Tổng hợp và xác định các đặc trƣng của một
số hydroxide cấu trúc lớp kép ứng dụng trong
xử lý môi trƣờng
Trần Thị Hƣơng
Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên
Luận văn Thạc sĩ ngành: Hóa vô cơ; Mã số: 60 44 25
Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Phan Thị Ngọc Bích
Năm bảo vệ: 2011
Abstract: Nghiên cứu tổng hợp 3 loại vật liệu : Mg-Al/CO3, Mg-Cu-Al/CO3, Mg-
Al/Cl. Xác định các đặc trƣng của vật liệu tổng hợp bằng các phƣơng pháp XRD,
SEM, FTIR, TA, EDX. Sơ bộ đánh giá khả năng loại NO3- của các vật liệu đã tổng
hợp đƣợc.
Keywords: Hóa học; Hóa vô cơ; Hydroxide cấu trúc lớp kép; Xử lý môi trƣờng
Content
MỞ ĐẦU
Các hydroxide cấu trúc lớp kép (layered double hydroxide) thƣờng đƣợc gọi là
hydrotalcite (HT) theo tên của một loại khoáng tồn tại trong tự nhiên
Mg
6
Al
2
(OH)
16
CO
3
.4H
2
O. Công thức chung của HT là [M
2+
1-
x
M
3+
x
(OH)
2
]
x+
[(A
n-
)
x/n
.mH
2
O]
x-
. Với cấu trúc nhƣ vậy, các HT vừa có khả năng hấp phụ đồng
thời có khả năng trao đổi ion rất cao. Một đặc tính thú vị nữa của các HT là sản phẩm sau khi
nung có khả năng ghi nhớ cấu trúc lớp của chúng khi đƣa lại vào môi trƣờng dung dịch, chẳng
hạn dung dịch chứa nitrate, tạo ra thuận lợi lớn trong việc tập trung các ion NO
3
-
từ dung dịch
vào khoảng giữa các lớp, do đó rất thích hợp là chất xúc tác hoặc chất mang xúc tác. Bên cạnh
đó, bằng cách thay đổi, đƣa thêm vào các thành phần kim loại M
2+
và M
3+
khác nhau, có thể
tạo ra các dạng HT khác nhau một cách linh hoạt tùy theo tính năng, mục đích sử dụng. Với
những ƣu điểm này, vật liệu họ hydrotalcite nhận đƣợc sự quan tâm ngày càng tăng của các
nhà nghiên cứu.
Trên thế giới những nghiên cứu về vật liệu HT đã và đang diễn ra hết sức sôi nổi. HT
đƣợc tổng hợp rất đa dạng với nhiều kim loại và anion khác nhau để ứng dụng rộng rãi trong
các lĩnh vực nhƣ xúc tác, xử lý môi trƣờng, y sinh học, …. Trong khi đó ở Việt Nam vật liệu
HT còn chƣa đƣợc quan tâm chú ý nhiều. Thêm vào đó, xử lý môi trƣờng ở nƣớc ta những
năm gần đây đã trở thành vấn đề bức thiết. Do vậy, chúng tôi chọn đề tài: “Tổng hợp và xác
định các đặc trưng của một số hydroxide cấu trúc lớp kép ứng dụng trong xử lý môi
trường”.
Chƣơng 1: TỔNG QUAN
1.1 Giới thiệu về hydrotalcite
1.2 Các phƣơng pháp tổng hợp hydrotalcite
2
1.3 Ứng dụng của hydrotalcite
Chƣơng 2: THỰC NGHIỆM
2.1. Tổng hợp vật liệu hydrotalcite
2.2. Xác định các đặc trƣng của vật liệu
2.3. Khảo sát khả năng loại NO
3
-
của vật liệu
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1.1. Đặc trƣng cấu trúc và ảnh hƣởng của các thông số phản ứng đến cấu trúc vật liệu
Để nghiên cứu cấu trúc vật liệu, giản đồ XRD đƣợc sử dụng kết hợp với phổ FTIR.
