BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Ñeà taøi:
GV hướng dẫn : TS. LẠI TIẾN DĨNH
HV thực hiện : Trần Văn Thanh
Lớp : Ngân hàng – Ngày 1, Cao học Khóa 17
1.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 01 năm 2009
LỜI MỞ ĐẦU
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 2
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
Thực hiện đổi mới của Đảng, hệ thống Ngân hàng nước ta đã có những đổi mới sâu
sắc và căn bản, đặc biệt từ sau khi Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh Ngân hàng nhà
nước năm 1990, sau đó được kiện toàn hơn trong Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997 và
Luật sửa đổi, bổ sung năm 2003. Luật các tổ chức tín dụng được ban hành năm 1997 và
Luật sửa đổi, bổ sung năm 2004
Sau nhiều năm đổi mới, hệ thống Ngân hàng thương mại không ngừng phát triển cả về
mạng lưới, nội dung, lĩnh vực, địa bàn hoạt động, dịch vụ cung cấp. Kết quả đổi mới đó đã
góp phần xứng đáng vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước, đã góp phần đẩy lùi
và kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, trong
bối cảnh nền kinh tế thế giới đang đương đầu với cuộc khủng hoảng tín dụng, hàng loạt các
ngân hàng lớn trên thế giới lâm vào tình trạng phá sản, tình hình lạm phát trong năm tăng
cao, nhiều doanh nghiệp phá sản các ngân hàng thương mại Việt Nam đã thể hiện khả
năng hội nhập, thích nghi nhanh trong việc đương đầu, chèo lái, chống chọi cơn bão tài
chính này, góp phần kiềm chế lạm phát ở mức 19,9%, ổn định tình hình kinh tế với tốc độ
tăng trưởng đạt 6,23% so với năm 2007.
Tuy nhiên, sau khi gia nhập WTO đến nay, Hệ thống Ngân hàng thương mại nước ta
cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, thể hiện sự thụ động trong các quyết sách, các gói
dịch vụ còn đơn điệu, tính hiệu quả chưa cao
Xuất phát từ những lý do trên, bản thân đã chọn đề tài “Hệ thống Ngân hàng
thương mại của Việt Nam giai đoạn 2006 - 2008” để làm nội dung nghiên cứu cho tiểu
luận cá nhân của mình.
Cấu trúc bài viết: ngoài phần mở đầu và phần kết luận bài viết gồm 3 phần:
Phần 1: Lý thuyết chung về hệ thống Ngân hàng thương mại: Phần này nêu và phân tích
một số khái niệm cơ bản về hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam;
Phần 2: Thực trạng hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam thời gian
qua (2006-2008): Phần này tập trung đánh giá những kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế, phân
tích nguyên nhân trong quá trình hoạt động của Hệ thống Ngân hàng thương mại nước ta giai
đoạn 2006 - 2008.
Phần 3: Những kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện phát triển hệ thống Ngân hàng
thương mại Việt Nam: Phần này đưa ra các kiến nghị, định hướng và giải pháp nhằm hoàn
thiện, phát triển hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam cả trong ngắn hạn và dài hạn.
PHẦN I:
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm:
Theo Điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2004:
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 3
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
“Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật các tổ chức
tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng”.
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng
và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các
loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư,
ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác”.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một tổ chức kinh tế, hoạt động kinh doanh trên
lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, nó cung cấp một số dịch vụ cho khách hàng và ngược lại nó nhận
tiền gửi của khách hàng với các hình thức khác nhau. Nghiệp vụ kinh doanh của Ngân hàng
thương mại rất phong phú và đa dạng cùng với sự phát triển của khách hàng, khoa học kỹ
thuật kinh tế và xã hội, hoạt động của Ngân hàng thương mại cũng có nhiều phương pháp
mới, nhưng các nghiệp vụ kinh doanh về cơ bản không thay đổi là nhận tiền gửi và hoạt
động cho vay, đầu tư. Qua NHTM các chính sách tài chính tiền tệ của Quốc gia sẽ được
thực hiện một cách nhanh chóng và cũng nhờ nó mà việc kiểm soát hoạt động của các
doanh nghiệp theo đúng luật pháp được dễ dàng hơn. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của
Ngân hàng luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế và đời sống xã hội. Trong cơ chế
thị trường, các NHTM và các tổ chức tín dụng cũng là các doanh nghiệp nhưng chúng là
những doanh nghiệp đặc biệt vì tài sản trong quá trình kinh doanh của các Ngân hàng
thương mại đều phụ thuộc vào các khách hàng.
Như vậy: Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh về tiền tệ với hoạt
động thường xuyên là huy động vốn, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cung cấp các dịch vụ tài
chính và các hoạt động khác có liên quan. NHTM là tổ chức tài chính trung gian cung cấp
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất.
2. Chức năng của NHTM
2.1 Chức năng trung gian tài chính (Banks as Financial intermediaries)
Đây là chức năng quan trọng nhất của NHTM .NHTM nhận tiền gửi và cho vay
chính là đẫ thực hiện việc chuyển tiền tiết kiệm thành tiền đầu tư.
Những chủ thể dư thừa vốn cũng có thể trực tiếp đầu tư bằng cách mua các công cụ
tài chính sơ cấp như: cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp hoặc chính phủ thông qua thị
trường tài chính. Nhưng thị trường tài chính trực tiếp đôi khi không đem lại hiệu quả cao
nhất cho người đầu tư vì: khó tìm kiếm thông tin, chi phí tìm kiếm thông tin lớn, chất lượng
thông tin không cao, chi phí giao dịch lớn và phải có sự trùng khớp về nhu cầu giữa người
thừa vốn và người thiếu vốn về số lượng, thời hạn chính vì thế NHTM với tư cách là một
trung gian tài chính đứng ra nhận tiền gửi tiết kiệm và cung cấp vốn cho nền kinh tế với số
lượng và thời hạn phong phú và đa dạng đáp ứng mọi nhu cầu về vốn của khách hàng có đủ
điều kiện vay vốn. Với mạng lưới giao dịch rộng khắp, các dịch vụ đa dạng, cung cấp
thông tin nhiều chiều, hoạt động ngày càng phong phú chuyên môn hoá vào từng lĩnh vực
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 4
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
NHTM đã thực sự giải quyết được những hạn chế của thị trường tài chính trực tiếp, góp
phần nâng cao hiệu quả luân chuyển vốn trong nền kinh tế thị trường.
2.2 Chức năng tạo tiền
Chức năng tạo tiền là chức năng cực kỳ quan trọng của NHTM. Chức năng này được
thể hiện trong quá trình NHTM cấp tín dụng cho nền kinh tế và hoạt động đầu tư của
NHTM, trong mối quan hệ với NHTƯ đặc biệt trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ
mà mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền. Từ một lượng tiền cơ sở do
NHTƯ phát hành qua hệ thốngNHTM sẽ được tăng lên gấp bội khi NHTM cấp tín dụng
cho nền kinh tế. Khối lượng tiền qua hệ thống ngân hàng được tính theo công thức :
D=m.MB
D: khối lượng tiền qua hệ thống ngân hàng
MB: khối lượng tiền cơ sở
M=1/rd: hệ số nhân tiền
rd : tỷ lệ dự trữ bắt buộc
NHTƯ có thể điều tiết khối lượng tiền cung ứng bằng cách thay đổi lượng tiền tỷ lệ dự trữ
bắt buộc để tăng hoặc giảm khả năng tạo tiền của NHTM từ đó ảnh hưởng đến khả năng
cấp tín dụng cho nền kinh tế do đó đạt được hiệu quả mà mục tiêu chính sách tiền tệ đặt ra .
2.3. Chức năng cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán
Thông qua chức năng làm trung gian tài chính NHTM làm tăng lượng tiền trong lưu
thông và cung cấp cho những người đầu tư những chứng khoán có tính lỏng cao hơn và có
rủi ro thấp hơn do đó sẽ an toàn hơn khi nhà đầu tư nắm giữ những chứng khoán sơ cấp do
doanh nghiệp, công ty phát hành.
Các NHTM còn cung cấp một danh mục phương tiện thanh toán rất đa dạng và
phong phú : sec chuyển tiền, sec chuyển khoản, thẻ tín dụng sự xuất hiện của các phương
tiện thanh toán này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng giao dịch thương mại, mua
bán hàng hoá an toàn nhanh chóng, chi phí thấp.
