Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (643.02 KB, 117 trang )

khu công nghiệp với sự phát triển
kinh tế - xã hội ở tỉnh hải dơng
Hà Nội - 2009
Mục lục
Trang
Mở đầu
1
Chơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của
các khu công nghiệp đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội
6
1.1. Khu công nghiệp và tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội 6
1.2. Những nhân tố chủ yếu chi phối tác động của khu công nghiệp
tới sự phát triển kinh tế - xã hội 30
1.3. Kinh nghiệm của một số tỉnh về xử lý tác động tiêu cực trong
phát triển khu công nghiệp 34
Chơng 2: Thực trạng tác động của các khu công nghiệp
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Hải Dơng
44
2.1. Sự ra đời và phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh Hải Dơng 44
2.2. Đánh giá những tác động của các khu công nghiệp đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dơng 60
Chơng 3: Phơng hớng và giải pháp đảm bảo cho hoạt
động của các khu công nghiệp ở tỉnh Hải D-
ơng gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội
trên địa bàn
76
3.1. Phơng hớng phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh Hải Dơng gắn
với sự phát triển kinh tế - xã hội 76


3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy mặt tích cực và ngăn
ngừa, hạn chế tiêu cực trong phát triển các khu công nghiệp đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dơng 88
Kết luận
104
danh mục tài liệu tham khảo
105
phụ lục
110

DANH MC CC CH VIT TT TRONG LUN VN
CCN : Cm cụng nghip
CNH, HH : Cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CTCP : Công ty cổ phần
KCN : Khu công nghiệp
KCNC : Khu công nghệ cao
KCX : Khu chế xuất
KH – CN : Khoa học – công nghệ
KT- XH : Kinh tế -xã hội
NĐ : Nghị định
NQ : Nghị quyết
TU : Tỉnh uỷ
UBND : Uỷ ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Các KCN tỉnh Đồng Nai 36
Bảng 2.1 : Một số khoáng sản chủ yếu của tỉnh Hải Dương 47
Bảng 2.2: Cơ cấu kinh tế ngành của tỉnh Hải Dương giai đoạn 1995-2000 47
Bảng 2.3: Các khu công nghiệp phát triển giai đoạn 2010 – 2020 49
Bảng 2.4: Tổng hợp một số chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của các

doanh nghiệp trong KCN 59
Bảng 2.5: Bảng tổng hợp kế hoạch doanh thu năm 2008 60
Bảng 2.6: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của KCN 68
Bảng 3.1: Dự báo tốc độ tăng trưởng GDP và cơ cấu các khu vực kinh tế 80
Bảng 3.2: Dự báo giá trị GDP của các khu vực kinh tế (giá so sánh 1994) 80
Bảng 3.3: Dự báo giá trị sản xuất công nghiệp 81
M U
1. Tớnh cp thit ca ti
Phỏt trin khu cụng nghip l mt gii phỏp quan trng nhm thu hỳt
vn u t thỳc y cụng nghip phc v nhu cu trong nc v xut khu,
ng thi to iu kin bo v mụi trng sinh thỏi bo m phỏt trin bn
vng. nc ta, nm 1991, ng v Nh nc cú ch trng trin khai thớ
im vic thc hin gii phỏp quan trng ny. T ú n nay, c nc ó cú
gn 200 trăm khu công nghiệp với các quy mô, loại hình c phõn b hu
khp cỏc tnh, thnh ph. S phỏt trin cỏc khu cụng nghip ó gúp phần to
lớn vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội ca t nc. Cỏc khu
cụng nghip tr thnh im thu hỳt cỏc ngun u t nc ngoi, ún nhn
cỏc tin b khoa hc k thut v to ra nhng nhõn t quan trng thỳc y
cụng nghip húa, hin i húa v hi nhp kinh t quc t.
Hi Dng l tnh mi c tỏi lp t 1/1/1997, thuc mt trong tỏm
tnh ca vựng kinh t trng im ng bng Bc b vi h thng giao thụng
thy, b, ng st thun li. Hi Dng tr thnh a bn cung cp hng húa
quan trng ng thi tham gia trung chuyn hng húa gia h thng cng bin
vi cỏc tnh v thnh ph ln phớa Bc. Trong tng lai, Hi Dng là trọng
điểm thu hỳt, phỏt trin cụng nghip, du lch thng mi v tr thnh mt
trong cỏc ụ th ln trong vựng. Trong xu th phỏt trin chung ca c nc,
tnh Hi Dng ó cú 10 khu cụng nghip vi din tớch 2.087 ha. S phỏt
trin khu cụng nghip Hi Dng trong thi gian qua ó gúp phn quan
trng vo vic chuyn dch c cu kinh t theo hng tin b, gii quyt vic
lm, tng thu nhp cho ngi lao ng, thu hỳt vn v cụng ngh hin i,

kinh nghim qun lý tin b ca nhiu nc trờn th gii. ng thi, s phỏt
trin khu cụng nghip ó to iu kin cho s ra i cỏc khu ụ th, nõng cao
cht lng i sng dõn c. Tuy nhiờn, trong 17 nm qua, s phỏt trin cỏc
khu cụng nghip ở tnh Hi Dng ó bc l nhng bt cp trong gii quyt
1
vấn đề môi trường sinh thái, việc làm, thu nhập của người dân mất đất, sự quá
tải của hệ thống kết cấu hạ tầng Những bất cập đó đang là lực cản cho việc
phát huy vai trò của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
trên địa bàn, gây ra những bức xúc trong xã hội.
Nhằm góp phần vào giải quyết những bức xúc này, tôi chọn đề tài
“Khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương” ®Ó
nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị. Việc nghiên
cứu này vừa có ý nghĩa về mặt lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách
không chỉ đối với tỉnh Hải Dương mà còn đối với cả nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Kể từ khi Đảng, Nhà nước ta có chủ trương xây dựng và phát triển
các khu công nghiệp đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề
này, tiêu biểu là:
- Bộ kế hoạch và đầu tư (2002) “Kinh nghiệm thế giới về phát triển
khu công nghiệp, khu chế xuất và đặc khu kinh tế”;
- Nguyễn Mạnh Đức, Lê Quang Anh (1998) “Hướng dẫn đầu tư vào
các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ở Việt Nam”, Nxb
Thống kê;
- Vũ Huy Hoàng (2002) “Tổng quan về hoạt động của các khu công
nghiệp”, Kỷ yếu khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh;
- Trương Thị Minh Sâm (2004) “Các giải pháp nhằm nâng cao vai
trò và hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp,
khu chế xuất” , Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
- Trần Văn Tùng (2005) “Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường ở một

