quan trọng đối
với một nền kinh tế.
Các nguồn lực trong một nền kinh tế là hữu hạn nên khi nền kinh tế đạt đến sản
lượng tiềm năng, muốn tăng sản lượng của sản phẩm này thì phải giảm sản lượng của
sản phẩm khác. Một doanh nghiệp cũng có giới hạn khả năng sản xuất của nó vì các
nguồn lực đối với một doanh nghiệp cũng là hữu hạn. Mặt khác, doanh nghiệp muốn
tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường mà đặc điểm cơ bản của nó là sự cạnh
tranh gay gắt của nhiều loại hình doanh nghiệp và thành phần kinh tế khác nhau, thì
đòi hỏi nó phải thích ứng được trong môi trường cạnh tranh. Do đó, tất cả các doanh
nghiệp đều phải đối mặt với 3 vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất kinh doanh cái gì? sản
xuất kinh doanh như thế nào? và sản xuất kinh doanh cho ai?. Chỉ có trả lời được 3 câu
hỏi trên thì từ đó doanh nghiệp mới có thể tìm ra phương án sản xuất kinh doanh phù
hợp, để có thể tồn tại, thích ứng được với môi trường kinh tế dưới áp lực cạnh tranh
gay gắt trong điều kiện nguồn lực là hữu hạn, và có thể tìm kiếm được lợi nhuận cao
nhất, nhằm tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu.
Thứ nhất, sản xuất kinh doanh cái gì? Bao gồm một số vấn đề như sản xuất kinh
doanh hàng hoá dịch vụ nào, số lượng là bao nhiêu, chất lượng như thế nào và thời
gian cụ thể nào? Nhu cầu của thị trường về hàng hoá rất phong phú, đa dạng và ngày
một tăng cả về số lượng và chất lượng. Nhưng thực tế nguồn khả năng đáp ứng lại là
hữu hạn, nên doanh nghiệp phải lựa chọn nên sản xuất kinh doanh những mặt hàng gì

Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 2
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
là có lợi nhất. Căn cứ vào nhu cầu của thị trường, các doanh nghiệp tính toán các chi
phí sản xuất kinh doanh tương ứng để lựa chọn và quyết định sản xuất cái mà thị
trường cần, nhằm đem lại lợi nhuận tối đa. Việc lựa chọn để quyết định sản xuất kinh
doanh cái gì phụ thuộc phần lớn vào quan hệ cung cầu, giá cả và cạnh tranh trên thị
trường. Sự tương tác giữa cung, cầu và cạnh tranh trên thị trường sẽ hình thành giá cả
thị trường. Giá cả thị trường là bàn tay vô hình giúp doanh nghiệp lựa chọn nên sản
xuất kinh doanh cái gì.
Thứ hai, sản xuất kinh doanh như thế nào? Bao gồm các vấn đề như lựa chọn
công nghệ sản xuất nào, lựa chọn các yếu tố đầu vào và phương pháp tổ chức sản xuất
nào. Khi đã lựa chọn được sản xuất kinh doanh cái gì, các doanh nghiệp phải lựa chọn
việc sản xuất kinh doanh những hàng hoá đó như thế nào để cạnh tranh thắng lợi trên
thị trường. Động cơ lợi nhuận đã khuyến khích các doanh nghiệp tìm kiếm phương
pháp sản xuất tốt nhất và các đầu vào với chi phí thấp nhất. Nói một cách khác là phải
lựa chọn sản xuất kinh doanh như thế nào sao cho đạt được lợi nhuận cao nhất. Để
cạnh tranh thắng lợi trên thị trường, các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới kỹ thuật
và công nghệ, nâng cao trình độ tay nghề của công nhân và các cán bộ quản lý nhằm
nâng cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng hàng hoá là vấn đề có ý nghĩa quyết định
trong cạnh tranh, đảm bảo chữ tín của doanh nghiệp, chiếm lĩnh được thị trường.
Thứ ba, sản xuất kinh doanh cho ai? Bao gồm việc xác định rõ ai sẽ là người tiêu
dùng những hàng hoá và dịch vụ doanh nghiệp sản xuất ra. Hàng hoá và dịch vụ sản
xuất ra thì phải có người tiêu dùng chúng, có như vậy mới đảm bảo cho doanh nghiệp
thu được lợi nhuận cao và ổn định. Với những mối quan hệ cung cầu thường xuyên
thay đổi, doanh nghiệp phải tìm ra lời giải của mình cho bài toán: khách hàng của
mình là ai, nhu cầu của họ là gì để từ đó có những chiến lược chiếm lĩnh và mở rộng
thị trường thích hợp. Để đưa hàng hoá đến được tay người tiêu dùng trong nền kinh tế
thị trường cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp phải tích cực sử dụng nhiều biện pháp
công cụ như quảng cáo giới thiệu sản phẩm, tiếp thị, khuyến mại… để khách hàng biết
đến và có thể tiếp với sản phẩm của doanh nghiệp.

Để trả lời 3 câu hỏi này, doanh nghiệp cần dựa vào rất nhiều nhân tố chủ quan
cũng như khách quan tác động đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của nó.
Các nhân tố chủ quan như tình hình tài chính doanh nghiệp, trình độ sản xuất kinh
doanh… Các nhân tố khách quan như môi trường kinh doanh, nhu cầu thị trường,
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 3
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
phong tục tập quán… Mỗi một nhân tố đều đóng một vai trò nhất định và có ảnh
hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Các quan hệ tài chính doanh nghiệp được thể hiện trong tất cả các quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, hoạt động tài chính doanh nghiệp là một
trong những nhân tố cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường. Hoạt động tài chính doanh nghiệp trả lời các câu hỏi chính sau
đây:
Thứ nhất là đầu tư như thế nào cho phù hợp với hình thức kinh doanh đã chọn,
nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp?
Thứ hai là nguồn vốn tài trợ được huy động ở đâu, vào thời điểm nào, với một cơ
cấu vốn tối ưu và chi phí vốn thấp nhất?
Thứ ba là lợi nhuận của doanh nghiệp được sử dụng như thế nào?
Thứ tư là phân tích, đánh giá, kiểm tra các hoạt động tài chính như thế nào, để
thường xuyên đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính?
Thứ năm là quản lý các hoạt động tài chính ngắn hạn như thế nào để đưa ra các
quyết định thu chi phù hợp?
Các câu hỏi trên đây chưa phải là tất cả mọi vấn đề của hoạt động tài chính doanh
nghiệp, nhưng đó là những câu hỏi quan trọng nhất liên quan tới cách thức tổ chức
quản lý tài chính doanh nghiệp.
Vốn là một nhân tố cần thiết cho sản xuất kinh doanh, cũng là một nhân tố cơ bản
của tài chính doanh nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp muốn thành lập và sản xuất kinh
doanh đều phải có vốn. Sử dụng vốn sao cho có hiệu quả quyết định đến sự thành bại
của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, là điều kiện để các doanh nghiệp tồn tại
và đứng vững trong cạnh tranh.