2.4. NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính
Ngoài các dịch vụ truyền thống là huy động và cho vay, NHTM ngày nay còn cung
cấp một danh mục dịch vụ khá đa dạng và phong phú: dịch vụ thanh toán, dịch vụ môi giới,
bảo lãnh tư vấn bảo hiểm
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các loại dịch vụ ngân hàng cũng phát
triển và mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng. chưa bao giờ các dịch vụ tài chính ngân
hàng lại phát triển như bây giờ, tỷ trọng thu nhập từ thu phí dịch vụ ở các ngân hàng hiện
đại có thể chiếm tới 40-50% tổng thu nhập của ngân hàng. Đồng thời việc phát triển các
dịch vụ này cũng làm tăng hiệu quả sử dụng vốn, tăng chu chuyển vốn trong nền kinh tế,
làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông do đó tiết kiệm được chi phí in ấn kiểm đếm tiền.
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 5
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
Ngày nay trong điều kiện cạnh tranh rất khốc liệt giữa các ngân hàng việc đưa ra các
dịch vụ mới làm tăng tiện ích cho khách hàng là một yếu tố để cạnh tranh.Chính vì vậy mà
các Ngân hàng ngày nay rất tích cực đầu tư trang bị cơ sở vật chất, áp dụng công nghệ tin
học, khoa học kỹ thuật vào hoạt động của mình. Nếu các NHTM có thể đáp ứng tốt nhu cầu
của khách hàng về dịch vụ, tạo được uy tín với khách hàng thì đây cũng là một biện pháp,
yếu tố để tăng khả năng huy động vốn.
3. Vị trí, vai trò của NHTM
Kể từ khi hình thành nên hệ thống Ngân hàng hai cấp: Ngân hàng trung ương và
NHTM, trong đó các NHTM thực hiện hoạt động kinh doanh về tiền tệ và ngày càng được
mở rộng cả về số lượng cũng như chất lượng đã đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu vốn và
dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó ngành ngân hàng còn có đóng góp lớn cho ngân sách Nhà nước thông
qua việc thực hiện nghĩa vụ thuế và lợi nhuận cho ngân sách Nhà nước mỗi năm hàng tỷ
đồng, bằng nguồn quỹ phúc lợi và sự đóng góp của cán bộ, công nhân viên, ngành Ngân
hàng còn tham gia đóng góp nhiều hoạt động xã hội khác như: xóa đói giảm nghèo, ủng hộ
quỹ từ thiện, khắc phục hậu quả thiên tai
Về mặt quản lý Nhà nước về tiền tệ cũng không ngừng được hoàn thiện, việc điều
hành các chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước được áp
dụng ngày càng có hiệu quả. Những thay đổi đó đã góp phần đáng kể vào đẩy lùi và kiểm
soát lạm phát xuống mức 19,9% năm 2008, tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho tăng trưởng
kinh tế với tốc độ cao, đưa đất nước vào một thập kỷ phát triển nhanh và tương đối ổn định.
Hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế của hệ thống ngân hàng cũng không ngừng
phát triển, giúp khai thác được nguồn vốn đáng kể từ nước ngoài cho phát triển đất nước.
Đến nay quan hệ song phương về hợp tác Ngân hàng giữa Việt nam với các nước không
ngừng phát triển và mở rộng, hiện nay hệ thống Ngân hàng Việt nam đã có quan hệ giao
dịch với trên 2000 ngân hàng và tổ chức tài chính của hơn 100 quốc gia trên thế giới.
4. Đặc điểm của NHTM
Các NHTM nước ta có những đặc điểm sau:
- Mục đích hoạt động vì lợi nhuận
- Sản phẩm tồn tại chủ yếu dưới dạng dịch vụ tài chính.
- Quan hệ khách hàng và Ngân hàng trên cơ sở tin tưởng, tín nhiệm.
- Thiếu sự đảm bảo trước đổi mới.
- Chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước.
- Cung cấp sản phẩm trực tiếp là chủ yếu.
- Chịu tác động lớn và nhạy cảm với môi trường Kinh tế vĩ mô.
- Chịu nhiều rủi ro.
5. Các hoạt động chủ yếu của NHTM
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 6
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
5.1. Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức
tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn
của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các tổ chức
tín dụng nước ngoài.
- Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước.
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
5.2. Hoạt động cấp tín dụng
NHTM được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu
thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo
quy định của NHNN như bao thanh toán tài trợ nhập khẩu, tài trợ xuất khẩu, cho vay thấu
chi, và cho vay theo hạn mức tín dụng, và hạn mức tín dụng dự phòng, … Trong các hoạt
động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
5.2.1. Cho vay
NHTM được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức sau:
- Cho vay ngắn hạn nhắm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
đời sống.
- Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và đời sống.
5.2.2. Bảo lãnh.
NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo
lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh Ngân hàng khác bằng uy tín và bằng khả năng tài
chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng
mức bảo lãnh của một NHTM không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của NHTM.
5.2.3. Chiết khấu.
NHTM được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với tổ
chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác
đối với các tổ chức tín dụng khác.
5.2.4. Cho thuê tài chính.
NHTM được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải thành lập công ty cho thuê tài
chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính thực hiện
theo Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.
5.2.5. Bao thanh toán.
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 7
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
Các NHTM triển khai thực hiện bao thanh toán như là một hình thức cấp tín dụng cho
khách hàng doanh nghiệp như: bao thanh toán truy đòi ( recourse factoring), bao thanh toán
miễn truy đòi (non – recourse factoring), bao thanh toán ứng trước hay bao thanh toán chiết
khấu, bao thành toán khi đáo hạn trong phạm vi buôn bán nội địa lẫn quốc tế.
5.2.6. Tài trợ nhập khẩu.
Hiện nay, khá nhiều NHTM cung cấp tài trợ xuất nhập khẩu bao trọn gói để hỗ trợ
doanh nghiệp. Nghiệp vụ tài trợ nhập khẩu nhằm hỗ trợ về tài chính cùng các phương tiện
và giấy tờ liên quan để doanh nghiệp nhập khẩu có thể thực hiện nghĩa vụ của mình trong
hợp đồng mua bán hàng hóa, bao gồm:
- Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu.
- Cho vay ứng trước một phần để thanh toán với người bán hay ứng trước tiền thuế
nhập khẩu.
- Bảo lãnh và tái bảo lãnh việc thanh toán hối phiếu khi đến hạn.
- Chấp nhận hối phiếu.
- Cho thuê kho bãi để chứa và bảo quản an toàn hàng hóa nhập khẩu với giá cho thuê
phải chăng (nhờ lợi thế về quy mô số lượng khách hàng của Ngân hàng) tại các địa điểm
hay các địa phương khác nhau.
- Giúp khai báo thuế (thí dụ, lập tờ khai và áp mã vạch thuế chính xác nhanh chóng,
nhận lại tiền hoàn thuế nếu nộp dư do cơ quan thuế tạm tính thuế phải nộp, …).
- Cho vay để thanh toán tiền hàng nhập khẩu cho nhà xuất khẩu nếu đến hạn mà nhập
khẩu chưa có tiền.
- Hỗ trợ về mặt chuyên môn, kỹ thuật từ giúp soạn thảo hợp đồng thương mại, mua
bảo hiểm cho suốt quá trình vận chuyển và chuyển giao hàng hóa, theo dõi và kiểm tra hóa
đơn chứng từ và hàng hóa cả về số lượng, quy cách và chất lượng.
- Các hỗ trợ khác do sự bất cập về tập quán, luật pháp, …
5.2.7. Tài trợ xuất khẩu.
Các hình thức tài trợ xuất khẩu của các NHTM còn phong phú hơn do các doanh
nghiệp xuất khẩu thường nhận được tài trợ từ các Ngân hàng Thương mại về các giao dịch
kinh doanh cả trước và sau các thương vụ xuất khẩu, bao gồm:
- Cho vay thu mua hàng xuất khẩu, mua nguyên vật liệu để sản xuất, cho vay đầu tư
nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm dịch vụ, cho vay bảo trì đối với các dự án chiến
lược về máy móc thiết bị, nhà xưởng ở nước ngoài.
- Cho vay nộp thuế xuất khẩu.
- Giúp khai báo thuế (thí dụ lập tờ khai và áp mã vạch thuế chính xác, nhanh chóng,
nhận lại tiền hoàn thuế nêu nộp dư do cơ quan thuế tạm tính thuế phải nộp, khấu trừ thuế
GTGT, …).
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 8
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
- Hỗ trợ về mặt chuyên môn, kỹ thuật từ giúp soạn thảo hợp đồng thương mại, mua
bảo hiểm cho suốt quá trình vận chuyển và chuyền giao hàng hóa, theo dõi kiểm tra hóa
đơn chứng từ và hàng hóa cả về số lượng, quy cách và chất lượng.