số khu công nghiệp phía Bắc tới sức khỏe cộng đồng”, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
2
- Nguyễn Chơn Trung, Trương Quang Long (2004) “Phát triển các
khu công nghiệp, khu chế xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Một số đề tài dưới dạng luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ nghiên cứu
vấn đề này như:
- Lê Hồng Yến (1996), “Hoàn thiện chính sách cơ chế quản lý nhà
nước đối cới các khu công nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (qua
thực tiễn khu công nghiệp các tỉnh phía Bắc)”, Luận án tiến sĩ tại trường Đại
học Thương mại;
- Nguyễn Xuân Hinh (2003), “Quy hoạch xây dựng và phát triển khu
công nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, Luận án tiến sĩ kinh tế tại
trường Đại học Kinh tế quốc dân;
- Trần Văn Phùng (2007), “Nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội các
khu công nghiệp Miền Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Duy Cường (2006), “Hiệu quả kinh tế - xã hội của các khu
công nghiệp ở Thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh;
- Lê Công Đồng (2005), “Thu nhập của người lao động ở khu công
nghiệp Tân Bình – Quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ kinh tế
tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Phạm Xuân Đức (2006) “Cung cầu nhà ở cho công nhân các khu
công nghiệp ở Hà Nội hiện nay”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh;
- Bùi Vĩnh Kiên (2002), “Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển các
khu công nghiệp ở Bắc Ninh”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại trường Đại học
kinh tế quốc dân.

- Nguyễn Văn Thành (2006), "Thu hút đầu tư vào các khu công
nghiệp ở Nghệ An hiện nay”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh;
3
- Hà Thị Thúy (2007), “Các khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế
- xã hội ở Bắc Giang”, Luận văn thạc sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, các nghiên cứu đó tập trung vào những vấn đề chung trên
phạm vi tổng thể cả nước hoặc trên địa bàn một vùng, một tỉnh khác, trong đó
chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ quản lý kinh tế, kinh tế phát triển và có một
số đề tài nghiên cứu kinh tế chính trị nhưng lại trên địa bàn tỉnh khác. Đến
nay, ở Hải Dương chưa có một công trình khoa học nào dưới góc độ kinh tế
chính trị nghiên cứu về tác động của khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế
- xã hội của địa phương. Đề tài mà học viên lựa chọn nghiên cứu không trùng
hợp với các công trình khoa học đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Đánh giá tác động cña khu công nghiệp (bao gồm các
khu công nghiệp, khu chế xuất và cụm công nghiệp) đối với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương để đề xuất phương hướng và giải pháp
nhằm phát huy mặt tích cực và ngăn ngừa hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra.
- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực tiễn về tác động của các khu công
nghiệp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn một tỉnh ở nước ta.
+ Đánh giá thực trạng tác động của các khu công nghiệp đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương.
+ Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy tốt mặt tích cực
và ngăn ngừa, hạn chế những tác động tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình
phát triển các khu công nghiệp này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của các khu công nghiệp (gồm khu

công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp) đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội, trong đó chủ yếu nghiên cứu và phân tích tác động tiêu cực trong quá
trình phát triển các khu công nghiệp này.
4
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: địa bàn tỉnh Hải Dương.
+ Về thời gian: từ khi triển khai xây dựng và phát triển các khu công
nghiệp ở nước ta đến nay (1991 – 2008).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đổi mới của Đảng
Cộng sản Việt Nam và những lý thuyết về công nghiệp hóa và đầu tư trong
nền kinh tế thị trường.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên
cứu của kinh tế chính trị học, trong đó coi trọng phương pháp phân tích, tổng
hợp, so sánh, thống kê từ tư liệu thực tiễn.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về tác động của các khu công nghiệp đối
với quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân tích đánh giá thực trạng tác động của các khu công nghiệp đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hải Dương từ năm 1991 đến nay.
Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, khắc phục ngăn
ngừa những tiêu cực trong quá trình phát triển hình thức tổ chức kinh tế này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.

5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA

CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. KHU CÔNG NGHIỆP VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1.1. Khu công nghiệp
Vào những năm cuối thế kỉ XIX, KCN đã được hình thành ở một số
nước tư bản phát triển. Năm 1896, xuất hiện KCN đầu tiên ở Traffort Park
thành phố Manchester nước Anh. Sau đó, KCN lần lượt được thành lập ở các
nước khác như Mỹ năm 1899, Italia năm 1904; và kể từ những năm 50 thế kỷ
XX thì KCN thực sự bùng nổ, trở thành phổ biến ở các nước. Trong quá trình
phát triển đó, KCN đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực nên nó được coi là một
công cụ để phát triển kinh tế.
Ngày nay, KCN xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mặc dù
thuật ngữ KCN được sử dụng khá phổ biến nhưng bản thân nó lại bao hàm
nhiều hình thức tổ chức và tính chất hoạt động khác nhau.
Theo nghĩa thông thường, KCN là khu vực có tính chất độc lập tập trung
nhiều doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Các KCN ra đời là kết quả của việc
xây dựng các doanh nghiệp công nghiệp riêng rẽ. Xen lẫn với các doanh nghiệp
công nghiệp là khu dân cư hoặc các cơ quan hành chính sự nghiệp các doanh
nghiệp thuộc ngành khác… nghĩa là KCN chuyên sản xuất hàng dành cho xuất
khẩu. Ở đó, chính quyền đã áp dụng nhiều chính sách ưu đãi như miễn thuế
(thuế xuất - nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân, thuế tài sản…) và tự do mua bán.
Tuy nhiên, đến nay ở các nước khác nhau có những quan niệm khác
nhau về KCN. Có quan niệm cho rằng, KCN là một vùng đất được phân chia
và phát triển có hệ thống theo một kế hoạch tổng thể nhằm cung cấp địa điểm
cho các ngành công nghiệp tương hợp với hạ tầng cơ sở, các tiện ích công
cộng, các dịch vụ phục vụ và hỗ trợ [14, tr.15].
6
Ở Thái Lan và Philippin, KCN được quan niệm như một thành phố công
nghiệp và thực tế nó là một cộng đồng tự túc và độc lập. Ngoài việc cung cấp kết
cấu hạ tầng, các tiện nghi, tiện ích công cộng hoàn chỉnh và xử lý chất thải, KCN