1.2. Khái niệm và phân loại vốn của doanh nghiệp.
1.2.1. Khái niệm về vốn.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất kinh doanh, điều trước tiên
là phải có một lượng vốn nhất định để thực hiện những khoản đầu tư ban đầu cho việc
xây dựng nhà xưởng, mua sắm nguyên nhiên vật liệu, trả công, trả lãi suất và nộp thuế
hoặc mua sắm thiết bị mới, mở rộng doanh nghiệp nhằm đáp ứng được sự tăng trưởng
của doanh nghiệp. Có thể nói “Toàn bộ giá trị ứng ra cho quá trình sản xuất kinh
doanh được gọi là vốn”. Theo quan điểm của Mác vốn là yếu tố đầu vào của quá trình
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 4
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
sản xuất, là giá trị tạo ra giá trị thặng dư. Các loại hình doanh nghiệp khác nhau thì
lượng vốn sản xuất kinh doanh cũng khác nhau.
Trong cơ chế thị trường, mục đích kinh doanh của doanh nghiệp là sản xuất, trao
đổi hàng hoá và trao đổi hàng hoá dịch vụ với các đơn vị kinh tế khác nhằm tối đa hoá
lợi nhuận. Để thực hiện được các hoạt động này doanh nghiệp phải có một lượng vốn
sản xuất kinh doanh nhất địn, có rất nhiều chủng loại, có các hình thái vật chất, có các
quy mô khác nhau nằm rải rác khắp nơi theo phạm vi mạng lưới hoạt động sản xuất
kinh doanh của toàn doanh nghiệp. Trên ý nghĩa đó có thể coi vốn sản xuất kinh doanh
là tiền đề của mọi quá trình đầu tư và sản xuất kinh doanh. Vốn sản xuất kinh doanh là
một quỹ tiền tệ đặc biệt, phản ánh tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Trong điều
kiện tồn tại một nền sản xuất hàng hoá - tiền tệ, vốn sản xuất kinh doanh được biểu
hiện dưới hai hình thức hiện vật và giá trị, và có những đặc trưng sau đây:
- Vốn được biểu hiện bằng giá trị của toàn bộ tài sản thuộc quyền quản lý và sử
dụng của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định, là lượng giá trị thực của tài
sản hữu hình và vô hình.
- Vốn được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy
được tác dụng. Để đầu tư sản xuất kinh doanh, vốn được tích tụ thành một món tiền
lớn tới một mức tối thiểu ít nhất phải bằng vốn pháp định mà Nhà nước đã quy định
cho mỗi ngành, nghề, lĩnh vực hoạt động. Các nhà quản lý, các nhà đầu tư không chỉ
khai thác mọi tiềm năng vốn của doanh nghiệp mà phải cân nhắc, tính toán tìm cách

chọn nguồn huy động đủ đảm bảo yêu cầu của sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu
quả kinh tế của đồng vốn.
- Tiền tệ là hình thái vốn ban đầu của doanh nghiệp, nhưng chưa hẳn có tiền là có
vốn. Tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn. Để biến thành vốn thì tiền phải được đưa vào
sản xuất kinh doanh để sinh lời. Đồng vốn phải không ngừng được bảo toàn, bổ sung,
và phát triển sau mỗi quá trình vận động để thực hiện việc tái sản xuất giản đơn và mở
rộng của doanh nghiệp.
- Vốn có giá trị về mặt thời gian, điều này có nghĩa là phải xem xét yếu tố thời
gian của đồng vốn. Trong nền kinh tế thị trường, dưới các yếu tố tác động của nền kinh
tế như lạm phát, các yếu tố chính trị thì “đồng tiền ngày nay khác với đồng tiền ngày
mai”, có nghĩa là nó có giá trị về mặt thời gian.
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 5
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
- Mỗi đồng vốn phải gắn với một chủ sở hữu nhất định. Bởi lẽ ở đâu còn có
những đồng vốn vô chủ thì ở đó sẽ có sự chi tiêu lãng phí, thất thoát và kém hiệu quả.
- Vốn là một thứ hàng hoá đặc biệt, chỉ bán quyền sử dụng. Người mua được
quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định và phải trả cho việc được quyền sử
dụng vốn trong thời gian ấy.
1.2.2. Phân loại vốn.
Như ta đã biết, vốn là cơ sở hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc phân loại vốn sẽ giúp doanh nghiệp đề ra các biện pháp quản lý và sử dụng sao
cho có hiệu quả. Trên góc độ lý thuyết cũng như thực tế, người ta thường phân loại
vốn theo nhiều tiêu thức khác nhau.
1.2.2.1. Phân loại vốn theo nguồn hình thành.
Vốn của doanh nghiệp xét từ nguồn hình thành có thể chia làm hai loại: nguồn
chủ sở hữu và các khoản nợ phải trả.
- Nguồn vốn chủ sở hữu: là phần vốn thuộc quyền sở hữu của của chủ doanh
nghiệp và các thành viên trong công ty liên doanh hoặc các cổ đông trong công ty cổ
phần. Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm vốn điều lệ; vốn do Nhà nước tài trợ
(nếu có); các khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản; khoản chênh lệch giá; các quỹ;

lãi chưa phân phối và các loại vốn khác theo quy định của pháp luật. Đối với mọi loại
hình doanh nghiệp thì vốn chủ sở hữu được hình thành chủ yếu từ các nguồn: vốn góp
ban đầu của các chủ sở hữu, lợi nhuận không chia, tăng vốn bằng cách phát hành cổ
phiếu. Đối với các công ty cổ phần thì vốn chủ sở hữu còn được gọi là vốn cổ phần.
- Nợ phải trả: Là những khoản nợ phát sinh trong suốt quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nó được hình thành từ việc đi vay các ngân hàng, các tổ
chức tín dụng hoặc các tác nhân kinh tế khác, hoặc cũng có thể sử dụng các loại tín
dụng thương mại... Doanh nghiệp muốn sản xuất kinh doanh nhưng vốn chủ sở hữu
không đủ để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, khi đó doanh nghiệp có thể tăng
vốn bằng cách đi vay. Tuy nhiên cùng với việc sử dụng các khoản vay để phục vụ cho
sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải trả một khoản phí cho các khoản nợ đó,
thường gọi là lãi vay. Doanh nghiệp phải tính toán sao cho trả được cả nợ gốc và lãi
vay đúng hạn, đảm bảo uy tín của doanh nghiệp.
Vốn chủ sở hữu và nợ vay được phân biệt với nhau qua bảng (1.1).
Bảng 1.1. Phân biệt chủ yếu giữa vốn của chủ và các khoản nợ phải trả
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 6
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
Nguồn hình thành vốn của doanh nghiệp
Vốn chủ sở hữu Nợ phải trả
1. Là vốn do các chủ sở hữu của
doanh nghiệp tài trợ.
1. Những người tài trợ cho doanh
nghiệp không phải là các chủ sở hữu
của doanh nghiệp
2. Không phải trả lãi cho vốn đã huy
động được mà lợi tức sẽ thuộc về chủ
sở hữu hoặc chia lợi tức cổ phần cho
các chủ sở hữu.
2. Phải trả lãi cho những khoản tiền đã
vay.