- Các hỗ trợ cần thiết khác do sự khác biệt về tập quán, luật pháp, …
- Cho thuê kho bãi để chứa và đóng gói hàng hóa xuất khẩu với giá cả phải chăng (do
lợi thế về quy mô số lượng).
- Cho vay hỗ trợ dịch vụ vận chuyển chuyển giao hàng hóa.
- Chiết khấu hối phiếu cho nhà xuất khẩu được nhận tiền sớm.
- Chiết khấu chứng từ thanh toán theo hình thức tín dụng chứng từ.
- Giúp quản lý nợ, quản lý sổ cái bán hàng, thu nợ các khoản phải thu, bảo đảm rủi ro
không thanh toán của bên mua hàng, xếp hạng hạn mức tín dụng và thu hộ.
- Cho vay trên cơ sở bộ chứng từ thanh toán theo phương thức nhờ thu (ứng trước tiền
hàng xuất khẩu).
- Thuận nhận Ngân hàng (Ngân hàng chấp nhận thanh toán bằng cách ký chấp nhận hối
phiếu do doanh nghiệp ký phát).
5.2.8. Cho vay thấu chi.
Nhiều NHTM, đặc biệt là các chi nhánh NHTM nước ngoài, đang mở rộng nghiệp vụ
thấu chi đến các khách có mở tài khoản tại Ngân hàng của họ. khi sử dụng dịch vụ này, mỗi
khách hàng được cấp một hạn mức thấu chi khi khách hàng tạm thời thiếu hụt trong thanh
toán. Khách hàng không cần phải thế chấp hay tín chấp.
5.2.9. Cho vay theo hạn mức tín dụng và hạn mức tín dụng dự phòng.
5.2.9.1. Cho vay theo hạn mức tín dụng.
Khách hàng nộp một bộ hồ sơ vay vốn duy nhất cho một hay nhiều món vay vào
đầu quý, NHTM cấp một hạn mức tín dụng là mức dự nợ vay tối đa được duy trì trong một
thời gian nhất định mà khách hàng và ngân hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
5.2.9.2. Cho vay theo hạn tín dụng dự phòng.
Ngân hàng Thương mại cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng
nhất định ngoài hạn mức tín dụng đã được ký ban đầu giữa Ngân hàng và khách hàng, áp
dụng hạn mức tín dụng dự phòng khi khách hàng không có đủ vốn vì mức vốn đầu tư cho
dự án tăng them, nhu cầu tiêu dung, mua sắm tăng thêm, …
5.3. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ.
Để thực hiện được các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua Ngân hàng,
ngân hàng thương mại được mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước. Để thực
hiện thanh toán giữa các Ngân hàng với nhau thong qua NHNN, NHTM phải mở tài khoản
tại NHNN nơi NHTM đặt trụ sở chình và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo
quy định. Ngoài ra, chi nhánh của NHTM được mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh Ngân
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 9
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh toán
và Ngân quỹ của của NHTM bao gồm các hoạt động sau:
- Cung cấp các phương tiện thanh toán.
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng.
- Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ.
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
- Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
- Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
- Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên Ngân hàng
trong nước.
- Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
5.4. Các hoạt động khác.
Ngoài các hoạt động truyền thống bao gồm huy động tiền gửi, cấp tín dụng và cung
cấp dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, ngân hàng thương mại còn có thể thực hiện một số
hoạt động khác, bao gồm:
5.4.1. Góp vốn và mua cổ phẩn.
NHTM được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phẩn của các doanh
nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong nước theo quy định của pháp luật. Ngoài ra,
NHTM còn được góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với Ngân hàng nước ngoài để thành
lập Ngân hàng liên doanh.
5.4.2. Tham gia thị trường tiền tệ.
NHTM được tham gia thị trường tiền tệ, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước,
thong qua các hình thức mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ.
5.4.3. kinh doanh ngoại hối.
NHTM được phép trực tiếp kinh doanh hoặc thành lập công ty trực thuộc để kinh
daonh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị trường Quốc tế.
5.4.4. Ủy thác và nhận ủy thác.
NHTM được nhận ủy thác, nhận ủy thác làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến
hoạt động Ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước theo hợp đồng ủy thác, đại lý.
5.4.5. Cung ứng dịch vụ bảo hiểm
NHTM được cung ứng dịch vụ bảo hiểm, được thành lập công ty trực thuộc hoặc
liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
5.4.6. Tư vấn tài chính.
NHTM được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ cho khách hàng dưới
hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty tư vấn trực thuộc ngân hàng.
5.4.7. Bảo quản vật quý giá.
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 10
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
NHTM được thực hiện các dịch vụ bảo quản vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ
két, cầm đồ và các dịch vụ khác có liên quan theo quy định của pháp luật.
PHẦN II:
THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA (2006 - 2008)
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 11
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
1. Khái quát chung
Kể từ năm 1980, hệ thống NHTM Việt Nam đã thực hiện quá trình đổi mới và cho tới
nay đã đạt được những thành tựu đáng kể. Những thay đổi quan trọng đã đạt được cả về
mặt cơ cấu, quy định pháp lý và hoạt động đã đưa hệ thống NHTM Việt Nam sang hoạt
động theo cơ chế gần hơn với thông lệ quốc tế. Cho tới nay, hệ thống NHTM Việt Nam vẫn
tiếp tục được thống lĩnh và chi phối bởi bốn NHTM Nhà nước chiếm khoảng 70% tổng tài
sản của hệ thống. Bên cạnh các NHTM Nhà nước còn có các NHTM cổ phần, Ngân hàng
liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Nhìn chung, các NHTM Việt Nam đã thực hiện tốt chức năng của mình trong vai trò tiên
phong để hỗ trợ cho quá trình cải cách kinh tế và phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam; đồng thời đã có những đóng góp to lớn vào việc tạo lập và duy trì ổn
định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, khuyến khích xuất khẩu, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đáp ứng cơ bản nhu cầu vốn và dịch
vụ ngân hàng của nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hệ thống
NHTM Việt Nam đã bộc lộ nhiều yếu kém bên trong và phải đối mặt với những thách thức,
nguy cơ bên ngoài.
2. Những kết quả chủ yếu đã đạt được
2.1. Cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam
Có thể khẳng định, hệ thống NHTM Việt Nam đã có những biến đổi mạnh mẽ trong
thời gian qua. Trước và sau khi gia nhập WTO, các NHTM trong nước (không kể nhóm các
chi nhánh ngân hàng nước ngoài và liên doanh) đã tiến hành cơ cấu lại tổ chức bộ máy theo
hướng phục vụ cho nhóm đối tượng khách hàng và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng. Đến
nay, các NHTM đang chuyển dần sang mô hình tổ chức phân tách theo khách hàng như
doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, cá nhân kết hợp với nhóm sản phẩm, dịch vụ;
xây dựng các bộ phận quản trị và an toàn hệ thống như Hội đồng tín dụng, các bộ phận
quản lý rủi ro, Công ty quản lý và khai thác tài sản, bộ phận kiểm tra - kiểm toán nội bộ. Xu
hướng chủ đạo hiện nay là tăng cường vai trò điều hành, kiểm soát tập trung của Hội sở
chính, xác định rõ vai trò và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị, Ban điều hành và Ban kiểm
soát nội bộ. Mạng lưới chi nhánh cũng được phát triển rộng khắp các tỉnh thành phố trong
cả nước tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng tới
khách hàng.
2.2. Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt và kiềm chế lạm phát hiệu quả.
2.2.1. Sử dụng đồng bộ, quyết liệt các giải pháp thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát
có hiệu quả và ổn định kinh tế vĩ mô.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, ngay từ đầu năm, Ngân hàng Nhà nước đã chủ
động triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp nhằm kiềm chế có hiệu quả lạm phát và ổn
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 12
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
định kinh tế vĩ mô:
Chủ động thu hút tiền về từ lưu thông nhằm kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng tổng
phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng, đồng thời, hỗ trợ kịp thời vốn ngắn hạn cho các
tổ chức tín dụng gặp khó khăn về thanh khoản.
Quy định trần lãi suất huy động VND ở mức 12%/năm kể từ ngày 26/2/2008 đến
18/5/2008. Từ ngày 19/5/2008, thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với Luật
Ngân hàng Nhà nước và Bộ luật Dân sự, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh
bằng VND đối với khách hàng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước công bố trong từng thời kỳ; đồng thời từng bước điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản và
các mức lãi suất khác cho phù hợp với mục tiêu kiểm soát chặt chẽ tiền tệ.
