Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh thái nguyên thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.82 KB, 17 trang )

Phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Thái
Nguyên thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hiện nay


Hữu Thị Hồng Hoa


Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị
Luận văn ThS. ngành: Triết học; Mã số: 60 22 80
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Trọng Tuấn
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về lực lượng sản xuất và vai trò của
phát triển lực lượng sản xuất đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Thái
Nguyên hiện nay. Chỉ ra các nhân tố cơ bản quyết định đến sự phát trriển của lực
lượng sản xuất. Phân tích, đánh giá thực trạng sự phát triển lực lượng sản xuất của
Thái Nguyên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kiến nghị một số giải
pháp nhằm phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Thái Nguyên đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Keywords. Triết học; Lực lượng sản xuất; Công nghiệp hóa; Thái Nguyên; Hiện đại
hóa

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Học thuyết hình thái KT- XH của chủ nghĩa duy vật lịch sử do Mác xây dựng, trong đó có
quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là lý luận khoa học, là
thế giới quan và phương pháp luận cách mạng cho việc nghiên cứu và giải quyết các vấn đề


XH.
Ở nước ta, trong những năm 60-70 của thế kỷ XX, do trong nhận thức cũng như hành
động, chúng ta chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với
trình độ phát triển của LLSX nên chúng ta đã phạm sai lầm chủ quan duy ý trí, vi phạm quy
luật khách quan. Một thời gian dài chúng ta cường điệu hoá vai trò của QHSX, muốn tạo một
QHSX tiên tiến đi trước mở đường cho LLSX phát triển. Điều đó đã làm cho LLSX bị kìm
hãm nặng nề, đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trong một số năm.
Bước vào thời kỳ đổi mới, chúng ta từng bước sửa chữa những sai lầm cả trong nhận
thức, cũng như trong thực tiễn vận dụng quy luật này. Nhờ vậy “QHSX được điều chỉnh phù
hợp hơn so với tính chất, trình độ và yêu cầu phát triển của sản xuất, giải phóng và phát huy
tiền năng to lớn trong nước, tạo điều kiện thuận lợi khai thác nguồn lực bên ngoài”.
Nhờ đó sau gần 30 năm đổi mới chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Nền kinh tế
từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã chuyển sang cơ chế thi trường định hướng
XHCN; từ chỗ chủ yếu chỉ có hai thành phần là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã chuyển
sang có nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; đời sống các tầng lớp
nhân dân được cải thiện. đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, vượt qua được
những cơn chấn động chính trị và sự hụt hẫng về thị trường do những biến động ở Đông Âu và
Liên Xô gây ra; phá được thế bao vây cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế; tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng an ninh được
tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn nhiều so với những năm trước.
Hiện nay nước ta đang bước vào giai đoạn mới - giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thực chất là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
hiện đại, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, từng bước hội nhập, tạo tiền đề kinh tế - xã hội
để đất nước tiến lên CNXH. Báo cáo chính trị tại đại hội IX của Đảng chỉ rõ” Con đường
công nghiệp hoá, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những
bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt”. Để đạt được mục tiêu đó, trước hết cần phải phát
triển LLSX, trên cơ sở đó từng bước xây dựng QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX theo từng giai đoạn là đòi hỏi tất yếu khách quan của sự phát triển.

Cùng với cả nước, tỉnh Thái Nguyên đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa với
những đặc điểm riêng của mình. Là một tỉnh miền núi Đông Bắc, có nhiều dân tộc anh em,
tỉnh Thái Nguyên có nhiều tiềm năng về kinh tế, có vị trí quan trọng về chính trị, quốc phòng
và an ninh. Do vậy, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã nhận thức đúng và bước đầu vận dụng sát
hợp quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất vào đặc điểm kinh tế - xã hội địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc nhận thức và vận dụng quy luật này
còn có nhiều hạn chế nhất định: Kinh tế chậm phát triển; Việc huy động và sử dụng các
nguồn lực của tỉnh còn kém hiệu quả; Trình độ khoa học công nghệ còn lạc hậu; Kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng kịp với nhu cầu phát triển của tỉnh; hội nhập kinh tế quốc
tế còn hạn chế…
Từ thực trạng trên đã đặt ra yêu cầu phải tổng kết thực tiễn, vận dụng lý luận vào cuộc
sống rút ra những bài học, kinh nghiệm để phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh TN trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết đối với cả lý
luận và thực tiễn.
Xuất phát từ suy nghĩ trên, tôi chọn vấn đề: "Phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Thái
Nguyên thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sỹ, với hy
vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ của mình cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và
địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua liên quan đến vấn đề "Phát triển lực lượng sản xuất thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa" đã có rất nhiều công trình khoa học đề cập. Những kết quả nghiên
cứu này có giá trị lịch sử nhất định. Tuy nhiên, thực tiễn luôn vận động biến đổi và phát triển
nên mọi kết luận tổng kết vẫn cần được bổ sung, phát triển.
Ở Liên xô và một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây, nhiều nhà khoa học đã có những
nghiên cứu khá sâu về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và ứng dụng quy luật này vào
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiều vấn đề lý luận đã được giải quyết. Nhưng cũng
còn nhiều vấn đề thực tiễn chưa có câu trả lời, đặc biệt là từ giữa những năm 80 trở lại đây,
khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở một số nước lâm vào khủng hoảng.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về lực lượng sản xuất trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ

nghĩa đã được Đảng ta hết sức chú ý. Từ nhiều năm trước đây, những bài học về sự cần thiết
phải tôn trọng quy luật khách quan, về những sai lầm do quá nhấn mạnh ý nghĩa mở đường
của các quan hệ sản xuất, do sự tuyệt đối hóa vai trò của công nghiệp nặng đã được phân
tích và rút kinh nghiệm. Những công trình, bài viết tiêu biểu xoay quanh vấn đề này là:
Nghiên cứu về biểu hiện đặc thù của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Luận án phó
tiến sĩ, Nguyễn Tĩnh Gia, 1987); Nghiên cứu về quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế hàng hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Lâm Đồng (Luận án phó tiến sĩ, Bùi Chí Kiên, 1996); Từng bước
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lạng Sơn (Luận án tiến sĩ,
Nông Thị Mồng, 2000); Vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở miền núi phía Bắc nước ta
(Luận án tiến sĩ, Vi Thái Lang, 2002); Nghiên cứu nguồn lực con người trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (Luận án tiến sĩ, Đoàn Văn Khái, 2000);… Lê Xuân Đình, Ưu tiên
phát triển lực lượng sản xuất, Tạp chí Cộng sản, số 5 (03/1999); Lê Huy Ngọ, Khoa học -
công nghệ phải là động lực mạnh mẽ đưa nông nghiệp, nông thôn sang bước phát triển mới,
Tạp chí Cộng sản số 3 (02-1999), Nguyễn Cảnh Hồ, có phải khoa học đang trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, Tạp chí Triết học, số 2 (02/2002); Lê Văn Dương, vấn đề đổi mới
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn, Tạp chí Triết học, số 1 (01/2002)… Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa, Phát
triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Mai Quốc Chánh, Nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999;
Lương Xuân Quỳ, xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến
bộ công bằng, xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002
Song, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào chuyên bàn về việc phát triển lực
lượng sản xuất ở tỉnh Thái Nguyên thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa dưới dạng một luận
văn khoa học. Chính vì vậy, trong luận văn này, tác giả đã cố gắng tiếp thu kết quả đã đạt
được của những công trình vừa nêu, nhằm tổng kết, đánh giá sự vận động, phát triển của các
yếu tố của lực lượng sản xuất ở tỉnh Thái Nguyên; trên cơ sở đó làm rõ những vấn đề đang