3.1.1.1. Đặc trƣng cấu trúc của vật liệu
Giản đồ XRD:
Vật liệu vừa tổng hợp: Giản đồ XRD của mẫu HT4/CO
3,
đƣợc tổng hợp ở 30
0
C với tỉ lệ
mol Mg:Cu:Al = 60:10:30 thời gian 4 giờ đƣợc cho trên hình 3.1. Trên giản đồ thể hiện rất rõ
cấu trúc lớp trúc lớp của pha hydrotalcite với các pic đặc trƣng cho các mặt (003); (006);
(009); (015); (018); (110); (113) tƣơng ứng với 2θ = 11,2; 22,8; 34,5; 38,6; 45,6; 60; 62
(JCPDS22-0700). Không thấy sự xuất hiện các pic lạ.
Khoảng cách d, tính trên cơ sở pic cao nhất tƣơng ứng với mặt (003), xác định đƣợc là
7,65 Å. Giá trị này gần tƣơng đƣơng với số liệu đã đƣợc công bố đối với các HT/CO
3
là 7,70
Å, chứng tỏ rằng mẫu HT đã tổng hợp chứa anion CO
3
2-
ở trong lớp xen giữa [24, 33].
Hình 3.1: Giản đồ XRD của vật liệu HT4/CO
3
vừa tổng hợp
- Vật liệu sau nung: trong ứng dụng, vật liệu HT thƣờng đƣợc nung ở nhiệt độ cao sau
khi tổng hợp. Quá trình nung nhằm mang lại một số lợi ích: tăng độ tinh thể, mức độ trật tự
tinh thể của vật liệu; Thay đổi cấu trúc xốp, cải thiện độ xốp của vật liệu; Phân hủy HT, loại
ion lớp xen giữa, nhằm sử dụng khả năng nhớ lại cấu trúc lớp HT của vật liệu sau nung khi
cho lại vào dung dịch. Tính chất này rất quan trọng đối với các ứng dụng hấp phụ của vật liệu
nhƣ đã đƣợc trình bày trong phần tổng quan; Và cuối cùng, sau quá trình nung độ bền của vật
liệu cũng đƣợc cải thiện đáng kể.
Trên hình 3.2 là giản đồ XRD của 2 mẫu HT4/CO
3
nung ở 200
0
C và 500
0
C đƣợc so
sánh với mẫu HT4/CO
3
vừa tổng hợp. Từ hình 3.2 ta thấy giản đồ XRD của vật liệu HT4/CO
3
nung ở 500
0
C (hình 3.2c) các pic đặc trƣng của MgO tại vị trí 2θ = 37; 43; 62,2 và pic của
CuO tại 2θ = 35,3; 38,9 và không phát hiện thấy sự tồn tại hợp chất của nhôm. Một số nghiên
cứu đƣợc công bố trƣớc đây cũng đã khẳng định rằng Al
2
O
3
nằm phân tán trong mạng MgO-
CuO, không tách thành pha riêng [15, 17, 27]. Còn vật liệu HT4/CO
3
nung ở 200
0
C (hình
3.2b) vẫn thể hiện các pic tƣơng tự nhƣ giản đồ XRD của mẫu trƣớc khi nung (hình 3.2a).
3
Hình 3.2: Giản đồ XRD của vật liệu HT4/CO
3
(a- chưa nung, b- nung 200
0
C, c- nung 500
0
C)
(+) pha CuO, (*) pha MgO, (#) pha HT
Phổ FTIR:
Trên phổ FTIR của mẫu HT4/CO
3
(hình 3.3), có thể thấy các vạch hấp thụ đặc trƣng
cho HT. Dải hấp thụ rộng trong khoảng 3300-3600 cm
-1
đƣợc gán cho dao động hóa trị của
nhóm OH
-
trong phân tử HT và của các phân tử nƣớc hấp thụ giữa các lớp. Vạch 1633,45 cm
-
1
đƣợc gán cho dao động biến dạng cũng của liên kết OH
-
và phân tử nƣớc hấp thụ trong vật
liệu. Vạch hấp thụ mạnh tại 1374,38cm
-1
và vạch 651,57 cm
-1
là do các nhóm ion CO
3
2-
. Các
vạch hấp thụ khác ở vùng dƣới 1000 cm
-1
(941,73; 783,69; 612,71; 553,12; 431,36 cm
-1
) đặc
trƣng cho các dao động của liên kết Al-O, Mg-O, Cu-O trong HT [19, 44].