cũng bao gồm khu thương mại, dịch vụ ngân hàng, trường học, bệnh viện, các
khu vui chơi giải trí, khu nhà ở cho công nhân… Các KCN ở Thái Lan và
Inđônêxia thường có 3 bộ phận chủ yếu: khu sản xuất hàng tiêu thụ nội địa, khu
sản xuất hàng xuất khẩu và khu thương mại dịch vụ.
Có quan niệm lại cho rằng, KCN là một khu vực phụ, không nhất thiết
phải có sự ngăn cách, biệt lập bởi trên thực tế có nhiều tập đoàn và tổ hợp
công nghiệp với một chuỗi đồ sộ các xí nghiệp, nhà máy liên kết với nhau
trên một khu vực rộng lớn. Việc bố trí mặt bằng các khu sản xuất trên quy mô
lớn như vậy hình thành một loại hình tổ chức mới của KCN mà không nhất
thiết phải có quy mô đặc thù [27, tr.30-31, 33].
Theo quan điểm của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc
(UNIDO) trong tài liệu KCX ở các nước đang phát triển công bố năm 1990,
thì KCN là khu vực tương đối nhỏ, phân cách về mặt địa lý trong một quốc
gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp hướng về xuất
khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành công nghiệp này những điều kiện về
đầu tư mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần lãnh thổ còn lại của nước chủ
nhà. Trong đó đặc biệt là KCX cho phép nhập khẩu hàng hoá dùng cho sản
xuất để xuất khẩu miễn thuế [44, tr.18].
Theo quan điểm của Hiệp hội thế giới về KCX (World Expot
Processing Zone Association – WEPZA) thì KCX là tất cả các khu vực được
chính phủ các nước cho phép thành lập và hoạt động như Cảng tự do, Khu
mậu dịch tự do, KCN tự do hay bất kỳ khu vực ngoại thương hoặc khu vục
khác được tổ chức này công nhận. Thực tế cho thấy, do nhu cầu phát triển của
thương mại và đầu tư quốc tế ngày càng được mở rộng xuất phát từ yêu cầu
bức thiết của quá trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của các nước
7
đang phát triển nên khái niệm trên đã được bổ sung thành những quan niệm mới
như Khu kinh tế mở, Đặc khu kinh tế, Thành phố mở…[44, tr.8].
Quan niệm của Hiệp hội thế giới về KCX rất rộng đòi hỏi chính sách
quản lý có độ linh hoạt cao và mức độ tự do hoá khá lớn.

Tuy những quan niệm trên có một số khác nhau về nội hàm KCN,
KCX, song về cơ bản đều thống nhất ở những đặc trưng sau:
Một là, KCN là nơi hội tụ và thích ứng với nhau về mặt lợi ích và mục
tiêu xác định giữa chủ đầu tư và nước chủ nhà. KCN là nơi có môi trường
kinh doanh đặc biệt phù hợp, được hưởng những quy chế tự do, các chính sách
ưu đãi kinh tế (đặc biệt là thuế quan) so với các vùng khác ở nội địa. Chúng là
nơi có vị trí thuận lợi cho việc phát triển sản xuất, thương mại, dịch vụ đầu tư
trên cơ sở chính sách ưu đãi về kết cấu hạ tầng, cơ chế pháp lý, thủ tục hải quan,
thủ tục hành chính, chính sách tài chính tiền tệ, môi trường đầu tư…
Hai là, KCN là bộ phận không thể thiếu và không thể tách rời trong sự
phát triển kinh tế của một quốc gia. Nó thường là những khu vực có vị trí địa
lý riêng biệt thích hợp, có hàng rào xung quanh, giới hạn với các vùng lãnh
thổ còn lại của nước sở tại và được chính phủ nước đó cho phép hoặc rút phép
xây dựng và phát triển.
Ba là, KCN là nơi thực hiện mục tiêu hàng đầu về ưu tiên chính sách
hướng ngoại, thu hút chủ yếu vốn đầu tư nước ngoài vào phát triển các loại
hình sản xuất kinh doanh phục vụ xuất khẩu. Đây là mô hình thu nhỏ về chính
sách KT - XH mở cửa của một nước.
Ở Việt Nam, khái niệm về KCN được ghi trong Nghị định 192/CP ngày
15/12/1994 của Chính phủ về quy chế KCN. Các KCN được định nghĩa là
khu vực công nghiệp tập trung, được thành lập do quyết định của Chính phủ
với các ranh giới được xác định, cung ứng các dịch vụ hỗ trợ sản xuất và
không có dân cư.
Theo Điều 2 - Nghị định 36/CP của Chính phủ ban hành về: “Quy chế
hoạt động của các KCN, KCX, KCNC” thì khái niệm về KCN được giải thích
8
như sau: KCN là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản
xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có
ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ
tướng Chính phủ quyết định thành lập.

