Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Thông tin trên thị trường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.64 KB, 18 trang )

1

Thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Information on the Vietnamese stock market
NXB H. TTĐTBDGV, 2012 Số trang 112 tr. +


Hồ Thái Khánh


Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị
Luận văn ThS ngành: Kinh tế chính trị; Mã số: 60 31 01
Người hướng dẫn: PGS. TS. Phạm Văn Dũng
Năm bảo vệ: 2012


Abstract: Tìm hiểu vai trò và những tác động của thông tin đối với thị trường chứng
khoán (TTCK), đồng thời cũng đề cập đến vai trò của Nhà nước trong việc kiểm soát
thông tin. Phân tích, đánh giá thực trạng của hệ thống thông tin thị trường chứng khoán
Việt Nam (thành tựu, hạn chế, nguyên nhân), Nhà nước phải có tác động mạnh hơn nữa
trong hoạt động kiểm tra, kiểm soát các nguồn thông tin. Nghiên cứu tính cần thiết phải
đổi mới trong quản lý của các cơ quan chức năng cũng như của Nhà nước và đưa ra các
giải pháp nhằm đảm bảo thị trường chứng khoán Việt Nam hoạt động theo đúng quy luật.

Keywords: Kinh tế chính trị; Thị trường chứng khoán; Việt Nam

Content
1. Tính cấp thiết của đề tài
Không giống như ở các thị trường khác, trên thị trường tài chính và nhất là thị trường chứng
khoán, vấn đề thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng. Thông tin không đầy đủ, không chính xác
và không được chia sẻ công bằng cũng đồng nghĩa với một thị trường ngừng hoạt động.


Vốn là nguồn lực quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Để huy động và nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn cần phải thúc đẩy nhanh quá trình vận hành của thị trường chứng khoán như một
kênh dẫn vốn trung, dài hạn hữu hiệu. Đồng thời kinh tế Việt Nam cũng lại là một nền kinh tế
thiếu thông tin, vì những lý do khách quan và chủ quan. Đó là một trở ngại đáng kể cho sự phát
triển của thị trường chứng khoán. Mặc dù cơ quan quản lý nhà nước và các công ty tham gia thị
trường đã có nhiều nỗ lực để cải thiện chất lượng thông tin trên thị trường, song với một thị
trường còn chưa hình thành đầy đủ, còn rất nhiều việc phải làm để có được một hệ thống cung
cấp, xử lý thông tin có thể giúp thị trường chứng khoán trở thành nguồn cung cấp vốn quan trọng
của nền kinh tế.
Trải qua hơn 12 năm hình thành và phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam đang dần ổn
định và phát triển nhưng kèm theo đó là sự xuất hiện của hàng loạt các hành vi gian lận như giao
dịch nội gián, thao túng thị trường, chào bán chứng khoán khi chưa đủ điều kiện giao dịch
Nguyên nhân xảy ra các hành vi giao dịch gian lận này xuất phát từ những khiếm khuyết về thông
2

tin trên thị trường chứng khoán. Cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ, trung thực đang là đòi hỏi
bức thiết cho các chủ thể trên thị trường chứng khoán nước ta.
Xuất phát từ thực tiễn đó, em đã chọn đề tài: “Thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Cho đến nay, đã có nhiều công trình và bài viết nghiên cứu về thông tin trên thị trường chứng
khoán Việt Nam. Có thể nêu một số như sau:
- TS. Đào Lê Minh (2006): “Nhu cầu và khả năng xây dựng Luật chứng khoán: Nhìn từ kết quả
của một dự án điều tra”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế thế giới số 4 (120) 2006, tr49-56, tác giả đã
phân tích, đánh giá thực trạng công tác tổ chức, quản lý, hệ thống khung luật pháp đối với hoạt động
của TTCK. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nƣớc đối với
TTCK, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực hệ thống luật pháp điều chỉnh hoạt động của TTCK, đồng thời
tăng cƣờng hiệu quả quản lý và giám sát TTCK ở nƣớc ta trong bối cảnh hội nhập
- TS. Trần Đắc Sinh – UBCKNN “Tăng cường và hoàn thiện hệ thống công bố thông tin trên thị
trường chứng khoán Việt Nam”, 2002, tác giả đã Trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động
công bố thông tin (TT) trên TTCK và những bài học kinh nghiệm của một số nước trên thế giới. Phân

tích thực trạng hoạt động công bố TT trên TTCK tập trung ở Việt Nam. Đề xuất một số giải pháp nhằm
tăng cường và hoàn thiện hoạt động này ở Việt Nam
- TS. Nguyễn Đại Lai - Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 16 (6/11/2008) “Để thị trường chứng
khoán Việt Nam "ấm" trở lại và vận động theo đúng quy luật vốn có của nó”, tác giả đã chỉ ra
những vấn đề của TTCK và cũng đưa ra một số giải pháp, trong đó Chính phủ đóng vai trò quan
trọng giúp thị trường chứng khoán hoạt động theo đúng quy luật vốn có của nó.
Các công trình và bài viết nói trên biểu hiện những cách tiếp cận khác nhau, thời điểm và hoàn
cảnh khác nhau với thị trường chứng khoán. Mặc dù có rất nhiều ý kiến đóng góp, nhiều giải pháp
được đưa ra nhưng chưa có một tài liệu nào đề cập một cách có hệ thống về các giải pháp thúc đẩy
sự phát triển của thị trường chứng khoán bền vững dựa trên cơ sở thông tin cung cấp tới các lực
lượng trên thị trường. Bởi vậy, nghiên cứu một các có hệ thống về ảnh hưởng của thông tin đối
với sự phát triển và ổn định của thị trường chứng khoán là một yêu cầu cấp thiết nhằm góp phần
phát huy tác dụng của TTCK trong nền kinh tế thị trường.
3. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của đề luận văn là tìm hiểu thực trạng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt
Nam, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin trên thị trường này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Dưới góc độ kinh tế chính trị, luận văn nghiên cứu thông tin trên
TTCK như là một tác nhân ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của TTCK.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn nghiên cứu thông tin trên TTCK có tổ chức của Việt Nam
trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay.

3

5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn sử dụng những phương pháp chung trong nghiên
cứu kinh tế chính trị là: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Luận văn đặc biệt chú ý tới phương pháp logic kết hợp với lịch sử, phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích kết hợp với tổng hợp…
6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn:

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thông tin trên TTCK, vai trò của thông tin đối với thị
trường, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư nhỏ.
- Làm rõ thực trạng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam hơn 8 năm vừa qua, chỉ ra
những thành tựu và hạn chế trong việc cung cấp thông tin cho các chủ thể trên thị trường và
những tác động của nó với sự phát triển của thị trường chứng khoán
- Nêu ra một số giải pháp để giải quyết vấn đề thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam
hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm
3 chương:
Chương 1. Thông tin trên thị trường chứng khoán – cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế.
Chương 2. Thực trạng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện hệ thống thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Chƣơng 1
THÔNG TIN TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