2.2.2. Tiếp tục kiềm chế lạm phát nhưng linh hoạt trong điều hành nhằm ổn định kinh tế vĩ
mô và chủ động ngăn ngừa nguy cơ suy giảm kinh tế.
Trước những tín hiệu khả quan về kinh tế vĩ mô và kết quả kiềm chế lạm phát của
nước ta từ tháng 7/2008 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã từng bước nới lỏng chính sách
tiền tệ bằng các giải pháp linh hoạt để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động
ngăn ngừa suy giảm kinh tế:
- Điều chỉnh linh hoạt lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc, lãi suất tín phiếu Ngân hàng
Nhà nước bắt buộc phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ; từng bước giảm dần
lãi suất cơ bản và các mức lãi suất khác phù hợp với xu hướng giảm của lãi suất cơ bản.
- Giảm dần tỷ lệ dự trữ bắt buộc, c
ho phép các tổ chức tín dụng sử dụng tín phiếu
Ngân hàng Nhà nước bắt buộc trong các giao dịch tái cấp vốn với Ngân hàng Nhà nước và
thanh toán trước hạn nếu có nhu cầu.
2.2.3. Điều hành tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu thị trường, hỗ trợ xuất khẩu và
hạn chế nhập siêu.
Trong năm 2008, diễn biến cung cầu ngoại tệ trên thị trường không ổn định do biến
động tăng, giảm luồng ngoại tệ chuyển vào Việt Nam, nhập siêu tăng cao và yếu tố tâm lý,
đầu cơ. Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng linh hoạt các giải pháp để ổn định thị trường ngoại
tệ, hỗ trợ xuất khẩu và hạn chế nhập siêu:
- Mở rộng từng bước biên độ ấn định tỷ giá mua – bán đồng Đôla Mỹ từ mức 0,75%
lên 3%; điều hành tỷ giá bình quân liên ngân hàng phù hợp với cung cầu ngoại tệ và mục
tiêu hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập siêu.
- Phối hợp với Bộ Công thương kiểm soát chặt chẽ nhập siêu. Can thiệp mua, bán
ngoại tệ phù hợp với mục tiêu kiềm chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, đảm bảo
mức tăng dự trữ ngoại hối nhà nước, cân đối cung cầu ngoại tệ, đáp ứng các nhu cầu ngoại
tệ thiết yếu cho nền kinh tế.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định về quản lý ngoại hối; sửa
đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định về quản lý ngoại hối, nhất là quản lý các đại lý thu
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 13
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
đổi ngoại tệ nhằm hạn chế tình trạng đầu cơ và mua bán ngoại tệ bất hợp pháp trên thị
trường tự do.
Bên cạnh các giải pháp trên, để hạn chế những tác động tiêu cực của cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu đối với nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng
Nhà nước đã kịp thời xây dựng và trình Thường trực Chính phủ thông qua Phương án bảo
đảm an toàn hệ thống ngân hàng và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô do ảnh hưởng tiêu cực
của khủng hoảng tài chính và nguy cơ suy thoái kinh tế toàn cầu.
2.3. Đáp ứng có hiệu quả các nhu cầu vốn phục vụ mục tiêu tăng trưởng.
Để góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý trong
điều kiện thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt, Ngân hàng nhà nước đã thực hiện linh hoạt,
đồng bộ các giải pháp nhằm hỗ trợ vốn cho các nhu cầu sản xuất, kinh doanh, đồng thời
kiểm soát chặt chẽ quy mô, chất lượng tín dụng. Cụ thể:
- Chỉ đạo các tổ chức tín dụng điều chỉnh kế hoạch kinh doanh và cơ cấu tín dụng
phù hợp với chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của Ngành đi
đôi với kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng; ưu tiên vốn cho
lĩnh vực sản xuất, xuất
khẩu, nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và
vừa, các dự án đầu tư khả thi, có hiệu quả và có khả năng trả nợ đúng hạn;
tăng cường cho
vay và thực hiện có hiệu quả chính sách cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo, học sinh, sinh
viên và các đối tượng chính sách khác.
- Quy định chặt chẽ điều kiện cho vay và khống chế tổng dư nợ cho vay, chiết khấu
giấy tờ có giá để đầu tư, kinh doanh chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ
chức tín dụng. Ban hành mới cơ chế cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng theo hướng chỉ cho vay đối với nhu cầu nhất thiết phải sử dụng vốn vay bằng
ngoại tệ, hạn chế tình trạng đôla hoá.
- Chỉ đạo, hướng dẫn các tổ chức tín dụng hỗ trợ vốn cho các lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh gặp khó khăn, như: kinh doanh, nhập khẩu xăng dầu;
các
dự án nguồn điện cấp bách;
sản xuất hàng may mặc;
thu mua, tiêu thụ
cá tra, cá ba sa và lúa gạo hàng hoá vùng đồng
bằng sông Cửu Long
;
tiêu thụ cà phê ở Tây Nguyên; các lĩnh vực bị thiệt hại do thiên tai,
dịch bệnh…
-
Thành lập Tổ công tác xử lý khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp nhỏ và
vừa trong quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng trên địa bàn Thành phố Hà Nội và Hồ
Chí Minh.
Một số chỉ tiêu tiền tệ, tín dụng đạt được năm 2008:
- Tổng phương tiện thanh toán ước tăng 16-17% và dư nợ tín dụng ước tăng 21-22%
so với cuối năm 2007. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 5,4% và tỷ giá giao dịch của
các ngân hàng thương mại tăng 8-9% so với cuối năm 2007.
- Lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng giảm nhanh trong những tháng cuối
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 14
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
năm từ mức 23-24%/năm xuống dưới 12,75%/năm, trong đó mức lãi suất cho vay thấp nhất
là 8,5%/năm.
- Vốn tín dụng đầu tư vào khu vực dân doanh tăng 35-37%, khu vực doanh nghiệp
nhà nước tăng 12-14%, lĩnh vực xuất khẩu tăng 35-37%, khu vực sản xuất tăng 34-36%,
khu vực nông nghiệp và nông thôn tăng 30%; cho vay hộ nghèo và đối tượng chính sách
khác tăng 40-42%.
2.4. Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng
Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, nhưng chương trình tái cơ cấu và nâng cao năng lực
hoạt động, khả năng cạnh tranh của hệ thống các tổ chức tín dụng vẫn đạt được những kết
quả tích cực, nổi bật là:
- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã chính thức chuyển đổi từ ngân hàng thương
mại 100% vốn nhà nước sang ngân hàng thương mại cổ phần, trong đó Nhà nước nắm cổ
phần chi phối; Ngân hàng Công thương Việt Nam đã tổ chức phát hành cổ phiếu lần đầu ra
công chúng vào ngày 25/12/2008; các ngân hàng thương mại nhà nước còn lại (trừ Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đang tiếp tục triển khai kế hoạch cổ phần hoá.
- Ngân hàng Nhà nước đã cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho 3 ngân hàng
thương mại cổ phần trong nước; 3 ngân hàng 100% vốn nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam,
4 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 3 công ty tài chính 100% vốn nước ngoài tại Việt
Nam, 3 công ty tài chính trong nước và 29 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở.
- Thực hiện chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng có mức vốn điều lệ dưới
1.000 tỷ đồng đã khẩn trương xây dựng và thực hiện kế hoạch tăng vốn lên 1.000 tỷ đồng
trước thời điểm 31/12/2008. Đến nay, các ngân hàng này đã cơ bản hoàn thành kế hoạch
tăng vốn, trong đó, một số ngân hàng đang chờ hoàn tất thủ tục để thực hiện tăng vốn.
- Các tổ chức tín dụng tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống kiểm tra, kiểm soát,
kiểm toán nội bộ và xếp hạng tín dụng, tạo cơ sở nâng cao năng lực quản trị rủi ro, từng
bước đáp ứng yêu cầu phát triển mới. Mạng lưới hoạt động được chú trọng củng cố, nâng
cấp.
- Để tháo gỡ khó khăn cho các quỹ tín dụng nhân dân, được sự chấp thuận của Thủ
tướng Chính phủ, đầu tháng 12/2008, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định cho
phép các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ấn định lãi suất kinh doanh tối đa bằng 165% lãi suất
cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố.
2.5. Hiện đại hoá hoạt động ngân hàng và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt
Công tác hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và phát triển thanh toán không dùng tiền
mặt trong năm 2008 tiếp tục có bước phát triển mạnh mẽ:
- Các hệ thống thanh toán tiếp tục được ứng dụng công nghệ hiện đại hoá, tiên tiến
theo hướng tự động hoá, mở rộng dịch vụ, phạm vi áp dụng và tăng nhanh tốc độ xử lý.