đặt ra, tìm hướng giải quyết, đồng thời khuyến nghị một số giải pháp có tính định hướng để
thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất ở một tỉnh miền núi trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở phân tích thực trạng vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Thái Nguyên
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, luận văn đã chỉ ra những nhân tố tác
động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng như những vấn đề nảy sinh, đồng thời đưa
ra những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Thái Nguyên.
* Nhiệm vụ:
Luận văn tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về lực lượng sản xuất và vai trò của phát triển lực
lượng sản xuất đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
- Chỉ ra các nhân tố cơ bản quyết định đến sự phát trriển của lực lượng sản xuất.
- Phân tích, đánh giá thực trạng sự phát triển lực lượng sản xuất của Thái Nguyên trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Thái Nguyên đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập này tập trung làm rõ vai trò của phát triển lực lượng sản xuất đối với công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Nguyên. Từ đó chỉ ra những thực trạng của việc phát triển
lực lượng sản xuất và kiến nghị một số giải pháp nhằm phát triển lực lượng sản xuất của tỉnh
Thái Nguyên.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, lý luận hình thái kinh tế - xã hội. Cùng với các quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam, những chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển lực
lượng sản xuất. Đề tài còn kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học, các bài viết đã được công bố có liên quan đến đề tài.

- Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, phương pháp lôgíc kết hợp với lịch sử để phân tích,
đánh giá sự phát triển của lực lượng sản xuất ở tỉnh TN. Ngoài ra luận văn còn sử dụng
những phương pháp khác như thống kê, khảo sát, tổng hợp so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
* Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Đánh giá đúng thực trạng sự phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Thái Nguyên, chỉ ra xu
hướng vận động và phát triển của lực lượng sản xuất thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
tỉnh Thái Nguyên.
- Bước đầu đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Thái
Nguyên.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu và
giảng dạy triết học tại các trường đại học, cao đẳng, trường chính trị, cũng như những ai quan
tâm đến vấn đề này.
* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về lực lượng sản xuất và vai trò của lực
lượng sản xuất đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Luận văn cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các ban ngành của tỉnh tham khảo
trong việc hoạch định các chính sách nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đồng thời
luận văn còn là tư liệu tham khảo cho những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy bộ
môn Mác-Lênin.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 2 chương, 6
tiết:
Chƣơng 1: Thực chất của sự phát triển lực lượng sản xuất thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Chƣơng 2: Thực trạng và giải pháp cơ bản nhằm phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh
Thái Nguyên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Chƣơng 1

THỰC CHẤT CỦA SỰ PHÁT TRIỂN LỰC LƢỢNG SẢN XUẤT
THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Thực chất của phát triển lực lƣợng sản xuất
1.1.1. Khái niệm lực lượng sản xuất và kết cấu của nó
Có thể hiểu khái niệm lực lượng sản xuất với những nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất: Lực lượng sản xuất là biểu hiện của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,
đó là một hệ thống lực lượng vật chất do con người và xã hội loài người tạo ra để cải tạo,
chinh phục tự nhiên. Hệ thống lực lượng vật chất này đồng thời biểu hiện luôn cả sức mạnh,
năng lực chinh phục tự nhiên của con người.
Thứ hai: Lực lượng sản xuất là một thể thống nhất bao gồm yếu tố người và các yếu tố
vật, trong đó con người là yếu tố đặc biệt. Bởi vì, con người là chủ thể sáng tạo, chế tạo ra
những công cụ, các phương tiện bổ trợ cho các khí quan của mình, tác động đến khách thể -
đối tượng lao động để tạo ra những vật phẩm đáp ứng những nhu cầu của bản thân và của xã
hội. Trong quá trình đó, con người đồng thời tự cải tạo bản thân mình cả về sinh thể và trí
tuệ. Ngày nay, yếu tố trí tuệ đang ngày càng trở nên chiếm ưu thế và được coi là lực lượng
sản xuất trực tiếp.
Thứ ba: Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong phương thức sản
xuất, nó thường xuyên vận động và phát triển; nó quyết định sự vận động, phát triển của lịch
sử xã hội loài người.
Lực lượng sản xuất bao gồm các yếu tố sau đây:
- Người lao động
- Tư liệu sản xuất
1.1.2. Phát triển lực lượng sản xuất, yếu tố quyết định cho sự phát triển của xã hội
Sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự yêu cầu trình độ của lực lượng sản xuất phải
có mối quan hệ với tính chất của lực lượng sản xuất, nó biểu hiện trạng thái tiến hành hoặc
động thái phát triển của lực lượng sản xuất.
Như đã biết, lực lượng sản xuất được cấu thành từ các yếu tố, như người lao động, tư
liệu sản xuất và một số điều kiện, phương tiện phục vụ sản xuất khác. Ngoài ra trong điều
kiện hiện nay, lực lượng sản xuất còn có một yếu tố dặc biệt, đó là khoa học - công nghệ.
Như vậy thực chất của quá trình thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển chính là quá trình tác

động trực tiếp đến các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất; đồng thời phải tạo mọi điều kiện
từ vật chất đến tinh thần để các yếu tố đó phát triển một cách hợp lý.
Xu hướng phát triển của sản xuất xã hội là biến đổi và phát triển không ngừng. Sự phát
triển đó bao giờ cũng được bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, mà
trước hết là công cụ lao động. Đây là yếu tố có tác dụng và quyết định đối với sự biến đổi của
phương thức sản xuất. Cho nên lực lượng sản xuất là yếu tố động hơn và cách mạng hơn cả
của sản xuất vật chất. Trong khi đó quan hệ sản xuất lại tương đối ổn định, sự ổn định được
duy trì trong khi lực lượng sản xuất luôn vận động biến đổi phát triển đã hình thành mâu
thuẫn cơ bản của một phương thức sản xuất (mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất). Mâu thuẫn càng phát triển thì quan hệ sản xuất càng trở thành xiềng xích, trói buộc
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sản xuất đòi hỏi phải thay quan hệ sản xuất cũ đã lỗi
thời (là xiềng xích trói buộc) bằng một quan hệ sản xuất mới thích ứng với trình độ phát triển
mới của lực lượng sản xuất. Quá trình đó chính là sự thay thế một phương thức sản xuất cũ
lỗi thời bằng một phương thức sản xuất mới cao hơn.
1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và những yêu cầu cụ thể về lực lƣợng sản xuất
1.2.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và những biểu hiện của nó
Công nghiệp hóa là quy luật tất yếu trong sự phát triển của các dân tộc từ xã hội nông
nghiệp lạc hậu sang xã hội công nghiệp văn minh. Công nghiệp hóa đã diễn ra trên thế giới từ
những năm cuối thế kỷ XVIII và hiện nay vẫn đang tiếp diễn với quy mô ngày càng lớn, tốc
độ ngày càng nhanh, trình độ ngày càng cao và công nghiệp hóa đã gắn với hiện đại hóa.
Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang diễn ra như vũ bão, thì công
nghiệp hoá, hiện đại hoá được coi là phương thức cơ bản, con đường tất yếu để cải biến một
xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội văn minh. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá
trình tạo ra những biến đổi về chất trong toàn bộ các hoạt động của đời sống xã hội, trước hết
là hoạt động sản xuất vật chất. Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII
(1994) đã thông qua đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta đã đưa ra
định nghĩa về công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
Về thực chất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình xây dựng một lực lượng sản xuất
hiện đại. Trong đó, con người là lực lượng sản xuất hàng đầu. Xuất phát từ khái niệm trên,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa hàm chứa các nội dung sau:

Thứ nhất: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ cơ cấu
đơn ngành sang đa ngành, từ cơ cấu kinh tế nông nghiệp chiếm ưu thế sang công nghiệp và
dịch vụ chiếm ưu thế.
Thứ hai: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ
hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành có vị trí quan trọng.
Thực hiện công nghiệp hóa trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật ngày nay phải gắn
bó với quá trình hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân về phương diện công nghệ. Hiện đại hóa
dưới góc độ kinh tế - kỹ thuật là mục tiêu vươn tới của quá trình công nghiệp hóa, nhưng
chúng còn bị ràng buộc bởi yêu cầu đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội. Giải quyết mối quan
hệ này chính là tìm ra bước đi thích hợp với quá trình hiện đại hóa nhưng theo điều kiện cụ
thể của từng nước. Hiện đại hóa ở Việt Nam cần sự tính toán, tiến hành một cách hợp lý, để
thích ứng và bắt nhịp xu thế chung của thời đại, nhưng phải phát huy được ưu thế của nguồn
lực lao động.
Thứ ba: Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bất cứ giai đoạn nào cũng là quá
trình kinh tế - kỹ thuật, kinh tế - xã hội và phải đặt trong bối cảnh chung.
Thứ tư: Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với quá trình đô thị hóa khu vực
kinh tế nông thôn.
Thứ năm: Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đồng thời là quá trình mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế. Ngày nay, thị trường lao động mang tính quốc tế và quốc tế hóa đời sống
kinh tế đã trở thành xu thế của thời đại.
1.2.2. Yêu cầu của sự phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam
Lực lượng sản xuất có vai trò to lớn đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chính vì
vậy việc phát triển lực lượng sản xuất chính là để tạo ra các điều kiện thuận lợi để thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản
xuất thấp lại trải qua nhiều năm chiến tranh với những hậu quả nặng nề, những tàn dư của xã
hội cũ để lại còn nhiều và cả sự chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc
của các thế lực thù địch. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng “tiếp tục nâng cao ý trí tự
lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc đồng thời mở rộng quan

hệ hợp tác quốc tế, tìm bước đi, hình thức, biện pháp, con đường thích hợp xây dựng thành
công CNXH”.
1.3. Những nhân tố chính ảnh hƣởng đến sự phát triển lực lƣợng sản xuất
1.3.1. Con người - động lực quan trọng nhất thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
Trong lực lượng sản xuất có mối quan hệ hữu cơ giữa hai yếu tố cấu thành, đó là con
người và tư liệu sản xuất. Trong mối quan hệ này vai trò của các yếu tố khác khi tham gia vào
quá trình sản xuất chỉ có thể đánh giá khi xem xét nó trong mối quan hệ với nhân tố con
người. Bởi vì, các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, thiết bị máy móc thực chất chỉ là
những nguồn lực phụ thuộc vào con người. Chúng chỉ được phát hiện, cải tạo, biến đổi và
phát huy tác dụng khi có sự kết hợp với nhân tố con người. Chính vì vậy mà thiếu nó thì tất
cả mọi nhân tố khác đều không thể trở thành lực lượng sản xuất. Con người đang ngày càng
chứng tỏ vị trí đặc biệt đó bằng hoạt động trí tuệ của mình, sáng chế ra những thành tựu khoa
học - công nghệ dần thay thế cho lao động của chính mình, bổ trợ cho sức lực vật chất và trí
tuệ của con người, tác động, chinh phục tự nhiên ngày một hiệu quả hơn. Bởi vậy, con người
là động lực của sự phát triển, nhờ có con người thì mọi vật liệu tự nhiên mới trở thành những
công cụ lao động để đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của chính con người và xã hội.
Và đồng thời con người cũng là mục tiêu của sự phát triển. Chính nhu cầu tiêu dùng của con
người đã tạo nên một động lực kích thích mạnh mẽ và tạo ra những định hướng cho sự phát
triển của hoạt động sản xuất nói chung, của lực lượng sản xuất nói riêng. Trong quá trình đáp
ứng các nhu cầu về vật chất và tinh thần của mình, con người đã tự cải tạo mình, đặt mình
vào những "điều kiện" và qua các điều kiện này, con người có những thay đổi về thể chất và
trí tuệ một cách phù hợp hơn với điều kiện khách quan và với quá trình sản xuất đó. Do đó,
có thể nói nhu cầu, mục tiêu của con người là động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất.
1.3.2. Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là động lực thúc đẩy sự phát triển
nhảy vọt của lực lượng sản xuất
Sau hai thế kỷ phát triển, tức gần hai thế kỷ tích lũy tư bản và phát triển sức sản xuất của
nền công nghiệp với những biến đổi không ngừng trong phương thức sản xuất và kết cấu kinh
tế, vào giữa thế kỷ XX, cùng với quá trình nền kinh tế thị trường cổ điển chuyển sang nền
kinh tế thị trường hiện đại, trong nội dung vật chất của nền sản xuất xã hội lại diễn ra một

cuộc cách mạng - cách mạng khoa học - công nghệ đã đánh dấu một bước ngoặt trong tiến
trình kinh tế của nhân loại. Tác dụng của nó đối với đời sống xã hội đã trở thành động lực,
thành sức sản xuất hiện đại thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất.
1.3.3. Tác động kìm hãm hoặc thúc đẩy của quan hệ sản xuất đến lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất được thể hiện ở ba mặt đó là:
- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
- Quan hệ tổ chức và quản lý quá trình sản xuất.
- Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.

Chƣơng 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT TRIỂN
LỰC LƢỢNG SẢN XUẤT Ở TỈNH THÁI NGUYÊN TRONG THỜI KỲ CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
2.1. Thực trạng phát triển lực lƣợng sản xuất ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay
2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội
* Về điều kiện tự nhiên tỉnh Thái Nguyên.
* Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên trong quá trình thực hiện công nghiệp
hoá - hiện đại hoá.
2.1.2. Thực trạng nguồn nhân lực ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay
- Về số lượng nguồn nhân lực:
Như vậy, nguồn lao động có xu hướng ngày càng tăng, số lao động trong độ tuổi lao động
trên tổng dân số toàn tỉnh tính đến năm 2009 là 54,3%. Trong đó, số người mất khả năng lao
động hàng năm chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Tỷ lệ lao động trẻ (dưới 35 tuổi) chiếm tỷ lệ lớn
(58%) trong tổng số lao động. Đây là lực lượng lao động dồi dào tạo điều kiện thuận lợi cho
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhưng cũng đặt ra nhiều khó khăn trong giải quyết việc
làm vì hiện tại nhiều lao động chưa được bố trí công việc hợp lý. Mặc dù tỉnh đã rất quan tâm
đến chính sách việc làm, cụ thể: số lao động được tạo việc làm trong năm ngày càng tăng:
năm 2004 là 13.320 người thì đến năm 2010 đã tăng lên 16.150 người, nhưng do tốc độ tăng
dân số của tỉnh nhanh, trong khi nền sản xuất còn chưa đáp ứng đủ nhu cầu phân công lao
động của xã hội.