3. Trừ phần ưu tiên lợi tức cổ phần
chia cho các cổ đông tuỳ thuộc vào
quyết định của hội đồng quản trị và
nó thay đổi theo mức lợi nhuận mà
công ty có được.
3. Mức lãi suất phải trả cho các khoản
nợ vay thường là theo một mức ổn
định được thoả thuận khi vay.
4. Doanh nghiệp không phải hoàn trả
những khoản tiền đã huy động được
trừ khi doanh nghiệp đóng cửa thì các
tài sản được chia cho các chủ sở hữu.
(Trường hợp này không áp dụng đối
với cổ phần ưu đãi có thời hạn đáo
hạn cố định.)
4. Có thời hạn, hết thời hạn doanh
nghiệp phải hoàn trả nợ cho chủ nợ
hoặc gia hạn mới.
5. Doanh nghiệp không phải thế chấp
tài sản hay nhờ bảo lãnh.
5. Công ty có thể phải thế chấp bằng
các loại tài sản hay nhờ bảo lãnh.
6. Cổ tức không được tính trong chi
phí hợp lý khi tính thuế thu nhập mà
lấy từ lợi nhuận sau thuế để trả.
6. Lãi suất phải trả cho nợ vay được
tính trong chi phí hợp lý khi tính thuế
thu nhập.
Phân loại theo cách thức này giúp doanh nghiệp nắm vững tình hình tài chính của
mình, xác định được cơ cấu vốn và chi phí vốn đi đôi với cơ cấu vốn đó, từ đó có thể

xác định được cơ cấu vốn thích hợp nhất trong từng thời kỳ để tối đa hoá lợi nhuận và
giá trị tài sản của chủ sở hữu. Mặt khác, nó cũng giúp chủ doanh nghiệp xác định được
trách nhiệm của mình trong việc thanh toán nợ vay đầy đủ và đúng hạn, đảm bảo uy
tín cho doanh nghiệp trên thị trường.
1.2.2.2. Phân loại vốn theo hình thức chu chuyển.
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 7
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một quá trình các chu kỳ
được lặp đi lặp lại, với mỗi chu kỳ được chia làm các giai đoạn: chuẩn bị sản xuất - sản
xuất - tiêu thụ sản phẩm. Trong mỗi giai đoạn của chu kỳ sản xuất kinh doanh vốn
được luân chuyển và tuần hoàn khồn ngừng. Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển từng
loại vốn trong các giai đoạn của chu kỳ sản xuất kinh doanh, người ta chia vốn làm hai
loại: Vốn cố định và vốn lưu động.
- Vốn cố định:
Muốn tiến hành sản xuất kinh doanh, trước hết mọi doanh nghiệp phải có tư liệu
lao động. Tư liệu lao động có nhiều loại như máy móc, thiết bị, nhà xưởng, phương
tiện vận tải, các công trình kiến trúc v.v… Tư liệu lao động chủ yếu được tham gia
một cách trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh. Công dụng của mỗi loại tư liệu
lao động không giống nhau nhưng chúng đều có tính chất chung là giữ vai trò làm môi
giới trong quá trình lao động, khiến lao động của người sản xuất kết hợp với đối tượng
lao động.
Trong nền sản xuất hàng hoá, việc mua sắm quản lý tư liệu lao động phải dùng
tiền tệ. Vì vậy mỗi doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh phải ứng trước
một số tiền vốn nhất định về tư liệu lao động. Số vốn này được luân chuyển theo mức
hao mòn dần của tư liệu lao động. Khi tham gia quá trình lao động, tư liệu sản xuất
vẫn giữ nguyên hình thái ban đầu nhưng có thể tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất
kinh doanh; trong thời gian sử dụng chúng bị hao mòn dần. Đến khi nào chúng hư
hỏng hoàn toàn hoặc xét thấy không có lợi về mặt kinh tế nữa thì mới cần đổi mới. Vì
vậy, giá trị của tư liệu lao động cũng tuỳ theo mức độ hao mòn về mặt vật chất được
chuyển dịch dần dần vào sản phẩm mới. Bộ phận giá trị chuyển dịch của tư liệu lao

động vào sản phẩm mới hợp thành một yếu tố chi phí sản xuất của doanh nghiệp và
được bù đắp mỗi khi giá trị của sản phẩm được thực hiện. Vì có đặc điểm trong quá
trình luân chuyển, hình thái vật chất của tư liệu lao động cố định, còn giá trị thì luân
chuyển dần cho nên bộ phận vốn ứng trước này gọi là vốn cố định. Khi tham gia quá
trình sản xuất kinh doanh sự vận động của vốn cố định gắn liền với sự vận động của
hình thái biểu hiện của nó - được gọi là tài sản cố định (TSCĐ).
Từ sự phân tích trên có thể nêu khái niệm về vốn cố định như sau: Vốn cố định
của doanh nghiệp là số vốn ứng trước về những tư liệu lao động chủ yếu mà đặc điểm
của nó là luân chuyển dần dần từng bộ phận giá trị vào sản phẩm mới cho đến khi tư
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 8
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
liệu lao động hết thời hạn sử dụng thì vốn cố định mới hoàn thành một lần luân chuyển
(hoặc hoàn thành một vòng tuần hoàn).
Vốn cố định phản ánh bằng tiền bộ phận tư liệu lao động chủ yếu của doanh
nghiệp. Như chúng ta đã biết, tư liệu lao động lại là cơ sở vật chất của nền sản xuất xã
hội, vì vậy vốn cố định có tác dụng rất lớn đối với việc phát triển nền sản xuất xã hội.
TSCĐ và vốn cố định của doanh nghiệp có sự khác nhau ở chỗ là: TSCĐ thực
chất là hình thái biểu hiện bằng hiện vật của vốn cố định. Lúc mới hoạt động, doanh
nghiệp có vốn cố định giá trị bằng giá trị nguyên thủy của TSCĐ. Về sau giá trị của
vốn cố định thường nhỏ hơn giá trị nguyên thủy của TSCĐ do khoản khấu hao đã
trích.
Tư liệu lao động của doanh nghiệp bao gồm rất nhiều chủng loại, thời hạn sử
dụng ngắn dài khác nhau, giá trị cao thấp cũng không giống nhau. Để đáp ứng kịp thời
nhu cầu của sản xuất kinh doanh, để đơn giản thủ tục quản lý, đối với các doanh
nghiệp Nhà nước, theo chế độ hiện hành ở nước ta , những tư liệu lao động có đủ hai
điều kiện sau đây mới được coi là TSCĐ:
Một là, phải có giá trị tối thiểu ở một mức nhất định. Mức giá trị này thường
xuyên được điều chỉnh cho thích hợp với tình hình kinh tế của đất nước. Ở nước ta
hiện nay, quy định giới hạn từ 5.000.000 đồng trở lên.
Hai là, phải có thời gian sử dụng tối thiểu từ 01 năm trở lên.

Những tư liệu lao động nào không đủ một trong hai điều kiện trên sẽ được coi là
công cụ lao động nhỏ. Việc mua sắm và dự trữ được giải quyết bằng nguồn vốn lưu
động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong thực tế, việc xem xét tính chất và nhận biết
TSCĐ rất phức tạp, còn phải dựa vào tính chất và công dụng của chúng trong quá trình
sản xuất kinh doanh. Một số tư liệu lao động riêng lẻ không đủ các tính chất trên song
lại được tập hợp đồng bộ như một hệ thống thì hệ thống đó cũng được coi là TSCĐ.
Một số chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra cho hoạt động của mình như: chi phí thành
lập doanh nghiệp, chi phí mua bằng phát minh sáng chế, mua bản quyền…thoả mãn cả
hai điều kiện trên nhưng không hình thành TSCĐ có hình thái hiện vật thì sẽ hình
thành TSCĐ không có hình thái hiện vật hay còn gọi là TSCĐ vô hình. Loại tài sản
không có hình thái hiện vật chuyển dịch vào sản phẩm cũng tương tự như loại tài sản
có hình thái hiện vật.
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 9
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vốn cố định
một mặt được giảm dần do trích khấu hao và thanh lý TSCĐ, mặt khác lại tăng thêm
do giá trị đầu tư cơ bản đã hoàn thành. Như vậy giá trị của vốn cố định sẽ được thay
đổi một cách dần dần: giảm phần giá trị TSCĐ đã chuyển dịch vào sản phẩm hoàn
thành và tăng thêm các chi phí đầu tư xây dựng cơ bản và sửa chữa lớn.
Trong quá trình luân chuyển, hình thái hiện vật của vốn cố định vẫn giữ nguyên
(đối với loại TSCĐ hữu hình), nhưng hình thái giá trị của nó lại thông qua hình thức
khấu hao chuyển dần từng bộ phận thành quỹ khấu hao. Vì vậy, việc quản lý vốn cố
định đòi hỏi doanh nghiệp một mặt phải đảm bảo cho TSCĐ của doanh nghiệp được
toàn vẹn và nâng cao hiệu quả sử dụng của nó; mặt khác phải tính toán chính xác việc
trích lập quỹ khấu hao, phân phối và sử dụng quỹ khấu hao để thực hiện tái sản xuất tài
sản cố định.
- Vốn lưu động:
Muốn tiến hành sản xuất kinh doanh, ngoài tư liệu lao động, các doanh nghiệp
còn phải có đối tượng lao động và sức lao động. Trong nền sản xuất hàng hoá, các
doanh nghiệp phải dùng tiền để mua sắm đối tượng lao động và trả lương cho công