Đặc biệt, từ ngày 18/11/2008, hệ thống thanh toán liên ngân hàng giai đoạn 2 đã được vận
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 15
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
hành chính thức thay thế giai đoạn 1 với dung lượng xử lý lên đến 2 triệu giao dịch/ngày,
góp phần mở rộng, nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán, chu chuyển vốn của nền kinh
tế.
- Đề án xây dựng trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất và tái cấu trúc công ty cổ
phần chuyển mạch thẻ quốc gia (Banknetvn) đang được triển khai tích cực. Đến nay, 2 liên
minh thẻ lớn nhất là Banknetvn và Smartlink với 65% số máy ATM của toàn quốc đã được
kết nối liên thông.
- Dịch vụ thẻ ngân hàng và mở tài khoản cá nhân phát triển nhanh chóng với khoảng
15 triệu tài khoản cá nhân, tăng 36% so với cuối năm 2007 và 13,4 triệu thẻ, tăng 46% so
với cuối năm 2007. Hệ thống máy ATM đạt hơn 7 nghìn máy, tăng hơn 2.200 máy so với
cuối năm 2007.
- Các dịch vụ hỗ trợ thanh toán của các công ty làm dịch vụ kết nối trung gian giữa
các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán với người sử dụng cũng bắt đầu xuất hiện và đang
mở rộng về nội dung, phạm vi hoạt động, góp phần thúc đẩy dịch vụ thanh toán điện tử
phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.
Sự phát triển của các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt đã góp phần giảm tỉ lệ
thanh toán bằng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán từ mức 18% vào cuối năm 2007
xuống còn 14% vào thời điểm hiện nay.
2.6. Tăng cường hợp tác quốc tế, nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trong cộng
đồng tài chính, tiền tệ quốc tế.
Trong năm 2008, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện tốt vai trò là cơ quan đại
diện của Chính phủ Việt Nam tại các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế; duy trì và mở rộng
quan hệ đối ngoại với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế, các đối tác song phương và đa
phương để tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế và thu hút nguồn lực tài chính và tư
vấn kỹ thuật phục vụ công cuộc phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
Quan hệ đối ngoại trong lĩnh vực ngân hàng đã góp phần nâng cao vị thế của Việt
Nam trong khu vực và trên thế giới
Kết quả hoạt động ngân hàng từ năm2006 đến 2008 đã góp phần quan trọng trong
việc kiềm chế thành công lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, duy trì
tăng trưởng hợp lý và ngăn ngừa tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu đối với kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động tiền tệ, ngân hàng nói riêng. Ghi nhận
đóng góp của ngành Ngân hàng, vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã tặng Bằng khen cho 10
tập thể trong Ngành, trong đó có Hiệp hội ngân hàng và 6 ngân hàng thương mại.
3. Những hạn chế và yếu kém
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên, xét một cách tổng thể, hệ
thống ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế và yếu kém. Dưới đây là
những hạn chế, yếu kém chủ yếu của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 16
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
3.1. Vốn tự có thấp so với quy mô tài sản
Vốn tự có có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp nói chung và đặc biệt đối với NHTM. Nếu một ngân hàng có vốn tự có lớn ở quy
mô thích họp so với tài sản có rủi ro thì mức độ chịu đựng rui ro càng cao, khả năng và
phạm vi hoạt động càng rộng. Thực tế, vốn tự có của các NHTM Việt Nam rất thấp so với
quy mô tài sản, đặc biệt là trong trường hợp của các NHTMNN. Khả năng tự bổ sung vốn
tự có từ nguồn lợi nhuận để lại thấp do khả năng sinh lời của các NHTMNN không cao.
Theo đánh giá của các chuyên gia ngân hàng thế giới cho thấy, mức độ chênh lệch giữa lãi
suất huy động đầu vào và lãi suất cho vay đầu ra của các NHTMNN là rất thấp, bình quân
chỉ đạt khoảng 1,6 đến 1,8%/năm. Thực tế, với mức chênh lệch này và căn cứ vào các
chuẩn mực kiểm toán quốc tế (IAS) thì các NHTMNN khó có được nguồn lợi nhuận để lại
để bổ sung nguồn vốn tự có hàng năm.
So sánh hệ số an toàn vốn của các NHTM Việt Nam với các NHTM ở khu vực Châu
Á cho thấy, chỉ số CAR của các NHTM Việt Nam thấp hơn tương đối so với các NHTM ở
khu vực Châu Á, thậm chí chỉ số này có nguy cơ xấu đi do tốc độ tăng tài sản có nhanh
hơn tốc độ tăng vốn tự có. Tại thời điểm năm 2003, chỉ số CAR bình quân của các ngân
hàng khu vực Châu Á Thái Bình Dương (gồm 52 ngân hàng thuộc 10 quốc gia) là 9,4% và
của các nước Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philipine là khoảng 12,3%. Xem xét chỉ số
CAR của các NHTMCP cho thầy, hầu hết các ngân hàng này đã đạt tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu là 8%. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo thông lệ quốc tế đang là một trong những vấn
đề khó khăn của các NHTMNN.
3.2. Nợ xấu ngân hàng có xu hướng gia tăng
Khó khăn của nền kinh tế, trong hoạt động của mỗi ngân hàng đang dần thể hiện ở xu
hướng gia tăng của nợ xấu. Nếu trong năm 2007, đa số thành viên khối quốc doanh chỉ trên
dưới 3%, khối cổ phần phổ biến dưới 2%, thì năm nay dự kiến sẽ có nhiều trường hợp có
nợ xấu trên 5%.
Cuối năm 2008, một số ngân hàng lớn đã chính thức công bố tỷ lệ nợ xấu thực tế hoặc
mục tiêu kiểm soát từ 5% đến hơn 6%. Tuy nhiên, nhiều thành viên chưa có động lực để
công bố và cập nhật số liệu liên quan. Dự kiến từ đầu năm 2009, bức tranh về nợ xấu của hệ
thống ngân hàng sẽ rõ ràng hơn.
Liên quan đến vấn đề nợ xấu, sự suy giảm mạnh của thị trường bất động sản và chứng
khoán là những lo ngại nổi bật trong năm 2008, ảnh hưởng đến chất lượng và quan hệ tín
dụng của các ngân hàng thương mại. Riêng làn sóng giải chấp chứng khoán cầm cố (thu hút
sự chú ý của dư luận trong tháng 2 và 3) cũng là một điểm nổi bật trong năm khó khăn này.
3.3. Sản phẩm, dịch vụ ngân hàng còn đơn điệu và chất lượng chưa cao
Sản phẩm, dịch vụ ngân hàng còn đơn điệu và chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng
được nhu cầu đa dạng của nền kinh tế, chưa tạo thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho các
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 17
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
khách hàng thuộc các thành phần kinh tế khác nhau trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ
ngân hàng. Hầu hết các NHTM còn nặng về nghiệp vụ truyền thống, tín dụng vẫn là hoạt
động tạo ra thu nhập chủ yếu của các NHTM, hoạt động phi tín dụng và dịch vụ chưa phát
triển mạnh mẽ. Các sản phẩm, dịch vụ tiên tiến chưa trở nên phổ thông và tiện dụng, nhất là
các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng bán lẻ và ngân hàng điện tử. Hầu hết các sản phẩm dịch
vụ ngân hàng hiện đại mới chỉ ở giai đoạn thử nghiệm hoặc triển khai thí điểm.Việc mở
rộng tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có những chuyển biến tích cực
nhưng còn nhiều vướng mắc.
3.4. Cơ cấu nguồn vốn huy động chưa hợp lý
Hầu hết các nguồn vốn huy động được của các ngân hàng thương mại là ngắn hạn
trong khi các dự án lớn và hiệu quả lại đòi hỏi nguồn vốn trung và dài hạn. Việc sử dụng
nguồn ngắn hạn để tài trợ cho các dự án trung và dài hạn vượt quá mức quy định cho phép
sẽ đặt các ngân hàng thương mại đứng trước rủi ro về lãi suất và rủi ro thanh khoản rất lớn.
3.5. Tinh thần hợp tác không cao
Thực tế trong thời gian qua, một số ngân hàng thương mại quá chú trọng đến lợi ích
của ngân hàng mình mà thiếu quan tâm đến lợi ích chung của toàn hệ thống, thậm chí ngay
trong cùng một ngân hàng nhưng các chi nhánh cũng cạnh tranh với nhau rất gay gắt. Một
số ngân hàng còn nới lỏng các điều kiện vay vốn, hạ thấp lãi suất cho vay để giành giật
khách hàng, gây xáo trộn trên thị trường tín dụng.