Hình 3.3: Phổ FTIR của mẫu HT4/CO
3
chưa nung
Phổ FTIR của mẫu HT4/CO
3
-500 (hình 3.4) cho thấy sau khi nung thì cƣờng độ các
vạch hấp thụ đặc trƣng của nƣớc và đặc biệt là của CO
3
2-
đều giảm do khi nung ở nhiệt độ cao
thì các phân tử nƣớc và khí CO
2
trong hydrotalcite thoát ra. Vẫn xuất hiện một số vạch hấp
4
thụ trong vùng dƣới 1000 cm
-1
. Chú ý rằng vạch đặc trƣng cho HT với cƣờng độ lớn nhất ở
khoảng 780 cm
-1
trong mẫu HT tổng hợp đã không còn xuất hiện trên phổ của các mẫu nung.
Điều này cho thấy HT đã bị phân hủy trong quá trình nung, các vạch hấp thụ trong vùng bƣớc
sóng này là do dao động của MgO (tại 539,73 cm
-1
) và CuO (tại 610,29 và 455,59 cm
-1
) [19,
44].
Hình 3.4: Phổ FTIR của mẫu HT4/CO
3
nung ở 500
0
C
Kết luận: Từ kết quả phân tích giản đồ XRD và phổ FTIR cho thấy vật liệu đã đƣợc
tổng hợp có cấu trúc tinh thể đơn pha hydrotalcite.
3.1.1.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ tới đặc trưng XRD của vật liệu
Giản đồ XRD của các vật liệu đƣợc tổng hợp ở các nhiệt độ khác nhau - HT1/CO
3
(30
0
C), HT2/CO
3
(45
0
C) và HT3/CO
3
(65
0
C) (có cùng tỉ lệ Mg:Cu:Al = 75:10:15) đều thể
hiện đầy đủ các pic đặc trƣng cho HT và có cƣờng độ tƣơng đƣơng nhau (hình 3.5). Điều này
cho thấy nhiệt độ phản ứng trong khoảng này không ảnh hƣởng đến cấu trúc của vật liệu HT
tạo thành.
Hình 3.5: Giản đồ XRD của các mẫu vật liệu tổng hợp
ở các nhiệt độ khác nhau (a- HT1/CO
3
), (b- HT2/CO
3
), (c- HT3/CO
3
)
Giản đồ XRD của tất cả các mẫu này tƣơng ứng sau khi nung HT1/CO
3
-500,
HT2/CO
3
-500, HT3/CO
3
-500 đƣợc đƣa ra ở hình 3.6 cũng tƣơng tự nhau, thể hiện các pic đặc
5
trƣng của MgO tại vị trí 2θ = 37; 43; 62,2 và pic của CuO tại 2θ = 35,3; 38,9, phù hợp với kết
quả nghiên cứu trƣớc đây [17, 19].
Hình 3.6: Giản đồ XRD của các mẫu vật liệu sau nung
(a- HT1/CO
3
-500, b- HT2/CO
3
-500, c- HT3/CO
3
-500)
(*): pha MgO, (#): pha CuO
Kết luận: Nhƣ vậy, có thể thấy rằng pha hydrotalcite đƣợc hình thành tốt ngay ở nhiệt
độ phòng, nhiệt độ tổng hợp trong khoảng đã nghiên cứu không ảnh hƣởng đến cấu trúc pha
của vật liệu vừa tạo thành cũng nhƣ vật liệu sau nung.
3.1.1.3. Ảnh hưởng của tỉ lệ muối ban đầu tới cấu trúc pha của vật liệu
Vì nhiệt độ phòng pha HT/CO
3
đƣợc hình thành tốt nên khi nghiên cứu ảnh hƣởng của
tỉ lệ muối ban đầu tới cấu trúc pha của vật liệu chúng tôi thực hiện phản ứng ở nhiệt độ này.
Giản đồ XRD của các mẫu đƣợc tổng hợp tại nhiệt độ phòng trong 4 giờ với các tỉ lệ
muối ban đầu khác nhau đƣợc thể hiện ở hình 3.7.
