Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.86 KB, 19 trang )

Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông
qua thủ tục phá sản ở Việt Nam

Tạ Văn Giang

Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: TS. Bùi Nguyên Khánh
Năm bảo vệ: 2011

Abstract: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về điều hòa lợi ích của chủ nợ và
con nợ thông qua thủ tục phá sản. Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về phá sản
hiện nay dưới tiêu chí điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ. Nghiên cứu so sánh về
pháp luật về phá sản của một số quốc gia trên thế giới dưới tiêu chí điều hòa lợi ích
của chủ nợ và con nợ. Đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
của pháp luật phá sản ở nước ta hiện nay.

Keywords: Luật kinh tế; Phá sản; Pháp luật Việt Nam

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Tự do cạnh tranh và phá sản là những thuộc tính vốn có của kinh tế thị trường. Trong nền
kinh tế thị trường, doanh nghiệp nào không đáp ứng được những đòi hỏi nghiệt ngã của thương
trường, của sức ép cạnh tranh sẽ bị đào thải. Để loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo
dài, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, đồng thời phòng ngừa, khắc phục những hậu
quả, rủi ro mà những doanh nghiệp này có thể gây ra cho nền kinh tế, mỗi quốc gia đều phải xây
dựng và thực thi một cơ chế phá sản có hiệu quả. Tuy nhiên, do tính chất nhạy cảm và mức độ
ảnh hưởng rộng tới nhiều đối tượng khác nhau trong đời sống kinh tế nên cơ chế phá sản luôn đòi
hỏi sự can thiệp mềm dẻo, linh hoạt của Nhà nước, phù hợp với những yêu cầu thực tiễn mà hoạt
động kinh doanh đặt ra. Bên cạnh những mục tiêu dài hạn mà pháp luật phá sản hiện đại thường


hướng đến như: tái cấu trúc nền kinh tế thông qua việc đào thải các doanh nghiệp thua lỗ, sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực kinh tế và xã hội tới bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động…còn
có mục tiêu quan trọng nhất - điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ.
Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 là văn bản luật đầu tiên về phá sản ở Việt Nam.
Sau nhiều chương trình nghiên cứu, sửa đổi và hoàn thiện, thực hiện Nghị quyết số
12/2002/QH11 ngày 16/12/2002 của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XI về chương trình xây dựng
pháp luật, pháp lệnh năm 2003 và Nghị quyết số 222/2003/NQ-UBTVQH 11 ngày
10/02/2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao đã cùng với các cơ quan
hữu quan tổng kết thực tiễn thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp và xây dựng dự thảo Luật
Phá sản mới. Qua 6 lần dự thảo, tại kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khoá XI, Luật Phá sản 2004 đã
được thông qua, thay thế cho Luật Phá sản doanh nghiệp 1993. Tiếp thu có chọn lọc pháp luật
về phá sản của một số nước trên thế giới, Luật Phá sản năm 2004, với thiên hướng ưu tiên

2
việc phục hồi con nợ đã chú ý rất nhiều tới việc điều hòa lợi ích giữa các chủ nợ và con nợ,
tạo điều kiện cho việc giải quyết các vụ việc phá sản một cách công bằng, hiệu quả, đảm bảo
được lợi ích của các bên liên quan.
Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy, sau hơn sáu năm thực thi, vai trò của Luật phá sản 2004
cũng vẫn mờ nhạt như Luật phá sản doanh nghiệp 1993 - một đạo luật đã bị coi là "phá sản".
Chỉ một số ít các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được rút lui một cách có trật tự khỏi
thương trường. Đặc biệt là các quy định về thủ tục phục hồi và thủ tục thanh lí tài sản còn nhiều
bất cập trong việc dàn xếp lợi ích giữa chủ nợ và con nợ cũng như giữa các chủ nợ với nhau
một cách hài hòa qua đó làm mất đi những ưu việt của thủ tục phá sản so với thủ tục đòi nợ dân
sự.
Từ những lý do kể trên, tác giả luận văn mạnh dạn lựa chọn đề tài "Điều hòa lợi ích giữa
chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản ở Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu cho luận
văn của mình. Đây là một chủ đề nghiên cứu vừa có ý nghĩa sâu sắc về mặt lý luận vừa có
tính thực tiễn cao ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã từ lâu, việc nghiên cứu về phá sản và pháp luật phá sản không còn là một hướng nghiên

cứu xa lạ ở Việt Nam. Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu công phu về chùm chủ đề này
được công bố, trong đó có những công trình tiêu biểu như: "Giáo trình Luật Kinh tế", "Giáo trình
Luật thương mại" của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Luật Hà Nội, Đại học Kinh
tế quốc dân, Đại học Mở Hà Nội, Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh,… và các sách
tham khảo như: "Pháp luật phá sản của Việt Nam 2005" của PGS.TS Dương Đăng Huệ; "Báo
cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật phá sản năm 2004" do Bộ Tư pháp xây dựng; hoặc
các bài viết như: "Đi tìm triết lý của Luật phá sản" của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa; "Luật phá sản
năm 2004 với việc cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam" của PGS.TS Dương Đăng Huệ;
"Một số ý kiến về dự thảo Luật phá sản (sửa đổi)" của PGS.TS Dương Đăng Huệ - Cao Đăng
Vinh…; cho tới các khóa luận tốt nghiệp bậc cử nhân, luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ đã bảo vệ
thành công.
Tuy nhiên, đến nay ít có những công trình khoa học đánh giá pháp luật về phá sản trên
tiêu chí điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản. Bởi vậy, việc nghiên
cứu chuyên sâu, toàn diện về thủ tục phá sản như là một thủ tục đòi nợ, trong đó chú trọng tới
vấn đề điều hòa lợi ích của các chủ nợ và con nợ để làm nổi bật lên tính hiệu quả của thủ tục
này so với thủ tục dân sự thì chưa có bất kỳ một công trình nghiên cứu nào.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về điều
hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản; phân tích, đánh giá thực trạng
pháp luật về phá sản hiện nay dưới tiêu chí điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ đề từ đó
đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật phá sản ở
nước ta hiện nay.
Để thực hiện được mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ
thông qua thủ tục phá sản;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về phá sản hiện nay dưới tiêu chí điều hòa

3
lợi ích của chủ nợ và con nợ;

- Nghiên cứu so sánh về pháp luật về phá sản của một số quốc gia trên thế giới dưới
tiêu chí điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ;
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật phá sản
ở nước ta hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học, tác giả luận văn chỉ tập
trung khai thác và nghiên cứu đề tài ở phạm vi những vấn đề pháp lý liên quan đến việc điều hòa
lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của mình, luận văn đã sử dụng phối hợp các
phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh.
Phương pháp được sử dụng chủ yếu trong luận văn này là phương pháp tổng hợp,
phân tích nhằm đánh giá thực trạng điều chỉnh và áp dụng pháp luật về phá sản dưới tiêu
chí điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ
thông qua thủ tục phá sản.
Chương 2: Thực trạng điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá
sản ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều hòa lợi ích giữa
chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản.
Chương 1
KHÁI LUẬN CHUNG VỀ VIỆC ĐIỀU HÒA LỢI ÍCH
GIỮA CHỦ NỢ VÀ CON NỢ THÔNG QUA THỦ TỤC PHÁ SẢN
1.1. Sự ra đời của pháp luật phá sản và các chức năng của pháp luật phá sản
1.1.1. Khái niệm phá sản

Phá sản là hiện tượng kinh tế - xã hội phát sinh từ rất sớm trong lịch sử loài người. Về
mặt học thuật, phá sản là một thuật ngữ gây khá nhiều tranh luận về xuất xứ của nó. Một số
nhà nghiên cứu cho rằng, thuật ngữ phá sản bắt nguồn từ chữ "Ruin" trong tiếng Latin có
nghĩa là sự "khánh tận". Thuật ngữ này được dùng đề chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và
chi của một chủ doanh nghiệp mà biểu hiện trực tiếp của sự mất cân đối đó là tình trạng mất
khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Phá sản là việc chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã bằng phán quyết của
Tòa án theo một trình tự, thủ tục luật định (thủ tục phá sản) do doanh nghiệp, hợp tác xã
không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu cầu.
1.1.2. Phân loại phá sản