- Về chất lượng nguồn nhân lực.
Chất lượng người lao động bao gồm sức khỏe, tri thức tình cảm, kỹ năng và kỹ sảo. Vì
thế để đánh giá được chất lượng người lao động, cần phải phân tích người lao động ở hai
phương diện cơ bản là thể lực và trí lực. Tỉnh Thái Nguyên xác định yếu tố con người là khâu
đột phá mang tính quyết định nhất trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 2020, vì
thế tỉnh rất quan tâm chăm sóc sức khỏe, chăm lo đời sống vật chất và phát triển tri thức, trí
tuệ người lao động.
Về dân trí:
Thái Nguyên được cả nước biết đến là một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực lớn thứ 3
sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Mỗi năm tỉnh đào tạo dược gần 100.000 lao động.
Chính vì thế, trình độ người lao động ở Thái Nguyên so với các tỉnh và Thành phố khác trong
khu vực trung du miền núi phía Bắc là tương đối cao. Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thái Nguyên
rất quan tâm đến giáo dục đào tạo và coi đây là nhiệm vụ cốt yếu của tỉnh. Văn kiện Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII đã chỉ rõ mục tiêu của tỉnh là: “Phấn đấu ở các bậc học,
ngành học có mô hình đào tạo chuẩn quốc tế, phổ cập giáo dục mầm non giai đoạn 2010 -
2015. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển các trường đại học, cao đẳng
trên địa bàn”.
2.1.3. Thực trạng tư liệu sản xuất ở tỉnh Thái Nguyên
Tư liệu sản xuất được cấu thành từ nhiều yếu tố như công cụ lao động, đối tượng lao
động, và một số điều kiện, phương tiện phục vụ sản xuất nhất định.
* Công cụ lao động.
* Đối tượng lao động: ở đây chỉ xét đối tượng lao động là các dạng có sẵn trong tự nhiên
như đất, nước, khoáng sản
- Thực trạng về nguồn đất:
- Thực trạng nguồn nước:
- Thực trạng nguồn khoáng sản:
* Thực trạng kết cấu hạ tầng ở Thái Nguyên.
- Về giao thông:
- Thông tin liên lạc.
- Hệ thống cung cấp điện và nước sinh hoạt:

* Thực trạng khoa học công nghệ ở Thái Nguyên.
Khoa học - công nghệ có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Một
nền sản xuất với trình độ công nghệ lạc hậu thì nền sản xuất ấy không thể đem lại hiệu quả
cao. Điều này chứng tỏ rằng phát triển khoa học -công nghệ là sự tác động trực tiếp để cho
lực lượng sản xuất phát triển. Chính vì vậy, trong những năm qua Thái Nguyên đã rất quan
tâm đến đổi mới trang thiết bị và ứng dụng công nghệ tiên tiến vào các lĩnh vực của sản xuất.
Các chương trình khoa học và công nghệ phần lớn đều xuất phát từ yêu cầu thực tế, phục vụ
trực tiếp cho các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Hàng loạt các dự án xây dựng
mô hình trình diễn ứng dụng tiến bộ kỹ thuật quy mô lớn trên nhiều lĩnh vực. Cụ thể:
Tóm lại: Thực tiễn cho thấy, yêu cầu bức thiết hiện nay của tỉnh là phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Để làm được điều này, Thái Nguyên đã và đang có những cơ chế, chính sách nhằm
phát huy tối đa sự gắn kết tự nhiên giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển, khi mà các yếu tố của lực lượng sản xuất ở Thái Nguyên vẫn ở trình độ
thấp so với các vùng khác trong nước và quốc tế.
2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với phát triển lực lƣợng sản xuất ở tỉnh Thái Nguyên
hiện nay
2.2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu cao của việc phát triển lực lượng sản xuất với trình độ
con người của tỉnh còn có mặt chưa tương xứng
2.2.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa cao với những trang
thiết bị công nghệ phục vụ sản xuất còn thiếu và yếu
2.2.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu cao của việc phát triển lực lượng sản xuất với sự non
yếu trong việc thiết kế một quan hệ sản xuất phù hợp
2.2.4. Mâu thuẫn giữa điều kiện kết cấu hạ tầng của tỉnh còn có hạn với yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày càng cao
2.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển lực lƣợng sản xuất ở tỉnh Thái Nguyên
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
2.3.1. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn Đảng bộ, tăng cường
năng lực quản lý ủy ban nhân dân đối với sự phát triển lực lượng sản xuất ở Thái Nguyên
Để làm tốt vai trò lãnh đạo của mình, trước hết Đảng bộ và chính quyền tỉnh cần phải tự

đổi mới, tự phát hiện và thực hiện nghiêm túc những yêu cầu về xây dựng và chỉnh đốn tổ
chức Đảng trong sạch vững mạnh theo những giải pháp sau:
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác chính trị, tư tưởng của các cấp bộ đảng, tạo sự
chuyển biến về nhận thức và hành động của toàn Đảng bộ. Bồi dưỡng, nâng cao nhận thức
cho cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa Mác- Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục
tiêu con đường xã hội chủ nghĩa và đường lối đổi mới, gương mẫu chấp hành các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Xây dựng bộ máy chính quyền các cấp hoạt động hiệu quả trên nguyên tắc của Hiến
pháp và pháp luật là tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất Thái Nguyên phát triển.
- Tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền
gọn, nhẹ, hiệu quả. Đẩy mạnh việc cải cách tư pháp, để chính quyền thực sự trở thành của
dân, do dân và vì dân. Đây chính là những đóng góp thiết thực vào phát triển lực lượng sản
xuất ở tỉnh.
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng, tăng cường vai trò lãnh đạo của đảng
bộ đối với Đảng, Đoàn, Hội đồng nhân dân tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh; phát huy vai trò chủ
động sáng tạo của chính quyền trong việc tổ chức thực hiện chủ trương của đảng. Tăng cường
công tác kiểm tra của đảng, thanh tra của chính quyền và giám sát của hội đồng nhân dân các
cấp. Qua kiểm tra, thanh tra, giám sát mà phát huy ưu điểm, phát hiện, biểu dương những
điển hình tiên tiến và nhân tố mới, điều chỉnh, bổ xung, kịp thời uốn nắn những vi phạm.
2.3.2. Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với những thay đổi của
lực lượng sản xuất hiện nay
Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật
khách quan của lịch sử, là nguyên nhân cơ bản cuối cùng của mọi sự vận động, biến đổi của
lịch sử. Thực tế đã cho thấy, kết quả rất to lớn và quan trọng của hơn 20 năm đổi mới đã
chứng minh việc nhận thức và vận dụng mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất ở nước ta ngày càng đúng đắn và phù hợp với thực tiễn khách quan.
Việc xây dựng một quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở
Thái Nguyên phải tiến hành từng bước, dần dần từ thấp đến cao, với thời gian tương đối dài
với sự đa dạng của các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Chính vì vậy, Thái
Nguyên cần có những biện pháp cụ thể đối với việc phát triển các thành phần kinh tế. Cụ thể:

- Đối với kinh tế nhà nước: Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Đẩy mạnh tiến
độ sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước hiện có, đồng thời nghiên cứu phát triển thêm
một số doanh nghiệp trong lĩnh vực cần ưu tiên để phát huy tiềm năng, thế mạnh của tỉnh.
Khuyến khích phát triển các sản phẩm mới, kiểu dáng, mẫu mã hàng hoá mới thể hiện được
những đặc điểm và tiềm năng của tỉnh.
- Đối với kinh tế tập thể: Tiếp tục đổi mới và phát triển các loại hình kinh tế tập thể, trong
đó lấy hợp tác xã làm nòng cốt. ở Thái Nguyên, kinh tế hợp tác xã có vai trò quan trọng, nó
không chỉ có khả năng giải quyết những khó khăn trong quá trình sản xuất và kinh doanh, tạo
ra sức cạnh tranh lớn mà nó còn là một trong những thách thức giúp Thái Nguyên xoá bỏ
phương thức sản xuất tự cung, tự cấp tiến tới xây dựng quan hệ sản xuất hàng hoá theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Để kinh tế hợp tác phát huy được vai trò quan trọng của mình đòi
hỏi tỉnh phải tập trung những giải pháp sau:
- Đối với kinh tế tư nhân: Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các loại hình kinh tế tư
nhân trong nước phát triển sản xuất kinh doanh ở địa bàn tỉnh. Khuyến khích mọi người dân
bỏ vốn đầu tư không hạn chế, tôn vinh những người lao động giỏi, những người làm giàu
chính đáng đi đôi với chống làm giàu phi pháp, chống tham nhũng, gian lận thương mại.
- Đối với kinh tế hộ gia đình: Cần tạo điều kiện để kinh tế hộ gia đình phát huy tối đa khả
năng sản xuất và kinh doanh. Bởi vì kinh tế hộ gia đình phát triển là cơ sở để hình thành nền
sản xuất hàng hóa và chuyên môn hóa. Vì vậy, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng vùng
và địa hình, có thể xây dựng các mô hình kinh tế hộ gia đình theo các hướng như: rừng +
ruộng + vườn + ao; rừng + nương + ruộng + ao; rừng + chăn nuôi + nương hoặc các mô hình
ruộng + vườn + ao + chuồng; v.v Để tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế hộ gia đình phát
triển, Tỉnh cần tăng cường các nguồn vốn đầu tư tạo việc làm cho nhân dân, trong đó phải có
các biện pháp quản lý nguồn vốn, sao cho sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả; có các
biện pháp đẩy mạnh hoạt động khuyến nông, khuyến lâm và chuyển giao kỹ thuật tới hộ nông
dân. Các hình thức khuyến nông, khuyến lâm và chuyển giao công nghệ phải được lựa chọn
phù hợp với điều kiện của từng vùng, tổ chức theo cụm và đa dạng; cố gắng tạo điều kiện để
phân công lao động và chuyên môn hóa lao động.
- Đối với kinh tế tư bản nhà nước: Phải phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới
các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước ở địa phương với kinh tế tư bản tư

nhân trong nước và nước ngoài mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho tỉnh.
- Đối với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Tỉnh cần có chính sách thu hút mạnh nguồn
lực của các nhà đầu tư nước ngoài; cải thiện môi trường pháp lý và kinh tế, đa dạng hoá các
hình thức và cơ chế để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào những
ngành, nghề, lĩnh vực kinh doang quan trọng.
2.3.3. Tập trung việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Tăng cường các biện pháp nâng cao sức khỏe cộng đồng. Nhờ có cơ thể khỏe mạnh thì
người lao động mới phát huy được hết sự hiểu biết, tri thức của mình để lao động sản xuất ra
các giá trị vật chất và tinh thần. Vì vậy, tăng cường các biện pháp nâng cao sức khỏe cho
người lao động và cho cộng đồng là một hướng đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực. Đó
cũng là đầu tư trực tiếp cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Để nâng cao sức khỏe cho
nhân dân Thái Nguyên cần thiết phải thực hiện cho được một số nhiệm vụ chủ yếu như sau:
+ Tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức về y tế, trang bị những kiến thức chăm sóc
sức khoẻ, xoá bỏ những hủ tục lạc hậu, thực hiện ăn chín uống sôi, sinh hoạt hợp vệ sinh.
Khuyến khích rèn luyện thể thao.
+ Đầu tư trang thiết bị y tế cùng với phổ biến rộng rãi mạng lưới y tế viên cộng đồng.
+ Tổ chức các đợt khám bệnh lưu động, miễn phí, định kỳ ở vùng sâu, vùng xa.
+ Tăng cường các biện pháp cải cách, phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng dinh dưỡng
cho cộng đồng, đặc biệt là cung cấp dinh dưỡng cho phụ nữ, trẻ em và người già. Tuyên
truyền các biện pháp tự tạo nguồn dinh dưỡng tại chỗ như phát triển chăn nuôi kết hợp với
sản xuất các sản phẩm hàng hóa khác. Chống một số bệnh do môi trường, nguồn nước, khí
hậu phát sinh như thiếu I ốt, sốt rét, v.v
+ Có biện pháp xử lý chất thải sinh hoạt và công nghiệp theo đúng yêu cầu vệ sinh, bảo
vệ tốt môi trường sống.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ địa phương đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Để đáp ứng được những yêu cầu đó, đội ngũ cán bộ của Thái Nguyên phải được củng cố
và phát triển theo những giải pháp cơ bản như sau:
+ Quy hoạch, điều tra đội ngũ cán bộ từ cấp xã trở lên, trên cơ sở đó có kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng thường xuyên hằng năm về trình độ quản lý, trình độ hiểu biết khoa học - công

nghệ và khả năng ứng dụng vào sản xuất, kinh doanh, v.v Qua đó rút kinh nghiệm các hoạt
động tổ chức quản lý ở địa phương, có sự điều chỉnh những sách lược, chiến lược phù hợp
trong thời gian tiếp theo.
+ Phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ miền núi và dân tộc. Mặc dù một số
cán bộ người dân tộc thiểu số có nhược điểm là hay tự ti, ngại tham gia các hoạt động xã hội,
không thích hoạt động ở những chỗ đông, v.v song, ở một tỉnh miền núi nhiều dân tộc sinh
sống thì về lâu dài phải có những cán bộ là người dân tộc thiểu số. Đồng thời kết hợp với
chính sách luân chuyển cán bộ, khuyến khích cán bộ đến vùng sâu, vùng xa công tác.
+ Có chính sách thu hút nhân tài.
- Củng cố và phát triển hệ thống giáo dục phổ thông là một trong những giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây là giai đoạn trang bị cho học sinh một hệ
thống những kiến thức cơ bản, phổ thông, để học sinh có khả năng bước vào học tập các
chuyên ngành và các bậc học cao hơn. Hệ thống giáo dục phổ thông ở nước ta nói chung, ở
Thái Nguyên nói riêng còn nhiều điểm chưa cập với yêu cầu của thời đại, của sự phát triển về
kinh tế - xã hội và tri thức hiện nay, do đó cần phải có những giải pháp sau:
+ Tiếp tục có cơ chế, chính sách ưu tiên cho đối tượng nghèo, con em các gia đình chính
sách được miễn học phí và các khoản đóng góp khác đề khuyến khích họ đến trường.
+ Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn từ Chương trình 135 của Chính phủ để thay thế phòng
học tạm bằng phòng học kiên cố. Thực hiện có kết quả việc xây dựng các trường đạt chuẩn
quốc gia của các cấp học, bậc học.
+ Nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ giáo viên. Tạo điều kiện vật chất đáp ứng được
những nhu cầu về vật chất và tinh thần một cách thỏa đáng cho giáo viên miền núi và dân tộc
nhằm thu hút giáo viên có năng lực từ nơi khác về phục vụ miền núi và những vùng khó khăn.
Khuyến khích giáo viên đi học để nâng cao trình độ chuyên môn, mở rộng hình thức đào tạo
theo địa chỉ.
+ Về chương trình: Phải đảm bảo các môn nằm trong khung chương trình phổ thông
chung với cả nước, kết hợp lựa chọn một số môn học thuộc ưu thế, tiềm năng của tỉnh để đào
tạo sâu hơn.
- Đào tạo nghề và giáo dục đại học: Đây khâu trực tiếp hình thành nên chất lượng nguồn
nhân lực, cho nên nó phải được xem là một trong những giải pháp cơ bản phát triển nguồn