Hình 3.7: Giản đồ XRD của các mẫu HT/CO
3
chưa nung với tỉ lệ muối ban đầu khác nhau
(a- HT1/CO
3
, b- HT4/CO
3
, c- HT5/CO
3
, d- HT6/CO
3
)
(#) pha hydrotalcite, (*) pha của Al(OH)
3
6
Đối với các mẫu không nung, từ giản đồ ở hình 3.7 ta thấy hai mẫu HT4/CO
3
(x = 0,3),
HT1/CO
3
(x = 0,15) có lƣợng Al thấp, x ≤ 0,33 thì chỉ tạo ra pha HT. Mẫu HT5/CO
3
(x = 0,5)
và HT6/CO
3
(x = 0,7) với thành phần Al lớn, x>>0,33, thì ngoài pha HT còn có thêm pha
Al(OH)
3
. Trong tất cả các mẫu đều không thấy xuất hiện pha Cu(OH)
2
và Mg(OH)
2
. Với mẫu
HT4/CO
3
,
các
vạch nhiễu xạ có cƣờng độ lớn và sắc nét hơn chứng tỏ pha tinh thể HT hình
thành tốt hơn.
Đối với các mẫu sau nung (hình 3.8):
Mẫu HT1/CO
3
-500 và mẫu HT4/CO
3
-500; thể hiện các vạch đặc trƣng của MgO tại 2θ
= 37; 43; 62,2 và CuO tại 2θ = 35,3; 38,9.
Mẫu HT5/CO
3
-500, bên cạnh MgO, bắt đầu xuất hiện các vạch đặc trƣng cho spinel
MgAl
2
O
4
tại 2θ = 31,2; 37,0; 44,9; 59,5; 65,2.
Mẫu HT6/CO
3
-500 chỉ xuất hiện pha MgAl
2
O
4
.
Kết quả này có thể giải thích do các mẫu HT5/CO
3
-500 và HT6/CO
3
-500 có hàm lƣợng
Al lớn tạo điều kiện cho sự hình thành pha spinel ở nhiệt độ cao. Tuy nhiên pha CuAl
2
O
3
có
thể do hàm lƣợng nhỏ nên không phát hiện đƣợc trên giản đồ XRD.
Hình 3.8: Giản đồ XRD của các mẫu HT/CO
3
sau nung
với tỉ lệ muối ban đầu khác nhau
(a- HT1/CO
3
-500, b- HT4/CO
3
-500, c- HT5/CO
3
-500, d- HT6/CO
3
-500)
(#) pha MgO, (*) pha CuO, (+) pha MgAl
2
O
4
Nhƣ vậy, với hàm lƣợng Al trong mẫu quá cao sẽ không hình thành đơn pha hydrotalcite.
3.1.2. Hình thái học vật liệu và ảnh hưởng của các thông số phản ứng đến hình thái học
của vật liệu
Ảnh chụp SEM của một số mẫu vật liệu vừa tổng hợp và sau khi nung đƣợc trình bày
trên hình 3.9.
7
Hình 3.9: Ảnh SEM của các mẫu:
a- HT1/CO
3
; b- HT1/CO
3
-500;c- HT3/CO
3
-500
Đối với mẫu chƣa nung (HT1/CO
3
, Hình 3.9a): Vật liệu đã thể hiện dạng hạt, tuy
nhiên biên hạt không rõ, kích thƣớc hạt không đều.
Đối với mẫu nung (HT1/CO
3
-500, Hình 3.9b): Các hạt tròn với biên hạt rõ nét. Kích
thƣớc hạt khá nhỏ và đồng đều, khoảng dƣới 50nm.
Đối với mẫu tổng hợp ở nhiệt độ cao (HT3-CO
3
-500, Hình 3.9c): So sánh với mẫu
tổng hợp ở nhiệt độ phòng (Hình 3.9b), mẫu tổng hợp ở nhiệt độ cao có hình thái hoàn toàn
khác biệt; các hạt vật liệu hầu hết ở dạng phiến không đều, kích thƣớc có thể từ 100nm đến
300nm. Nhiều phiến gắn kết thành từng đám lớn.
Biến đổi hình thái học của vật liệu sau nung theo tỉ lệ muối ban đầu khác nhau
Kết quả phân tích ảnh SEM của các mẫu vật liệu HT/CO
3
sau nung ở 500
0
C tổng hợp
với các tỉ lệ muối ban đầu khác nhau đƣợc thể hiện ở hình 3.10. Nhìn chung các mẫu vật liệu
đều có dạng hạt tròn. Tuy nhiên kích thƣớc hạt và mức độ kết tập thể hiện rất khác nhau
trong các mẫu, đặc biệt là giữa các mẫu có hàm lƣợng nhôm thấp (mẫu HT1/CO
3
-500,
HT4/CO
3
-500, Hình 3.10a, b) và mẫu có hàm lƣợng nhôm cao (mẫu HT5/CO
3
-500,
HT6/CO
3
-500, Hình 3.10c, d).