Trong việc phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại, cũng dễ nhận thấy hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam chưa cùng nhau chia sẽ và phát triển những lợi thế chung
của toàn hệ thống để khai thác dịch vụ một cách hiệu quả. Tình trạng mạnh ai nấy làm vẫn
là một đặc trưng của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
3.6. Hệ thống công nghệ thông tin còn nhiều bất cập
Hệ thống công nghệ thông tin ngân hàng chưa đạt trình độ tiên tiến, còn cách xa và có
nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước phát triển hơn trong khu vực và trên thế giới. Tốc
độ phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi
mới và hiện đại hóa ngân hàng và hội nhập quốc tế. Hệ thống công nghệ thông tin chưa
phát triển đồng bộ, mức độ tự động hóa thấp. Việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin
chủ yếu tập trung vào một số nghiệp vụ ngân hàng cơ bản.
Khả năng tiếp cận với các luồng thông tin của ngân hàng cũng như khách hàng còn hạn
chế. Thông tin không đầy đủ và thiếu kịp thời nên công tác thẩm định dự án, cập nhật thông
tin về khách hàng, đánh giá và dự báo nhu cầu của khách hàng tới các ngân hàng không
hiệu quả.
Khả năng kết nối mạng thanh toán cục bộ của các ngân hàng với mạng thanh toán
quốc gia và giũa các mạng thanh toán cục bộ với nhau còn nhiều khó khăn, do trình độ
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 18
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
công nghệ thanh toán của các ngân hàng không đồng đều, mật độ cơ sở cung cấp dịch vụ
ngân hàng còn mỏng và hạ tầng viễn thông quốc gia còn nhiều yếu kém.
3.7. Trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ còn thấp
Đội ngũ lao động của các NHTM Việt Nam tuy đông về số lượng nhưng trình độ chuyên
môn nghiệp vụ còn thấp, nhất là cán bộ quản lý. Cơ cấu tổ chức trong nội bộ các ngân hàng
còn chưa hợp lý, còn chồng chéo và chưa khoa học trong việc bố trí, phân định chức năng,
trách nhiệm và quan hệ theo các chiều ngang và dọc ảnh hưởng xấu đến công tác điều hành
của ngân hàng. Nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ là một vấn
đề mang tính chiến lược xuyên suốt và cần được các ngân hàng thương mại Việt Nam quan
tâm đảm bảo đủ về số lượng và chất lượng để sẵn sàng hội nhập quốc tế.
4. Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém
4.1. Nguyên nhân khách quan
- Khuôn khổ pháp lý về hoạt động tiền tệ, ngân hàng chưa phù hợp và hoàn chỉnh.
Nhiều quy định, chính sách trong lĩnh vực ngân hàng chưa phù hợp với nguyên tắc thị
trường và các thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Hệ thống chính sách khuyến khích và sử dụng
lao động trong lĩnh vực ngân hàng chưa họp lý.
- NHNN còn chịu nhiều sự chi phối trực tiếp của Chính phủ và sự can thiệp của nhiều
cơ quan chức năng trong quá trình xây dựng và thực hiện CSTT. Mức độ can thiệp hành
chính vào hoạt động ngân hàng thương mại còn lớn. Quyền lợi và quyền tự chủ kinh doanh
của các NHTM chưa được bảo đảm bằng pháp luật và trên thực tế, nhất là trong lĩnh vực
hoạt động tín dụng, nhất là các vấn đề liên quan đến quyền của ngân hàng với tư cách là
chủ nợ, nghĩa vụ của con nợ, bảo đảm nghĩa vụ tài chính, xử lý bảo đảm tiền vay ;
- Nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở trình độ phát triển thấp. Thể chế kinh tế thị
trường chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, đặc biệt là thị trường chứng khoán, thị trường lao
động, thị trường bất động sản và thị trường hàng hóa còn hoạt động ách tắc và kém hiệu
quả. Hệ thống pháp luật bảo đảm cho hệ thống kinh tế thị trường vận hành có hiệu quả,
nhất là về bất động sản, thương mại, cạnh tranh Cơ sở hạ tầng công nghệ và kỹ thuật nói
chung còn nhiều hạn chế, nhất là hệ thống công nghệ thông tin và viễn thông quốc gia;
- Môi trường kinh tế vĩ mô chưa ổn định vững chắc, còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ và
môi trường kinh doanh còn nhiều rủi ro. Tốc độ và hiệu quả cải cách của khu vực phi ngân
hàng chưa tương xứng, đặc biệt là sự yếu kém về tài chính và hoạt động của khu vực doanh
nghiệp;
- Thiếu bằng chứng thực nghiệm và tiền lệ về chuyển đổi mô hình hệ thống ngân hàng
một cấp sang hai cấp hoạt động theo cơ chế thị trường.
4.2. Nguyên nhân chủ quan
- Hệ thống NHTM Việt Nam thiếu chiến lược phát triển tổng thể dài hạn cùng với lộ
trình và các giải pháp triển khai cụ thể. Cho đến nay, định hướng phát triển của hệ thống
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 19
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu mang tính chất đối phó với tình huống đã nảy
sinh hoặc thực sự đã trở thành mối đe dọa. Những chính sách, biện pháp điều chỉnh của
NHNN phổ biến mang tính chất tình thế và ngắn hạn trong khi môi trường tiền tệ, ngân
hàng của nền kinh tế đang phát triển ở Việt Nam lại luôn biến động, song ngược lại việc
điều chỉnh chính sách và hành động còn chậm chạp;
- Mặc dù xuất phát điểm thấp, nhưng tốc độ cải cách thể chế, hoạt động, công nghệ và
quản lý của hệ thống ngân hàng Việt Nam diễn ra chậm, theo kiểu mò mẫm, vừa làm vừa
rút kinh nghiệm, thiếu những quyết sách mang tính đột phá. Tư duy và cách làm chậm đổi
mới theo hướng kinh tế thị trường do chậm mở cửa thị trường và duy trì quá lâu cơ chế
quản lý cũ;
- Năng lực trình độ cán bộ ở cả khu vực NHNN và NHTM còn yếu về quản lý vĩ mô
và điều hành kinh doanh, chưa đáp ứng được yêu cầu hoạt động trong điều kiện kinh tế thị
trường, cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
PHẦN III:
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 20
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
NHỮNG KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN PHÁT
TRIỂN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1. Tạo môi trường pháp lý - kinh tế - xã hội ổn định
Hiện nay, hành lang pháp lý của Việt nam còn rất nhiều bất cập cần phải thay đổi theo
hướng tạo quyền tự chủ cho các NHTM và các chi nhánh trực thuộc nhưng cũng phải gắn
chặt trách nhiệm đến cùng cho họ, hạn chế việc tùy tiện của các cơ quan chức năng, cơ
quan thi hành pháp luật và việc lẩn tránh trách nhiệm, chây ì của người vay. Bên cạnh đó
còn phải phù hợp với thông lệ hoạt động ngân hàng trên thế giới cũng như cơ chế thị trường
mà Việt nam đang theo đuổi để tăng hiệu lực pháp lý cũng như có chính sách sửa đổi
Việc tăng trưởng và phát triển nền kinh tế sẽ làm nền tảng để đưa đến một xã hội ổn
định hơn, việc kết hợp nhiều yếu tố khác nhau để nền kinh tế phát triển là điều kiện đầu tiên
cho hệ thống ngân hàng tăng vốn, tăng khả năng cung cấp vốn và các dịch vụ cho khách
hàng. Do vậy cần nhanh chóng có biện pháp thích hợp đưa kinh tế, xã hội vào khuôn khổ
ổn định để kiểm soát một cách hợp lý, đảm bảo tăng trưởng đều.
Phương thức hoạt động của ngân hàng là đi vay để cho vay nên dù gì đi nữa thì nó
cũng cần phải kinh doanh có lãi và bảo tồn được nguồn vốn của mình. Vì vậy việc chú
trọng đến hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là trong kinh doanh tín dụng, là
yêu cầu sống còn mà tất cả các Ngân hàng thương mại đều phải thực hiện.