4
Phân loại phá sản có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xem xét và xử lý các quan hệ phát
sinh trong khi giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Việc phân loại phá sản nhằm xác
lập cơ chế giải quyết phù hợp với tính chất của từng loại phá sản. Dựa vào những căn cứ khác
nhau, người ta phân chia phá sản thành nhiều loại khác nhau nhưng thường được chia thành
ba dạng chủ yếu thường gặp là: phá sản trung thực và phá sản gian trá, phá sản tự nguyện và
phá sản bắt buộc, phá sản doanh nghiệp và phá sản cá nhân.
1.1.3. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật phá sản
1.1.3.1. Sơ khảo sự hình thành và phát triển của Luật phá sản phương Tây
Từ khi xã hội bắt đầu xuất hiện hàng hóa thì quan hệ mua bán cũng xuất hiện để đáp ứng
nhu cầu của con người, và ắt sẽ có tình trạng không trả được nợ. Cách thức giải quyết tình
trạng vỡ nợ ở mỗi xã hội, mỗi thời kỳ lịch sử là khác nhau. Xã hội nào cũng tồn tại trong một
trật tự nhất định, và cách thức giải quyết tình trạng vỡ nợ có thể được coi như là luật lệ trong
cái trật tự đó. Cùng với sự phát triển của xã hội, cách nhìn nhận về tình trạng vỡ nợ cũng thay
đổi, kèm theo đó là sự thay đổi về cách thức giải quyết tình trạng này.
1.1.3.2. Sự hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về phá sản ở Việt Nam
Từ khi Việt Nam còn là một xã hội phong kiến, nhà làm luật thời đó cũng đã dự liệu đến
trường hợp người mắc nợ không trả được nợ, và đưa ra những cách thức giải quyết tình trạng
này. Các quy định nhằm giải quyết mối quan hệ giữa chủ nợ và con nợ nằm rải rác trong các

Đạo luật thời phong kiến, đặc biệt trong ba bộ luật lớn là bộ Quốc triều hình luật, Bộ Luật
Hồng Đức và Bộ luật Gia Long.
Thời Pháp thuộc, ban đầu người Pháp áp dụng Bộ luật thương mại Pháp vào nhượng địa
Nam Kỳ, sau Hòa ước Giáp Thân 1884 đạo luật này được áp dụng cho cả Bắc Kỳ, và sau
1892 thì áp dụng vào tất cả các tòa án Pháp tại Trung Kỳ. Về lý thuyết, Bộ luật thương mại
Pháp chỉ chính thức hết hiệu lực ở miền Nam sau ngày 20/12/1972 khi chính quyền Việt Nam
Cộng hòa ban hành Luật thương mại. Là một phần của thương luật Pháp, pháp luật về phá sản
và thanh toán tư pháp được áp dụng trực tiếp vào nước ta mà không có một thử nghiệm đáng
kể nào để chuyển hóa chúng thành tiếng Việt trong suốt một nửa thế kỷ đầu tiên của thời đô
hộ.
Bộ luật thương mại Trung phần được ban hành ngày 12/06/1942 theo Dụ số 46 của Bảo
Đại là đạo luật thương mại đầu tiên của người Việt Nam, có hiệu lực từ 25/01/1944 và chính
thức hết hiệu lực ở miền Nam ngày 20/12/1972.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế thị trường được thừa nhận và phát
triển, vấn đề phá sản doanh nghiệp mới được đặt ra, tuy nhiên lúc này nó mới chỉ được quy
định trong hai văn bản pháp lý của Nhà nước ta là Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty
(ban hành cùng ngày 21/12/1990). Đến năm 1993, Nhà nước ta đã ban hành một văn bản pháp
luật rất quan trọng là Luật phá sản doanh nghiệp, trong đó không chỉ đưa ra khái niệm về
"tình trạng phá sản" mà còn quy định về nhiều vấn đề khác có liên quan đến việc giải quyết
một vụ phá sản cụ thể. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luật phá sản doanh nghiệp đã bộc
lộ nhiều điểm hạn chế cần khắc phục. Do đó, Luật phá sản 2004 đã ra đời thay thế Luật phá
sản doanh nghiệp 1993.
1.1.4. Các chức năng của pháp luật phá sản hiện đại
Phá sản là hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường, và nó cũng có những ý nghĩa
nhất định đối với kinh tế - xã hội. Vì vậy, điều chỉnh phá sản bằng pháp luật là một việc làm
cần thiết. Pháp luật phá sản là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác
xã. Các quan hệ xã hội đó có thể được chia thành hai nhóm cơ bản là: (i) quan hệ giữa các chủ

5

nợ và doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, và (ii) quan hệ giữa các đương sự với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền (quan hệ tố tụng phá sản).
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ nợ.
- Bảo vệ lợi ích của con nợ.
- Bảo vệ lợi ích của người lao động.
- Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, góp phần tạo môi trường kinh doanh lành mạnh.
1.2. Nội dung cơ bản của việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ qua thủ tục phá
sản
1.2.1. Nhu cầu điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản
Xét về bản chất pháp lí, thủ tục phá sản trước tiên được xem là một thủ tục đòi nợ tập
thể. Pháp luật phá sản ra đời cung cấp thêm cho các chủ nợ một công cụ đòi nợ mới tồn tại
song hành nhưng có tính chất khác biệt hoàn toàn so với thủ tục tố tụng dân sự. Ngoài ra,
cũng cần lưu ý rằng, khi xem xét điều chỉnh cho một vụ việc phá sản cụ thể nào đó, pháp
luật phá sản phải đồng thời cân nhắc, đánh giá và điều tiết một cách hợp lý nhất lợi ích của
các đối tượng khác mà nó có nghĩa vụ bảo vệ. Như vậy, việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và
con nợ thông qua thủ tục phá sản được hiểu là thông qua thủ tục phá sản, pháp luật phá sản
phải tạo ra một cơ chế đồng bộ để điều tiết một cách hài hòa mối quan hệ về lợi ích giữa các
chủ nợ và con nợ, đảm bảo tối ưu hóa các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời, qua
đó còn tính toán việc cân bằng các lợi ích khác mà pháp luật hướng tới bảo vệ như lợi ích
người lao động, lợi ích nền kinh tế và xã hội nói chung.
1.2.2. Các nội dung cơ bản của việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ
1.2.2.1. Tối đa hóa việc thu hồi nợ cho các chủ nợ
Tồn tại song hành cùng với thủ tục đòi nợ dân sự, thủ tục phá sản cũng có bản chất là
một công cụ đòi nợ chỉ khác ở tính chất "tập thể" của nó. Do đó, chức năng đầu tiên gắn
với sự ra đời của pháp luật phá sản chính là chức năng thu hồi nợ cho các chủ nợ. Thông
qua thủ tục phá sản, các chủ nợ đều có mục đích chung là nhằm có được sự bảo đảm về
quyền chủ nợ của mình một cách tốt nhất. Tuy nhiên, ở thủ tục phá sản, việc lấy nợ của
các chủ nợ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các yếu tố sau:
Một là, sự tồn tại cùng lúc của nhiều chủ nợ có quyền chủ nợ trên một sản nghiệp duy
nhất của con nợ và sản nghiệp đó không thể đồng thời thanh toán đủ cho tất cả các khoản

nợ.
Hai là, khi hoạt động kinh doanh đã đổ vỡ đến mức không còn có khả năng vãn hồi,
thương nhân vỡ nợ hoặc những người quản lý sản nghiệp của thương nhân vỡ nợ thường
có xu hướng thực hiện những hành vi làm tiêu tán sản nghiệp sản nghiệp của mình.
1.2.2.2. Đưa ra những cơ hội cho việc phục hồi lại con nợ khi mà quyền lợi của chủ
nợ và nhu cầu xã hội có thể được đáp ứng tốt hơn bằng cách duy trì hoạt động của con nợ
chứ không phải là thanh lí sản nghiệp của con nợ
Ở thời điểm hiện tại, bất kì mật đạo luật phá sản được coi là hiện đại trên thế giới đều coi
trọng việc cứu vãn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mắc nợ. Tòa án chỉ tuyên bố phá
sản con nợ trong những trường hợp bất đắc dĩ, khi các biện pháp khôi phục hoạt động kinh
doanh và khả năng thanh toán của con nợ không thành công. Việc phục hồi hoạt động kinh
doanh của con nợ có ý nghĩa không chỉ đối với bản thân con nợ mà còn có ý nghĩa lớn đối với
các chủ nợ, người lao động, các đối tác, đặc biệt là đối với sự vững mạnh của nền kinh tế đất