Sự khác biệt về kích thƣớc hạt có thể giải thích từ sự phân tán của nhôm trong mạng
oxit MgO, kích thƣớc ion Al
3+
là khá nhỏ so với Mg
2+
, làm giảm kích thƣớc mần tinh thể tạo
thành do vậy hàm lƣợng nhôm càng cao, kích thƣớc hạt hình thành càng nhỏ.
8
Hình 3.10: Ảnh SEM của mẫu HT/CO
3
sau nung
ở các tỉ lệ muối ban đầu khác nhau
(a- HT1/CO
3
-500, b- HT4/CO
3
-500, c- HT5/CO
3
-500,d- HT6/CO
3
-500)
Kết luận: Phân tích kết quả chụp ảnh SEM của các mẫu vật liệu HT/CO
3
cho thấy các
điều kiện tổng hợp khác nhau vật liệu có hình thái học rất khác nhau và có sự biến đổi lớn
tùy theo điều kiện cụ thể của quá trình tổng hợp.
3.1.3. Xác định thành phần các nguyên tố trong vật liệu
Thành phần các nguyên tố đƣợc phân tích với mẫu đại diện HT4/CO
3
. Kết quả đƣợc
thể hiện trên hình 3.11.
Hình 3.11: Giản đồ phân tích EDX của mẫu HT4/CO
3
Kết quả EDX :
C O Mg Al Cu Tổng (%)
4,70 44,85 26,49 14,88 9,08 100,00
9
Phân tích EDX đã xác định đƣợc sự có mặt của các nguyên tố Mg, Cu, Al, C và O trong
mẫu (phƣơng pháp này không xác định đƣợc hydro vì nguyên tử khối của hydro nhỏ), ngoài
ra không lẫn bất kì một nguyên tố khác nào.
Từ kết quả này tính đƣợc lƣợng nhôm thực tế trong mẫu x = 0,31 (hàm lƣợng nhôm tính
theo lƣợng muối ban đầu là x = 0,30). Từ đó, một cách gần đúng có thể đƣa ra công thức của
mẫu vật liệu HT4/CO
3
là: Mg
0,61
Cu
0,08
Al
0,31
(OH)
1,93
(CO
3
)
0,22
.nH
2
O. So với tỉ lệ thành phần
các kim loại dự kiến ban đầu, tỉ lệ thành phần thực tế sai khác không đáng kể.
3.1.4. Đặc trưng nhiệt của vật liệu
Đƣờng cong phân tích nhiệt TGA của mẫu HT4/CO
3
đại diện đƣợc đƣa ra trên hình
3.12 cho thấy có 2 giai đoạn mất trọng lƣợng rõ rệt tƣơng ứng với hai pic thu nhiệt trên đƣờng
DTA.
Hình 3.12: Giản đồ TGA và DTA của mẫu HT4/CO
3
Giai đoạn thu nhiệt đầu tiên đến nhiệt độ 220
0
C và tƣơng ứng với mất 16,88% khối
lƣợng. Khối lƣợng mất này đƣợc gán cho mất nƣớc nằm trong lớp xen giữa. Quá trình thu
nhiệt thứ 2 xảy ra trong khoảng nhiệt độ từ 220
0
C đến 420
0
C tƣơng ứng với mất 22,19% khối
lƣợng đƣợc giải thích là do sự mất nƣớc nằm sâu trong cấu trúc và sự phân hủy của nhóm OH
-
trong lớp khoáng kép brucite. Sự giảm khối lƣợng tiếp tục xảy ra ở nhiệt độ trên 400
0
C với
6,468% khối lƣợng là do quá trình decacbonat thoát ra khí CO
2
.