1.1. Lý luận chung về thông tin trên thị trƣờng chứng khoán
1.1.1. Thị trường chứng khoán và vai trò của nó.
- Khái niệm về TTCK
Trong những ngày đầu của sản xuất hàng hóa và lưu thông tiền tệ, hệ thống ngân hàng sớm ra
đời để huy động các nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi hình thành trong xã hội nhằm tái phân phối cho
nền kinh tế quốc dân theo nguyên tắc tín dụng. Như vậy, một kênh vốn nối hai cực đó lại với nhau
và phải thông qua các trung gian tài chính, trong đó chủ yếu là hệ thống ngân hàng được gọi là
kênh dẫn vốn gián tiếp. Khi xã hội của sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển ở giai đoạn cao,
ngày một hoàn thiện thì những người có vốn đã có đủ điều kiện về môi trường pháp lý, môi
trường tài chính v.v… để chuyển vốn của mình trực tiếp đầu tư vào sản xuất không phải thông qua
tầng lớp trung gian tài chính mà phải thông qua thị trường chứng khoán – một thị trường dẫn vốn
trực tiếp từ cực có vốn này sang cực cần vốn kia theo nguyên tắc đầu tư. Kênh dẫn vốn đó được

gọi là kênh dẫn vốn trực tiếp.
4

Dựa vào tiêu thức phương thức giao dịch, TTCK được chia thành hai loại: thị trường sơ cấp và
thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp: là thị trường phát hành chứng khoán lần đầu để thành lập doanh nghiệp,
huy động thêm vốn cho doanh nghiệp, huy động vốn cho nhu cầu chi tiêu của chính phủ, qua đó
đưa nguồn vốn tiết kiệm vào công cuộc đầu tư.
Thị trường thứ cấp: là thị trường mua đi bán lại các loại chứng khoán đã phát hành với nhiều
lần mua bán và giá cả khác nhau.
- Về vai trò của TTCK ta có thể xét đến từ quan hệ của nó đối với Chính phủ, doanh nghiệp và
nhà đầu tư.
a. Đối với chính phủ.
b. Đối với các doanh nghiệp.
c. Đối với nhà đầu tư.
- Ta cũng có thể nhận thấy các nhược điểm của thị trường chứng khoán.
a. Yếu tố đầu cơ.
b. Mua bán nội gián.
c. Phao tin đồn không chính xác hay thông tin lệch lạc.
d. Mua bán cổ phiếu ngầm.
1.1.2 Thông tin trên thị trường chứng khoán: tính chất và phân loại
a. Thông tin và tính rủi ro đối với thị trường chứng khoán
Trong kinh tế thị trường, chẳng có hoạt động đầu tư kinh doanh nào lại không có rủi ro. Lợi
nhuận càng cao, rủi ro càng lớn Đầu tư chứng khoán cũng chịu tác động của quy luật này, nhưng
ở mức sâu đậm và đa diện hơn.
Rủi ro do tính thanh khoản thấp.
Rủi ro từ thông tin
Rủi ro trong kinh doanh chứng khoán có nguồn gốc rất sâu đậm từ số lượng và chất lượng
thông tin mà nhà đầu tư cần để làm cơ sở đưa ra các quyết định đầu tư. Rủi ro luôn rình rập ở mọi
nơi và nhà đầu tư sẽ phải trả giá sớm hay muộn, đắt hay rẻ, khi không nắm được các thông tin

chính xác nhất, đầy đủ và kịp thời nhất liên quan đến môi trường đầu tư, chất lượng chứng khoán
và tình hình thị trường
Rủi ro từ các quy định và chất lượng dịch vụ của sàn giao dịch
Rủi ro từ các chấn động thị trường
Các nhà đầu tư chứng khoán, nhất là các nhà đầu tư nhỏ, có thể phải gánh chịu nhiều rủi ro
liên quan đến các chấn động thị trường trong nước hoặc nước ngoài gây ra.
Cuối cùng, rủi ro lớn nhất và cũng là nguồn cội của mọi rủi ro trong đầu tư chứng khoán chính
là rủi ro từ sự sai lầm do thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng tổng hợp, phân tích và phản ứng thị trường
nhạy bén, chính xác của bản thân nhà đầu tư Đã qua rồi những cơ hội ngắn ngủi và các ảo tưởng
5

về kinh doanh chứng khoán đơn giản chỉ là mua chứng khoán vào, “đợi giá lên một chiều và khi
cần tiền thì bán ra”.
b. Thông tin bất cân xứng
Trên thị trường chứng khoán, hiện tượng bất cân xứng xảy ra khi: doanh nghiệp che giấu các
thông tin bất lợi, thổi phồng thông tin có lợi ; doanh nghiệp cung cấp thông tin không công bằng
đối với các nhà đầu tư; doanh nghiệp sau khi phát hành cổ phiếu không chú trọng vào đầu tư sản
xuất kinh doanh mà chỉ tập trung vào việc “làm giá” trên thị trường chứng khoán; có sự rò rỉ
thông tin nội gián; một số nhà đầu tư tạo cung cầu ảo trên thị trường dẫn đến phản ánh sai lệch giá
trị của doanh nghiệp; một số kẻ xấu tung tin đồn thất thiệt cho doanh nghiệp; các cơ quan truyền
thông cung cấp thông tin sai lệch; các trung gian tài chính cung cấp, xử lý thông tin không chính
xác Tình trạng bất cân xứng về thông tin sẽ dẫn đến việc các nhà đầu tư đưa ra các quyết định
đầu tư không chính xác, gây cung cầu ảo, thị trường bong bóng và tiềm ẩn nguy cơ sụp đổ thị
trường.
c. Phân loại thông tin
Từ việc nhận định tầm quan trọng của thông tin trên thị trường chứng khoán, có thể phân tổ
các thông tin theo các tiêu thức sau:
- Phân tổ theo loại chứng khoán
+ Thông tin về cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư
+ Thông tin về trái phiếu

+ Thông tin về các chứng khoán phái sinh
- Phân tổ theo phạm vi bao quát
+ Thông tin đơn lẻ của từng nhóm chứng khoán
+ Thông tin ngành
+ Thông tin nhóm ngành
+ Thông tin nhóm cổ phiếu đại diện và tổng thể thị trường
+ Thông tin của SGDCK hay cả quốc gia, thông tin có tính quốc tế
- Phân tổ theo thời gian
+ Thông tin quá khứ, thông tin hiện tại và thông tịn dự báo cho tương lai
+ Thông tin theo thời gian (phút, ngày…)
+ Thông tin tổng hợp theo thời gian (tuần, tháng, quý, năm…)
- Phân tổ theo nguồn thông tin
+ Thông tin trong nước và quốc tế
+ Thông tin của các tổ chức tham gia thị trường: tổ chức niêm yết, công ty chứng khoàn và
thông tin của SGDCK
+ Thông tin tư vấn của các tổ chức tư vấn đầu tư và tổ chức xếp hạng tín nhiệm
+ Thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng (báo, truyền hình, mạng Internet…)

