Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

PHân TÍCH tư TƯỞNG Hồ CHÍ MINH về THỜI kì QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.97 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC
--------🙣🕮🙡--------

BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỜI KÌ
Q ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
GIẢNG VIÊN: Ngô Thị Huyền Trang
MÃ LHP: 2084HCMI0111
NHÓM: 1

1


Hà Nội, năm 2020
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM
STT

Họ tên

MSV

Ghi chú

1

Lê Thị Lan Anh

19D210001


2

Trần Thị Ngọc Anh

19D201003

3

Phạm Thị Ngọc Ánh

19D201004

4

Nguyễn Thủy Chi

19D210005

5

Vũ Thị Diệu

19D210216

6

Nguyễn Thị Dung

19D210006


7

Bùi Thị Thùy Dương

19D210148

8

Nguyễn Thị Thúy Dương

19D210218

9

Nguyễn Việt Dương

19D210008

Thư ký

Nhóm trưởng

BẢNG PHÂN CƠNG NHIỆM VỤ & ĐÁNH GIÁ
Cá nhân đánh

STT

Họ tên

Nhiệm vụ


1

Lê Thị Lan Anh

Mở bài + kết bài

2

Trần Thị Ngọc Anh

I. Quan điểm

3

Phạm Thị Ngọc Ánh

4

Nguyễn Thủy Chi

III.1.

5

Vũ Thị Diệu

IV. 1&2

6


Nguyễn Thị Dung

Powerpoint

7

Bùi Thị Thùy Dương

8

Nguyễn Thị Thúy

giá

II. Cơ sở hình
thành

Word + Đề cương
đề tài phụ + III.2
Thuyết trình

Dương
2

Nhóm đánh giá


9


Nguyễn Việt Dương

IV. 3&4

3


LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là một nội dung rất quan trọng trong hệ thống nội dung tư tưởng Hồ
Chí Minh. Theo Hồ Chí Minh: “… chủ nghĩa xã hội khơng cịn áp bức, bóc lột, xã hội
do nhân dân lao động làm chủ, trong đó con người sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa thống nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau”. Đối
với Việt Nam, hàng nghìn năm dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ phong kiến, thực
dân, nhiều khuynh hướng cứu dân, cứu nước đã được thử nghiệm nhưng đều không
đem lại kết quả cuối cùng mà dân tộc khát khao đạt được. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới
là nguồn gốc của tự do, bình đẳng, bác ái, xóa bỏ những bức tường dài ngăn cản con
người yêu đoàn kết, yêu thương nhau. Người nhận thức được rõ ràng giá trị của chủ
nghĩa xã hội về mặt lý luận là muốn nâng cao đời sống nhân dân, phải tiến lên chủ
nghĩa xã hội, nhưng vấn đề quan trọng hơn là tìm ra con đường để thực hiện những giá
trị này. Điểm then chốt, có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng của Hồ Chí Minh là
đề ra các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong mỗi giai
đoạn cách mạng khác nhau ở nước ta. Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề, nhóm 1
đã quyết định nghiên cứu về đề tài: “Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.

4


I. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:


1. Định nghĩa về chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh:
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã hình
thành một hệ thống quan điểm hết sức đặc sắc về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Định nghĩa chủ nghĩa xã hội như một chế độ xã hội hoàn chỉnh đối lập với chế độ
tư bản chủ nghĩa.
Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách chỉ ra các mặt riêng biệt của nó (về kinh
tế, chính trị, xã hội, văn hoá, quan hệ quốc tế...).
Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách nêu bật mục tiêu (tổng quát và cụ thể) của
nó, v.v…
=> Khái niệm “chủ nghĩa xã hội” được Hồ Chí Minh tiếp cận ở nhiều góc độ khác
nhau.

2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội:
Theo Người, mục tiêu là sự thể hiện cơ đọng nhất các bản chất đặc trưng, tính ưu
việt vốn hàm chứa trong chế độ xã hội tương lai mà chúng ta xây dựng.
Hồ Chí Minh ý thức được rõ ràng giá trị của chủ nghĩa xã hội về mặt lý luận là
quan trọng, nhưng vấn đề quan trọng hơn là tìm ra con đường để thực hiện những giá
trị này. Điểm then chốt, có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng của Hồ Chí Minh là
đề ra các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong mỗi giai
đoạn cách mạng khác nhau ở nước ta. Chính thơng qua q trình đề ra các mục tiêu đó,
chủ nghĩa xã hội được biểu hiện với việc thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích thiết yếu của
người lao động, theo các nấc thang từ thấp đến cao, tạo ra tính hấp dẫn, năng động của
chế độ xã hội mới.
Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của
Người là một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đó cũng chính là mục tiêu tổng qt theo
cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.