nhân lực.
+ Về đào tạo nghề:
+ Đối với đào tạo đại học và trên đại học:
2.3.4. Phát triển khoa học - công nghệ, nâng cao khả năng ứng dụng kỹ thuật mới vào
phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh Thái Nguyên
- Đối với lĩnh vực khoa học xã hội: yêu cầu trong thời gian tới khoa học xã hội và nhân
văn phải đi sâu vào nghiên cứu những đặc điểm về phong tục tập quán, ngôn ngữ, văn hóa
của các dân tộc và những nhân tố ảnh hưởng đến sự vận động, phát triển của kinh tế- xã hội
của tỉnh. Trên cơ sở đó, xây dựng những chiến lược, kế hoạch phát triển mọi mặt của đời
sống xã hội, khắc phục những hạn chế về tâm lý, tập quán lạc hậu, loại trừ các hủ tục, các tệ
nạn xã hội đang tồn tại trong đời sống nhân dân; tuyên truyền chủ trương, đường lối chính
sách của Đảng, Nhà nước đến với nhân dân, phổ biến các giá trị văn hóa, khoa học - công
nghệ tiến tiến vào đời sống của nhân dân các dân tộc.
- Khoa học tự nhiên và công nghệ phải hướng vào giải quyết những vấn đề sau:
Nghiên cứu, ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học - công nghệ vào xây dựng các
công trình giao thông, thủy lợi. Khoa học tự nhiên và công nghệ có thể tìm ra nguồn nguyên
vật liệu mới, các hình thức thiết kế và những kết cấu công trình theo kiểu mới, chống được
sạt lở, ách tắc, khắc phục tình trạng lượng nước không đều trong năm.
2.3.5. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng vào nông thôn, vùng sâu, vùng xa nhằm
rút ngắn khoảng cách giữa các vùng để phát triển lực lượng sản xuất
- Để giảm bớt sự chênh lệch quá xa giữa vùng sâu vùng xa với thành thị, tỉnh phải tạo mọi
điều kiện để phát huy thế mạnh của từng vùng. Chẳng hạn:
+ Đối với vùng trung du (gồm Phú Bình, Phổ Yên, thị xã Sông Công) cần tập trung phát
triển nông nghiệp sinh thái đa dạng trên nền cây lúa, cây rau, cây ăn quả, chăn nuôi bò sữa,
lợn, gà phát triển mạnh tiểu thủ công nghiệp, chế biến, các ngành nghề truyền thống, phát
triển dịch vụ, phát triển kinh tế trang trại
+ Đối với vùng núi và các xã vùng cao đặc biệt khó khăn bao gồm các huyện Võ Nhai,
Định Hoá, Phú Lương, Đại Từ, Đồng Hỷ. Vùng này giao thông kém phát triển, trình độ dân
trí thấp, tài nguyên của vùng này chủ yếu là lâm nghiệp nhưng đã bị tàn phá nặng nề. Vì vậy
cần phải tập trung phát triển trồng cây công nghiệp, trồng rừng gắn với chăn nuôi đại gia súc.

Đồng thời tạo ra vùng chuyên cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến và xuất
khẩu.
- Tỉnh phải tăng cường đầu tư và có hướng nghiên cứu để cải tiến, đưa công cụ lao động
vào phục vụ sản xuất kinh doanh ở các xã vùng núi, vùng đặc biệt khó khăn . Đi tắt đón đầu ở
một số lĩnh vực chế biến khai thác nông lâm nghiệp, công nghiệp.
- Có chính sách phát triển mạnh các ngành nghề và kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Khôi
phục các nghề cũ, tạo thêm ngành nghề mới, có thị trường tiêu thụ sản phẩm. Phát triển mạnh
mẽ tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn để sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông, lâm
sản, làm cơ khí nhỏ phục vụ sản xuất. Mở mang dịch vụ để tạo việc làm, chuyển một bộ phận
lao động nông nghiệp sang các ngành nghề khác. Đẩy mạnh điện khí hoá, cơ giới hoá, phát
triển giao thông nông thôn.
2.2.6. Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước,
các chuyên gia nước ngoài để phát triển lực lượng sản xuất khơi dậy tiềm năng vốn có của
tỉnh.
Thái Nguyên là tỉnh có tiềm năng về nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên phong phú,
nhưng tỉnh vẫn chưa phát huy hết những thế mạnh này. Chính vì vậy, để phát triển kinh tế -
xã hội, tỉnh cần có chính sách thu hút các nguồn đầu tư trong và ngoài nước. Để làm được
như vậy, tỉnh cần có những giải pháp cụ thể sau:
- Cải thiện được môi trường đầu tư, tạo lập môi trường pháp lý ổn định, lâu dài, tiếp tục
cải cách các thủ tục hành chính theo cơ chế “1 cửa”, “1 đầu mối” tại các cơ quan chức năng.
Đặc biệt là ổn định chính trị - xã hội nói chung và khu vực vùng sâu, vùng xa nói riêng để tạo
niềm tin, sự yên tâm cho các nhà đầu tư. Ngoài ra, phải tạo được tính “minh bạch” trong các
kế hoạch, định hướng, chiến lược phát triển, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể
kinh doanh, quyền bảo hộ hợp pháp.
- Tỉnh cần ban hành cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư trong nước và khuyến khích ưu đãi
đầu tư nước ngoài vào tỉnh Thái Nguyên.
- Đầu tư xây dựng, hoàn thiện kết cấu hạ tầng giao thông, hệ thống dịch vụ để tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho các đối tác đầu tư.
- Đào tạo đội ngũ lao động có trình độ tay nghề phù hợp với yêu cầu triển khai các dự án,
chương trình với nguồn vốn bên ngoài.

- Cần làm tốt kế hoạch quảng bá, kêu gọi vốn đầu tư, vốn viện trợ.
- Phân bổ hợp lý nguồn vốn đầu tư cho các ngành, các lĩnh vực, đặc biệt ưu tiên cho những
lĩnh vực có ưu thế của tỉnh nhằm phát huy lợi thế vốn có.
- Để tạo môi trường và điều kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư để phát trriển kinh tế -
xã hội, tỉnh cần một đội ngũ lãnh đạo có năng lực quản lý, nhanh nhạy nắm bắt xu thế của thị
trường, không ngừng tự hoàn thiện mình để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ mới.
Để lực lượng sản xuất ở tỉnh Thái Nguyên phát triển nhanh và bền vững là một nhiệm vụ
khó khăn và phức tạp. Với tốc độ vận động và phát triển mạnh mẽ của các vùng khác trong
nước hiện nay, lực lượng sản xuất của tỉnh đang đứng trước vận hội lớn nhưng cũng phải đối
mặt với những thách thức không nhỏ. Xuất phát từ những điều kiện cụ thể của một tỉnh thuộc
khu vực miền núi phía Bắc, chúng ta cần phải thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp trên
nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, tác động đến lực lượng sản xuất tỉnh Thái
Nguyên để có bước phát triển bứt phá nói riêng.