6
nước. Việc phục hồi tạo cơ hội cho doanh nghiệp mắc nợ vượt qua tình trạng mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn, khôi phục lại hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường, hạn chế đến
mức thấp nhất việc giải thể doanh nghiệp khi còn có hy vọng phục hồi nó.
1.2.2.3. Tôn trọng sự tự do ý chí của chủ nợ và con nợ trong việc thỏa thuận để giải
phóng nợ
Một đạo luật phá sản chỉ được xem là hiệu quả và hấp dẫn đối với với giới thương
nhân nếu nó chú trọng đúng mức tới khía cạnh cấu trúc lại các khoản nợ bằng sự tự định
đoạt của chính bản thân các chủ nợ và con nợ. Trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản,
sự tự do ý chí của các chủ nợ và con nợ trong việc thỏa thuận, dàn xếp các khoản nợ luôn
được tôn trọng và khuyến khích. Tuy nhiên, sự tự do thỏa thuận giữa chủ nợ và con nợ để
giải phóng nợ, qua đó chấm dứt vụ kiện đòi nợ trong thủ tục phá sản có những đặc trưng
riêng cần được phân biệt với thủ tục đòi nợ thông thường (thủ tục dân sự). Theo tính chất của
luật tư, đương nhiên, quyền quyết định "số phận" của khoản nợ hoàn toàn thuộc về ý chí đơn
phương của chủ nợ. Chủ nợ và con nợ hoàn toàn có quyền tự do thỏa thuận để dàn xếp nợ
bằng các biện pháp như xóa nợ, hoãn nợ, mua bán nợ, chuyển đổi nợ thành vốn góp Tuy

nhiên, một khi tòa án đã ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với con nợ thì mọi sự thỏa
thuận riêng rẽ này sẽ chỉ được chấp nhận nếu nó không chống lại hay làm tổn hại đến lợi
ích của các chủ nợ khác. Nói cách khác, tính chất "lấy nợ tập thể trên cùng một sản
nghiệp" của thủ tục phá sản luôn đòi hỏi một sự tập trung ý chí của các chủ nợ trong các
quyết định liên quan đến con nợ.
1.2.2.4. Quy định cách thức đối xử một cách công bằng giữa các chủ nợ
Trong một vụ "đòi nợ tập thể" thông qua thủ tục phá sản có rất nhiều các chủ nợ. Các
chủ nợ này được phân thành nhiều loại với những đặc điểm khác nhau nhưng cùng có
quyền chủ nợ trên sản nghiệp của con nợ. Chính vì vậy, pháp luật phá sản trên cơ sở sự
phân loại chủ nợ và đánh giá tính chất của từng loại khoản nợ để xác định các quyền cho
từng nhóm chủ nợ một cách thích hợp, qua đó, tạo ra một cơ chế lấy nợ công bằng và hiệu
quả. Pháp luật phá sản ở mỗi quốc gia có thể không đồng nhất trong việc phân loại chủ nợ
và đánh giá mức độ ưu tiên của họ trong cơ chế lấy nợ chung, song thông thường đều có
sự cân nhắc tới các loại chủ nợ sau:
- Chủ nợ đối với khoản nợ đến hạn và chưa đến hạn
- Chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ không có bảo đảm
- Chủ nợ mới và chủ nợ cũ
- Nợ thương mại và các khoản nợ thuế, phí…
- Nợ người lao động
- Các khoản nợ có tính chất khác nhau
1.2.2.5. Đem tới cơ hội bắt đầu lại cho các con nợ trung thực sau khi bị đổ vỡ
Một nội dung không kém phần quan trọng trong việc điều tiết lợi ích giữa chủ nợ và
con nợ thông qua thủ tục phá sản là việc bảo đảm cho con nợ được rút lui một cách "an
toàn" và có cơ hội để làm lại sự nghiệp kinh doanh của mình, tạo lập cho mình một sản
nghiệp mới sau khi vụ kiện phá sản đã chấm dứt. Nói cách khác, pháp luật phá sản phải

7
đưa ra những đảm bảo cần thiết cho tương lai của con nợ thông qua thủ tục phá sản. Các
đảm bảo đó bao gồm:
Thứ nhất, nếu con nợ không có cơ hội phục hồi và buộc phải áp dụng thủ tục thanh

toán tài sản thì những tài sản tối thiểu để duy trì cuộc sống dành cho các con nợ là cá nhân
hoặc những người mà họ có trách nhiệm cấp dưỡng…được loại trừ khỏi khối tài sản phá
sản.
Thứ hai, Có thể dễ nhận thấy, động lực rất lớn để các con nợ chủ động tìm tới thủ tục
phá sản (phá sản tự nguyện) chính là cơ may để được giải phóng khỏi các nghĩa vụ trả nợ
và tạo lập một sản nghiệp mới. Nếu thủ tục phá sản làm được điều này thì đó cũng chính
là một thành công lớn trong việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ.
Thứ ba, những người đã từng là chủ sở hữu hay tham gia quản trị một doanh nghiệp bị
tuyên bố là phá sản có được quyền tiếp tục tạo lập các tổ chức kinh doanh mới hay
không?, qua đó thể hiện tính nhăn văn của luật pháp, đồng thời khuyến khích chủ sở hữu,
những người đã tham gia quản lý điều hành con nợ tích cực hợp tác trong suốt quá trình
diễn ra thủ tục phá sản.

Chương 2
THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT PHÁ SẢN
VỀ ĐIỀU HÒA LỢI ÍCH GIỮA CHỦ NỢ VÀ CON NỢ Ở VIỆT NAM
2.1. Tố quyền trong thủ tục phá sản
Tố quyền - quyền cầu viện sự can thiệp, bảo vệ của luật pháp luôn là một nội dung
đặc biệt quan trọng trong pháp luật phá sản của bất kì quốc gia nào. Bởi lẽ, theo tính chất
"tư" của pháp luật phá sản, thủ tục phá sản sẽ chỉ mở ra nếu một chủ thể được trao tố
quyền sử dụng quyền đó để yêu cầu tòa án bảo vệ quyền lợi cho họ. Cũng chính thông qua
các quy định pháp luật về tố quyền, chúng ta sẽ thấy được phần nào triết lí của một đạo
luật phá sản là thiên theo hướng bảo vệ các quyền lợi cho chủ nợ?, con nợ? hay kết hợp
một cách hài hòa giữa quyền lợi của chủ nợ với con nợ. Luật phá sản 2004 về cơ bản đã
thể hiện được tương đối tốt sự điều hòa lợi ích của các chủ nợ với lợi ích của bản thân con
nợ thông qua các quy định về quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản. Tuy nhiên, vẫn còn một
số điểm chưa hợp lý cần được sửa đổi hoặc bổ sung để đảm bảo tính hiệu quả của thủ tục
phá sản.
2.1.1. Các chủ thể có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản
 Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ

Theo Luật phá sản 2004, chủ nợ là chủ thể được quy định đầu tiên về quyền nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản. Căn cứ vào mức độ an toàn của khoản nợ, chủ nợ được chia làm ba
loại: chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm. Tuy
nhiên, chỉ có các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần mới có quyền đệ đơn.
 Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động
Theo quy định tại Điều 14 Luật phá sản, người lao động được quyền nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản doanh nghiệp, HTX nơi họ làm việc khi doanh nghiệp, HTX đó lâm vào tình
trạng phá sản thông tổ chức công đoàn hoặc người đại diện cho tập thể người lao động.
 Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước

8
Điều 16 Luật phá sản quy định: Khi nhận thấy doanh nghiệp nhà nước lâm vào tình trạng
phá sản mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì đại
diện chủ sở hữu của doanh nghiệp có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với
doanh nghiệp đó.
 Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của các cổ đông công ti cổ phần.
Điều 17 Luật phá sản quy định: Khi nhận thấy công ty cổ phần lâm vào tình trạng phá sản thì
cổ đông hoặc nhóm cổ đông có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của điều
lệ công ty; nếu điều lệ công ty không quy định thì việc nộp đơn được thực hiện theo nghị quyết
của đại hội cổ đông. Trường hợp điều lệ công ty không quy định mà không tiến hành được đại hội
cổ đông thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian
liên tục ít nhất 6 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty cổ phần đó.
 Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của thành viên hợp danh công ti hợp danh
Điều 18 Luật phá sản quy định: Khi nhận thấy công ty hợp danh lâm vào tình trạng phá
sản thì thành viên hợp danh có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty hợp
danh đó.
 Nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của doanh nghiệp, HTX lâm vào trạng
phá sản
Điều 15 Luật phá sản quy định: Khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã có

nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Trong thời hạn
ba tháng, kể từ khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, nếu chủ doanh
nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
2.1.2. Căn cứ phát sinh tố quyền
Mặc dù Luật phá sản cho phép sáu nhóm chủ thể như đã kể trên có quyền yêu cầu mở thủ
tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã. Những quyền yêu cầu này (hay tố quyền) của
họ chỉ xuất hiện trên cơ sở sự xuất hiện của một căn cứ pháp lí khác đó là việc doanh nghiệp,
hợp tác xã "lâm vào tình trạng phá sản".
Điều 3 Luật phá sản quy định: "Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán
được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản". Như
vậy, theo cách hiểu của pháp luật phá sản Việt Nam thì một doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ bị
xem là lâm vào tình trạng phá sản khi thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau:
Một là, doanh nghiệp, hợp tác xã đó có các khoản nợ đã đến hạn thanh toán.
Hai là, chủ nợ đã có yêu cầu đòi nợ nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã không còn khả năng
thanh toán.
2.2. Hội nghị chủ nợ
Trong thủ tục phá sản, hội nghị chủ nợ được xem là nơi gặp gỡ giữa tất cả các nợ với
con nợ để để xác định cách thức xử lí các khoản nợ. Thông qua hội nghị chủ nợ, ý chí
chung của các chủ nợ sẽ được thể hiện để quyết định bước tiếp theo của thủ tục phá sản là
phục hồi con nợ hay thanh lí tài sản của con nợ để thu hồi nợ. Cũng chính ở các phiên họp
của hội nghị chủ nợ, sự điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ được thể hiện một cách rõ
nét nhất.
2.2.1. Thành phần tham dự hội nghị chủ nợ
Luật phá sản 2004 cho phép tất cả các đối tượng có quyền lợi liên quan trực tiếp đến sự
sống còn của con nợ tham gia hội nghị chủ nợ, đồng thời, phân những người tham dự phiên

9
họp hội nghị chủ nợ là hai loại: người có quyền tham dự hội nghị chủ nợ và người có nghĩa vụ
tham dự hội nghị chủ nợ. Theo Điều 62 Luật phá sản 2004 thì những người có quyền tham dự

hội nghị chủ nợ bao gồm: thứ nhất là, các chủ nợ có tên trong danh sách chủ nợ đã được lập
trước đó (Với cách quy định này, mặc nhiên chúng ta hiểu rằng quyền tham dự hội nghị chủ
nợ của các chủ nợ sẽ không có sự phân biệt là chủ nợ có bảo đảm hay không có bảo đảm.);
thứ hai là, đại diện cho người lao động (có thể là đại diện của tổ chức công đoàn hoặc người
đại diện cho quyền lợi của người lao động tại doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản)
và thứ ba là, những người bảo lãnh cho nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi đã thực
hiện song nghĩa vụ bảo lãnh (lúc này có vai trò như một chủ nợ). Theo Điều 63 Luật phá sản,
những người có nghĩa vụ tham dự hội nghị chủ nợ là người đã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản quy định tại các điều 15, 16, 17 và 18 của Luật phá sản (được hiểu là các trường hợp
phá sản tự nguyện).
2.2.2. Nội dung của hội nghị chủ nợ
Theo quy định tại Điều 64 Luật phá sản thì nội dung chính của phiên họp hội nghị chủ nợ lần
thứ nhất bao gồm: Một là, thông qua nghị quyết về việc đồng ý hoặc không đồng ý cho con nợ
được áp dụng thủ tục phục hồi; Hai là, đề nghị thay thế người đại diện cho các chủ nợ trong thành
phần tổ quản lý và thanh lí tài sản; Ba là, đề nghị thẩm phán ra quyết định cử người quản lý và điều
hành hoạt động của con nợ.
2.3. Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phục hồi
Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh các doanh nghiệp kinh doanh có lãi luôn tồn tại các
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Nguyên nhân dẫn đến việc kinh doanh thua lỗ này có rất nhiều như
quản lý doanh nghiệp yếu kém, do thay đổi chính sách, pháp luật, do biến động giá cả của thị
trường,… Việc làm ăn thua lỗ sẽ dẫn đến không trả được các khoản nợ đến hạn. Các quốc gia
khác nhau hoặc ở mỗi quốc gia trong các giai đoạn khác nhau, có cách thức khác nhau để xử lý
các khoản nợ. Cách thức trả nợ có thể được thực hiện thông qua việc phục hồi hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp hoặc từ việc thanh lý các tài sản còn lại của doanh nghiệp tùy
thuộc vào năng lực của doanh nghiệp đó ở thời điểm được coi là lâm vào tình trạng phá sản. Khi
doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ có thể lựa chọn một trong hai
thủ tục tùy theo điều kiện cụ thể.
2.3.1. Nội dung của phương án phục hồi
Về nội dung phương án phục hồi, theo quy định tại Điều 69: "Phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản phải nêu rõ các biện

pháp cần thiết để phục hồi hoạt động kinh doanh; các điều kiện, thời hạn và kế hoạch thanh
toán các khoản nợ.
2.3.2. Thực hiện phương án phục hồi và hệ quả pháp lý
Phương án phục hồi hoạt động kinh doanh do doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản tự
thực hiện. Thời hạn tối đa để thực hiện phương án phục hồi là ba năm, kể từ ngày cuối cùng
đăng báo về quyết định của Tòa án công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ.
Việc doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh, thanh toán được các khoản nợ cho các chủ nợ theo kế hoạch là một trong những căn
cứ để Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh. Sau khi có
quyết định này, doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ được coi là không còn lâm vào tình trạng phá
sản và được trở lại hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường như các doanh nghiệp khác.
Luật phá sản năm 2004 cũng cho phép Thẩm phán được ra quyết định đình chỉ thủ tục phục
hồi hoạt động kinh doanh nếu được quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho ít
nhất hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm chưa được thanh toán đồng ý.