KCX là KCN tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất
hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu. Những doanh nghiệp này được
hưởng những ưu đãi đặc biệt về thuế quan, miễn thuế đối với tất cả các hàng
hoá xuất nhập khẩu. Sản phẩm của các doanh nghiệp này chỉ được phép xuất
khẩu chứ không được tiêu thụ trên thị trường nội địa. Trong trường hợp bán
trên thị trường nội địa thì sẽ phải chịu thuế nhập khẩu như đối với những hàng
hoá nhập khẩu thông thường.
KCNC là KCN tập trung những doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao
và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, bao gồm
nghiên cứu triển khai khoa học và công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có liên
quan, có ranh giới xác định, do chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết
định thành lập. Trong KCN cao có thể có doanh nghiệp chế xuất.
Doanh nghiệp chế xuất là doanh nghiệp chuyên sản xuất và chế biến
hàng xuất khẩu, được thành lập và hoạt động theo quy chế này.
Doanh nghiệp KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong
KCN, gồm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ.
Doanh nghiệp sản xuất KCN là doanh nghiệp sản xuất hàng công
nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN.
Doanh nghiệp dịch vụ KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt
động trong KCN, thực hiện dịch vụ và các công trình kết cấu hạ tầng KCN,
dịch vụ sản xuất công nghiệp.
Có thể thấy rằng KCN là những địa bàn sản xuất công nghiệp gồm
nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, không có dân cư sinh sống, có ranh giới pháp
lý riêng, có ban quản lý riêng do Chính phủ thành lập. Về kết cấu hạ tầng,
9
KCN được cung cấp đầy đủ các yếu tố hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đạt các tiêu
chuẩn quy định phục vụ trực tiếp cho hoạt động các doanh nghiệp công
nghiệp. Về cơ cấu ngành, trong KCN có cả các ngành truyền thống mà trong
nước có lợi thế so sánh và cả các ngành công nghiệp mới như điện tử, công
nghệ thông tin, công nghệ lắp ráp v.v

So với KCX, KCN thường có phạm vi hoạt động rộng hơn. Nó không
chỉ bao gồm các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và dịch vụ cho xuất khẩu mà
còn mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp bao gồm cả sản xuất hàng xuất
khẩu và tiêu thụ trong nước.
Các doanh nghiệp 100% vốn trong nước có thể được vào hoạt động tại
KCN, khác với KCX chỉ liên kết với các công ty có vốn nước ngoài. Các ưu
đãi từ phía Chính phủ cũng được thực hiện đối với doanh nghiệp trong KCN
chú trọng tới việc sản xuất hàng xuất khẩu, do đó những doanh nghiệp này sẽ
được hưởng chế độ ưu đãi như trong KCX và cũng sẽ được hưởng ưu đãi như
trong KCN. KCX là khu vực thu hút các dự án đầu tư nước ngoài để xuất
khẩu. Quan hệ giữa các doanh nghiệp chế xuất với thị trường nội địa là quan
hệ ngoại thương cũng giống như quan hệ giữa thị trường trong nước và thị
trường nước ngoài. KCX là khu thương mại tự do, bởi vì hàng hoá từ KCX ra
nước ngoài và từ nước ngoài vào KCX không phải chịu thuế xuất nhập khẩu
và ít bị ràng buộc bởi hàng rào phi thuế quan. Còn quan hệ giữa các doanh
nghiệp KCN với thị trường nội địa là quan hệ nội thương (trừ doanh nghiệp
chế xuất trong KCN được hưởng ưu đãi như doanh nghiệp trong KCX). KCN
không phải là khu thương mại tự do mà là khu sản xuất tập trung.
Về điều kiện ưu đãi, doanh nghiệp KCX được hưởng thuế thu nhập
10%, miễn thuế trong 4 năm đầu đối với doanh nghiệp sản xuất, nộp 15% và
miễn 2 năm đối với doanh nghiệp dịch vụ; còn doanh nghiệp KCN nộp thuế
thu nhập doanh nghiệp 15% đối với doanh nghiệp xuất khẩu dưới 50% sản
phẩm trong 2 năm, 10% đối với doanh nghiệp xuất khẩu trên 80% sản phẩm
và trong 2 năm.
10
Đối với nước sở tại, thì KCX có nhiều mặt lợi hơn so với KCN. Điều
này có thể được lý giải bởi các lý do sau đây:
- Doanh nghiệp chế xuất không được trực tiếp sử dụng thị trường nội
địa nên nhìn chung là không cạnh tranh với sản xuất trong nước.
- Nhà nước không lo cân đối ngoại tệ cho doanh nghiệp mà ngược lại,

nguồn ngoại tệ của xã hội lại được tăng lên nhanh chóng nhờ hoạt động của KCX.
- Thúc đẩy việc mở cửa thị trường nội địa nhanh hơn, phù hợp với chủ
trương xây dựng nền kinh tế mở hướng mạnh về xuất khẩu.
Tuy nhiên, những gì được coi là có lợi cho nước sở tại thì ngược lại là
bất lợi đối với nhà đầu tư. Để có thể xuất khẩu được 100% sản phẩm, việc tổ
chức sản xuất phải đạt chất lượng cao, đồng đều, giá hợp lý, phù hợp với điều
kiện cạnh tranh của thị trường quốc tế. Do các bất lợi trên mà các nhà đầu tư
nước ngoài thường quan tâm đến hình thức KCN, nhằm tận dụng lợi thế về thị
trường nội địa. Điều này nghĩa là việc xây dựng thành công các KCX thường
gặp khó khăn hơn là KCN. Việc các nhà đầu tư nước ngoài coi trọng mô hình
KCN là có căn nguyên riêng của nó, nhưng cần phải thấy được một vấn đề là
nếu một quốc gia có quá nhiều KCN hoạt động sẽ có hàng nghìn doanh
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng chủ yếu do nước ngoài đầu tư. Điều này sẽ tạo
ra hiện tượng cạnh tranh gay gắt không cần thiết trên thị trường nội địa.
Để khuyến khích đầu tư vào KCX, cần rà soát lại toàn bộ hệ thống
chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước theo tinh thần khuyến khích mạnh hơn,
ưu đãi nhiều hơn cho KCX, làm cho nó có sức hấp dẫn cao hơn đối với các
nhà đầu tư so với KCN. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng của các KCN và KCX
là không ít khó khăn, nhưng việc kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn
này là khó khăn hơn nhiều. Chất lượng của một KCX hay KCN phụ thuộc
nhiều vào chất lượng của các dự án đã thu hút được.
Như vậy KCN và KCX có những đặc điểm khác nhau xuất phát từ sự
khác nhau về mục đích, đối tượng tham gia hay mối liên kết của chúng đối
11
với nền kinh tế. KCN thường được nhận một sự ưu tiên nhất định từ phía
chính quyền địa phương và Chính phủ với vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế
vùng (địa phương), KCN bao gồm những doanh nghiệp trong nước và doanh
nghiệp nước ngoài. KCX cũng được xác định là KCN nhưng tập trung những
doanh nghiệp chuyên sản xuất chế biến các hàng xuất khẩu, được sự ưu tiên
đặc biệt của Chính phủ, có vai trò then chốt trong việc chuyển từ nền kinh tế