6

1.1.3. Nội dung đáp ứng nhu cầu thông tin trên thị trường chứng khoán.
a. Luật pháp thông tin
Theo quy định tại điều 3 Chương I Thông tư số 52/2012/TT-BTC.
b. Kiểm tra thông tin
c. Xây dựng hệ thống cung cấp thông tin
d. Quản lý nhà nước về thông tin
1.2. Kinh nghiệm của Mỹ vàTrung Quốc trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin trên thị
trƣờng chứng khoán.
Chúng ta nêu ra những nét chính trong quá trình phát triển hệ thống thông tin của thị trường
chứng khoán Mỹ và Trung Quốc. Qua đó rút ra bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng hệ

thống thông tin, nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam.
1.2.1. Khái quát về thị trường chứng khoán Mỹ và Trung Quốc.
a. Khái quát về thị trường chứng khoán Mỹ.
b. Khái quát về thị trường chứng khoán Trung Quốc.
1.2.2. Vai trò của Nhà nước Trung Quốc trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin trên thị
trường chứng khoán.
Đến 2005, TTCK Trung Quốc mới bắt đầu sôi động khi chính phủ cho đấu giá cổ phần lần đầu
(IPO) nhiều doanh nghiệp nhà nước có vị trí độc quyền trong nền kinh tế quốc dân. Từ đó sự can
thiệp trực tiếp của chính phủ là một “đặc trưng” nổi bật của TTCK Trung Quốc.
Việc cần làm của Trung Quốc không phải là chính phủ can thiệp để cứu giá cổ phiếu mà cần
đẩy nhanh tiến trình minh bạch hóa để thị trường được vận hành độc lập theo quy luật của nó.
1.2.3. Bài học kinh nghiệm đối với thị trường chứng khoán Việt Nam
Từ việc tìm hiểu, nghiên cứu HTTT của TTCK Mỹ và Trung Quốc có thể rút ra một số bài học
cho Việt Nam như sau:
- Một là, HTTT tại các sở giao dịch cần được hiện đại hóa ngay từ đầu, nhất là đối với các xử
lý giao dịch trên sàn.
- Hai là, nên có một chiến lược phát triển HTTT từ phía Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
- Ba là, cần chú ý đến vấn đề mạng truyền thông giữa các bộ phận thị trường.
- Bốn là, khuyến khích hoạt động của các hãng cung cấp thông tin chuyên nghiệp, nhất là khi
TTCK phát triển, có thị trường phi tập trung.

Chƣơng 2
THỰC TRẠNG THÔNG TIN TRÊN THỊ TRƢỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

2.1. Khái quát tình hình hoạt động của thị trƣờng chứng khoán Việt Nam qua gần 12
năm hoạt động.
7

2.1.1. Một số thành tựu đạt được.

Quy mô thị trường tăng nhanh, từng bước đóng vai trò là kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan
trọng.
Số lượng công ty niêm yết tăng trưởng mạnh góp phần tăng cung hàng hóa và tính thanh
khoản cho thị trường
Hệ thống các định chế trung gian và dịch vụ chứng khoán ngày càng phát triển cả về số
lượng, chất lượng hoạt động và năng lực tài chính
Hệ thống các nhà đầu tư trong và ngoài nước phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng
Hệ thống văn bản pháp lý, khuôn khổ pháp lý được phát triển một cáchđồng bộ, thống nhất,
phù hợp với thực tiễn phát triển TTCK Việt Nam
Cấu trúc TTCK từng bước được hoàn thiện theo hướng tách chức năng quản lý với chức năng
tổ chức và vận hành thị trường, góp phần nâng cao khả năng quản lý, giám sát của nhà nước
Hoạt động quản lý, giám sát thị trường ngày càng sâu sát và từng bước hoàn thiện
2.1.2. Một số hạn chế trên TTCK Việt Nam
Chỉ số chứng khoán biến động không ổn định
Hàng hóa còn hạn chế về quy mô và cơ cấu
Hoạt động của các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn nhiều hạn chế
Hệ thống quản lý chưa hoàn thiện
2.2. Thông tin trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam hiện nay.
Những ngày đầu tháng 4/2010, thị trường chứng khoán Việt Nam (TTCK) đã phục hồi ấn
tượng khi chỉ số chứng khoán liên tục leo dốc và một luồng tiền đang mạnh mẽ đổ vào thị trường.
Nhưng niềm vui và sự hào hứng của các nhà đầu tư (NĐT) vừa mới bắt đầu thì nỗi lo đã xuất hiện khi
nạn rò rỉ, tiết lộ thông tin, giao dịch nội gián, loạn tin đồn… đang có nguy cơ bùng nổ.
Những tháng gần đây, các hiện tượng tiêu cực như công ty chứng khoán, cổ đông lớn thao
túng thị trường, cổ đông nội bộ giao dịch nhưng không công bố thông tin đã khiến nhiều NĐT
bức xúc. Đỉnh điểm của sự việc là mới đây TTCK rúng động về một báo cáo có tiêu đề "Thông tin
giao dịch của các tổ chức" đã được lan truyền rộng rãi. Báo cáo này cập nhật chi tiết và chính xác
về danh mục, giao dịch từng ngày của tất cả công ty chứng khoán. Lãnh đạo nhiều công ty chứng
khoán hết sức bàng hoàng vì thông tin trong báo cáo này gần như bản sao danh mục đầu tư của họ
mà về nguyên tắc, đây đều là những bí mật kinh doanh chỉ có cơ quan quản lý thị trường có được
nhưng không hiểu sao lại bị rò rỉ ra ngoài.

Ở một góc độ khác, các chuyên gia nhận định rằng hiện tượng tiết lộ thông tin như trên còn
đáng sợ hơn thông tin nội gián vì đây là toàn bộ thông tin thị trường. Chính từ bản tự doanh của
các công ty chứng khoán, người ta có thể đoán được xu hướng và lướt sóng trục lợi. Thực tế
chứng minh, trong tháng 3-2010 có 5 đợt sóng, mỗi đợt mang lại mức tăng trung bình 5%-7% thì
cả tháng cũng mang lại khoản lợi nhuận khoảng 30%. Đây là mức lợi nhuận khổng lồ trong một
8

thời gian cực ngắn. Và những người "chộp được" thông tin từ bản tự doanh, biết được xu hướng
thị trường đã bội thu.
Vấn đề minh bạch thông tin trên TTCK Việt Nam lâu nay vẫn là điều ấm ức của hầu hết NĐT,
làm đau đầu các nhà quản lý. Thực tế cho thấy, những năm trước đây, khi suốt một thời gian khá
dài thị trường tăng nóng, lợi nhuận dễ dàng, hầu hết các NĐT không quan tâm lắm đến tính minh
bạch trong thông tin chứng khoán. Nhưng giờ đây, khi tình hình đã hoàn toàn khác, những tin đồn
thiếu cơ sở, những thông tin nội gián và sự rò rỉ có ý đồ đã trở thành điều nhức nhối của thị
trường. Quan sát nhiều phiên giao dịch, người ta không hiểu sao một số loại cổ phiếu tự nhiên
được mua nhiều, tăng bất thường qua các phiên. Rồi chỉ một thời gian ngắn sau, chính các cổ
phiếu đó được công bố thông tin tốt, doanh thu lợi nhuận tăng trưởng ngoài dự kiến… giá các cổ
phiếu đó tăng vùn vụt.
Bên cạnh đó, TTCK Việt Nam gần đây bị ảnh hưởng bởi các tin đồn rất nhiều. Tin đồn chủ
yếu tập trung xung quanh hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, các chính sách mới,
thậm chí tin đồn cũng không từ cả cơ quan quản lý Đặc biệt, khi các dự báo về tình hình kinh tế
Việt Nam trong năm 2010 tuy có hồi phục nhưng khả năng lạm phát gia tăng cũng rất lớn, các
NĐT nảy sinh tâm lý ngóng đợi chủ trương lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước. Trong bối
cảnh đó, đã và đang xuất hiện hàng loạt tin đồn về lạm phát, về lãi suất cơ bản, chỉ số giá tiêu
dùng. Không ít tin đồn đó tạo nên các đợt sóng trên thị trường và đem lại lợi nhuận cho một số
người.
Hệ thống hóa dấu hiệu vi phạm
Các thủ đoạn trục lợi bất chính và xâm hại quyền lợi của các cổ đông nhỏ cũng đang ngày
càng nở rộ trên TTCK và đặt ra yêu cầu cấp thiết phải khẩn trương chấn chỉnh tình trạng này. Các
thông tin không minh bạch có hậu quả khôn lường. Hậu quả xấu không những chỉ ảnh hưởng đến