10
Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện không đúng hoặc không thực
hiện được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, không đáp ứng yêu cầu về việc thanh
toán nợ mà không thỏa thuận khác được với các chủ nợ thì Tòa án sẽ ra quyết định chấm dứt
thủ tục phục hồi và mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã để trả nợ cho các
chủ nợ.
2.4. Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục thanh lí tài sản
2.4.1. Căn cứ mở thủ tục thanh lý tài sản
Luật Phá sản năm 2004 đã quy định rõ các trường hợp Tòa án ra quyết định mở thủ tục
thanh lý tài sản đối với con nợ, bao gồm:
Thứ nhất, mở thủ tục thanh lí đối với con nợ trong trường hợp đặc biệt
Điều 78 Luật phá sản quy định: trường hợp doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bị thua lỗ
đã được Nhà nước áp dụng biện pháp đặc biệt để phục hồi hoạt động kinh doanh, nhưng vẫn
không phục hồi được và không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu
thì Tòa án ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp mà không cần phải triệu

tập Hội nghị chủ nợ để xem xét việc áp dụng thủ tục phục hồi.
Thứ hai, mở thủ tục thanh lí đối với con nợ khi hội nghị chủ nợ không thành
Điều 79 Luật phá sản quy định: Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản khi
Hội nghị chủ nợ không thành trong những trường hợp sau đây:
- Chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã không tham gia
Hội nghị chủ nợ mà không có lý do chính đáng hoặc sau khi Hội nghị chủ nợ đã được hoãn một
lần nếu người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thuộc trường hợp quy định tại Điều 13 và
Điều 14 của Luật này;
- Không đủ số chủ nợ quy định tại khoản 1 Điều 65 của Luật này tham gia Hội nghị
chủ nợ sau khi Hội nghị chủ nợ đã được hoãn một lần nếu người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản thuộc trường hợp quy định tại các điều 15, 16, 17 và 18 của Luật này.
Thứ ba, mở thủ tục thanh lí đối với con nợ theo nghị quyết của hội nghị chủ nợ
Theo Điều 80 Luật phá sản thì sau khi Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết
đồng ý với dự kiến các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ cho
các chủ nợ và yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh, nếu có một trong các trường hợp sau đây thì Tòa án ra quyết định mở thủ tục
thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã:
- Doanh nghiệp, hợp tác xã không xây dựng được phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 68 của Luật này;
- Hội nghị chủ nợ không thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, hợp tác xã;
- Doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện không đúng hoặc không thực hiện được phương án
phục hồi hoạt động kinh doanh, trừ trường hợp các bên liên quan có thỏa thuận khác.
Như vậy, ngoài trường hợp đặc biệt được nêu tại Điều 78, Luật phá sản chỉ coi thủ tục
thanh lí là giải pháp cuối cùng đối với con nợ khi sự thỏa thuận giữa các chủ nợ và con nợ
liên quan đến việc áp dụng thủ tục phục hồi không đạt được hoặc trong trường hợp mặc dù đã
được áp dụng thủ tục phục hồi nhưng không mang lại kết quả như mong muốn.
2.4.2. Các nội dung cơ bản của thủ tục thanh lí
Thủ tục thanh lí doanh nghiệp mắc nợ được hiểu là việc thu hồi toàn bộ sản nghiệp
thương mại của con nợ, bán phát mại sản nghiệp đó và tiến hành việc phân chia cho các đối

tượng thụ hưởng theo thứ tự luật định.

11
2.5. Hệ quả pháp lí của quyết định tuyên bố phá sản
Ngoài quy định về việc khai tử cho doanh nghiệp, HTX mắc nợ, Luật phá sản 2004 còn
đưa ra hai hệ quả pháp lí khác phát sinh từ quyết định tuyên bố phá sản có ảnh hưởng trực tiếp
đến lợi ích của chủ nợ và con nợ, đó là:
Thứ nhất, nghĩa vụ về tài sản sau khi có quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị
phá sản. Điều 90 Luật phá sản quy định: Quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá
sản quy định tại Điều 86 và Điều 87 của Luật này không miễn trừ nghĩa vụ về tài sản của chủ
doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh đối với chủ nợ chưa được
thanh toán nợ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Thứ hai, về những hạn chế đối với chủ sở hữu và những người đã tham gia quản lý, điều
hành doanh nghiệp, HTX bị tuyên bố phá sản. Điều 94 Luật phá sản quy định:
- Người giữ chức vụ Giám đốc, Tổng giám đốc, Chủ tịch và các thành viên Hội đồng
quản trị của công ty, tổng công ty 100% vốn nhà nước bị tuyên bố phá sản không được cử
đảm đương các chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nhà nước nào, kể từ ngày công ty, tổng
công ty nhà nước bị tuyên bố phá sản. Người được giao đại diện phần vốn góp của Nhà nước
ở doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp đó bị tuyên bố phá sản không được cử đảm đương các
chức vụ quản lý ở bất kỳ doanh nghiệp nào có vốn của Nhà nước.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh, Giám đốc (Tổng
giám đốc), Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên của doanh
nghiệp, Chủ nhiệm, các thành viên Ban quản trị hợp tác xã bị tuyên bố phá sản không được
quyền thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã, không được làm người quản lý doanh nghiệp, hợp
tác xã trong thời hạn từ một đến ba năm, kể từ ngày doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá
sản.
- Các hạn chế kể trên không áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên
bố phá sản vì lý do bất khả kháng.
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ

CỦA VIỆC ĐIỀU HÒA LỢI ÍCH GIỮA CHỦ NỢ VÀ CON NỢ
THÔNG QUA THỦ TỤC PHÁ SẢN
3.1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả của việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ
thông qua thủ tục phá sản
Tính khả thi của Luật phá sản có quan hệ tỷ lệ thuận với thời gian chính thức để giải quyết
một vụ phá sản, mức độ tốn kém của các thủ tục và giá trị có thể thu hồi. Theo báo cáo xếp hạng
môi trường kinh doanh năm 2008 do Tập đoàn Tài chính Quốc tế IFC và Ngân hàng Thế giới WB
công bố, VN được xếp ở vị trí 91. Trong đó, ở tiêu chí thứ 10, giải thể doanh nghiệp, báo cáo cho
rằng việc giải quyết các trường hợp phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam còn kém hiệu quả, xếp
hạng 121/178. Thủ tục phá sản phải mất ít nhất 5 năm, tốn kém đến 15% giá trị tài sản của doanh
nghiệp. Đối với những doanh nghiệp vỡ nợ thì các bên liên quan chỉ thu hồi được 18% giá trị tài
sản. Vì thế, rất ít doanh nghiệp tuân theo các quy định và thủ tục chính thức khi muốn đóng cửa
hoạt động. Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, số liệu về tình hình phá sản khi áp dụng
Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 đến ngày 31/12/2003, toàn ngành Tòa án chỉ thụ lý 151 vụ, trong
đó chỉ tuyên bố phá sản được 46 doanh nghiệp. Nguyên nhân làm giảm hiệu quả áp dụng của
pháp luật phá sản có thể đến từ nhiều lí do khác nhau. Những một nguyên nhân có thể được xem
là quan trọng nhất nằm chính ở khả năng hấp dẫn của thủ tục phá sản. Khi nào thủ tục phá sản còn