KẾT LUẬN
Lực lượng sản xuất là nhân tố quyết định cuối cùng đối với sự phát triển xã hội. Một nền
sản xuất phát triển cao trước hết phải dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại. Chính vì vậy Đảng
bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên coi vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh
là nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Sau gần 30 năm đổi mới, tiềm lực về mọi mặt của tỉnh đã lớn mạnh hơn nhiều. Cơ sở vật
chất kỹ thuật đã được xây dựng và đang phát huy hiệu quả. Kết cấu hạ tầng tương đối đồng
bộ, bao gồm mạng lưới giao thông đô thị và nông thôn, hệ thống thuỷ lợi, nước sinh hoạt,
thông tin liên lạc, trạm phát thanh truyền hình, các công trình phúc lợi công cộng đã và đang
phát huy tác dụng, phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Tuy nhiên, khi bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá lực lượng sản
xuất của tỉnh , về nhiều mặt, còn rất lạc hậu và còn diễn ra tình trạng phát triển không đều
giữa các vùng trong tỉnh. Mặc dù đã được Đảng bộ và chính quyền tỉnh rất quan tâm đầu tư,
nhưng từng yếu tố cụ thể của lực lượng sản xuất vẫn còn nhiều biểu hiện của một nền sản
xuất tự cấp, tự túc, chưa thực sự chuyển sang nền kinh tế thị trường. Các yếu tố bên trong của
lực lượng sản xuất như người lao động, tư liệu sản xuất chưa phát triển đúng với yêu cầu

đặt ra; còn nhiều cản trở chưa được tháo gỡ; việc đầu tư vào các lĩnh vực này vẫn chưa phát
huy tối đa tác dụng của nó. Riêng về đối tượng lao động, vẫn còn tình trạng chưa khai thác
đúng với tiềm năng vốn có với những yêu cầu của một nền kinh tế - sinh thái và môi trường.
Những điều kiện và phương tiện phục vụ cho phát triển lực lượng sản xuất còn rất thấp kém.
Đó cũng là một trong những cản trở lớn nhất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong tỉnh.
Trong điều kiện toàn cầu hoá đang diễn ra một cách nhanh chóng, thì việc phát triển lực
lượng sản xuất ở Thái Nguyên càng có nhiều điều kiện để đi tắt, đón đầu những thành tựu của
khoa học - công nghệ hiện đại nhằm trang bị những yếu tố cần thiết để nhanh chóng trở thành
tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại trước năm 2020. Để làm được điều này thì giải pháp
trọng tâm của tỉnh là phải phát triển con người; cần khắc phục những nhận thức, lề lối, tác
phong lạc hậu do nền sản xuất tự cấp, tự túc chi phối người lao động, cố gắng đào tạo ra
những con người đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội
chủ nghĩa. Đồng thời phải có những đầu tư lớn vào khoa học - công nghệ để đưa tỉnh thoát
khỏi sự tụt hậu so với các tỉnh khác trong nước và quốc tế, tạo ra sự phát triển ổn định và bền
vững. Khoa học - công nghệ phải tập trung vào các khâu: xây dựng và phát triển hệ thống kết
cấu hạ tầng; cải tiến công cụ lao động; tận dụng, khai thác và phát triển đối tượng lao động
theo những tiềm năng thế mạnh của từng tiểu vùng; hạn chế những rào cản đối với sự phát
triển của lực lượng sản xuất như: điều kiện tự nhiên phức tạp, các yếu tố giao thông - vận tải,
thủy lợi, điện sinh hoạt và sản xuất, v.v còn thấp kém, lạc hậu.
Từ thực trạng lực lượng sản xuất của tỉnh Thái Nguyên đòi hỏi phải tìm ra phương thức
phát triển lực lượng sản xuất sao cho tối ưu trên cơ sở điều chỉnh, đổi mới quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất ngày càng phát triển. Phấn đấu trong thời gian
tới Thái Nguyên trở thành một trong những tỉnh dẫn đầu cả nước về công nghiệp.


References
1. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2002),
Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Hoàng Chí Bảo (1993), "Ảnh hưởng của văn hóa đối với việc phát huy nguồn lực con

người", Tạp chí Triết học, (1), tr.13-17.
3. Hoàng Bình - Nguyễn Kim Lai (1991), "Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, mâu
thuẫn hay phù hợp", Tạp chí Triết học, (2), tr.56-58.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ Công tác chính trị (2002), Tài liệu tham khảo dùng cho
giảng viên các trường đại học và cao đẳng môn học triết học Mác-Lênin, Hà Nội.
5. Mai Quốc Chánh (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Đình Chính (24/11/1997), "Đào tạo lao động lành nghề cho công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước", Nhân Dân.
7. Nguyễn Trọng Chuẩn (1990), "Góp vào vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta
hiện nay", Tạp chí Triết học, (2), tr.12-19.
8. Nguyễn Trọng Chuẩn (1994), "Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước", Tạp chí Triết học, (3), tr.3-5.
9. Nguyễn Trọng Chuẩn (1997), "Để cho khoa học và công nghệ trở thành động lực của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Triết học, (1), tr.3-5.
10. Vũ Đình Cự (1996), Khoa học và công nghệ lực lượng sản xuất hàng đầu, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
11. Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên (2010), Báo cáo tình hình thực hiện các mục tiêu kinh
tế - xã hội chủ yếu (2006-2010).
12. Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên (2011), Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên 2010,
Nxb. Thống kê, Hà Nội.
13. Nguyễn Văn Cường (1998), "Phát triển nguồn nhân lực để xóa đói giảm nghèo", Tư
liệu Viện Thông tin Khoa học - kỹ thuật.
14. Hồ Anh Dũng (1994), Yếu tố con người trong lực lượng sản xuất và việc phát huy yếu
tố đó ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
15. Lê Văn Dương (2002), "Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn", Tạp chí Triết học,
(1), tr.5-9.
16. Phan Xuân Dũng (1997), "Phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa", Tạp chí Cộng sản, (17), tr.18-20.

17. Đảng Lao động Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III,
Nxb. Sự thật, Hà Nội.
18. Đảng Lao động Việt Nam (1976), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV,
Nxb. Sự thật, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb.
Sự thật, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb. Sự thật, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khóa VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung
ương khóa VII, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ VII (khóa
VII), Nxb. Sự thật, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên
lần thứ XVIII.
30. Lê Xuân Đình (1999), "Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất", Tạp chí Cộng sản, (5),
tr.23-27.
31. Phạm Văn Đồng (1999), Về vấn đề giáo dục - đào tạo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.