các NĐT (cả cá nhân và tổ chức) mà còn có thể ảnh hưởng đến doanh nghiệp niêm yết nói riêng
và TTCK nói chung.
Thời gian qua, UBCKNN đã tăng cường việc giám sát, thanh tra và xử phạt trên TTCK, nhiều
lần xử lý các vi phạm "làm giá" của các công ty chứng khoán. Mới đây, ngày 19/1/2012, Bộ Tài
chính ban hành Thông tư 09 hướng dẫn về công bố thông tin trên TTCK đã được giới đầu tư hoan
nghênh và kỳ vọng về một thị trường minh bạch. Tuy nhiên, mức phạt còn quá nhẹ: phạt hành
chính cao nhất cho mọi vi phạm vẫn dưới 70 triệu đồng nên chưa đủ tính răn đe, do đó cần thiết
phải có hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán nặng hơn, mức độ răn
đe nghiêm khắc hơn.
Các mức xử phạt thấp là nguyên nhân dẫn đến tình trạng các tổ chức trên thị trường sẵn sàng
bỏ ra một “chi phí” xử phạt để có thể thu về những lợi ích lớn hơn
Các chuyên gia cho rằng, việc cần làm của cơ quan quản lý, giám sát thị trường là phải hệ
thống hóa được dấu hiệu của các tình huống giao dịch bất lợi cho thị trường để tiến hành kiểm tra
ngay khi thấy có dấu hiệu vi phạm; đồng thời cơ quan quản lý nhà nước liên quan cần tăng cường
9

công tác cung cấp thông tin, định hướng nhận thức để giúp người dân hiểu đúng bản chất và các
diễn biến của nền kinh tế nhằm giúp họ có những quyết định đúng đắn. NĐT cũng nên thận trọng
với tất cả các thông tin, nhất là những thông tin phát ra từ kênh không chính thức.
2.2.1. Tình hình tuân thủ pháp luật về công bố thông tin.
Trong năm 2012, mặc dù Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã tăng cường kiểm tra giám sát
hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, tuy nhiên trên thực tế các hành vi vi
phạm vẫn ngày càng phức tạp và gia tăng.
Trong năm 2011, tổng số tiền xử phạt vi phạm hành chính trên TTCK là 9,5 tỷ đồng. Trong 6
tháng đầu năm 2012, UBCKNN đã xử phạt với số tiền là 2,482 tỷ đồng với 6 cá nhân và 34
doanh nghiệp vi phạm. Trong đó, mức xử phạt nhẹ nhất là 10 triệu đồng đối với hành vi không
công bố BCTC kịp thời, mức xử phạt cao nhất là 290 triệu đồng do gộp nhiều hành vi vi phạm. Đa
số các doanh nghiệp bị xử phạt đều mắc lỗi không công bố thông tin kịp thời, hoặc không đăng ký
công ty đại chúng. Trong khi các cá nhân bị xử phạt chủ yếu do giao dịch “chui” mà không thực
hiện báo cáo theo quy định.

Vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán có dấu hiệu tăng dần trong quý 3/2012. Nếu
như cả tháng Tám chỉ có 9 trường hợp bị xử phạt thì trong tháng Chín số trường hợp bị phạt tăng
gấp rưỡi với 16 trường hợp. Chỉ riêng ba ngày đầu tiên của tháng Mười này đã có 5 trường hợp vi
phạm bị Ủy ban Chứng khoán Nhà nước "tuýt còi."
Đáng chú ý là hoạt động vi phạm công bố thông tin từ phía các công ty chứng khoán với
những lỗi vi phạm “quên” tuân thủ các quy định của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
Từ những phản ánh ở phía các nhà đầu tư, có thể thấy các cơ quan chức năng, Nhà nước chưa
đặt vấn đề thông tin ở đúng tầm quan trọng của nó, chưa có chế tài luật đủ mạnh để làm nản lòng
những chủ thể tham gia thị trường có ý định vi phạm. Điều này làm NĐT rời bỏ thị trường nhanh
hơn.
Một vấn nạn khác cũng làm nao núng các nhà đầu tư đó là hiện tượng trên một mã chứng
khoán có hàng loạt tổ chức, cá nhân cùng “rủ nhau” vi phạm lỗi công bố thông tin về giao dịch.
2.2.2. Xây dựng hệ thống cung cấp thông tin.
Việc rò rỉ thông tin dẫn đến các giao dịch nội gián, đầu cơ là điều rất dễ xảy ra tại các trung
tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) VN với cách công bố thông tin hiện nay. Bởi theo qui
định thì các công ty niêm yết phải chuyển các tài liệu, thông tin về DN mình đến TTGDCK để các
trung tâm công bố. Khoảng thời gian từ lúc thông tin gửi về cho đến lúc được TTGDCK công bố
có khi kéo dài đến 4-5 ngày. Với quãng thời gian như vậy, những người nắm được các thông tin
này hoàn toàn có thể đặt những lệnh mua, bán cổ phiếu để kiếm lợi nhờ biết trước thông tin so
với các nhà đầu tư khác. Thực chất, đấy chính là giao dịch nội gián.
Cho nên yêu cầu về công khai, minh bạch việc cung cấp thông tin về các công ty niêm yết,
đăng ký giao dịch sẽ làm cho thị trường lành mạnh hơn.
10

Như vậy, nếu như không có sự can thiệp của Nhà nước đối với kiểm tra, kiểm soát thông tin
thì các vi phạm liên quan đến giao dịch nội gián, rò rỉ thông tin… sẽ xảy ra phổ biến và phức tạp
hơn.
2.2.3. Quản lý nhà nước về thông tin.
Với những nhược điểm về thông tin của TTCK Việt Nam, Nhà nước đóng một vai trò quan
trọng trong vấn đề quản lý thông tin. Tuy nhiên, các cơ quan chức năng vẫn chưa có sự phối hợp