12
chưa phải là một công cụ điều tiết hiệu quả các quyền lợi của chủ nợ và con nợ thì các doanh
nghiệp vẫn còn thời ơ với Luật phá sản.
3.2. Phương hướng
Thực tiễn thi hành những quy định pháp luật về phá sản đã đặt ra cho chúng ta những đòi
hỏi cấp bách phải làm sao để nâng cao hiệu quả của việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con
nợ. Trong điều kiện hiện nay, để nâng cao hiệu quả của việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và
con nợ thì quá trình hoàn thiện các quy định pháp luật phá sản phải dựa trên các cơ sở lí luận
và thực tiễn sau:
Thứ nhất: Việc đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc điều hòa lợi ích giữa
chủ nợ và con nợ không nằm ngoài những đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về việc
hoàn thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, theo đó cần phải phát huy những nhân tố

tích cực, hạn chế các yếu tố tiêu cực, đảm bảo quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các
doanh nghiệp, hợp tác xã.
Thứ hai: Việc đưa ra các giải pháp phải dựa trên cơ sở những nhân tố hợp lý trong hệ thống
pháp luật hiện hành đã được thực tế kiểm nghiệm và chứng minh. Đồng thời trên cơ sở điều
kiện hoàn cảnh hiện tại của Việt Nam để khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết và vướng
mắc còn tồn tại trong pháp luật phá sản.
Thứ ba: Việc đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc điều hòa lợi ích giữa
chủ nợ và con nợ là nhằm đáp ứng với yêu cầu nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật
phá sản nói chung.
Thứ tư: Tiếp thu, học hỏi có chọn lọc những nhân tố, kinh nghiệm hợp lý của pháp luật của
các quốc gia trên thế giới việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ.
Thứ năm: Việc phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ phải dựa trên cơ sở nguyên tắc
bảo đảm vì lợi ích chung của Nhà nước và xã hội, quyền lợi chính đáng của các chủ nợ, người
lao động và doanh nghiệp mắc nợ.
3.3. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ
và con nợ thông qua thủ tục phá sản.
3.3.1. Các giải pháp lý
Thứ nhất: Cần sửa đổi các quy định của Luật phá sản 2004 liên quan đến nghĩa vụ về
mặt tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh công ti hợp danh sau quyết
định phá sản của doanh nghiệp tư nhân và công ti hợp danh theo hướng miễn trách nhiệm
tiếp tục trả nợ cho các đối tượng này đối với các phần khoản nợ mà chủ nợ chưa được
thanh toán đủ trong thủ tục phá sản.
Theo Điều 90 Luật Phá sản 2004, các chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của
công ty hợp danh không được miễn trừ nghĩa vụ về tài sản đối với các chủ nợ chưa được thanh
toán, tức là họ phải bằng tài sản của mình có trong tương lai để tiếp tục trả các món nợ mà mình
còn thiếu đối với các chủ nợ. Trong tương lai, Luật Phá sản nước ta nên ghi nhận những quy định
mới, theo đó, về nguyên tắc, con nợ là cá nhân cũng sẽ được giải phóng nợ, trừ một số trường hợp
nhất định đã được quy định trong Luật Phá sản. Điều đó có nghĩa là, Tòa án nước ta cũng sẽ
không giải phóng nghĩa vụ trả nợ cho chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh của công
ty hợp danh khi các con nợ này rơi vào một trong các trường hợp đã được Luật Phá sản dự liệu

trước. Chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm nghiên cứu của các nước để sửa đổi Luật Phá sản,
nhằm hoàn thiện và hợp lý hơn các quy định của Luật này. Việc làm đó là cần thiết vì lý lẽ công
bằng, vì quy định này cũng không trái với quan niệm về tính chịu trách nhiệm vô hạn của chủ
doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh trong công ty hợp danh, và vì những lợi ích mà việc

13
giải phóng nợ có thể đem lại cho xã hội nói chung và những người liên quan, nhất là con nợ nói
riêng. Đối với doanh nghiệp dân doanh, chừng nào khái niệm trách nhiệm hữu hạn chưa trở
thành phổ biến và cá nhân chủ nợ không được tuyên bố miễn trách, chừng đó các thiết chế đòi nợ
tập thể có sẵn trong xã hội Việt Nam sẽ thay thế Luật phá sản.
Thứ hai: Bổ sung các quy định về xử lý đối với từng loại tài sản cụ thể của doanh nghiệp bị
tuyên bố phá sản, những tài sản được miễn trừ ra khỏi tài sản phá sản
Đối với các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố, cần quy định phương
thức xử lý, thủ tục xử lý. Trong trường hợp này, vấn đề quan trọng là định giá tài sản như thế nào.
Có thể có 2 phương thức: các chủ nợ tự thỏa thuận với nhau, hoặc là bán đấu giá tài sản. Nhà nước
cần có quy định việc áp dụng phương thức nào để xử lý tài sản bảo đảm, cần có quy định linh hoạt
trong việc áp dụng phương thức xử lý tài sản trong những trường hợp nhất định, bên cạnh đó, cần
khuyến khích các tổ chức định giá tham gia vào định giá tài sản cho doanh nghiệp phá sản.
Đối với tài sản là giá trị quyền sử dụng đất, chính phủ cần có văn bản quy định về bán đấu
giá quyền sử dụng đất nói chung và bán đấu giá quyền sử dụng đất của doanh nghiệp bị phá
sản nói riêng. Đối với trường hợp quyền sử dụng đất được thế chấp tại các tổ chức tín dụng
thì cần đơn giản hóa thủ tục đem tài sản thế chấp là đất ra bán đấu giá, không nên quy định
việc phải xin phép Ủy ban nhân dân tỉnh mà chỉ cần thông báo về việc bán đấu giá. Cần quy
định chi tiết về việc xử lý tài sản gắn liền với đất của con nợ bị phá sản.
Đối với tài sản loại trừ, pháp luật cần có quy định cụ thể hơn. Pháp luật Hoa Kỳ quy định:
Tài sản loại trừ, "đó là các khoản trách nhiệm pháp lý đối với việc chiếm đoạt hoặc lừa dối,
gây thương tích với một người hoặc làm hư hỏng tài sản, trợ cấp cho vợ, chồng, con; khoản
nợ có được do gian lận của con nợ khi biển thủ, trộm cắp…" Trong khi đó, Luật Phá sản 2004
mới chỉ quy định giá trị tài sản đã được áp dụng biện pháp đặc biệt của nhà nước đối với các
doanh nghiệp Nhà nước thuộc diện loại trừ ra khỏi tài sản phá sản. Pháp luật các nước đều có

quy định cụ thể đối với tài sản thuộc diện loại trừ ra khỏi tài sản phá sản, do đó Luật Phá sản
của nước ta cũng cần tham khảo và học tập.
Thứ ba: Quy định cụ thể, đầy đủ về các biện pháp hỗ trợ việc xác định chính xác tài sản
phá sản
Trước hết, cần xác định giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp. Việc xác định giá trị tài
sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã là tài sản cố định hoặc lưu động phải được thông qua
thủ tục định giá. Chi phí việc thẩm định sẽ do doanh nghiệp chịu. Đồng thời, kết quả thẩm
định phải đáp ứng các yêu cầu như:
- Đối với tài sản cố định là động sản, cần xác định rõ giá trị của tài sản tính đến thời điểm
hiện tại có kết hợp với tỷ lệ mức khấu hao cụ thể;
- Đối với tài sản cố định là bất động sản và các loại giấy tờ có giá, trong khi thanh lý phải
tổ chức định giá lại theo quy định tại Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 để đảm bảo
quyền lợi của chủ nợ và người mắc nợ.
- Do tính đặc biệt của quyền sở hữu trí tuệ và vai trò quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ,
việc xử lý tài sản là quyền sở hữu trí tuệ khi doanh nghiệp bị phá sản là hết sức phức tạp và
cần thiết.
- Đối với trường hợp tài sản của doanh nghiệp bị phá sản nằm rải rác ở nhiều địa phương
khác nhau, Cơ quan thi hành vụ phá sản có thể ủy thác cho một số cơ quan khác. Cần quy định cơ
chế để tạo Điều kiện cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản có khả năng quản lý và thu hồi các khoản
nợ, các tài sản của doanh nghiệp.
Thứ tư: Hoàn thiện các quy định pháp luật khác có liên quan đến giải quyết phá sản