khép kín sang nền kinh tế mở.
Từ Nghị định 36/CP cho thấy KCN là một khái niệm động gắn liền với điều
kiện cụ thể nơi nó hình thành. Các tiêu chí để hình thành một KCN bao gồm:
Thứ nhất, KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp có đủ cơ sở pháp lý, chuyên
sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
Thứ hai, KCN là khu vực có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư
sinh sống, xây dựng theo quy hoạch tổng thể đã được chính phủ phê duyệt.
Thứ ba, KCN phải do chính phủ hoặc do Thủ tướng chính phủ quyết
định thành lập. Khi muốn hình thành KCN đã có trong quy hoạch tổng thể,
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sẽ chỉ đạo việc lập báo cáo
nghiên cứu khả thi thành lập KCN và trình Thủ tướng chính phủ xem xét để
quyết định thành lập.
Thứ tư, trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất. Đó là các doanh
nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản
xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu.
Tuy vậy, có thể coi khái niệm mà chúng ta sử dụng là khái niệm hẹp và
chỉ quan tâm chủ yếu đến phần diện tích dành cho việc xây dựng kết cấu hạ
tầng để cho thuê, còn việc xây dựng các công trình phúc lợi xã hội không nằm
trong phạm vi quy định. Quan niệm này dẫn đến một thực tế là khi xây dựng
KCN, người ta không quan tâm đến tính đồng bộ của nó theo nghĩa rộng nên
ảnh hưởng lớn đến hiệu quả KT - XH của KCN. Cho nên việc quy hoạch phát
triển sản xuất nhất thiết phải đi kèm quy hoạch phát triển hạ tầng xã hội.
12
Hiện nay ở nước ta đã xuất hiện hàng trăm các KCN vừa và nhỏ do
Trung ương thành lập và các cụm CN ở các địa phương của chính quyền địa
phương (cấp tỉnh, thành phố). Mặc dù có một số đặc điểm đặc thù như quy
mô thường nhỏ hơn, ảnh hưởng thường hẹp hơn nhưng về bản chất không có
sự khác biệt so với các KCN của Trung ương. Trong đề tài, khái niệm KCN
được hiểu bao gồm cả KCN do Trung ương thành lập, quản lý và cả các cụm
CN do chính quyền địa phương thành lập.

Nói tóm lại, sự ra đời của các KCN nhằm mục đích cung cấp các điều
kiện về kết cấu hạ tầng tốt nhất cho việc xây dựng và vận hành của các cơ sở
sản xuất công nghiệp đặc biệt là hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư
vào nước sở tại sẽ có được đầy đủ điều kiện mặt bằng, đường sá, hệ thống
cung cấp điện, nước, hệ thống xử lý nước thải… để sản xuất kinh doanh mang
lại lợi ích cho cả hai phía.
1.1.2. Tác động của khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội
KCN ở Việt Nam ra đời cùng với chính sách đổi mới mở cửa do Đại
hội Đảng lần thứ VI khởi xướng. Hoạt động của các KCN trong thời gian qua
đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của
đất nước. Đối với những nước thuần nông như Việt Nam thì việc phát triển
KCN trước hết tạo tiền đề cho đô thị hoá nông thôn, tạo bước chuyển dịch cơ
cấu kinh tế mới theo hướng phát triển công nghiệp, giải quyết việc làm cho
lao động khu vực nông thôn. KCN cũng chính là cầu nối giữa nước ta với thế
giới bên ngoài, đóng vai trò tiên phong trong việc chuyển từ nền kinh tế khép
kín sang nền kinh tế mở cửa.
Tuy nhiên, sự phát triển của KCN trong thời gian qua cũng đang phá vỡ
kết cấu xã hội nông thôn truyền thống, bộc lộ những bất cập trong giải quyết
vấn đề môi trường sinh thái, việc làm và thu nhập của người dân mất đất, sự
quá tải của hệ thống kết cấu hạ tầng…
13
1.1.2.1. Những tác động tích cực của các khu công nghiệp đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh việc thực hiện công cuộc
CNH, HĐH nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
CNXH. CNH, HĐH được xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ
quá độ lên CNXH. Quá trình CNH, HĐH được thực hiện trên cơ sở giải
phóng sức sản xuất trong nước phát huy cao độ các nguồn lực trong nước
đồng thời tìm cách thu hút nguồn lực từ bên ngoài. Nguồn lực trong nước và