nhịp nhàng, chưa có sự phân quyền cụ thể và hoạt động khá chồng chéo.
Nhận thấy tính chất nghiêm trọng của việc vi phạm về công bố thông tin, Thủ tướng Chính
phủ Nguyễn Tấn Dũng ra Chỉ thị 08/CT-TTg ngày 2-3-2012 về thúc đẩy hoạt động và tăng cường
quản lý TTCK. Để đảm bảo cho TTCK phát triển lành mạnh, đồng bộ với thị trường tiền tệ, bình
ổn thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô, Thủ tướng chỉ đạo các bộ ngành, các thành viên thị trường
triển khai các giải pháp thúc đẩy hoạt động và tăng cường công tác quản lý giám sát thị trường
này.
Mặc dù TTg CP đã chỉ đạo các cơ quan chức năng trong công tác phối hợp hiệp đồng, nhưng
tình hình vi phạm vẫn chưa thể cải thiện ngay. Đến tháng 10/2012, các hành vi vi phạm về công
bố thông tin diễn ra ngày càng phức tạp và tinh vi hơn. Mặt khác, để đợi cơ quan chức năng sửa
luật thì rất lâu, trong khi đó nhà đầu tư luôn cần sự minh bạch và công bằng trên thị trường. Điều
này cần sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước trong việc kiểm soát chặt chẽ hoạt động phát hành cổ
phiếu với số lượng lớn, Nhà nước cũng phải chú trọng đẩy mạnh minh bạch hóa trong công bố
thông tin của các công ty niêm yết.
2.3. Đánh giá chung về thực trạng thông tin trên TTCK Việt Nam.
2.3.1 Thực trạng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như bất kỳ thị trường mới nổi nào trên thế giới, hiện
tượng thông tin bất cân xứng xảy ra phổ biến trên mọi ngành, lĩnh vực. Thứ nhất, ngoài các thông
tin bắt buộc theo luật định phải công bố thì các doanh nghiệp không chủ động cung cấp thông tin
đầy đủ, kịp thời. Đặc biệt đối với các công ty có cổ phiếu giao dịch trên thị trường phi chính thức
(OTC), tình trạng phổ biến là nhà đầu tư hầu như mù mờ về tình hình làm ăn, tình hình hoạt động
kinh doanh của công ty. Các thông tin tìm được chủ yếu qua nguồn tin riêng, trên các diễn đàn
chứng khoán hoặc tin đồn. Một thực trạng nữa là đối với các công ty chào bán lần đầu ra công
chúng thực hiện đấu giá tại cơ sở, Ban giám đốc công ty có xu hướng che giấu các thông tin để
“dìm giá“ sao cho những người nội bộ công ty có thể mua được cổ phiếu với giá thấp.
Hiện tượng rò rỉ thông tin chưa hoặc không được phép công khai. Sự rò rỉ thông tin phổ biến
trong công tác đấu giá cổ phiếu. Hiện nay, quy chế đấu giá do UBCK ban hành chỉ yêu cầu các
Trung tâm giao dịch chứng khoán công bố tổng số nhà đầu tư tham gia đấu giá và tổng lượng CP
đặt mua, trong khi những thông tin có ảnh hưởng rất lớn đến việc đặt giá như số lượng nhà đầu tư
tổ chức/nhà đầu tư nước ngoài tham gia đấu giá; số lượng CP đặt mua của các đối tượng này, lại

không được công bố cụ thể. Điều đáng nói là, những thông tin này không được bảo mật chặt chẽ
11

mà được cung cấp một cách riêng lẻ cho những đối tượng có nhu cầu. Những người nắm được cụ
thể, chi tiết về tổng cầu cổ phiếu của thị trường, các cá nhân tổ chức nào tham gia đấu giá sẽ tính
toán được hợp lý mức giá mà mình bỏ thầu, qua đó chiếm lợi thế so với các nhà đầu tư khác
không có thông tin.
2.3.2 Nguyên nhân của những bất cập trên TTCK Việt Nam
Thứ nhất, tâm lý đầu tư theo đám đông của nhà đầu tư dẫn đến rủi ro “bầy đàn”.
Thứ hai, trình độ của nhà đầu tư chưa cao, chưa mang tính chuyên nghiệp và chưa có được các
kỹ năng để phân tích thông tin.
Thứ ba, những thay đổi trong chính sách không được công bố và cảnh báo kịp thời.
Thứ tư, sự phản ánh thông tin không chân thực của truyền thông cũng góp phần là “nhiễu
sóng” các nhà đầu tư.
Thứ năm, tình trạng thông tin nội gián và trục lợi từ thông tin nội gián vẫn còn tồn tại khá phổ
biến, song các biện pháp xử lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền vẫn chưa đủ sức răn đe.
Thứ sáu, mức độ tuân thủ pháp luật về công bố thông tin của tổ chức phát hành chưa cao.
Thứ bảy, trình độ của người quản trị công ty còn yếu, ý thức và trách nhiệm của người công
bố thông tin của tổ chức phát hành còn nhiều hạn chế.
Thứ tám, hệ thống hạ tầng kỹ thuật phục vụ hoạt động công bố thông tin còn yếu, làm tăng rủi
ro cho nhà đầu tư và khó ngăn chặn, phát hiện các hành vi phạm tội.

Chƣơng 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN
TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

3.1. Xu hƣớng phát triển của thị trƣờng chứng khoán Việt Nam.
Để đánh giá triển vọng chứng khoán Việt Nam những năm tới đây, có thể phân tích 5 yếu tố
tác động mạnh nhất đến xu hướng của thị trường:
Về đà phục hồi của kinh tế thế giới và dòng vốn đầu tư nước ngoài

Về sự ổn định của nền kinh tế và chính sách vĩ mô
Cổ phiếu giá rẻ, hấp dẫn cho đầu tư giá trị
Áp lực từ niêm yết mới và IPO
Kỳ vọng công cụ và chính sách mới đối với thị trường chứng khoán
3.2. Giải pháp hoàn thiện hệ thống thông tin.
Ngày nay, trong thời đại bùng nổ thông tin, thông tin có vai trò quan trọng trong sinh hoạt của
mọi tầng lớp, mọi đối tượng. Đối với nhà đầu tư, trừ phi là nhà đầu tư theo đuổi một chiến lược
đầu tư đơn giản (như đầu tư số tiết kiêm hiện có vào các sổ tiết kiệm hay chọn lựa ngẫu nhiên một
loại chứng khoán nào đố và nắm giữ chúng cho tới khi đến hạn), thông tin lại càng có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng vì để đầu tư thành công cần phải có đầy đủ thông tin về thị trường, về ngành nghề,
12

về tình trạng tài chính của doanh nghiệp mà mình định đầu tư. Chính vì vậy, trong đầu tư, nắm
được thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác là đã nắm một nửa của sự thành công: nửa còn lại tuỳ
thuộc vào khả năng phân tích, phán đoán, sự nhậy cảm và tính năng động của mỗi nhà đầu tư.
Trong môi trường đầu tư ở các nước kinh tế thị trường phát triển, nguồn rất phong phú. Nguồn
thông tin thứ nhất mà các nhà đầu tư có thể sử dụng là thông tin từ các doanh nghiệp. Tại Mỹ, các
Luật Liên bang, Luật tiểu bang và Luật tiết lộ thông tin đầy đủ yêu cầu các công ty cổ phần đại
chúng xuất bản các báo cáo thường niên và báo cáo hàng quý để gửi cho ác cổ đông. Thêm nữa,
Uỷ ban chứng khoán cũng yêu cầu các công ty cổ phần đại chúng phải xuất bản các bản tin hàng
ngày trình bày chi tiết bất cứ sự thay đổi nào có liên quan đến tình trạng tài chính và những thông
tin khác có thể sử dụng để định giá các chúng khoán của công ty.
Ở nước ta, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Chính phủ cũng đã từng bước pháp chế
hoá nghĩa vụ cung cấp thông tin của các doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, việc thực hiên các
quy định này xem ra vẫn còn hết sức tuỳ tiện cho nên hiện nay tình trạng “lãi giả, lỗ thật” vẫn còn
là hiện tượng khá phổ biến của các doanh nghiệp nhà nước, loại hình doanh nghiệp vẫn được xem
là có hệ thống báo biểu, sổ sách ghi chép bài bản nhất, có hệ thống nhất. Chỉ cần điểm qua một số
doanh nghiệp “nổi tiếng” qua các vụ án cũng đủ thấy mức nghiêm trọng của vấn đề: Dâu tằm tơ,
Dệt Nam Định, Tamexco, Đông lạnh Hùng Vương, Minh Phụng-Epco Rõ ràng, hiệu quả kinh
tế và giá trị thực của các doanh nghiệp sẽ vẫn còn là một ẩn số khó đoán đối với nhà đầu tư cũng