nhân viên, do đó phải ứng trước một số vốn cho mục đích này.
Đối tượng lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh không giữ
nguyên hình thái vật chất ban đầu, bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ thông
qua quá trình chế biến hợp thành thực thể của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hao phí mất
đi trong quá trình sản xuất, đến chu kỳ sản xuất sau lại phải có loại đối tượng lao động
khác. Do những đặc điểm trên, giá trị của đối tượng lao động được chuyển dịch toàn
bộ ngay một lần vào sản phẩm mới và được bù lại khi giá trị sản phẩm được thực hiện.
Đối tượng lao động trong doanh nghiệp được biểu hiện thành hai bộ phận là
những vật tư dự trữ đang trong quá trình chế biến. Hai bộ phận này từ hình thái hiện
vật của nó gọi là tài sản lưu động. Tài sản lưu động phục vụ trực tiếp cho quá trình sản
xuất gọi là tài sản lưu động sản xuất.
Mặt khác doanh nghiệp sau khi sản xuất ra sản phẩm không thể chuyển bán ngay
cho đơn vị mua mà phải làm một số công việc như chọn lọc, đóng gói, tích lũy thành
lô hàng, thanh toán với khách hàng… nên hình thành một số khoản vật tư và tiền tệ
(thành phẩm, vốn bằng tiền, khoản phải trả…). Những khoản vật tư phát sinh trong
quá trình lưu thông gọi là tài sản lưu thông.
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 10
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
Do tính chất liên tục của quá trình sản xuất dẫn đến sự cần thiết doanh nghiệp nào
cũng phải có một số vốn thoả đáng để mua sắm các tài sản lưu động sản xuất và tài sản
lưu thông. Tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông thay thế nhau vận động
không ngừng để quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thuận lợi. Trong điều
kiện nền kinh tế hàng hoá tồn tại, các loại tài sản kể trên biểu hiện dưới hình thái tiền
tệ. Số tiền ứng trước về những tài sản đó được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp.
Từ những phân tích trên, ta có thể định nghĩa vốn lưu động là số vốn ứng trước về
tài sản lưu động, đặc điểm cơ bản của vốn lưu động là luân chuyển toàn bộ giá trị ngay
trong một lần vào sản phẩm mới, tuần hoàn liên tục và hoàn thành một vòng tuần hoàn
sau một chu kỳ sản xuất.
Như vậy, vốn lưu động của doanh nghiệp là vốn ứng trước về đối tượng lao động
và tiền lương tồn tại dưới các hình thái nguyên vật liệu dự trữ, sản phẩm đang chế tạo,

thành phẩm, hàng hoá và tiền tệ hoặc là số vốn ứng trước về tài sản lưu động sản xuất
và tài sản lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được
thường xuyên, liên tục.
Trong quá trình tái sản xuất, vốn lưu động luôn chuyển hoá từ giai đoạn này sang
giai đoạn khác. Một vòng tuần hoàn của nó bao gồm ba giai đoạn:
•Giai đoạn đầu tiên của vòng tuần hoàn (T - H) là quá trình cung ứng vật tư kỹ
thuật được thực hiện thông qua hình thức tiền tệ. Để đảm bảo cho quá trình sản xuất
một cách có kế hoạch, doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn tiền tệ đủ để mua sắm và
dự trữ một khối lượng vật tư cần thiết.
•Giai đoạn thứ hai của vòng tuần hoàn (H…SX…H’) là giai đoạn sản xuất. Nhờ
sự kết hợp với sức lao động, toàn bộ giá trị của tài sản lưu động đã chuyển dịch vào
sản phẩm hoàn thành.
•Giai đoạn thứ ba của vòng tuần hoàn (H’ - T’) là giai đoạn lưu thông. Trong giai
đoạn này giá trị của các tài sản được chuyển về hình thái tiền tệ ban đầu.
Do có sự chuyển hoá không ngừng nên vốn lưu động thường xuyên có các bộ
phận tồn tại cùng một lúc dưới các hình thái khác nhau trong lĩnh vực sản xuất lưu
thông như những vật tư dự trữ, nguyên nhiên vật liệu, vật bao bì, vật rẻ tiền mau hỏng,
sản phẩm dở dang, chi phí chờ phân bổ, thành phẩm trong kho, vốn trong thanh toán,
vốn tiền tệ trên tài khoản ở ngân hàng và tại quỹ của doanh nghiệp.
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 11
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình sản xuất
kinh doanh. Do đặc điểm tuần hoàn của vốn lưu động trong cùng một lúc nó phân bổ
trên khắp các giai đoạn luân chuyển và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Để tổ
chức hợp lý sự tuần hoàn của các tài sản ở doanh nghiệp, để quá trình sản xuất kinh
doanh được liên tục, doanh nghiệp phải có đủ vốn để đầu tư vào các hình thái khác
nhau nêu trên khiến cho chúng có được mức tồn tại hợp lý và đồng bộ với nhau, nếu
không, quá trình sản xuất kinh doanh sẽ gặp nhiều khó khăn.
2. Tầm quan trọng của vốn đối với doanh nghiệp.
Vốn là điều kiện đầu tiên và không thể thiếu được khi thành lập một doanh

nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Bất kỳ một doanh nghiệp nào
muốn thành lập trước hết cũng phải có một lượng vốn nhất định. Không có vốn, doanh
nghiệp không thể thành lập được và cũng sẽ không có bất kỳ một hoạt động sản xuất
kinh doanh nào. Trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là nhân tố tiền đề quyết
định đến sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp muốn thành lập, tiến hành sản xuất kinh doanh phải được sự đồng
ý của pháp luật. Pháp luật qui định số vốn tối mà chủ sở hữu doanh nghiệp phải có
được thì mới đủ điều kiện để thành lập doanh nghiệp và đăng ký sản xuất kinh doanh,
đó là số vốn tối thiểu mà doanh nghiệp phải có đủ để có thể tồn tại theo đúng pháp
luật, thường được gọi là vốn pháp định. Nếu trong quá trình sản xuất kinh doanh,
doanh nghiệp bị thua lỗ, số vốn của nó giảm xuống nhỏ hơn vốn pháp định thì doanh
nghiệp đó phải tuyên bố phá sản. Vốn chính là điều kiện để đảm bảo tư cách pháp
nhân của doanh nghiệp trước pháp luật.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp nào cũng cần phải có một lượng
vốn tối thiểu để đầu tư mua sắm thiết bị, nhà xưởng, mua nguyên vật liệu, trả lương
nhân công, nộp thuế… hoặc tái sản xuất mở rộng. Không có vốn thì cũng sẽ không có
một hoạt động sản xuất kinh doanh nào có thể tiến hành được. Mặt khác nó không chỉ
cần cho sự hình thành mà còn đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp được liên tục. Sau khi đáp ứng được các yêu cầu về vốn và công nghệ để bắt
đầu quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động liên tục khi yếu
tố vốn được đảm bảo. Khi mà quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục sẽ tránh cho
doanh nghiệp gặp phải những khó khăn trong sản xuất cũng như tiêu thụ như sản phẩm
không hoàn thành đúng thời hạn cần thiết, giao hàng không đúng hẹn, sản phẩm thiếu
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 12
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
chất lượng, thiếu mặt hàng để bán… làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
trên thị trường.
Mục tiêu của hầu hết các doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường là tiến
hành sản xuất kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận, tối đa hoá giá trị tài sản của chủ
sở hữu. Muốn vậy, doanh nghiệp phải có chỗ đứng trên thị trường. Hiện nay, trong