Đối với vật liệu [Mg-Cu-Al/CO
3
]: pha hydrotalcite đƣợc hình thành tốt ngay ở nhiệt độ
phòng, nhiệt độ tổng hợp trong khoảng đã nghiên cứu không ảnh hƣởng đến cấu trúc pha của
vật liệu vừa tạo thành cũng nhƣ vật liệu sau nung. Với x= 0.15 và x = 0.3 có lƣợng nhôm
thấp, x <<0.33 thì chỉ tạo ra pha HT, khi x = 0.5 và 0.7 với thành phần nhôm lớn hơn thì
ngoài pha HT còn xuất hiện thêm pha Al(OH)
3
. Kết quả chụp ảnh SEM của các mẫu vật liệu
HT/CO
3
đƣợc tổng hợp ở các điều kiện phản ứng khác nhau cho thấy chúng có hình thái học
rất khác nhau và có sự biến đổi lớn tùy theo điều kiện cụ thể của quá trình tổng hợp. Kích
thƣớc của hạt sau nung sẽ nhỏ hơn kích thƣớc của hạt chƣa nung. Kích thƣớc của hạt tăng
theo chiều tăng của hàm lƣợng nhôm trong HT. Phân tích EDX chỉ ra sự có mặt của Mg, Cu,
Al, O trong mẫu, ngoài ra không có bất kì nguyên tố lạ nào khác. Khả năng loại NO
3
-
của vật
liệu với tỉ lệ x = 0.15 sau nung ở 500
0
C tốt nhất lên đến 94.3% trong 60 phút.
Đối với vật liệu [Mg-Al/Cl] yếu tố nhiệt độ quyết định đến sự hình thành vật liệu đơn
pha HT. Khi phản ứng thực hiện ở 90
0
C thì không thấy xuất hiện pic lạ. Vật liệu có cấu trúc
đơn khi tỉ lệ Mg:Al = 3, 4. Hình thái học của vật liệu thu đƣợc là các phiến, có kích thƣớc hạt
tƣơng đối đồng đều, biên hạt không rõ ràng các hạt kết tụ lại với nhau. Khi phân tích EDX đã
xác định đƣợc sự có mặt các nguyên tố Mg, Cu, Al, Cl và O; không thấy xuất hiện bất kì
10
nguyên tố lạ nào khác. Khả năng loại NO
3
-
với tỉ lệ Mg:Al = 3 và mẫu sau nung ở 200
0
C loại
63.23% NO
3
-
trong 60 phút.
Đối với vật liệu [Mg-Al/CO
3
]: với tỉ lệ Mg:Al = 3:1 có cấu trúc giống khoáng sét trong
tự nhiên nhất. Khả năng loại NO
3
-
của mẫu với tỉ lệ Mg:Al = 3:1 sau nung 500
0
C tốt nhất chỉ
loại đƣợc 48.78% sau 60 phút.
KẾT LUẬN
1. Đã tổng hợp đƣợc ba dạng vật liệu hydrotalcite Mg-Cu-Al/CO
3
, Mg-Al/Cl và Mg-
Al/CO
3
bằng phƣơng pháp đồng kết tủa từ dung dịch hỗn hợp muối của các kim loại tƣơng
ứng.
2. Sử dụng các phƣơng pháp vật lý XRD, FTIR, SEM, TA và EDX đã xác định đƣợc
các đặc trƣng cơ bản của vật liệu và ảnh hƣởng của các thông số phản ứng là nhiệt độ và nồng
độ các muối ban đầu đến độ đơn pha, kích thƣớc tinh thể của vật liệu và chọn đƣợc các điều
kiện thích hợp nhất để tổng hợp từng loại vật liệu.
3. Đã sơ bộ khảo sát khả năng loại NO
3
-
từ dung dịch nƣớc của các vật liệu tổng hợp
đƣợc.
References
1. Phan Thị Từ Ái (2000), Hoạt tính xúc tác của hydrotalcite trong phản ứng chuyển nhượng
hydro giữa hợp chất carbonyl và alcol, Luận văn thạc sĩ hóa học, ĐHQG TP Hồ Chí
Minh.
2. Vũ Đăng Độ (2004), Các phương pháp vật lý trong hóa học, NXB Đại học Quốc Gia Hà
Nội.
3. Hoàng Nhâm (2000), Hóa Vô Cơ, Tập 3, NXB Giáo Dục.
4. Nguyễn Thị Mai Thơ (2006), Điều chế hydrotalcite và nghiên cứu ứng dụng xử lý Asen
trong nước, Luận văn thạc sĩ hóa học, Đại học Quốc Gia TP Hồ Chí Minh.
Tiếng Anh
5. A. Alejandre, F. Medina, X. Rodriguez, P. Salagre and J. E. Sueiras (1999), “Preparation
and Activity of Cu-Al mixed oxides via Hydrotalcite-like precursors for the oxidation of
phenol aqueous solutions”, Journal of Catalysis, 188, pp. 311-324.