như nhà quản lý nếu như bức tranh tài chính của các doanh nghiệp, những tế bào của nền kinh tế,
vẫn còn là bức tranh mập mờ, không trung thực. Vì vậy, để hệ thống công bố thông tin có thể
phục vụ đắc lực cho hoạt động của thị trưòng chứng khoán, cần thiết phải:
3.2.1. Xây dựng kênh cung cấp thông tin đầy đủ, tin cậy, chính xác
Như đã biết, công bố thông tin là một yêu cầu không thể thiếu để đảm bảo lòng tin và sự công
bằng cho các nhà đầu tư trên TTCK. Đây chính là nguyên tắc công khai, được coi là một nguyên
tắc quan trọng nhất của TTCK. Có thể nói, nếu không có một hệ thống công bố thông tin hoạt
động theo đúng yêu cầu thì TTCK không thể vận hành được.
TTCK VN còn nhỏ bé và sơ khai, tuy nhiên, các văn bản pháp quy điều chỉnh vấn đề công bố
thông tin trên TTCK đã và đang được xây dựng nhằm đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch
thông tin trên thị trường và duy trì, củng cố lòng tin của nhà đầu tư.
Phát triển các hình thức và nội dung công bố thông tin
Đối với TTCK, cần nhanh chóng thành lập một tổ chức định mức tín nhiệm. Việc thành lập tổ
chức định mức tín nhiệm để đánh giá mức độ tín nhiệm của tổ chức phát hành chứng khoán và các
tổ chức có chứng khoán niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán là rất cần thiết. Tổ chức
định mức tín nhiệm sẽ cung cấp cho thị trường và các nhà đầu tư một hệ thống xếp hạng các công
cụ tài chính trên thị trường. Từ đó, sẽ giúp cho các nhà đầu tư có thêm nguồn cung cấp thông tin
làm cơ sở để so sánh, đối chiếu trước khi thực hiện quyết định đầu tư. Bên cạnh đó, việc thành lập
13

tổ chức định mức tín nhiệm sẽ hỗ trợ tích cực cho nghiệp vụ tư vấn đầu tư của các công ty chứng
khoán.
Như thế, cần tăng cường phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên
truyền thông tin về TTCK. Việc công bố thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng là rất
cần thiết nhất là những người quan tâm đến TTCK. Có thể thấy rằng, đây là một kênh truyền tải
thông tin hết sức hiệu quả, đảm bảo tính công khai và dễ dàng tiếp cận của thông tin. Do vậy,
Chính phủ cần chỉ đạo và giao trách nhiệm cho các phương tiện thông tin đại chúng như đài
truyền hình, báo chí phối hợp cùng Ủy ban chứng khoán nhà nước trong việc đưa tin về các hoạt
động liên quan đến TTCK; tuyên truyền, giáo dục kiến thức về chứng khoán, về TTCK cho công
chúng nhằm thu hút sự quan tâm của công chúng và nâng cao sự hiểu biết của họ về lĩnh vực mới

mẻ này. Đây là công việc cần được thực hiện một cách thường xuyên và lâu dài, chứ không phải
chỉ tập trung trong một thời điểm nhất định nào đó.
Xây dựng cơ chế giám sát thông tin. Hiện nay ở VN, hầu như không có một cơ quan nào giám
sát và đảm bảo chất lượng của các thông tin công bố trên TTCK. Với tình hình hiện nay, rò rỉ
thông tin là một điều không tránh khỏi nhưng trong đó có một số thông tin không chính xác. Điều
này càng bị phóng đại khi mà các nhà đầu tư ở nước ta đa phần là các nhà đầu tư không chuyên
nghiệp, họ rất dễ bị dao động bởi những tin đồn. Từ đó, giá chứng khoán bị biến động mạnh.
Trong những trường hợp này thì ai là người được lợi? Ai là người tung ra tin đồn? Tất cả đều
không được kiểm soát và giá chứng khoán bị tác động bởi nhân tố con người rất nhiều.
Xây dựng cơ chế giám sát thông tin. Hiện nay ở VN, hầu như không có một cơ quan nào giám
sát và đảm bảo chất lượng của các thông tin công bố trên TTCK. Với tình hình hiện nay, rò rỉ
thông tin là một điều không tránh khỏi nhưng trong đó có một số thông tin không chính xác. Điều
này càng bị phóng đại khi mà các nhà đầu tư ở nước ta đa phần là các nhà đầu tư không chuyên
nghiệp, họ rất dễ bị dao động bởi những tin đồn. Từ đó, giá chứng khoán bị biến động mạnh.
Trong những trường hợp này thì ai là người được lợi? Ai là người tung ra tin đồn? Tất cả đều
không được kiểm soát và giá chứng khoán bị tác động bởi nhân tố con người rất nhiều.
Những điều này có liên quan gì đến kiến nghị về việc nhanh chóng chuyển đổi các TTGDCK
sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần
Nếu hoạt động theo mô hình công ty cổ phần, các giám đốc TTGDCK sẽ phải chịu trách
nhiệm về hoạt động của trung tâm, tình hình kinh doanh và lợi nhuận của TTGDCK. Áp lực đó sẽ
rất lớn, đòi hỏi các TTGDCK muốn làm ăn có hiệu quả phải quản lý chặt chẽ, xây dựng uy tín và
thương hiệu của mình, đảm bảo vai trò cơ quan giám sát thị trường một cách nghiêm ngặt và công
bằng nhằm tạo sân chơi lành mạnh cho các bên tham gia TTCK.
Chính vì vậy, theo thông lệ quốc tế thì Sở Giao dịch chứng khoán là mô hình tự chủ và tự chịu
trách nhiệm, ủy ban Chứng khoán nhà nước chỉ là cơ quan giám sát. Còn ở VN hiện nay, các
TTGDCK đang là những đơn vị hành chính sự nghiệp mà chủ quản chính là Ủy ban Chứng khoán
nhà nước. Vừa giữ vai trò giám sát, vừa giữ vai trò chủ quản, Ủy ban Chứng khoán nhà nước sẽ
14

khiến các TTGDCK không thể hoạt động theo cách thức chuyên nghiệp và độc lập được. Rò rỉ