2. Tăng cường tiềm lực tài chính của các NHTM Nhà nước.
Mục tiêu của giải pháp này nhằm tăng vốn chủ sở hữu, tăng hiệu quả sử dụng vốn của
các trung gian tài chính và bằng một tầm nhìn chiến lược đó là đặt vị trí ưu tiên hàng đầu
đối với phát triển hệ thống ngân hàng trong cơ chế thị trường, vận dụng vào Việt Nam theo
định hướng xã hội chủ nghĩa:
- Về mặt giải pháp tình thế trước mắt, cần xem xét lại chính sách tài khóa ưu tiên cấp
vốn bổ sung cho hệ thống NHTMNN trong chi đầu tư. Không nên để vốn tự có của
NHTMNN chỉ bằng vốn của một trong những xí nghiệp công nghiệp loại vừa của nền kinh
tế quốc dân. Cần xem xét và điều chỉnh lại trong cơ cấu chi tiêu của ngân sách nhà doanh
để có thể đáp ứng được một phần khó khăn trước mắt đối với tăng vốn điều lệ cho
NHTMNN.
- Có thể tiến hành phát hành trái phiếu chính phủ để tái cấp vốn cho NHTMNN
thông qua huy động nguồn vốn nội lực của công chúng. Tuy nhiên phải tính đến loại trái
phiếu có lãi và được bồi hoàn (thanh toán khi đáo hạn). Có như vậy mới thực sự tăng cường
năng lực tài chính cho hệ thống NHNN.
- Về mặt chiến lược việc tăng cường năng lực tài chính cho NHTMNN cũng tức là
góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh cho cộng đồng các doanh nghiệp của nền kinh tế
trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu. Nước ta cần phải có một hoặc hai
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 21
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
ngân hàng thương mại quốc doanh có mức vốn điều lệ tương đối lớn ngang tầm khu vực
(tương đương vài tỷ USD). Muốn đạt được điều này cần phối hợp nhiều giải pháp: Có thể
sáp nhập một số NHTMNN thành một vài NHTM lớn hoặc trên cơ sở sáp nhập, sắp xếp lại
các NHTM, đồng thời cổ phần hóa một số NHTMNN, trong đó số vốn của Nhà nước đủ
sức chi phối những ngân hàng mới này. Qua đây có thể huy động nguồn lực trong công
chúng vào quỹ đạo của thị trường tài chính. Hoặc thông qua hình thức ngân hàng sở hữu
công ty, thực hiện chế độ tham dự đối với hàng loạt tập đoàn sản xuất kinh doanh, biến
NHTMNN trở thành tập đoàn mạnh về vốn, về cộng nghệ về năng lực điều hành đủ sức
làm “bà đỡ” cho phát triển kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Với những giải pháp mang tính định hướng trên đây, chắc rằng hệ thống ngân hàng
Việt Nam sẽ thoát khỏi tình trạng khó khăn trong một thời gian không xa . Tất nhiên cùng
với nó, phải có hàng loại giải pháp đồng bộ như xử lý dứt điểm nợ tồn đọng, nợ xấu của các
ngân hàng thương mại, lập công ty mua bán nợ và chứng khoán hóa các khoản nợ của hệ
thống ngân hàng, huy động vốn qua thị trường chứng khoán tránh tư tưởng ỷ lại, trông
chờ vào ngân sách Nhà nước. Và điều này không thể giải quyết trong một sớm một chiều
được.
3. Nâng cao sức mạnh, năng lực hoạt động của các NHTM.
Để tiến hành đổi mới và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình các NHTM Việt
Nam có thể chọn lựa hai cách thức cơ bản:
- Tập trung khai thác các lợi thế sẵn có kết hợp với sử dụng một số thành tựu khoa
học công nghệ mới.
- Chủ yếu dựa vào sáng tạo và áp dụng tri thức công nghệ mới có tính cạnh tranh cao
ở cả trong nước lẫn trên phạm vi quốc tế, xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay còn nhiều
hạn chế, khó khăn các NHTM chưa thể thực hiện cách thứ hai nên có thể chọn cách trước.
Nhưng về lâu dài các NHTM sẽ phải từng bước chuyển sang thực hiện cách thứ hai để đảm
bảo cho sự phát triển bền vững, tham gia hội nhập và cạnh tranh quốc tế một cách chủ động
và có hiệu quả.
Tăng cường tiếp thu và áp dụng một cách sáng tạo các thành tựu khoa học- kỹ thuật
và công nghệ mới kết hợp với việc khôn khéo sử dụng các yếu tố văn hóa dân tộc để tạo ra
sắc thái riêng và chất lượng cao trong dịch vụ các NHTM.
Trong quá trình đổi mới, yếu tố con người, đặc biệt là người có tài ngày càng có vị trí,
vai trò quan trọng hơn tới sự phát triển và năng lực cạnh tranh của mỗi một ngân hàng. Vì
đây là một nhân tố năng động và có tính quyết định nhất trong việc sáng tạo và vận dụng
các thành tựu khoa học – công nghệ mới để hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế,
chính sách tạo ra năng suất, chất lượng dịch vụ ngân hàng cao hơn.
Thu nhập từ các dịch vụ mới dựa trên tri thức và công nghệ cao ngày càng chiếm tỷ
trọng lớn hơn trong tổng thu nhập của hệ thống NHTM. Điều đó có nghĩa, các hoạt động
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 22
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
truyền thống như nhận tiền gửi, cho vay tuy vẫn còn nhưng vị trí, vai trò của chúng ngày
càng giảm. Hiện nay ở các nước phát triển thực tế thu nhập từ các dịch vụ mới thường
chiếm trên 70% tổng thu nhập, trong khi đó ở nước ta tỷ lệ này còn ở mức dưới 30%.
Đối với các hoạt động quản trị ngân hàng cần nâng cao chất lượng và hiệu quả của các
quyết định quản lý trên cơ sở nâng cao trình độ tri thức và tầm nhìn của cán bộ lãnh đạo,
đồng thời tăng cường công tác nghiên cứu, thu thập và xử lý thông tin để các quyết định
được ban hành kịp thời, sát đúng đem lại hiệu quả cao. Đối với các hoạt động kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ ngân hàng cần đa dạng hóa và nâng cao chất lượng của các hoạt động này
trên cơ sở mở ra các dịch vụ mới có áp dụng các công nghệ, quy trình hiện đại để xâm nhập
vào các thị trường mới và tăng thêm thị phần .
Xây dựng cơ chế, chính sách để tạo ra môi trường thuận lợi, khuyến khích mạnh mẽ
hơn các hoạt động sáng tạo nhăm hoàn thiện, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các dịch
vụ và hoạt động của ngân hàng.
Mỗi ngân hàng cần xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chính sách đổi mới công nghệ
cho mình, trong đó cần chú trọng vào việc tạo vốn và các nguồn lực cần thiết khác để thực
hiện có hiệu quả nhất các chính sách này. Điều cần chú ý là khi lựa chọn cộng nghệ mới
cần tính toán đầy đủ, cân nhắc kỹ tất cả các yếu tố khác có liên quan để đảm bảo lợi ích lâu
dài, khả năng cạnh tranh cao.
Tăng cường hợp tác và liên kết giữa các NHTM Việt Nam để có thể hợp lực giải
quyết những vấn đề lớn, đem lại lợi ích chung. Đồng thời cũng mở rộng hợp tác quốc tế để
tranh thủ sự trợ giúp nhiều mặt cả về tài chính, kỹ thuật và đào tạo, tư vấn của các ngân
hàng nước ngoài và tổ chức tài chính –tiền tệ quốc tế để đẩy nhanh quá trình này.
Tăng cường hợp tác, liên kết với các công ty tư vấn, cơ quan nghiên cứu để nâng
cao khả năng định hướng các hoạt động của mình cũng như dự báo đúng các xu hướng phát
triển của thị trường, công nghệ và đánh giá, thẩm định đúng các dự án vay vốn ngân hàng
để đầu tư cho các lĩnh vực mới, có áp dụng các công nghệ cao
4. Áp ụng tiến bộ khoa học kỹ thuât.
Hiện đại hoá đồng bộ hạ tầng kỹ thuật công nghệ trên phạm vi toàn hệ thống ngân
hàng; đồng thời bảo đảm sự tương thích và tính mở của hệ thống công nghệ thông tin. Hiện
đại hoá các hệ thống thanh toán ngân hàng theo hướng tự động hoá, phát triển hệ thống
thanh toán điện tử trong phạm vi toàn quốc và hiện đại hoá hệ thống thanh toán điện tử liên
ngân hàng kết nối đến hầu hết các NHTM để hình thành hệ thống thanh toán quốc gia thống
nhất và an toàn. Cụ thể:
4.1. Trong ngắn hạn:
Phát triển các kênh giao dịch điện tử, trước hết ở các thành phố, trung tâm kinh tế
lớn;
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 23
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
Tổng kết chương trình tái cơ cấu, đặc biệt là chương trình phát triển thể chế quản trị
mới của NHTMNN để rút kinh nghiệm, đẩy mạnh và nhân rộng chương trình này ra cho
các NHTMCP (chiến lược kinh doanh, sổ tay tín dụng, kiểm toán nội bộ, quản trị rủi ro );
4.2. Trong trung hạn:
Hoàn thiện và chuẩn hóa các qui trình tác nghiệp và quản lý nghiệp vụ ngân hàng;
Hoàn thiện xây dựng các phần mềm quản lý nghiệp vụ ngân hàng cơ bản (quản lý tín
dụng, tài trợ thương mại, ngân hàng bán lẻ, ngân hàng đầu tư, quản lý tài chính - kế toán,
dịch vụ thanh toán).
Hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý tập trung tại Hội sở chính của các NHTM.
4.3. Trong dài hạn:
Tiếp tục triển khai hiện đại hóa hệ thống thanh toán và ngân hàng giai đoạn II ;
Hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin tích hợp toàn bộ hệ thống các ứng dụng
công nghệ với hệ thống dịch vụ trong toàn bộ mạng lưới của các NHTM; triển khai hệ
thống giao dịch trực tuyến đến hầu hết các chi nhánh của NHTM.
5. Phát triển các nghiệp vụ mới trên thị trường tài chính.
Trước tiên, cần phải đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ngân hàng: so với các NHTM
trên thế giới thì nhìn chung các loại hình dịch vụ ngân hàng tại Việt nam hiện nay đều
thuộc loại dịch vụ truyền thống và khá giống nhau giữa các NHTM. Nhằm thu hút và giữ
chân khách hàng các NHTM cần chú ý hơn đến việc thiết kế và triển khai nhiều loại dịch
vụ mới phù hợp hơn đối với nhu cầu của khách hàng.
Một số các loại hình dịch vụ mới chưa được sự quan tâm đầy đủ để khắc phục tình
trạng này, các NHTM cần thiết phải có một phòng chuyên trách công tác nghiên cứu và
phát triển dịch vụ ngân hàng nhằm đảm bảo sự thành công của các dịch vụ mới khi tung ra
thị trường, đồng thời phải có biện pháp liên tục củng cố chất lượng của các dịch vụ cũ đã có
nhằm đảm bảo tính thích ứng với nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Ngoài ra, để nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân
hàng thì các NHTM cần chủ động mở thêm các nghiệp vụ ngân hàng mới có tính thương
mại như: chi trả kiều hối, thẻ tín dụng, sec du lịch thu đổi ngoại tệ, tư vấn cho khách hàng
đặc biệt là các dịch vụ thanh toán quốc tế, đối ngoại, môi giới tiền tệ, quản lý tài sản, quản
lý danh mục đầu tư, các dịch vụ thanh toán và quyết toán đối với các tài sản tài chính, dịch
vụ bảo hiểm, kinh doanh các sản phẩm tài chính phái sinh
6. Phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống ngân hàng.
Tăng cường năng lực, hiệu quả của bộ máy quản trị (Hội đồng quản trị), bộ máy điều
hành (Ban điều hành) và các phòng, ban tại Hội sở chính thông qua cơ cấu lại tổ chức để
xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các bộ phận.
Xây dựng kế hoạch đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Các NHTM trước hết cần
tạo ra những động lực và đòn bẩy khuyến khích từng cá nhân tự học tập và rèn luyện, sau
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 24
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
đó cần đầu tư phát triển đội ngũ chuyên gia giỏi thông qua chương trình đào tạo chuyên
sâu, có tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia khác.
Bởi vậy, cần dành một quỹ thời gian để hướng dẫn tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến
thức về chuyên môn nghiệp vụ, chú trọng nghiệp vụ marketing, kỹ năng bán hàng, thương
thảo hợp đồng và văn hoá kinh doanh.
7. Đa dạng hóa các kênh phân phối và thực hiện phân phối có hiệu quả.
Trong xu thế hội nhập, phát triển dịch vụ ngân hàng được xác định là một định
hướng chiến lược quan trọng của các NHTM Việt Nam. Trong đó, việc phát triển các kênh
phân phối là một trong những giải pháp tiên quyết, đòi hỏi phải tích cực phát triển mạng
lưới các chi nhánh cấp I, chú trọng mở rộng thêm các phòng giao dịch vệ tinh với mô hình
gọn nhẹ. Bên cạnh việc duy trì và mở rộng các kênh phân phối truyền thống như các chi
nhánh, các phòng giao dịch, các NHTM cần nghiên cứu và ứng dụng các kênh phân phối
hiện đại, đồng thời tăng cường quản lý phân phối nhằm tối đa hóa vai trò của từng kênh
phân phối một hiệu quả, đáp ứng yêu cầu giao dịch ở mọi lúc, mọi nơi như:
- Tăng cường hiệu quả và khả năng tự phục vụ của hệ thống ATM nhằm cung cấp
nhiều loại dịch vụ khác nhau với chi phí rẻ hơn, nâng cấp hệ thống ATM thành những
“ngân hàng thu nhỏ” trải đều khắp các tỉnh, thành phố. Đồng thời, phát triển mạng lưới các
điểm chấp nhận thẻ (POS) và tăng cường liên kết giữa các NHTM để nâng cao hiệu quả và
mở rộng khả năng sử dụng thẻ ATM và thẻ POS;
- Phát triển loại hình ngân hàng qua máy tính và ngân hàng tại nhà nhằm tận dụng sự
phát triển của máy tính cá nhân và khả năng kết nối internet. Trong đó, các NHTM cần sớm
đưa ra các loại dịch vụ mới để khách hàng có thể đặt lệnh, thực hiện thanh toán, truy vấn số
dư và thông tin về cam kết giữa ngân hàng và khách hàng, v.v;
- Phát triển loại hình ngân hàng qua điện thoại, đây là mô hình phổ biến với chi phí
rất thấp, tiện lợi cho cả khách hàng và ngân hàng. Khách hàng có thể thực hiện giao dịch tại
bất cứ thời gian, địa điểm nào;
- Mở rộng các kênh phân phối qua các đại lý như, đại lý chi trả kiều hối, đại lý phát
hành thẻ ATM, đại lý thanh toán.
Quá trình phát triển và hoàn thiện dịch vụ ngân hàng phải được thực hiện từng bước,
vững chắc, đồng thời có bước đột phá để tạo đà phát triển nhanh chóng trên cơ sở giữ vững
thị phần đã có và mở rộng thị trường, tạo nhiều tiện ích cho người sử dụng dịch vụ, kết hợp
hài hoà lợi ích khách hàng với lợi ích của ngân hàng và có lợi cho nền kinh tế.
8. Tăng cường hoạt động tiếp thị và chăm sóc khách hàng
Việc quảng bá, tiếp thị các sản phẩm dịch vụ đóng vai trò cực kỳ quan trọng, có lợi
cho cả ngân hàng và khách hàng. Tăng cường chuyển tải thông tin tới công chúng qua các
phương tiện thông tin đại chúng nhằm giúp khách hàng có thông tin cập nhật về năng lực
và uy tín của ngân hàng. Cung cấp đầy đủ và kịp thời về các dịch vụ truyền thống và hiện
Hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam Trang 25
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
đại của NH, giúp khách hàng nắm được cách thức sử dụng ,lợi ích của các sản phẩm dịch
vụ ngân hàng và tạo lòng tin cho khách hàng khi sử dụng các dịch vụ ngân hàng.
Tăng cường và thường xuyên quan tâm đến việc chăm sóc khách hàng, đặc biệt là
khách hàng truyền thống, khách hàng VIP … như vào các dịp lễ, sinh nhật,cuối năm.
Tổ chức các cuộc hội thảo về nghiệp vụ, hội nghị khách hàng … để trao đổi, học tập
kinh nghiệm giữa các bên, giải quyết các vướng mắc phát sinh trong giao dịch, từ đó tạo
mối quan hệ hợp tác lâu dài và gắn kết giữa khách hàng và ngân hàng.
* Các giải pháp khác.
NHNN và các NHTM cần phối hợp với Tổng cục Thống kê trong việc xây dựng
danh mục dịch vụ ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế, làm cơ sở để xây dựng hệ thống báo
cáo định kỳ về các loại hình dịch vụ cụ thể, góp phần nâng cao chất lượng quản trị, điều
hành.
Triển khai mô hình tổ chức kinh doanh theo định hướng khách hàng và chủ động tìm
đến khách hàng, xác định nhu cầu của từng nhóm khách hàng, từ đó đưa ra các loại sản
phẩm và dịch vụ phù hợp.
Các NHTM chủ động liên kết hình thành các tập đoàn tài chính – tín dụng để tăng khả
năng cạnh tranh.
KẾT LUẬN