điều kiện các tiến bộ khoa học công nghệ phát triển hết sức mạnh mẽ, sự cạnh tranh
trên thị trường cũng hết sức gay gắt, thường xuyên có sự gia nhập của các doanh
nghiệp mới, thường xuyên có những đòi hỏi mới từ phía khách hàng. Phát triển sản
xuất kinh doanh là yêu cầu của mọi doanh nghiệp muốn tồn tại vững chắc trong nền
kinh tế thị trường. Doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất kinh theo nhiều hướng như
tăng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường… Nhưng dù có theo hướng nào doanh nghiệp cũng cần phải có vốn: vốn để
mua thêm nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên vật liêu, để thuê nhân công mới; vốn
để đầu tư nghiên cứu hay mua công nghệ; vốn để đào tạo nâng cao tay nghề của cán bộ
công nhân viên…
Như vậy, vốn là nhân tố không thể thiếu được ở mọi giai đoạn của quá trình sản
xuất kinh doanh cũng như trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Các nhà kinh tế học đã chỉ ra rằng: muốn có sự tăng trưởng của nền kinh tế cũng như
cũng như của từng doanh nghiệp, phải có vốn tiết kiệm dưới dạng tài sản tài chính và
được sử dụng vào đầu tư. Tuy nhiên, điều mà mọi doanh nghiệp quan tâm không chỉ
dừng lại ở việc có được vốn để đầu tư hay mở rộng sản xuất kinh doanh mà còn là sử
dụng vốn đó sao cho có hiệu quả để đạt được mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình.
II. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP.
1. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Hiệu quả theo một cách chung nhất được hiểu là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh
mối quan hệ giữa kết quả đầu ra và chi phí đầu vào. Nếu chi phí bỏ ra càng ít, kết quả
mang lại càng nhiều có nghĩa là hiệu quả càng cao và ngược lại.
Hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình
độ, năng lực khai thác và sử dụng vốn và tài sản của doanh nghiệp vào hoạt động sản
xuất, kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích và tối thiểu hoá chi phí.
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 13
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
Trong nền kinh tế thị trường tính hiệu quả trong việc sử dụng vốn của doanh
nghiệp được thể hiện trên hai khía cạnh sau:
Thứ nhất, với số vốn hiện có doanh nghiệp có thể sản xuất được một số lượng sản

phẩm là bao nhiêu, chất lượng như thế nào và giá thành là bao nhiêu?
Thứ hai, vốn đầu tư thêm có đáp ứng được yêu cầu mở rộng qui mô sản xuất để
tăng doanh số tiêu thụ không? Tốc độ tăng lợi nhuận so với tốc độ tăng vốn như thế
nào?
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp phải đảm bảo được các
yêu cầu sau:
Thứ nhất, phải khai thác nguồn lực vốn một cách trệit để, nghĩa là không để vốn
nhàn rỗi, dư thừa, ứ đọng gây tình trạng mất cân đối trong cơ cấu vốn, làm giảm hiệu
quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Thứ hai, phải sử dụng vốn một cách hợp lý và tiết kiệm, tránh tình trạng cung cấp
vốn cho những dự án không khả thi, gây thiệt hại nghiêm trọng cho doanh nghiệp.
Thứ ba, phải quản lý vốn chặt chẽ, tránh tình trạng sử dụng vốn sai mục đích, thất
thoát vốn do buông lỏng trong quản lý vốn.
Mục tiêu của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều hướng tới
hiệu quả kinh tế dựa trên việc khai thác và sử dụng các nguồn lực có được. Vì vậy các
nguồn lực kinh tế đặc biệt là nguồn vốn của doanh nghiệp có ảnh hưởng chính tới hiệu
quả sản xuất kinh doanh. Như vậy nhiệm vụ mang tính bắt buộc và thường xuyên đối
với doanh nghiệp là nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn.
2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng vốn là nội dung cơ bản và quan trọng nhất trong hoạt động tài
chính của doanh nghiệp, vì vậy việc xem xét và đánh giá nó sao cho chính xác phải
dựa trên nhiều tiêu thức để có thể tránh khỏi những nhìn nhận một cách phiến diện. Cụ
thể các chỉ tiêu dùng để nghiên cứu bao gồm các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng
vốn chung, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động và vốn cố định.
2.1. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn.
Hệ số sinh lời tổng vốn
Chỉ tiêu này phản ánh một trình độ sử dụng của doanh nghiệp, cho biết một đồng
vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh thì sinh ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 14
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2

Lợi nhuận sau thuế
Hệ số sinh lời tổng vốn =
Tổng vốn sản xuất kinh doanh
Hiệu suất sử dụng tổng vốn
Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng vốn đầu tư vào tài sản tham gia sản xuất kinh doanh
thì thu về bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn
càng được đánh giá cao.
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng tổng vốn =
Tổng vốn sản xuất kinh doanh
2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Hiệu suất sử dụng vốn cố định
Chỉ tiêu này cho biết mỗi đồng vốn cố định được đầu tư vào sản xuất kinh doanh
đem lại bao nhiêu đồng doanh thu (hoặc bao nhiêu đồng doanh thu thuần). Chỉ tiêu này
càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng vốn cố định càng cao.

Doanh thu (doanh thu thuần) trong kỳ
Hiệu suất sử dụng VCĐ trong 1 kỳ=
VCĐ sử dụng bình quân trong 1 kỳ
VCĐ sử dụng bình quân trong kỳ được tính bằng bình quân số học của VCĐ có ở
đầu kỳ và cuối kỳ.
Giá trị còn lại ĐK + Giá trị còn lại CK
VCĐ sử dụng bình quân trong kỳ=
2
Hệ số sinh lời vốn cố định
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 15
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
Chỉ tiêu này cho biết mỗi đồng vốn cố định đem đầu tư vào sản xuất kinh doanh
thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử
dụng vốn cố định càng tốt.