thông tin, giao dịch nội gián là một trong những vấn đề có thể dễ thấy nhất.
Quả thật, nếu tập trung thông tin qua TTGDCK trước mà thông tin này được quản lý không
tốt, một số người có thông tin nội gián sẽ trục lợi trên thị trường. Tuy nhiên, tôi vẫn cho rằng nên
để TTGDCK giữ quyền công bố thông tin, vì đây là người bảo chứng chất lượng, tính xác thực
của thông tin đó. Nếu để cho doanh nghiệp phát hành tự công bố thông tin, nguồn thông tin không
tập trung về một đầu mối, rất dễ xảy ra hiện tượng thông tin giả mạo, thiếu chính xác, gây khó
khăn cho nhà đầu tư. Tất nhiên, để hạn chế khả năng thông tin bị “rò rỉ” khi đưa sang TTGDCK,
cần có một cơ chế giám sát thật chặt chẽ, có các biện pháp chế tài rõ ràng và nghiêm minh.
Như vậy:
Cần hiện đại hóa các phương tiện công bố thông tin và đa dạng hóa phương pháp công bố
thông tin trên các Sở giao dịch chứng khoán. Song song với việc hoàn thiện hệ thống cung cấp
thông tin qua internet để cung cấp tất cả những thông tin về thị trường và các thông tin có liên
quan đến tổ chức niêm yết. Cần khẩn trương xây dựng mạng lưới truyền thông (broadcasting
network), mạng tin nhắn RSS để phục vụ cho việc cung cấp thông tin trực tiếp từ tổ chức niêm yết đến
các CTCK thành viên và hệ thống mạng điện thoại trả lời tự động (audio automatic response system)
các thông tin do nhà đầu tư yêu cầu.
Trong một thị trường được xem là minh bạch, các thông tin để xác định các điều kiện cung
cầu tiềm tàng của thị trường phải đầy đủ và sẵn có. Những thông tin này sẵn có đối với tất cả
thành viên tham gia thị trường ở cùng một thời điểm, nghĩa là tất cả các thành viên tham gia giao
dịch đều có cơ hội tiếp cận thị trường như nhau. Vì vậy, việc không cung cấp thông tin về giao
dịch của nhà đầu tư nước ngoài (trong phiên giao dịch) tại HOSE hoặc việc thu phí cung cấp
thông tin cho gói tin đầy đủ đối với các CTCK thành viên (đã đóng phí thành viên, phí giao dịch)
là các bất hợp lý cần phải chấm dứt.
3.2.2. Xây dựng hệ thống kiểm soát, đánh giá thông tin.
Hiện nay ở VN, hầu như không có một cơ quan nào giám sát và đảm bảo chất lượng của các
thông tin công bố trên TTCK. Với tình hình hiện nay, rò rỉ thông tin là một điều không tránh khỏi
nhưng trong đó có một số thông tin không chính xác. Điều này càng bị phóng đại khi mà các nhà
đầu tư ở nước ta đa phần là các nhà đầu tư không chuyên nghiệp, họ rất dễ bị dao động bởi những
tin đồn. Từ đó, giá chứng khoán bị biến động mạnh. Trong những trường hợp này thì ai là người
được lợi? Ai là người tung ra tin đồn? Tất cả đều không được kiểm soát và giá chứng khoán bị tác

động bởi nhân tố con người rất nhiều.
Trước dư luận về những tiêu cực trên thị trường chứng khoán, những trục lợi nhờ thông tin nội
gián, trong chỉ thị mới đây Thủ tướng đề nghị Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các bộ ngành xây
dựng đề án thành lập một tổ chức độc lập với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và Ngân hàng Nhà
nước, có chức năng quyền hạn và đủ khả năng giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán, thị
trường tiền tệ.
15

Một trong những chức năng chính của tổ chức này là giám sát hoạt động giao dịch tại các Sở
giao dịch, Trung tâm giao dịch chứng khoán, đảm bảo quy trình lưu ký thanh toán, giám sát hoạt
động của các công ty chứng khoán trong hoạt động môi giới, tư vấn đầu tư, tư vấn định giá doanh
nghiệp.
Việc thành lập một tổ chức giám sát độc lập là hợp lý và cần thiết. Các nước như Singapore,
Nhật Bản, Hàn Quốc đều đã có tổ chức như vậy. Hiện nay chức năng giám sát của Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước đối với thị trường chưa thực sự phát huy tác dụng, một phần do họ đảm nhận quá
nhiều trách nhiệm. Những đợt thanh tra vừa qua là do sức ép của dư luận chứ không phải Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước tự khởi xướng.
Sự ra đời của một tổ chức đủ mạnh, có đủ chức năng và quyền hạn để giám sát thị trường.
Mục đích của giám sát là để nắm sát sao tình hình diễn biến trên thị trường chứng khoán, nắm bắt
được luồng tiền đang lưu thông trên thị trường. Thị trường cần một cơ quan quản lý độc lập, trực
thuộc Chính phủ, để có đầy đủ các thẩm quyền, điều kiện và khả năng ban hành các văn bản pháp
quy nhằm xử lý nhanh, nhạy các vấn đề phức tạp nảy sinh trong thực tiễn giống như mô hình
trước đây thay vì mô hình một Ủy ban (cấp Nhà nước) lại trực thuộc Bộ (Bộ Tài chính), phải qua
quá nhiều tầng, nấc như hiện nay. Đương nhiên, nâng quyền hạn của SSC phải gắn liền với trách
nhiệm trong việc quản lý. Không nên quản lý theo kiểu “cái gì không quản được thì cấm”. Việc
nghiêm cấm các CTCK mở đại lý nhận lệnh trước đây (vi phạm Luật Doanh nghiệp) hay cấm sử
dụng môi giới tự do như thời gian gần đây (không khả thi) là các ví dụ cụ thể.
3.2.3. Bổ sung những thiết chế luật về cung cấp, công bố thông tin.
Tuy Luật Chứng khoán được ra đời thay thế Nghị định 144/2003/NĐ-CP, ngày 28/11/2003
của Chính phủ về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán, song hệ thống pháp luật về thị

trường chứng khoán còn bất cập và chưa được hoàn thiện. So với yêu cầu đòi hỏi của thực tế của
sự phát triển thị trường tài chính và các định chế tài chính trong nề kinh tế thị trường với năng lực
quản lý và sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước còn hạn chế.
Do đó, cần sửa đổi Luật Chứng khoán và bổ sung các chế tài mới đầy đủ hơn, xử lý nghiêm
minh hơn, có tính răn đe hơn các hành vi phi phạm nghĩa vụ công bố thông tin, giao dịch nội gián,
thao túng, lũng đoạn thị trường.
3.2.4. Cơ cấu lại thị trường chứng khoán
Cơ cấu lại DN niêm yết.
Đó là rà soát lại danh sách để xếp hạng các DN niêm yết theo các loại.
Nâng cao điều kiện niêm yết và điều kiện phát hành chứng khoán.
Đẩy mạnh công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Cơ cấu lại các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ.
Cơ cấu lại các CTCK với các nguyên tắc, quan điểm là cơ quan quản lý nhà nước giữ vai trò
chỉ đạo, nhưng không làm thay các CTCK. Thực hiện có lộ trình, bảo đảm lợi ích của khách hàng;
16

Xử lý tốt mối quan hệ giữa CTCK, ngân hàng thương mại, tổ chức bảo hiểm, bảo đảm nguyên tắc
quan trị rủi ro.
Cơ cấu lại CTCK: dựa trên 2 tiêu chí la vốn khả dụng/ tổng rủi ro và tỷ lệ lộ luỹ kế/vốn điều lệ
để phân các CTCK thành 3 nhóm: Nhóm 1- Bình thường; Nhóm 2- Kiểm soát; Nhóm 3- Kiểm
soát đặc biệt.
Đối với nhà đầu tư, việc cơ cấu lại nhằm mục tiêu là tăng tính chuyên nghiệp, tăng tài khoản
của các tổ chức (các công ty đầu tư chứng khoán, quỹ mở, quỹ hưu trí,…).
Cơ cấu lại tổ chức quản lý, vận hành thị trường về thanh toán, lưu ký chứng khoán.