nguồn lực từ bên ngoài có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nguồn lực trong nước
được khai thác có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thu hút, sử dụng tốt hơn nguồn lực từ
bên ngoài. Ngược lại, việc thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên
ngoài sẽ kích thích việc huy động nguồn lực trong nước, đồng thời tạo điều kiện
để các nguồn lực này được sử dụng với hiệu suất cao hơn.
Việc phát triển các KCN, KCX, KCN cao có ý nghĩa quan trọng nhằm tạo
ra những điều kiện, thể chế, môi trường thuận lợi cho quá trình thu hút, sử dụng
nguồn lực từ bên ngoài như vốn đầu tư, công nghệ tiên tiến, phương thức quản
lý hiện đại, trên cơ sở đó đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH.
Việc phát triển KCN có những tác động tích cực sau:
Một là, KCN là một địa điểm quan trọng để thu hút vốn đầu tư, đặc
biệt là đầu tư nước ngoài, tập trung các doanh nghiệp công nghiệp vào một
khu vực địa lý.
Do có kết cấu hạ tầng hiện đại hơn và cơ chế quản lý thông thoáng hơn
so với bên ngoài nên KCN là trở thành một địa điểm để tập trung các doanh
nghiệp sản xuất, chế biến công nghiệp, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và
trong nước. Qua đó, tạo cơ hội đưa nhanh kỹ thuật mới vào sản xuất, thúc đẩy
tiến bộ khoa học và công nghệ; xây dựng các ngành công nghiệp mũi nhọn,
nâng cao vị trí chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế, bảo đảm tốc độ
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Trong điều kiện kết cấu hạ tầng của
14
nền kinh tế còn thấp kém đầu tư chưa hoàn thiện thì việc xây dựng, phát triển
KCN là phương thức phù hợp nhằm tập trung đầu tư cho một số khu vực có ưu
thế hơn, giảm một cách đáng kể chi phí về vốn và khó khăn cho nhà đầu tư.
KCN với những ưu đãi đặc biệt về thủ tục hành chính, cơ chế quản lý,
tài chính, thuế quan so với sản xuất ở bên ngoài, nên nó trở thành môi
trường hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, thu hút được nguồn vốn đầu tư cả
trong và ngoài nước. Kết cấu hạ tầng trong KCN sẵn có và những chính sách
ưu đãi cùng với cơ chế quản lý đặc biệt, thủ tục đầu tư ngày càng đơn giản,
thuận tiện hơn so với bên ngoài KCN sẽ giúp nhà đầu tư nhanh chóng triển

khai dự án, tránh bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị
trường, các doanh nghiệp tìm mọi cách tối thiểu hoá chi phí để đạt được giá
thành rẻ nhất. KCN là địa bàn mà doanh nghiệp có thể thực hiện được điều
đó. KCN được xây dựng tập trung theo chiều dọc, là nơi có nhiều đất trống,
gần cảng, giao thông thuận lợi cho xe trọng tải lớn ra vào, có mạng lưới điện
để cho nhà đầu tư có thể xây dựng và vận hành các nhà máy. KCN còn được
trang bị kết cấu hạ tầng đầy đủ nên khi đầu tư vào thì các nhà đầu tư sản xuất
sẽ giảm được rất nhiều chi phí như chi phí mua đất xây dựng nhà máy với giá
cao, chi phí xây dựng hệ thống đường dây tải điện, đường giao thông vận tải
vào nhà máy, thiết lập hệ thống thông tin liên lạc Việc bố trí các nhà máy
theo chiều dọc (sản phẩm của nhà máy này là nguyên liệu của nhà máy khác)
và tập trung vào một khu vực nên các doanh nghiệp dễ dàng giải quyết đầu
vào và đầu ra với chi phí thấp nhất. Do đó, các doanh nghiệp KCN có điều
kiện thuận lợi hơn để đạt mục tiêu lợi nhuận các doanh nghiệp bên ngoài
KCN nên KCN thường hấp dẫn nhà đầu tư.
Thực tế ở nước ta cho thấy, KCN có vai trò tích cực vào việc thu hút
vốn đầu tư đặc biệt là vốn FDI. Số dự án đầu tư cả trong và ngoài nước vào
các KCN chiếm một tỷ trọng khá lớn. Sự gia tăng vốn đầu tư vào các KCN
góp phần quan trọng vào việc tăng tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, đóng góp
15
trực tiếp vào việc tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế. Mặt
khác còn tác động, kích thích tăng đầu tư mới ở các doanh nghiệp ngoài
KCN. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, riêng năm 2008, các KCN trên cả nước
đã thu hút được gần 9,4 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có 271 dự án
mới với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt gần 7,5 tỷ USD và 236 lượt dự án
tăng vốn với số vốn tăng thêm đạt trên 1,6 tỷ USD
Tính đến nay, các KCN cả nước đã thu hút được 3325 dự án có vốn đầu
tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư gần 39.3 tỷ USD.
Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của các KCN trên
cả nước đạt gần 50%, riêng các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy gần 74% [49].

Bên cạnh đó, việc tập trung các doanh nghiệp vào một khu vực địa lý
hình thành KCN tập trung là một vấn đề không kém phần quan trọng bởi
trong KCN tập trung, các doanh nghiệp dùng chung công trình hạ tầng nên
giảm được chi phí trên một đơn vị diện tích và đơn vị sản phẩm, thực hiện
phát triển công nghiệp theo một quy hoạch thống nhất, kết hợp giữa quy
hoạch ngành với quy hoạch lãnh thổ. Hơn nữa, việc tập trung các doanh
nghiệp trong KCN tạo điều kiện dễ dàng hơn trong việc xử lý chất thải công
nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Các
doanh nghiệp công nghiệp có điều kiện thuận lợi hợp tác với nhau trong đổi
mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh.
Hai là, tạo việc làm và thu nhập.
Sự hình thành và phát triển KCN không chỉ thu hút lao động vào các
doanh nghiệp bên trong mà còn kích thích các hoạt động dịch vụ phát triển và
thu hút vào các hoạt động này một số lớn lao động khác.Việc xây dựng KCN
sản xuất cũng như các dịch vụ hỗ trợ bên ngoài KCN đã giải quyết được một
số lượng lao động khá lớn Số lao động này được tiếp xúc với công nghệ sản
xuất hiện đại, phương thức quản lý tiên tiến. Đây là điều kiện quan trọng để
xây dựng đội ngũ lao động có kỷ luật, có kỹ năng và có năng suất lao động
cao đáp ứng nhu cầu của công cuộc CNH, HĐH đất nước. Hơn nữa, để đáp
16
ứng nhu cầu tuyển dụng của nhiều doanh nghiệp, nhiều KCN, KCX đã mở
các cơ sở đào tạo nghề. Việc thành lập các trung tâm dạy nghề và đào tạo
trong các KCN, KCX đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho
các doanh nghiệp trong KCN nói riêng, cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
nói chung. Ở các địa phương có KCN, tỷ lệ thất nghiệp giảm rõ rệt. Điều đó
có tác động tích cực đến việc xoá đói, giảm nghèo, đồng thời góp phần giảm
các tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây ra.
Ba là, KCN là địa bàn để tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại và
phương pháp quản lý tiên tiến của các nước phát triển.
Cùng với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, việc tiếp thu công nghệ