6. A.E.Palomares, J.G.Prato, F.Rey and A.Corma (2004), “Using the “memory effect” of
hydrotalcites for improving the catalytic reduction of nitrates in water”, J. Catal, 221,
pp. 62-66.
7. A. Pintar, J. Batista (2006), “Improvement of an integrated ion-exchange/catalytic process
for nitrate removal by introducing a two-stage denitrification step” Appl.Catal. B:
Environ, pp. 150-159.
8. A. Nedim, B. Zumreoglu-Karan, A. Temel, “Boron removal by hydrotalcite-like,
carbonate-free Mg-Al-NO
3
-
LDH and a rationale on the mechanism”,
Micropor.Mesopor.Mater , pp.1-5.
9. Bookin A S, Cherkashin V I & Drits A (1993), Clay Clay Miner, 41, 558.
10. Bookin A S & Drits A (1993), Clay Clay Miner 41.
11. Bratislava Slovak (2002), “Preparation of hydrotalcite – like compounds by hydrothermal
synthesis-the fifth conference on solid state chemistry”, Joint laboratory of solid state
chemistry of the academy of sciences of the Czech republic, University of the Pardubice.
12. C.P. Kelkar, A. A. Schutz (1997), “Ni-, Mg- and Co-containing hydrotalcite-like materials
with a sheet-like morphology: synthesis and characterization”, Microporous Materials,
pp. 163-172.
13. G.Fetter, J.A. Rivera, P. Bosch (2006), “Microwave power effect on hydrotalcte
synthesis”, Micropous and mesoporous material, 89, pp. 306-314.
11
14. Hibino (1999), “Synthesis and Applications of Hydrotalcite – type Anionic Clays”, report
of the nation insitute for resources and environment. No.28.
15. J.M.R. Génin, A. Renard, Ch. Ruby (2008), ”Fougerite Fe
II-III
oxyhydroxycarbonate in
environmental chemistry and nitrate reduction”, Hyperfine Interact, 186, pp. 31–37.
16. J. Theo Kloprogge, Ray L. Frost (1999), “Infrared emission spectroscopic study of the
thermal transformation of Mg-, Ni- and Co-hydrotalcite catalysts”, Applied Catalysis A:
General, 184, pp. 61-71.
17. Killian A. Ferreira, Nielson F.P.Ribeiro, Mariana M.V.M Souza, Martin Schmal (2009),
“Structural transformation of Cu-Mg-Al mixed oxide catalysts derived from
hydrotalcites during shift reaction”, Catal Lett , pp. 58-63.
18. Kok-Hui Goh, Teik-Thye Lim, Zhili Dong (2008), “Application of layered double
hydroxides for removal of oxyanion: A review”, Water research, pp. 1343-1368.
19. K.Saksl, L. Medvecký (2001), “Preparation of nanocrystalline Cu-xMgO mixture”,
Journal of materials science , 36, pp. 3675-3678.
20. Lucelena P. Cardoso, Rafael Celis, Juan Cornejo and Joao B. Vilim (2006), “Layered
double hydroxides as supports for the slow release of acid herbicides”, Journal of
agricultural and Food Chemistry, 54, pp. 5968 – 5975.
21. Lucjan Chmielarz, Malgorzata Rutkowska, Piotr Kustrowshi, Marek Drozdek, Zofia
Piwowarska, Barbara Dudek, Roman Dziembaj, Marek Michalik (2011), “An influence
of thermal treatment conditions of hydrotalcite-like materials on their catalytic activity
in the process of N
2
O
decomposition”, J Therm Anal Calorim.
22. Mahamudur Islam, Rajkishore Patel (2009), “Nitrate sorption by thermally activated
Mg/Al chloride hydrotalcite-like coumpound”, Journal of Hazardous Materials , 169,
pp. 524-531.
23. Marcella Trombetta, Gianguido Ramis, Guido Busca, Beatrice montanari and Angelo
Vaccari (1997), “Ammonia adsorption and Oxide Catalysts prepared via hydrotalcite-
type precursors”, Langmuir, 13, pp. 4628-4637.
24. M.A. Ulibarri, I. Pavlovic, C. Barriga, M.C. Hermosín, J. Cornej (2001), “Adsorption of
anionic species on hydrotalcite-like coumpounds: effect of interlayer anion and
crystallinity”, Applied Clay Science, 18, pp. 17-27.