KẾT LUẬN
Thị trường chứng khoán là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các doanh nghiệp niêm yết. Nó
không chỉ khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư mà
còn giúp Nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội, giúp kiểm soát nguồn vốn
ĐTNN, kích thích doanh nghiệp hoạt động đàng hoàng hơn. Tuy nhiên, hoạt động của thị trường

chứng khoán còn chịu tác động của các yếu tố đầu cơ, mua bán nội gián… mà về cơ bản là liên
quan đến thông tin. Hệ thống thông tin trên thị trường chứng khoán rất đa dạng và phong phú, nó
được ví như mạch máu trong cơ thể người, giúp cho thị trường vận hành liên tục và thông suốt. Có thể
nói, TTCK là thị trường của thông tin, ai có thông tin chính xác và khả năng phân tích tốt thì có khả
năng đầu tư có hiệu quả, ngược lại khi không có thông tin đầy đủ thì sẽ phải chịu tổn thất khi ra các
quyết định đầu tư. Một số kinh nghiệm của Mỹ và Trung Quốc cũng chỉ ra tầm quan trọng trong việc
kiểm tra, kiểm soát đối với nguồn thông tin trên TTCK. Kinh nghiệm của các TTCK lâu đời cũng
chứng minh rằng Nhà nước có vai trò tối quan trọng trong hoạt động công bố thông tin của các doanh
nghiệp niêm yết, trong kiểm tra, kiểm soát nguồn thông tin đến nhà đầu tư.
Từ việc tìm hiểu vai trò, tác động của thông tin đối với TTCK, áp dụng vào thực tiễn ở Việt
Nam để thấy rõ những vấn đề đang tồn tại hiện nay của thị trường chứng khoán Việt Nam trong
hoạt động công bố minh bạch thông tin. Công bố minh bạch thông tin là nhân tố quan trọng nhất
góp phần vào sự phát triển bền vững của thị trường chứng khoán. Trong thời gian vừa qua, hàng
loạt những vấn đề sai phạm thông tin, thiếu minh bạch trong công bố thông tin xuất hiện, đã tạo
điều kiện cho những tin đồn thất thiệt, gây ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán mà đặc biệt là
đối với nhà đầu tư cá nhân. Nhà đầu tư là thành viên quan trọng nhất của thị trường, chính năng
lực tài chính, quyền lợi và kiến thức của họ quyết định chất lượng phát triển thị trường chứng
khoán của một quốc gia. Sự phát triển của thị trường chứng khoán đồng nghĩa với trình độ và yêu
cầu thông tin của nhà đầu tư cũng theo tỷ lệ thuận. Do đó bảo vệ nhà đầu tư chính là bảo vệ sự bền
vững của thị trường.
Thấy rõ được tầm quan trọng của việc công bố thông tin cũng như chi phí và lợi ích liên quan
đến hoạt động công bố tìm kiếm thông tin, giúp môi trường thông tin hoàn thiện để thị trường
chứng khoán Việt Nam hoạt động ổn định, tuân theo quy luật. Từ đó, Nhà nước, cơ quan quản lý,
17

nhà tạo lập thị trường có cái nhìn tổng thể hơn về thực trạng thị trường chứng khoán và công ty
niêm yết để đưa ra các chính sách thích hợp nhằm hướng dấn cũng như giảm thiểu những hình
thức biến tướng có hại cho thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư ngày càng chủ động trong hoạt
động đầu từ, dễ dàng tiếp cận với những nguồn thông tin tin cậy và đặc biệt là cùng được đặt trên
một sân chơi công bằng, bình đẳng.

Mười hai năm hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam không phải là con số
nhỏ, đã đến lúc cần có những nhận định và quan tâm nghiên cứu nhiều hơn đến các vấn đề công
bố minh bạch thông tin trên thị trường chứng khoán, cụ thể là trong tương lai có thể xây dựng mô
hình và đo lường mối quan hệ giữa giá trị công ty và tính minh bạch thông tin cũng như phân tích
thêm những khía cạnh khác về lợi ích chi phí kết hợp mở rộng phạm vi khảo sát hơn nữa để có
một cái nhìn toàn diện hơn về thị trường chứng khoán Việt Nam. Đồng thời cũng chỉ rõ vai trò
của Nhà nước trong hoạt động của TTCK không chỉ ở khía cạnh ổn định giá chứng khoán mà Nhà
nước còn phải tác động trực tiếp đến hệ thống thông tin trên TTCK.
Cuối cùng để các đề xuất và gợi ý chính sách có khả thi trong thực tiễn, thì không chỉ mong muốn
sự tự nguyện từ bản thân công ty niêm yết, sự nhận thức đúng đắn và đòi hỏi quyền lợi ngày càng cao
từ phía nhà đầu tư, mà còn là sự hoàn chỉnh thống nhất các quy định pháp luật, gia tăng năng lực tổ
chức quản lý và giám sát thị trường của các cơ quan chức năng, đặc biệt là của Nhà nước.

References
1. Bộ Tài chính (2010), Thông tư số 09/2010/TT-BTC hướng dẫn về việc công bố thông tin
trên thị trường chứng khoán, áp dụng từ 1.3.2010, Hà Nội.
2. TS Trần Thị Thái Hà (2005), Đầu từ tài chính, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. PGS.TS. Nguyễn Thị Liên Hoa (2007), “Minh bạch thông tin trên thị trường chứng khoán
Việt Nam”, Tạp chí Phát triển kinh tế.
4. Bùi Nguyên Hoàn (199), Thị trường chứng khoán và công ty cổ phần, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
5. TS. Nguyễn Đại Lai (6/11/200), “Để thị trường chứng khoán Việt Nam "ấm" trở lại và vận
động theo đúng quy luật vốn có của nó”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (16).
6. ThS Lê Thị Mai Linh (2003), Phân tích và đầu tư chứng khoán, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
7. TS. Đào Lê Minh (2006), “Nhu cầu và khả năng xây dựng Luật chứng khoán: Nhìn từ kết
quả của một dự án điều tra”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế thế giới, (4-120), t.r49-56 .
8. TS. Nguyễn Minh Phong (200), “Nhận diện rủi ro trong đầu tư chứng khoán”; “Rủi ro trong
đầu tư tài chính”; “Bốn rủi ro đe dọa nhà đầu tư chứng khoán”; “Giảm thiểu rủi ro trong
đầu tư chứng khoán”; “Quản trị rủi ro trong đầu tư chứng khoán”, Tạp chí Ngân hàng.

9. ThS. Nguyễn Văn Phong (2009), Công bố thông tin của các công ty niêm yết,
2657&cap=3&id=4716.
18

10. Sở Giao dịch chứng khoán Tp. HCM (2007), Quy chế niêm yết chứng khoán 16/QĐ-
SGDHCM, Tp. Hồ Chí Minh.
11. Sở Giao dịch chứng khoán Tp. HCM (200), Quy chế Công bố thông tin số 09/QĐ-
SGDHCM, Tp. Hồ Chí Minh.
12. PGS. TS Lê Văn Tư - Lê Tùng Lâm (199), Thị trường chứng khóan, Nxb. Thống kê, Hà
Nội
13. Ủy ban Chứng khoán nhà nước, Sự hình thành và phát triển Trung tâm giao dịch chứng
khoán Hà Nội, Đề tài khoa học cấp Ủy ban.
14. Ủy ban chứng khoán Nhà nước, Phương pháp luận quản lý rủi ro đầu tư cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ.
15. Ủy ban chứng khoán Nhà nước, Tăng cường và hoàn thiện hệ thống công bố thông tin trên
thị trường chứng khoán Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ.
16. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (6/2004), Thị trường tài chính Việt Nam -
Thực trạng, vấn đề và giải pháp chính sách, Hà Nội.
17. Bộ Tài chính www.mof.gov.vn
18.
19.
20.
21.
22.
23. Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM
24. Tạp chí Phát triển kinh tế www.tcptkt.ueh.edu.vn
25. Thời báo kinh tế Việt Nam
26. Thời báo kinh tế Việt Nam www.ssc.org.vn
27. Vietnamnet
28. www.saga.com.vn

29. www.vafi.org.vn
30. www. vinacorp.vn

×