Lợi nhuận sau thuế
Hệ số sinh lời VCĐ =
VCĐ bình quân
ơ
Hàm lượng vốn cố định
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng doanh thu cần đầu tư bao nhiêu đồng vốn
cố định. Chỉ tiêu này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cố định càng cao.
Vốn cố định sử dụng bình quân trong kỳ
Hàm lượng VCĐ=
Doanh thu thuần trong kỳ
[
2.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Vòng quay vốn lưu động
Chỉ tiêu này cho biết số lần luân chuyển của vốn lưu động trong kỳ, nó phản ánh
tốc độ luân chuyển của vốn lưu động. Nếu số vòng quay càng nhiều chứng tỏ hiệu quả
sử dụng vốn lưu động càng tăng và ngược lại.
Doanh thu thuần
Vòng quay vốn lưu động =
VLĐ bình quân trong kỳ
Số VLĐ đầu kỳ + Số VLĐ cuối kỳ
VLĐ bình quân trong kỳ =
2
[
Thời gian một vòng luân chuyển
Chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng và
cũng phản ánh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động. Thời gian luân chuyển càng nhỏ
thì tốc độ luân chuyển càng lớn, đảm bảo vốn lưu động tránh hao hụt mất mát trong
quá trình sản xuất kinh doanh.
Thời gian của kỳ phân tích
Thời gian 1 vòng luân chuyển =

Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 16
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
Số vòng luân chuyển VLĐ
Thời gian của kỳ phân tích thường là 360 ngày (1 năm).
Vòng quay tiền
Chỉ tiêu này phản ánh số vòng quay của tiền trong một năm
Doanh thu thuần
Vòng quay tiền =
Tiền mặt + Chứng khoán ngắn hạn
Vòng quay dự trữ, tồn kho
Chỉ tiêu này phản ánh số lần luân chuyển hàng tồn kho trong 1 thời kỳ nhất định.
Qua chỉ tiêu này ta đánh giá được tình hình dự trữ hàng tồn kho của doanh nghiệp.
Giá vốn hàng hoá
Vòng quay dự trữ, tồn kho =
Tồn kho bình quân trong kỳ
Tồn kho ĐK + Tồn kho CK
Hàng tồn kho bình quân trong kỳ=
2
Vòng quay các khoản phải thu
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt của
doanh nghiệp.
Doanh thu thuần
Vòng quay các khoản phải thu =
Các khoản phải thu bình quân
Kỳ thu tiền bình quân
Chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu. Chỉ tiêu
này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn cố định càng cao.
Doanh thu × Số ngày trong kỳ
Kỳ thu tiền bình quân =
Các khoản phải thu bình quân

Hệ số sinh lời vốn lưu động
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 17
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn lưu động, nó cho biết một đồng
vốn lưu động tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh mang lại bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
Lợi nhuận sau thuế
Hệ số sinh lời VLĐ =
VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thì cần có bao nhiêu đồng vốn
lưu động. Chỉ tiêu này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao.
VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Hệ số đảm nhiệm VLĐ =
Doanh thu thuần
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Để đạt được kết quả cao nhất trong sản xuất kinh doanh nói chung, trong sử
dụng vốn nói riêng các doanh nghiệp phải xác định phương hướng, mục tiêu rõ ràng
trong sử dụng vốn cũng như các nguồn nhân tài vật lực sẵn có. Muốn vậy, các
doanh nghiệp cần phải nắm bắt được các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh,
hiệu quả sử dụng vốn về cả xu hướng và mức độ tác động của nó.
3.1. Các nhân tố khách quan.
3.1.1.Chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước:
Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế bằng pháp luật và các chính sách kinh tế vĩ
mô. Do vậy, bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải tiến hành sản xuất kinh doanh trên
cơ sở pháp luật và các chính sách kinh tế vĩ mô hiện hành của Nhà nước. Với bất cứ
một sự thay đổi nhỏ nào trong chế độ chính sách hiện hành đều trực tiếp hoặc gián
tiếp chi phối các mảng hoạt động của doanh nghiệp. Chẳng hạn như Nhà nước tăng
thuế thu nhập doanh nghiệp, điều này trực tiếp làm suy giảm lợi nhuận sau thuế của
doanh nghiệp, Nhà nước tăng thuế giá trị gia tăng lên sản phẩm của doanh nghiệp sẽ

gián tiếp làm giảm doanh thu thuần của doanh nghiệp (VAT tăng làm sức mua của
người dân giảm). Đối với hiệu quả sử dụng tài sản cố định doanh nghiệp thì các văn
bản pháp luật về tài chính, kế toán thống kê, về quy chế đầu tư gây ảnh hưởng lớn
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 18
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhất là các quy định về
trích khấu hao, về tỷ lệ trích lập các quỹ, các văn bản về thuế.
3.1.2.Thị trường và cạnh tranh
Các yếu tố thị trường tác động không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp. Giả sử như lãi suất của thị trường, khi lãi suất này tăng sẽ làm cho chi phí
lãi vay tăng từ đó làm giảm lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp, ngược lại nếu nó
giảm sẽ làm cho chi phí lãi vay giảm từ đó làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nhu cầu của thị trường về sản phẩm kinh doanh của doanh nghiệp có ảnh hưởng
trực tiếp tới doanh thu của doanh nghiệp, nếu nhu cầu tăng thì doanh thu sẽ tăng,
nếu nhu cầu giảm thì doanh thu của doanh nghiệp sẽ giảm.
Cạnh tranh là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thị trường, do vậy doanh nghiệp
phải không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Có như vậy doanh
nghiệp mới có thể thắng trong cạnh tranh, bảo vệ và mở rộng thị trường, nhất là các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực có môi trường cạnh tranh cao, tốc độ thay đổi
công nghệ lớn như ngành viễn thông, tin học, điện tử.
3.2. Các nhân tố chủ quan.
Ngoài các nhân tố khách quan nói trên, còn rất nhiều nhân tố chủ quan do
chính bản thân doanh nghiệp tạo nên gây ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sử dụng vốn.
Nhân tố này gồm nhiều yếu tố tác động trực tiếp đến kết quả cuối cùng của hoạt
động kinh doanh cả về trước mắt cũng như lâu dài. Bởi vậy, việc xem xét, đánh giá
ra quyết định đối với các yếu tố này cực kỳ quan trọng. Thông thường trên góc độ
tổng quát, người ta thường xem xét những yếu tố chủ yếu sau:
* Sản phẩm mà doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh: Vị thế của sản
phẩm trên thị trường nghĩa là sản phẩm đó mang tính cạnh tranh hay độc quyền,
được người tiêu dùng ưa chuộng hay không, sản phẩm đã bước sang giai đoạn nào

của chu kỳ sống sẽ quyết định tới lượng hàng hóa bán ra (hiện vật) và giá cả của
đơn vị sản phẩm. Chính vì ảnh hưởng tới lượng hàng hóa bán ra và giá cả của chúng
mà sản phẩm ảnh hưởng lớn tới doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp từ đó làm
ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Cũng vì sự ảnh hưởng đó của sản phẩm tới
hiệu quả sử dụng vốn, trước khi quyết định sản phẩm hay ngành nghề kinh doanh,
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 19
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ nhu cầu của thị trường và chu kỳ sống của sản
phẩm. Có như vậy, doanh nghiệp mới mong có được lợi nhuận.
* Yếu tố về vốn của doanh nghiệp: Việc quyết định nguồn tài trợ, phân bổ vốn
vào các loại tài sản và việc xác định nhu cầu vốn của doanh nghiệp có ảnh hưởng
lớn đến hiệu quả sử dụng vốn.
+ Cơ cấu vốn: Có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp
vì nó liên quan trực tiếp đến tính chi phí (khấu hao vốn cố định, tốc độ luân chuyển
vốn lưu động). Giải quyết tốt vấn đề cơ cấu vốn hợp lý chính là thực hiện tốt các
mặt:
- Đảm bảo cân đối giữa vốn cố định và vốn lưu động trong tổng vốn kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Đảm bảo tỷ lệ thích hợp giữa vốn cố định tích cực (vốn đầu tư vào tài sản cố
định trực tiếp tham gia vào sản xuất kinh doanh như: máy móc chế tạo, phương tiện
vận tải) và vốn cố định không tích cực (vốn đầu tư vào kho hàng, văn phòng).
- Đảm bảo tính đồng bộ giữa các công đoạn của quá trình sản xuất (duy trì tỷ
lệ các loại máy móc phù hợp) để phát huy tối đa hiệu quả công suất về thời gian và
số lượng.
Tỷ trọng các loại vốn hợp lý sẽ thúc đẩy đồng vốn vận động nhanh giữa các
công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh, không bị ứ đọng hay sử dụng sai mục
đích.
+ Nhu cầu vốn: Nhu cầu vốn của một doanh nghiệp tại bất cứ thời điểm nào
cũng bằng chính tổng số tài sản mà doanh nghiệp cần phải có để đảm bảo cho hoạt
động kinh doanh. Việc xác định nhu cầu vốn của doanh nghiệp là hết sức quan