14
Cần hoàn thiện những quy định của các ngành Luật khác về đăng ký quyền sở hữu, quyền
sử dụng tài sản, đặc biệt là đăng ký bất động sản, đăng ký giao dịch bảo đảm nhằm phục vụ cho
việc công khai, minh bạch hóa thông tin về tài sản nói chung và thông tin về tài sản của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản nói riêng. Qua đó, hỗ trợ đắc lực cho hoạt động giải quyết
phá sản doanh nghiệp.
Hoàn thiện quy định về xử lý tài sản cầm cố, thế chấp. Để thống nhất cách áp dụng quy
định của Luật Phá sản và đồng bộ với pháp luật về bảo đảm tiền vay, cần quy định rõ hơn cơ

chế xử lý tài sản bảo đảm, theo hướng cho phép chủ nợ có bảo đảm được nhận định chính tài
sản bảo đảm để thanh toán khoản nợ có bảo đảm, để bảo đảm đồng bộ với pháp luật về giao
dịch bảo đảm. Tuy nhiên, để bảo đảm lợi ích của các chủ nợ khác thì Luật cũng cần quy định
rõ cơ chế xác định giá trị tài sản bảo đảm một cách khách quan thông qua việc định giá của tổ
chức tài chính có chức năng định giá.
Thứ năm: Cần nghi nhận sự xuất hiện của các chủ nợ mới trong thủ tục phá sản và
dành cho loại chủ nợ này đặc quyền thanh toán so với các chủ nợ cũ nhằm tạo điều kiện
cho việc áp dụng thành công thủ tục phục hồi con nợ.
Ngoài chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần, còn
một loại chủ nợ nữa mà Luật phá sản không đề cập đến mặc dù sự hiện diện của loại chủ nợ
này trong thủ tục phá sản là hoàn toàn hiện thực và chủ nợ này có quyền đặc trưng của
mình. Đó là chủ nợ mới - chủ nợ xuất hiện trên cơ sở các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản. Luật đề cập đến các khoản nợ mới (Điều
31) nhưng Luật lại không nói về chủ nợ mới. Luật thừa nhận sau khi có quyết định mở thủ
tục phá sản mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vẫn tiến hành bình thường nhưng
phải chịu giám sát, kiểm tra của Thẩm phán, Tổ quản lý tài sản (Điều 30). Điều này có
nghĩa là doanh nghiệp có thể giao kết hợp đồng mới - xuất hiện những chủ nợ mới, các
khoản nợ mới. Đây cũng là điểm không chặt chẽ của Luật 2004. Về lý thuyết, chủ nợ mới -
khác với các chủ nợ cũ (những chủ nợ xuất hiện trên cơ sở các hợp đồng giao kết trước khi
có quyết định mở thủ tục phá sản) luôn có quyền được ưu tiên thanh toán trong mọi trường
hợp. Chỉ có như vậy các quy định của Luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp mới có tính khả thi. Nếu không có sự bảo đảm của Luật về quyền ưu tiên
thanh toán thì không một chủ nợ nào lại giao kết hợp đồng với một con nợ đã có quyết định
mở thủ tục phá sản và mọi cố gắng phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng khánh kiệt tài chính chỉ là mong muốn không có tính khả thi.
3.3.2. Các giải pháp bổ trợ khác
Thứ nhất: tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật phá sản.
Để pháp luật phá sản và những quy định về quản lý và xử lý tài sản phá sản được thực thi
có hiệu quả trong thực tiễn thì vấn đề nhận thức pháp luật của xã hội cũng như giới kinh
doanh là hết sức quan trọng. Do công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật phá sản còn chưa

được quan tâm đúng mức nên việc thực thi Luật Phá sản gặp nhiều khó khăn mà nguyên nhân
cơ bản của việc này là do những chủ thể có liên quan đến phá sản doanh nghiệp chưa nhận
thức đúng và đầy đủ về thủ tục phá sản.
Thứ hai: nâng cao năng lực và trình độ đội ngũ cán bộ tham gia giải quyết phá sản.
Trong quá trình giải quyết phá sản, Thẩm phán là người trực tiếp giải quyết việc phá sản
doanh nghiệp, do đó, chất lượng và hiệu quả của việc giải quyết phá sản doanh nghiệp phụ
thuộc nhiều vào trình độ chuyên môn của Thẩm phán. Trong quá trình giải quyết phá sản
cũng như việc quản lý, thanh lý tài sản phá sản, ngoài những yêu cầu về trình độ pháp lý,
người Thẩm phán còn phải có trình độ hiểu biết về nhiều lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực

15
tài chính - kế toán. Do vậy, cần phải bồi dưỡng, nâng cao trình độ Thẩm phán giải quyết phá
sản, đáp ứng những yêu cầu mới đặt ra.
Thứ ba: tăng cường vai trò của cơ quan quản lý tài sản phá sản
Hệ thống các cơ quan đăng ký bất động sản cần được tập trung, tránh tình trạng phân tán như
hiện nay, rất khó cho quản lý. Điều này đã gây khó khăn trong việc quản lý Nhà nước đối với giao
dịch bảo đảm, nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng dùng một tài sản để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ,
gây thiệt hại cho các chủ nợ. Các quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm cần được kiện toàn.
Khẩn trương xây dựng lại hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm, các quy định liên quan đến giấy tờ
về sở hữu.
Thứ tư: tăng cường kỷ luật tài chính kế toán
Theo báo cáo của ngành Tòa án, một trong những nguyên nhân làm suy giảm hiệu lực của
pháp luật phá sản và những quy định về cơ chế về xử lý tài sản phá sản trong thời gian qua là
do những yếu kém trong việc thực hiện chế độ tài chính kế toán trong các doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp không tuân theo những quy định về tài chính - kế toán hiện hành, sổ sách
kế toán còn sơ sài, thậm chí có những doanh nghiệp không có sổ sách kế toán, dẫn đến công
nợ không rõ ràng, gian dối về chứng từ kế toán. Điều đó làm cho việc quản lý và xử lý tài sản
phá sản gặp nhiều khó khăn. Do vậy, cần sớm ban hành Luật kế toán - thống kê trong đó nhấn
mạnh những quy định về xử lý nghiêm khắc những vi phạm về kế toán thống kê. Tăng cường
công tác kiểm tra việc tuân thủ chế độ kế toán - tài chính doanh nghiệp, bắt buộc doanh

nghiệp nộp báo cáo tài chính định kỳ. Đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn cần phải có
quy định buộc doanh nghiệp nộp báo cáo vào cuối mỗi năm tài chính. Trường hợp doanh
nghiệp không nộp báo cáo hoặc báo cáo gian dối phải bị xử phạt nặng bằng tiền hoặc trường
hợp nghiêm trọng có thể bị rút đăng ký kinh doanh, có như vậy mới có thể chấn chỉnh được
tình trạng vi phạm nghiêm trọng về kế toán tài chính như hiện nay.
KẾT LUẬN

Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản được hiểu là thông
qua thủ tục phá sản, pháp luật phá sản phải tạo ra một cơ chế đồng bộ để điều tiết một
cách hài hòa mối quan hệ về lợi ích giữa các chủ nợ và con nợ, đảm bảo tối ưu hóa các
quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời, qua đó còn tính toán việc cân bằng các lợi
ích khác mà pháp luật hướng tới bảo vệ như lợi ích người lao động, lợi ích nền kinh tế và
xã hội nói chung.
Pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay mà trọng tâm là Luật phá sản 2004 đã tạo ra một
thủ tục phá sản tương đối hiện đại và khoa học theo chiều hướng thiên về phục hồi con nợ
phù hợp với xu thế chung của thế giới. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành pháp luật phá sản ở
Việt Nam trong thời gian qua lại cho thấy tính hiệu quả của thủ tục phá sản là không cao.
Luật phá sản 2004 luôn có nguy cơ bị "phá sản" như Luật phá sản 1993 khi các chủ nợ và
con nợ vẫn chưa cảm nhận thấy sự cần thiết của công cụ này trong trong hoạt động kinh
doanh của mình.
Để nâng cao hiệu quả của thủ tục phá sản, thiết nghĩ, pháp luật phá sản cần được xem
xét như một bộ phận của pháp luật về xử lí và thu hồi nợ. Thủ tục phá sản phải thực sự
mềm dẻo và công minh trong việc điều tiết, cân bằng lợi ích giữa chủ nợ và con nợ qua đó
khuyến khích họ tự tìm tới với thủ tục phá sản và xem đó như là công cụ hiệu quả nhất có
thể giúp họ tối đa hóa các lợi ích có thể đạt được. Thanh lí tài sản con nợ cần được xem là

16
giải pháp cuối cùng sau khi các nỗ lực được tạo ra bởi các chủ nợ và con nợ về việc phục
hồi con nợ không thành công. Việc dùng pháp luật phá sản để tạo cơ hội cho chủ nợ can
thiệp vào điều hành và tái cơ cấu doanh nghiệp mắc nợ cần được khuyến khích.