hiện đại và các phương pháp quản lý tiên tiến của các nhà đầu tư được thực
hiện tốt thông qua các KCN. Mặc dù trong những giai đoạn đầu hoạt động của
các KCN, đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào các ngành như dệt may,
giày da, lắp ráp điện tử, nhưng càng về sau thì việc đầu tư vào các lĩnh vực
công nghệ hiện đại như đúc chính xác, sản xuất cơ khí, sản xuất cáp điện, linh
kiện điện tử ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn cả về sản phẩm và kim
ngạch xuất khẩu. Quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra dưới nhiều hình
thức: đào tạo công nhân nước chủ nhà để sử dụng máy móc, thiết bị, công
nghệ sản xuất, đưa máy móc hiện đại sang để tiến hành sản xuất nhằm mục
đích tạo năng sất lao động cao Các công ty ở các KCN có thể chuyển giao
một số công nghệ mới vào giúp đỡ kỹ thuật cho các nhà cung cấp địa phương
hoặc các công ty sản xuất chi tiết sản phẩm của KCN. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp KCN còn thu hút một lượng lớn người lao động Việt Nam vào các vị
trí quản lý doanh nghiệp quan trọng, đội ngũ lao động này được tiếp xúc với
phương thức quản lý tiên tiến, kỹ năng maketting, quản lý tài chính, tổ chức
nhân sự Đội ngũ này khi chuyển đi làm việc tại các doanh nghiệp Việt Nam
hoặc tự mình thành lập doanh nghiệp sẽ vừa áp dụng được phương pháp quản
lý tiên tiến đã tiếp thu được vào hoạt động của doanh nghiệp mình, vừa nâng
17
cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và truyền đạt những kiến thức quản
lý cho người lao động Việt Nam khác.
Bốn là, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp
lý và hiệu quả.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là một nội dung cơ bản trong quá trình
CNH, HĐH ở nước ta bởi nó tạo điều kiện cho nền kinh tế vận động phù hợp với
các quy luật khách quan, thúc đẩy phân công lao động xã hội, gắn sản xuất với
nhu cầu thị trường trong nước và xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá, mở cửa
và hội nhập kinh tế, giúp khai thác tối đa mọi nguồn lực, tiềm năng của đất nước,
của ngành, của doanh nghiệp cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đảng ta xác định
xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại, hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ, trong

đó giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành,
lĩnh vực nhất là các ngành và lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ công
nghiệp. Một mặt, KCN góp phần nâng cao tỷ trọng ngành công nghiệp trong
tổng số GDP của các ngành kinh tế tạo ra trên cả nước. Mặt khác, KCN thu hút
được những dự án có hàm lượng vốn lớn, công nghệ cao. Mặc dù số lượng các
dự án này trong KCN còn ít nhưng cũng góp phần phát triển ngành nghề mới,
đa dạng hoá ngành nghề công nghiệp. Các dự án đầu tư vào KCN tập trung chủ
yếu vào các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, giầy da, công nghiệp chế
biến thực phẩm. Đây là các dự án thu hút nhiều lao động và có tỷ lệ xuất khẩu
cao. Các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm là những ngành truyền
thống có từ lâu ở nước ta nhưng các dự án trong KCN đã góp phần nâng cấp
các ngành này về dây chuyền công nghệ và chất lượng sản phẩm.
Năm là, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý ô nhiễm môi trường, bảo
vệ môi trường sinh thái cho phát triển bền vững.
Bảo vệ môi trường sinh thái là một nhiệm vụ cơ bản của phát triển bền
vững. Các nước đang phát triển thực hiện CNH, HĐH thường phải chú ý đến
18
sự phát triển cân bằng cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Vấn đế môi trường
là một yếu tố quan trọng mà bất cứ một doanh nghiệp sản xuất nào cũng phải
giải quyết. Với mục tiêu chỉnh trang các đô thị theo hướng hiện đại, văn minh
và bảo vệ môi trường, việc di dời nhà máy, các xí nghiệp sản xuất công
nghiệp trong các đô thị ra vùng ngoại thành là cần thiết. Nhưng nếu để các
doanh nghiệp phân tán hoặc việc xử lý chất thải do từng doanh nghiệp thực
hiện riêng rẽ thì sẽ rất tốn kém và không kiểm soát được. Việc tập trung nhiều
doanh nghiệp trên cùng một địa bàn như KCN sẽ cho phép xây dựng các
trung tâm xử lý chất thải với chi phí ít tốn kém hơn, đồng bộ hơn, tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho việc quản lý môi trường của cơ quan chức năng. KCN
tập trung giảm sự tiếp xúc trực tiếp của các khu đô thị với tác động bất lợi của
sản xuất công nghiệp (như tiếng ồn, khói bụi, bức xạ ). Với sự tập trung của