32. Phạm Văn Đức (1999), "Một số giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực con
người", Tạp chí Triết học, (6), tr.31-33.
33. Trần Thanh Đức (2000), "Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất hiện đại", Tạp
chí Nghiên cứu lý luận, (10), tr.47-51.
34. Trần Đức (1998), Kinh tế trang trại vùng đồi núi, Nxb. Thống kê,
Hà Nội.
35. Nguyễn Tĩnh Gia (1988), Biểu hiện đặc thù của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
36. Nguyễn Tĩnh Gia (1998), "Biện chứng về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực
lượng sản xuất trong cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nước ta", Tạp chí Triết học, (1).
37. Vũ Hiền (1997), "Một số vấn đề về nghèo đói và việc xóa đói giảm nghèo", Tạp chí
Cộng sản, (1), tr.24-26; 16.
38. Lương Khắc Hiếu - Phạm Văn Chúc (1999), "Cách mạng khoa học - công nghệ hiện
đại: một số hiệu quả kinh tế - xã hội", Tạp chí Cộng sản, (6), tr.53-59.
39. Nguyễn Đình Hòa (1993), "Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất", Tạp
chí Triết học, (1), tr.26-28.
40. Nguyễn Đình Hòa (1999), "Công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn:
Vấn đề nguồn nhân lực", Tạp chí Triết học, (5), tr.17-19.
41. Trương Hữu Hoàn (1994), "Tìm hiểu tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất", Tạp chí Triết học, (3), tr.30-34.
42. Hội đồng Trung ương biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình triết học Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
43. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn Khoa học Mác-
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác-Lênin, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Doãn Huề (1998), "Đại Từ: Phát huy nội lực để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn", Tạp chí Cộng sản, (24), tr.55-57.
45. Trương Công Hùng (1999), "Kinh tế trang trại nông nghiệp ở nước ta", Tạp chí Cộng

sản, (6), tr.40-43.
46. Nguyễn Hoa Thiếu Huyền (2000), "Chương trình 135 - ý Đảng lòng dân", Tạp chí
Cộng sản, (2), tr.39-43.
47. Đặng Hữu (2000), "Khoa học và công nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và phát triển nông thôn", Tạp chí Cộng sản, (17), tr.32-37.
48. Đoàn Văn Khái (2000), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
49. Phạm Gia Khiêm (1997), "Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học đầu đàn", Tạp chí Cộng
sản, (14), tr.15-17.
50. Phan Thanh Khôi (1997), "Củng cố và phát triển đội ngũ tri thức các dân tộc thiểu số",
Tạp chí Cộng sản, (4), tr.40-43.
51. Bùi Chí Kiên (1996), Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất trong phát triển nền kinh tế hàng hóa theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Lâm Đồng, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
52. Đỗ Thị Ngọc Lan (1993), "Vai trò của lao động trong mối quan hệ giữa thích nghi và
cải tạo môi trường tự nhiên của con người", Tạp chí Triết học, (1), tr.32-36.
53. Vi Thái Lang (2002), Vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở miền núi phía Bắc nước ta,
Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội.
54. Hà Quế Lâm (2002), Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay - Thực
trạng và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. V.I.Lênin (1970), Toàn tập, tập 32, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
56. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 38, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
57. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 41, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
58. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 43, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
59. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
60. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 45, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
61. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. C.Mác và Ph.Ăngghen(1995), Toàn tập, tập 19, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

65. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. C.Mác và Ph.Ăngghen (1996), Toàn tập, tập 27, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. C.Mác và Ph.Ăngghen (1999), Toàn tập, tập 39, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. C.Mác và Ph.Ăngghen (1999), Toàn tập, tập 42, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Lưu Đình Mạc (1995), "Phát triển giáo dục đại học là điều kiện đảm bảo công nghiệp
hóa, hiện đại hóa", Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, (4), tr.22-23.
71. Nguyễn Khánh Mậu (2001), "Về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất nhận thức và vận dụng vào nước ta", Tạp chí Khoa học
chính trị, (1), tr.46-49.
72. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Đỗ Mười (1997), "Tập trung mọi cố gắng giành ưu tiên cao nhất cho phát triển giáo
dục, đào tạo và khoa học, công nghệ", Tạp chí Cộng sản, (1), tr.4-8.
76. Nông Thị Mồng (2000), Từng bước xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát
triển của lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Lạng Sơn, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
77. Nguyễn Thế Nghĩa (1996), "Nguồn nhân lực - động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước", Tạp chí Triết học, (1), tr.9-13.
78. Lê Huy Ngọ (1999), "Khoa học - công nghệ phải là động lực mạnh mẽ đưa nông
nghiệp, nông thôn sang bước phát triển mới", Tạp chí Cộng sản, (3), tr.14-16
79. Hà Quang Ngọc (1997), "Thu hút và sử dụng trí thức trẻ ở nông thôn, miền núi", Tạp
chí Cộng sản, (13), tr.44-46.
80. Nguyễn Xuân Nguyên (1996), "Một số quan hệ tác động đến diện tích đất trống đồi
trọc tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam", Nghiên cứu kinh tế, (221), tr.19-26.
81. Chu Tuấn Nhạ (1999), "Khoa học - công nghệ phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn", Tạp chí Cộng sản, (2), tr.21-24, 38.
82. Lê Du Phong - Hoàng Văn Hoa (1998), Phát triển kinh tế- xã hội vùng dân tộc và miền

núi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Lê Du Phong - Hoàng Văn Hoa (1999), Kinh tế thị trường và sự phân hóa giàu nghèo
ở vùng dân tộc và miền núi phía bắc nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
84. Lê Du Phong - Nguyễn Thành Độ (1999), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện
hội nhập với khu vực và thế giới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Phan Thanh Phố (1998), "Xây dựng quan hệ sản xuất trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Cộng sản, (4), tr.13- 27.
86. Đỗ Nguyên Phương (1998), "Chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao chất lượng dân
số", Tạp chí Cộng sản, (19), tr.29-32.
87. Đỗ Nguyên Phương (2000), "Y tế miền núi - những thách thức cần vượt qua", Tạp chí
Cộng sản, (22), tr.41-44.
88. Hồ Sĩ Quý (1999), Tìm hiểu về văn hóa và văn minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. Nguyễn Duy Quý (1998), "Phát triển con người tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, (19), tr.10-13; 19.
90. Bùi Xuân Sơn (1999), "Một số vấn đề về quản lý và sử dụng đất hiện nay", Tạp chí
Cộng sản, (4), tr.45-48.
91. Trần Hữu Sơn (1997), "Nguyên nhân du canh du cư và những vấn đề đặt ra", Dân tộc
học, (1), tr.3-8.
92. Đoàn Quang Thọ (1995), Lý luận hình thái kinh tế - xã hội với công cuộc đổi mới kinh tế -
xã hội ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
93. Đặng Hữu Toàn (1997), "Phát triển vì con người trong quan niệm của Mác và sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu phát triển con người ở nước ta",
Tạp chí Triết học, (1), tr.6-10.
94. Tổng cục Thống kê (1998), Niên giám thống kê 1997, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
95. Từ điển Triết học (1986), Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
96. Từ điển Triết học giản yếu (1987), Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
97. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2005), Báo cáo tình hình và nhiệm vụ kinh tế - xã
hội của tỉnh Thái Nguyên.
98. Viện Nghiên cứu Chính sách dân tộc và miền núi (2002), Vấn đề dân tộc và định

hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu con người (2004), Nghiên cứu con
người và nguồn nhân lực, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
100. Trung Giang Vim (1998), Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất, trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Tây
Nguyên, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.








×