Với những tìm hiểu về thực trạng việc điều tiết lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua
thủ tục phá sản ở Việt Nam trong thời gian qua, luận văn đã đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả của việc điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ, qua đó, làm cho pháp luật về phá
sản thực sự trở thành công cụ hiệu quả trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người
kinh doanh.

References
1. Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009), Công ti - vốn, quản lý và giải quyết tranh
chấp theo Luật doanh nghiệp 2005, Nxb Tri thức, Hà Nội.
2. Hà Thị Thanh Bình (2003), "Tài sản phá sản và phân chia tài sản của con nợ bị phá sản",
Nghiên cứu lập pháp, (5).
3. Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Trí Hòa (1994), Hỏi đáp về luật phá sản doanh nghiệp,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Bộ luật Thương mại (1973), Thần chung xuất bản, Sài Gòn.
5. Bộ Tài chính (2003), Quyết định số 206/003/QĐ-BTC ngày 12/12 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính ban hành chế độ quản lý,sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định, Hà Nội.
6. Bộ Tư pháp (1996), Quyết định số 528/QĐ/BT ngày 13/6 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
hướng dẫn kê biên tài sản của doanh nghiệp để đảm bảo thi hành án, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp (2002), Đánh giá thực trạng, thực hiện nghiên cứu, phân tích để khuyến nghị
hoàn thiện Luật phá sản doanh nghiệp và các qui định pháp luật khác có liên quan, Báo
cáo phúc trình đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội.
8. Bộ Tư pháp (2006), Báo cáo kết quả thực hiện cải cách hành chính giai đoạn 2001-2005.
Tổng kết việc áp dụng thí điểm mô hình một cửa trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản, Hà
Nội.
9. Bộ Tư pháp (2008), Báo cáo số 207/2008/BC-BTP ngày 29/12 về rà soát, đánh giá thực
tiễn thi hành Luật phá sản năm 2004, Hà Nội.
10. Bộ Tư pháp - Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2004), Kỉ yếu
các tọa đàm tổ chức tại Việt Nam trong khuôn khổ dự án Jica 2000-2003, Hà Nội.
11. Nguyễn Kim Chi (2005), Xử lí tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo


17
Luật phá sản (2004), Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Chinh (2005), "Một số qui định của Luật phá sản cần được làm rõ thông qua
Nghị định hướng dẫn thi hành", Dân chủ và pháp luật, (11).
13. Chính phủ (1994), Nghị định số 189/CP ngày 23/12 hướng dẫn thi hành Luật phá sản
doanh nghiệp 1993, Hà Nội.
14. Chính phủ (1995), Nghị định số 92/CP ngày 9/12 về giải quyết quyền lợi của người lao
động trong doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, Hà Nội.
15. Chính phủ (1996), Nghị định số 86/CP ngày 19/12 ban hành Qui chế Bán đấu tài sản, Hà
Nội.
16. Chính phủ (2005), Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01 về bán đấu giá tài sản, Hà
Nội.
17. Chính phủ (2005), Nghị định số 94/2005/NĐ-CP ngày 15/7 về giải quyết quyền lợi của
người lao động trong doanh nghiệp và hợp tác xã bị phá sản, Hà Nội.
18. Chính phủ (2006), Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7 hướng dẫn việc áp dụng Luật
phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài
sản, Hà Nội.
19. Ngô Huy Cương (2003), "Tổng quan về luật Tài sản",
20. Lê Đăng Doanh (1994), "Luật phá sản doanh nghiệp, một tiến bộ quan trọng tạo lập khuôn
khổ pháp lí cho cơ chế thị trường", Thông tin lí luận, (6).
21. Nguyễn Văn Dũng (1999), "Luật phá sản doanh nghiệp - Những nội dung chủ yếu và một
số đề xuất kiến nghị", Hội thảo khoa học: Luật phá sản doanh nghiệp, Hà Nội.
22. Đặng Huy Dũng (2000), "Một số khía cạnh pháp lí của việc xác định tư cách chủ nợ và
thứ tự ưu tiên thanh toán theo Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam", Nhà nước và pháp
luật, (5).
23. Francis Lemunir (1993), Những nguyên lí thực hành Luật thương mại, Luật kinh doanh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Frid rich Kubler, Jurgen Simon (1992), Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hòa Liên
bang Đức, Nxb Pháp lý, Hà Nội


18
25. Trương Hồng Hải (2004), "Đặc điểm của quy chế xác định tài sản doanh nghiệp của Việt
Nam và những đề xuất sửa đổi", Luật học, (1)
26. Trương Hồng Hải (2004), Luật phá sản Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương
hướng hoàn thiện, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội.
27. Đào Thanh Hải, Trần Văn Sơn (2002), Tìm hiểu Luật phá sản doanh nghiệp và hướng
dẫn thi hành, Nxb Lao động, Hà Nội
28. Đào Thanh Hải, Trần Văn Sơn (2002), Luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi
hành, Nxb Lao động, Hà Nội
29. Huy Hào (2007), "Sức mạnh doanh nghiệp nội", Báo Đầu tư, ngày 15/10 .
30. Trần Khắc Hoàng (2002), "Một số vấn đề thực tiễn phá sản doanh nghiệp", Tòa án nhân
dân, (6).
31. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Quản lý kinh tế (2006), Giáo trình Khoa
học quản lý, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
32. Nguyễn Tấn Hơn (1995), Phá sản doanh nghiệp - một số vấn đề, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
33. Dương Đăng Huệ (2003), "Về thực trạng pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay", Nhà
nước và pháp luật, (1).
34. Dương Đăng Huệ (2005), Pháp luật phá sản Việt Nam năm 2005, Nxb Tư Pháp, Hà Nội
35. Dương Đăng Huệ (2005), "Luật phá sản năm 2004 với việc cải thiện môi trường kinh
doanh tại Việt Nam", Dân chủ và pháp luật, (3).
36. Dương Đăng Huệ, Cao Đăng Vinh (2004), "Về dự thảo Luật phá sản", Nghiên cứu lập
pháp, (4).
37. Bùi Nguyên Khánh, Pháp luật về phá sản doanh nghiệp trong luật kinh tế Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2002), Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
39. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Giáo trình Luật doanh nghiệp: tình huống
- bình luận - phân tích, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.


19
40. Phạm Duy Nghĩa (2003), "Đi tìm triết lí của Luật phá sản", Nghiên cứu lập pháp, (34)
41. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật kinh tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội.
42. Quốc hội (1990), Luật doanh nghiệp tư nhân, Hà Nội.
43. Quốc hội (1990), Luật công ty, Hà Nội.
44. Quốc hội (1993), Luật phá sản doanh nghiệp, Hà Nội.
45. Quốc hội (2004), Luật phá sản, Hà Nội.
46. Quốc hội (2004), Luật cạnh tranh, Hà Nội.
47. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Nghị quyết số 03/2005/NQ - HĐTP ngày 27/4 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phá
sản 2004, Hà Nội.
48. Trần Anh Tú (2003), "Luật phá sản doanh nghiệp: một số ý kiến đóng góp bổ sung, sửa
đổi", Khoa học, (Chuyên san Kinh tế - Luật), (1).
49. Ngô Thị Kim Tuyến (2001), Bất cập trong Luật phá sản doanh nghiệp, Khóa luận tốt
nghiệp - Khoa Luật - Đai học Quốc gia Hà Nội.
50. Viện Đại học Mở Hà Nội (2008), Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.

×