các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp vào một địa điểm xác định, Ban quản
lý các KCN có thể kiểm soát tốt hơn mức độ ô nhiễm của các doanh nghiệp.
Đồng thời, về phía mình các doanh nghiệp công nghiệp cũng có điều kiện
phòng chống ô nhiễm môi trường với chi phí ít nhất do sử dụng lại phế thải
của nhau, do có sự liên kết xử lý ô nhiễm và sự hỗ trợ tập trung của nhà nước.
Hơn nữa, KCN được sử dụng các biện pháp triệt để trong việc xử lý
môi trường ngay từ khâu quy hoạch. Trong KCN, các doanh nghiệp buộc phải
có hệ thống xử lý chất thải cục bộ đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra hệ thống
chung. Từng KCN phải có nhà máy xử lý nước thải tập trung và được đầu tư
xây dựng song song với việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN. Như vậy,
việc bảo vệ môi trường trong toàn khu vực KCN được thực hiện tốt hơn so
với tại các cơ sở công nghiệp nằm rải rác ở nhiều khu vực khác nhau. Đồng
thời, KCN là địa điểm tốt để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi
trường từ nội thành, từ các vùng dân cư, phục vụ tốt cho mục tiêu phát triển
bền vững. Với tác động này, việc xây dựng các KCN tập trung được coi là
một giải pháp quan trọng của sự phát triển KT- XH.
19
Trong vài năm tới ở nước ta sẽ có khoảng 65% KCN đang hoạt động có
hệ thống nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường. Tuy nhiên, nó đòi hỏi các cơ
quan quản lý Nhà nước phải có quyết tâm cao kết hợp với các biện pháp cụ
thể. Thời gian qua đã có nhiều dự án xử lý nước thải tập trung trong KCN đi
vào vận hành, tổng số cơ sở xử lý nước thải tập trung lên 60 nhà máy, đạt gần
1/2 mục tiêu kế hoạch đến năm 2010. Ngoài ra, tại KCN đang xây dựng, có
20 nhà máy xử lý nước thải tập trung được xây dựng và dự kiến hoàn thành
trong năm nay. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Bộ Kế
hoạch và Đầu tư đã dự thảo Quy chế Bảo vệ môi trường KCN. Hy vọng sau
khi ban hành Quy chế này, chúng ta sẽ có cơ sở pháp lý trong triển khai công
tác bảo vệ môi trường KCN.
Sáu là, góp phần tăng cung ứng hàng hoá dịch vụ đáp ứng nhu cầu
trong nước và xuất khẩu.

Một trong những mục tiêu quan trọng đặt ra khi xây dựng các KCN là
góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Thực tế cho
thấy, nhiều KCN ở các nước đặc biệt là ở khu vực châu Á đã thành công
trong mục tiêu này. Theo thống kê của Hiệp hội KCX thế giới, một diện tích
khoảng 100 ha cần đầu tư 50 triệu USD cho kết cấu hạ tầng, trong vòng 10
năm sẽ tạo việc làm cho 10.000 lao động, từ đó tạo ra hàng xuất khẩu trị giá
100 triệu USD/năm [48].
Thực tế cho thấy việc phát triển KCN đã thành công ở nhiều nước như
Đài Loan, Thái Lan xây dựng KCN từ những năm đầu của thập kỷ 60 và đã
thu được những thành tựu to lớn. Các KCN của Đài Loan đã có 238 doanh
nghiệp xuất khẩu hoạt động với tổng vốn đầu tư hơn 860 triệu USD, trong đó
hơn 70% là đầu tư nước ngoài. Tổng giá trị xuất khẩu tích lũy đã hơn 35 tỷ
USD, tạo việc làm cho 90.000 lao động. Còn Thái Lan, năm 1960 thu nhập
GDP bình quân là 94 USD/người. Qua 3 thập kỷ công nghiệp hóa, công
nghiệp đã lên ngôi chiếm 34% GDP và nông nghiệp chỉ còn 10%, 70% giá trị
20
xuất khẩu do các ngành công nghiệp đảm nhận, thu nhập GDP bình quân đầu
người cao. Công nghiệp chế tạo từ thập kỷ 60 đến nay là khu vực đóng góp
phần quan trọng nhất đối với tiến bộ của cả nước [43, tr.35].
Theo Ngân hàng thế giới (WB), 1 ha đất canh tác nông nghiệp, bình
quân một năm chỉ thu được 2000 USD. Nhưng nếu dùng để sản xuất công
nghiệp có thể đạt 200.000 đến 400.000 USD, tăng gấp 100 đến 200 lần [49].
Bảy là, tạo điều kiện xây dựng khu đô thị, nâng cao chất lượng đời
sống dân cư.
KCN sẽ là hạt nhân để xây dựng và phát triển các khu đô thị mới, văn
minh, góp phần cải thiện đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội cho khu vực rộng lớn
được đô thị hoá. Ở các đô thị gắn liền với KCN thì bộ phận chủ yếu của dân cư
đô thị là những người lao động và quản lý trong các KCN. Họ có nhu cầu đi lại,
ăn ở, nghỉ ngơi, giải trí sao cho phù hợp với yêu cầu làm việc trong KCN.
Ở các nước đang phát triển, với mục tiêu xây dựng các đô thị theo

hướng hiện đại, văn minh và bảo vệ môi trường nên phải thực hiện di dời
nhà máy xí nghiệp sản xuất trong các đô thị ra các vùng ngoại thành.
KCN là nơi tiếp nhận các nhà máy xí nghiệp đó tạo nên một địa bàn sản
xuất đồng bộ tập trung. Chính vì vậy, vấn đề quy hoạch phát triển KCN
không thể tách rời quy hoạch phát triển đô thị, phát triển kinh tế. Kinh
nghiệm phát triển KCN trong thời gian qua cho thấy, việc hình thành các
khu đô thị mới chỉ trở thành hiện thực khi có sự phát triển đồng bộ giữa
công nghiệp, khu dân cư, các công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội trong
và ngoài hàng rào.
1.1.2.2. Những tác động tiêu cực khi thành lập và hoạt động của các
khu công nghiệp
Việc xây dựng và phát triển các KCN, KCX của nước ta trong thời gian
qua bên cạnh những thành tựu đạt được cũng đã bộc lộ những hạn chế, đặt ra
những vấn đề bức xúc cần phải nghiên cứu giải quyết.
21

×