25. Norhiro Murayama, Junji shibata (2005), “Synthesis of hydrotalcite-like material from
various waster in aluminum regeneration process”, Kaisai University, Japan.
26. P.D. Cobden and R.W.van den brink (2005), “hydrotalcite as CO
2
sorbent for sorption
enhanced steam reforing of methane”, Industrial & engneering chemistry research.
27. Ramesh Chitrakar, Akinari Sonoda, Yoji Makita and Takahiro Hirotsu (2011), “Calcined
Mg-Al layered Double hydroxides for uptake of trace levels of bromate from aqueous
solution”, Industrial & Engineering Chemistry Research , 50, pp. 9280 – 9285.
28. Ramesh Chitrakar, Satoko Tezuka, Akinari Sonoda, Kohji Sakane, and Takahiro Hirotsu
(2008), “A new method for synthesis of Mg-Al, Mg-Fe and Zn-Al layered double
hydroxides and their uptake properties of bromide ion”, Industrial & Engineering
Chemistry Research, 47, pp. 4905 – 4908.
29. Ranko P.Bontchev, Shirley Liu (2001), “intercalation and ion exchange properties of
hydrotalcite derivatives”, Sandia national laboratories.
30. Robert C. Weast (1976), Handbook of Chemistry and Physics, CRC press, INC.
31. Savita Gupta, D D Agarwal & Susanta Banerjee (2008), “Synthesis and characterization
of hydrotalcites: Potential thermal stabilizers for PVC”, Indian Journal of Chemistry
vol.47A, pp. 1004 – 1008.
32. Sherman D (2001), Synthetic Spheroidal Hydrotalcite, T03-06 Assigned to mid America
Commercialization Corporation.
12
33. Shigeo Miyata (1983), “anion-exchange properties of hydrotalcite-like compounds”,
Clays and Clay Minerals, Vol.31, No.4, pp. 305 – 311.
34. S. Kannan, Tz. Venkov, K. Hadjivanov and H. Knozinger (2004), “Fourier Transform
Infrared Study of low-temperature CO adsorption on CuMgAl-Hydrotalcite”, Langmuir,
20, pp. 730 – 736.
35. Takayoshi (1998), “Kinetics of anion uptake by rock salt-type magnesium aluminium oxid
soild solution”, Tohoku University.
36. Tatjana J.Vulić and Goran C. Bošković (2010), “Mg-Cu-Al layered double hydroxides
based catalysts for the reduction of nitrates in aqueous solutions”, Original scientific
paper.
37. Tomohito Kameda (2002), New method of treating dilute mineral axit using magnesium –
aluminum oxid Tohoku University, Japan.
38. T. Vulić, M. Hadnadjev and R. Marinković-Nedučin (2008), “Structure and morphology
of Mg-Al-Fe-mixed oxides derived from layered double hydroxides”, J. Microscopy,
232, pp. 634 – 638.
39. Vicente Rives and Srinivasan Kannan (2000), “Layered double hydroxides with the
hydrotalcite-type structure containing Cu
2+
, Ni
2+
and Al
3+
”,
J. Mater. Chem, 10, pp. 489-
495.
40. V J Kadam, P Nalawade, B Aware and R S Hirlekar (2009), “Layered double hydroxides:
A review”, Journal of Scientific & Industrial Research Vol.68, pp. 267 – 272.
41. V.K.Diez, C.r.Apecsteguia and J.I.Di Cosimo (2003), “effect of the acid-bazo properties
of Mg-Al mixed oxides on the catalyst deactivation during aldol condensation reaction”,
Santiaga del Estero 2654 Santa, Argentina.
42. Xue Duan, Jing He, Min Wei, Bo Li, Yu Kang, David G Evans (2006), Preparation of
Layered Double hydroxides, Struct Bond 119, pp. 89 – 119.
43. Xue Duan, Feng Li (2009), Applications of Layered double hydroxide, Struct Bond 119,
pp. 193-293.
44. Y. Lwin and R. Ibrahim (2010), “Adsorbents derived from Mg-Al hydrotalcite-like
compounds for high – temperature hydrogen storage”, Journal of Applied Sciences, 10,
pp. 1128-1133
45. Zou Yong, Alírio E. Rodrigues (2002), “Hydrotalcite-like compounds as adsorbent for
carbon dioxide”, Energy Conversion and Management, 43, pp. 1865 – 1876.