trọng. Khi doanh nghiệp xác định nhu cầu vốn không chính xác, nếu thiếu hụt sẽ
gây hậu quả gián đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng xấu tới tiến độ
thực hiện hợp đồng đã ký kết với các đối tác làm mất uy tín của doanh nghiệp.
Ngược lại, nếu xác định vốn quá cao, vượt ra khỏi nhu cầu thực của doanh nghiệp sẽ
gây lãng phí vốn. Trong cả hai trường hợp, doanh nghiệp đều sử dụng vốn không
hiệu quả.
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 20
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
Xác định nhu cầu vốn không chỉ là việc xác định tổng vốn cần thiết mà còn
phải xác định cụ thể số vốn đầu tư cho tài sản lưu động và nhu cầu vốn cho tài sản
cố định. Làm tốt công việc này sẽ giúp doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ một
cách hợp lý (nguồn vốn ngắn hạn đầu tư cho TSLĐ, nguồn vốn trung và dài hạn đầu
tư cho TSCĐ và một phần TSLĐ thì càng tốt).
+ Nguồn tài trợ: Việc tìm kiếm và quyết định các nguồn tài trợ cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn. Cụ thể đó là
chi phí vốn. Vốn là một yếu tố sản xuất, doanh nghiệp muốn sử dụng nó phải bỏ ra
những chi phí nhất định. Một cách khái quát, chi phí vốn được hiểu là chi phí trả
cho người sở hữu các nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động và được tính bằng số
lợi nhuận cần phải đạt được trên nguồn vốn này sao cho không làm thay đổi số lợi
nhuận dành cho cổ đông thường có (hoặc vốn tự có) của doanh nghiệp. Nếu chi phí
vốn cao sẽ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, giảm hiệu quả sử dụng vốn.
Như vậy, chi phí vốn là tất yếu phải có. Mức độ lớn hay nhỏ của chi phí vốn phụ
thuộc vào việc tìm kiếm và lựa chọn các nguồn tài trợ. VLĐ của doanh nghiệp được
hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, gồm có vốn tự có và vốn huy động ngoài
doanh nghiệp. Nguồn vốn bên trong (lợi nhuận không chia, các quỹ, dự trữ, vốn
góp) thì chi phí vốn được tính bằng chi phí cơ hội. Nguồn tài trợ nội bộ có ưu điểm
là tạo cho doanh nghiệp khả năng độc lập về tài chính song quyền kiểm soát sẽ bị
pha loãng (nếu phát hành cổ phiếu thường mới) và chi phí vốn lớn hơn. Sử dụng các
nguồn vốn bên ngoài (chủ yếu là vốn vay) phải trả chi phí vốn đó chính là lãi suất
vay nợ. Ưu điểm của nguồn vốn này là chi phí vốn của nó nhỏ, do chi phí trả lãi của

nợ vay được tính vào chi phí hợp lý hợp lệ để tính thuế thu nhập doanh nghiệp, nên
lãi sau thuế mà doanh nghiệp phải trả thấp hơn. Người ta gọi đó là tiết kiệm nhờ
thuế và nó chính là đòn bẩy tài chính đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp làm ăn yếu kém thì nó sẽ tạo ra nợ nần
cho doanh nghiệp.
* Mối quan hệ của doanh nghiệp: Mối quan hệ của doanh nghiệp ở đây được
xét trên hai phương diện là quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng và mối quan
hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp. Điều này rất quan trọng, bởi nó ảnh hưởng
tới nhịp độ sản xuất, khả năng phân phối sản phẩm, lượng hàng hóa tiêu thụ là
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 21
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
những vấn đề trực tiếp tác động tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp
có mối quan hệ tốt với khách hàng và các nhà cung cấp thì các quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp mới diễn ra liên tục , thường xuyên, sản phẩm làm ra
mới tiêu thụ được nhanh chóng. Để có được mối quan hệ tốt với khách hàng và các
nhà cung cấp, doanh nghiệp phải có kế hoạch cụ thể để vừa duy trì mối quan hệ với
các bạn hàng lâu năm, vừa thiết lập được mối quan hệ với các bạn hàng mới. Tùy
thuộc vào đặc điểm tình hình cụ thể của mình, mỗi doanh nghiệp có những biện
pháp riêng. Nhưng chủ yếu là các biện pháp: đổi mới quy trình thanh toán sao cho
thuận tiện, mở rộng mạng lưới bán hàng và thu mua nguyên vật liệu, áp dụng các
biện pháp kinh tế để tăng cường lượng hàng bán (đa dạng hóa sản phẩm, hàng đổi
hàng, bán hàng trả chậm, giảm giá...)
* Trình độ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp: Nói chung yếu tố con
người là yếu tố quyết định nhất trong việc đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả trong
doanh nghiệp.
Công nhân sản xuất có tay nghề cao, có kinh nghiệm làm việc, có khả năng
tiếp thu công nghệ mới, phát huy được tính sáng tạo trong công việc, có ý thức giữ
gìn và bảo quản tài sản trong quá trình lao động sản xuất mới tăng được năng suất
lao động, tiết kiệm trong sản xuất từ đó tăng hiệu quả sử dụng vốn.
Trình độ cán bộ quản lý cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả sử dụng

vốn của doanh nghiệp. Có quản lý về mặt nhân sự tốt mới đảm bảo có được một đội
ngũ lao động có năng lực thực hiện nhiệm vụ, sắp xếp lao động hợp lý thì mới
không bị lãng phí lao động. Những điều này sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao được
hiệu quả sử dụng vốn. Trình độ quản lý về mặt tài chính là hết sức quan trọng, quy
trình hạch toán của doanh nghiệp có phù hợp, số liệu kế toán có chính xác thì các
quyết định tài chính của người lãnh đạo doanh nghiệp mới có cơ sở khoa học. Ngoài
ra, trong quá trình hoạt động, việc thu, chi phải rõ ràng, tiết kiệm, đúng việc, đúng
thời điểm thì mới có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Trình độ quản lý còn thể hiện trên một số mặt cụ thể như: quản lý hàng tồn kho,
quản lý khâu sản xuất, quản lý khâu tiêu thụ... Chỉ khi các công tác quản lý này được
thực hiện tốt thì hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp mới được nâng cao rõ rệt.
ư
3.3. Các nhân tố khác.
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 22
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
Ngoài ra còn rất nhiều nhân tố khác ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp. Các yếu tố này có thể được coi là các yếu tố bất khả kháng như sự vận
động của chu kỳ kinh tế, thiên tai, nhu cầu mang tính thời vụ của thị trường… Các yếu
tố này sẽ gây khó khăn cho việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do đó làm giảm
số lượng và chất lượng của sản phẩm sản xuất ra, ảnh hưởng đến việc tiêu thụ sản
phẩm từ đó làm giảm doanh thu của doanh nghiệp và có tác động đến hiệu quả sử dụng
vốn của doanh nghiệp. Mức tổn hại về lâu dài hay tức thời của các yếu tố này mang lại
là hoàn toàn không thể biết trước được mà chỉ có thể đề phòng làm giảm tác hại của
chúng.
Nói tóm lại tất cả các nhân tố trên tác động tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp, đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm một cách trọn vẹn, hợp lý ngay từ đầu nội
dung quản lý và sử dụng vốn để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Có thể nói hiện nay tất cả các doanh nghiệp đều chú trọng đến việc nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn. Để nghiên cứu việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn một cách cụ thể
trên cơ sở lý luận gắn liền với thực tiễn, chúng ta đi vào xem xét, đánh giá thực trạng

hiệu quả sử dụng vốn của Công ty điện lực I, 1 trong những thành viên của Tổng công
ty điện lực Việt Nam.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG VỐN TẠI CÔNG TY ĐIỆN LỰC I.
I. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÔNG TY ĐIỆN LỰC I.
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty điện lực I.
Ngành điện lực XHCN Việt Nam chính thức thành lập ngày 15/8/1954, lấy tên là
Cục Điện lực. Đến năm 1971, Cục điện lực đổi tên thành Công ty điện lực Miền Bắc,
trực thuộc Bộ Điện than, quản lý các nhà máy sản xuất điện trên toàn Miền Bắc. Năm
1981, Công ty điện lực Miền Bắc đổi tên thành Công ty điện lực I, trực thuộc Bộ Điện
lực, về sau là Bộ Năng lượng, từ ngày 1/1/1995 trực thuộc Tổng công ty điện lực Việt
Nam.
Do yêu cầu đổi mới cơ chế tổ chức quản lý sản xuất của Nhà nước, năm 1995, với
sự hình thành của Tổng công ty điện lực Việt Nam (EVN), Công ty điện lực I trở thành
đơn vị thành viên của EVN, thuộc Bộ Công nghiệp, nhiệm vụ chủ yếu là kinh doanh
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 23
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
điện năng, quản lý vận hành hệ thống phân phối điện an toàn, ổn định cho các tỉnh
thành phía Bắc.
Qua gần 50 năm thực hiện đường lối phát triển điện lực của Đảng và Nhà nước
tập trung đầu tư cho phép mở rộng hợp tác quốc tế, ngành Điện lực nói chung và Công
ty điện lực I nói riêng đã từng bước trưởng thành và không ngừng phát triển, phục vụ
có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị - kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân trong
quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước kia cũng như trong công cuộc đổi mới đất
nước những năm gần đây.
Với bề dày truyền thống và thành tích đặc biệt xuất sắc đạt được nhiều năm qua,
Công ty điện lực I đã được Nhà nước quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng lao
động thời kỳ đổi mới vào ngày 16/7/2002. Đây là niềm vinh dự và tự hào của hàng vạn
cán bộ công nhân viên đã và đang công tác tại Công ty điện lực I. Để xứng đáng với
phần thưởng cao quý đó, toàn thể cán bộ công nhân viên trong Công ty điện lực I

quyết tâm nhất định vượt qua mọi khó khăn, lao động sáng tạo để giành được những
thắng lợi to lớn hơn nữa trong thời gian tới.
Công ty điện lực I là một doanh nghiệp Nhà nước, thành viên hạch toán độc lập
của Tổng công ty điện lực Việt Nam, có 38 đơn vị trực thuộc trong đó: 26 điện lực
tương ứng với các tỉnh, thành phố từ Hà Tĩnh trở ra trừ thành phố Hà Nội và Hải
Phòng; 12 đơn vị phụ trợ.
Trụ sở của Công ty được đặt tại địa chỉ: 20 Trần Nguyên Hãn - Hà Nội.
Tên giao dịch quốc tế của Công ty điện lực I là : Power Company N°1, viết tắt là
PCI.
Công ty điện lực I có tư cách pháp nhân, tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại các ngân hàng trong và ngoài nước,
hoạt động theo hiến pháp và pháp luật, theo phân cấp của Tổng công ty điện lực Việt
Nam.
2. Cơ cấu tổ chức của Công ty điện lực I.
Công ty điện lực I có nhiệm vụ cung cấp điện cho 26 tỉnh, thành phía Bắc (ngoại
trừ Hà Nội và Hải Phòng). Vì vậy, Công ty có tất cả 26 điện lực trực thuộc và 12 đơn
vị phụ trợ khác. Để quản lý tập trung toàn bộ 35 đơn vị này, tại Công ty hình thành bộ
máy quản lý sau:
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 24
Nguyễn ViÖt Anh Lớp 11.01- K2 – Văn bằng 2
* Ban giám đốc Công ty gồm: Giám đốc, Phó giám đốc phụ trách sản xuất - kỹ
thuật, Phó giám đốc phụ trách quản lý đầu tư xây dựng, Phó giám đốc phụ trách kinh
doanh và vật tư. Trong đó Giám đốc là đại diện pháp nhân trong mọi hoạt động của
Công ty, chịu trách nhiệm trước pháp luật và Tổng công ty. Các Phó giám đốc được
Giám đốc phân công và uỷ nhiệm quản lý điều hành một hoặc một số lĩnh vực của
Công ty.
* Các phòng ban chức năng: gồm 19 phòng ban với biên chế tại Văn phòng Công
ty là hơn 200 người. Quan hệ công tác giữa các phòng ban trong cơ quan Công ty là
quan hệ hợp tác, mọi hoạt động của các phòng phải bảo đảm ăn khớp và phối hợp chặt
chẽ thường xuyên với nhau nhằm đảm bảo hoàn thành các mục tiêu kế hoạch chung

của Công ty, đảm bảo cho công tác điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh được
đồng bộ thông suốt và có hiệu quả cao. Khi gặp các nhiệm vụ, công việc phân công
chưa rõ hoặc phải phối hợp nhiều bộ phận mới giải quyết được, các phòng phải chủ
động gặp nhau để bàn bạc giải quyết với tinh thần hợp tác tích cực.
Cơ cấu quản lý tổ chức của Công ty điện lực I được thể hiện một cách cụ thể qua
sơ đồ cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty (trang sau).
3. Hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty điện lực I.
3.1.Các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty điện lực I
* Nguyên tắc hoạt động
Công ty điện lực I hoạt động theo kế hoạch pháp lệnh của Tổng công ty giao trên
những chỉ tiêu trong công tác quản lý, vận hành thu nộp tiền điện, tổn thất điện năng,
xây lắp và cải tạo lưới điện miền Bắc.
Công ty điện lực I thực hiện chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh bán điện trong
phạm vi phân cấp của Tổng công ty điện lực Việt Nam.
* Chức năng hoạt động
Công ty điện lực I có chức năng chủ yếu là kinh doanh phân phối điện năng,
phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các Tỉnh - Thành phố phía Bắc trừ hai
thành phố Hà Nội và Hải Phòng, bao gồm:
-Kinh doanh điện năng và vận hành ổn định, an toàn, liên tục, đảm bảo chất lượng
điện năng cung cấp cho 26 tỉnh thuộc khu vực phía Bắc.
-Sản xuất điện năng bằng nguồn phát thuỷ điện, diezen, tuabin khí.
-Thiết kế, xây dựng, quản lý, khai thác và qui hoạch hệ thống lưới điện phân phối.
Chuyên đề Thực tập Tốt nghiệp 25

×