5


Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cũng chính là khát vọng, mong muốn cháy bỏng
mà Hồ Chí Minh hy sinh cả cuộc đời mình để phấn đấu vươn tới: xây dựng một nước
Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp cách mạng của thế giới.
Theo Hồ Chí Minh, hiểu mục đích của chủ nghĩa xã hội, nghĩa là nắm bắt nội
dung cốt lõi của con đường lựa chọn và bản chất thực tế xã hội mà chúng ta phấn đấu
xây dựng. Tiếp cận chủ nghĩa xã hội về phương diện mục đích là một nét đặc sắc, thể
hiện phong cách và năng lực tư duy lý luận khái qt của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh
có nhiều cách đề cập mục đích của chủ nghĩa xã hội: "Mục đích của chủ nghĩa xã hội
là gì? Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động". Hay "mục đích của chủ
nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân". Hoặc Người diễn giải
mục đích tổng quát này thành các tiêu chí cụ thể: "Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho
nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc,
già khơng lao động được thì nghỉ, những phong tục tập qn khơng tốt dần được xóa
bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng
tốt, đó là chủ nghĩa xã hội". Hồ Chí Minh viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tơi
là: Tồn Đảng, tồn dân, tồn qn ta đồn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt
Nam hịa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Hồ Chí Minh quan niệm mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời
sống nhân dân. Đó là sự tin tưởng cao độ vào lý tưởng vì dân. Theo Người, muốn nâng
cao đời sống nhân dân, phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là nâng cao
đời sống nhân dân, quan điểm này có ý nghĩa sâu sắc đối với các thế hệ người Việt
Nam trong quá trình xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Cách tư duy lấy chủ nghĩa
xã hội làm điểm xuất phát tuyệt đối, làm cơ sở cho mọi hoạt động thực tiễn cần phải
được bổ sung bằng sự tác động trở lại và chủ nghĩa xã hội cũng phải được làm rõ bởi

hàng loạt các quan hệ khác. Mục đích nâng cao đời sống tồn dân là tiêu chí tổng quát
để khẳng định và kiểm nghiệm tính chất xã hội chủ nghĩa của các lý luận chủ nghĩa xã

6


hội và chính sách thực tiễn. Trượt ra khỏi quỹ đạo đó thì hoặc là chủ nghĩa xã hội giả
hiệu, hoặc khơng có gì tương thích với chủ nghĩa xã hội.
Chỉ rõ và nêu bật mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng định tính
ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử, Hồ Chí Minh
viết: “Trong xã hội có giai cấp bóc lột thống trị, chỉ có lợi ích cá nhân của một số rất
ít thuộc giai cấp thống trị là được thỏa mãn, còn lợi ích cá nhân của quần chúng lao
động thì bị giày xéo. Trái lại, trong chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là
chế độ do nhân dân lao động làm chủ, thì mỗi người là một bộ phận của tập thể, giữ
một vị trí nhất định và đóng góp một phần cơng lao trong xã hội. Cho nên lợi ích cá
nhân là nằm trong lợi ích của tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích
chung của tập thể được đảm bảo thì lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện được
thỏa mãn”. Từ đó chỉ ra nhiệm vụ giải phóng con người một cách tồn diện, theo các
cấp độ: từ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xã hội đến giải phóng từng cá nhân
con người, hình thành các nhân cách phát triển tự do.

3. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định mục đích của cách mạng Việt Nam là
tiến lên chủ nghĩa xã hội, rồi đến chủ nghĩa cộng sản:
Cộng sản có hai giai đoạn. Giai đoạn thấp tức là chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn cao
tức là chủ nghĩa cộng sản. Hai giai đoạn ấy giống nhau ở chỗ: Sức sản xuất đã phát
triển cao; nền tảng kinh tế thì tư liệu sản xuất đều là của chung; khơng có giai cấp áp
bức bóc lột. Hai giai đoạn ấy khác nhau ở chỗ: chủ nghĩa xã hội vẫn cịn chút ít vết
tích xã hội cũ. Xã hội cộng sản thì hồn tồn khơng cịn vết tích xã hội cũ.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là xã hội ở giai đoạn đầu của chủ
nghĩa cộng sản. Mặc dù còn tồn đọng tàn dư của xã hội cũ nhưng chủ nghĩa xã hội

khơng cịn áp bức, bóc lội, xã hội do nhân dân lao động làm chủ , trong đó con người
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa thống nhất, vừa
gắn bó chặt chẽ với nhau.
=> Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội được Đảng
Cộng sản Việt Nam kế thừa, phát triển và ngày càng hoàn thiện dần cùng với sự phát
triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội nói chung. Điều này được thể hiện rõ trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991). 25
7


năm sau, quan niệm trên đây về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội đã được Đại hội XI của
Đảng sửa đổi, bổ sung và diễn đạt lại: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân
dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện;
các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau
cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước trên thế giới".

II. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con
đường quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
1. Cơ sở lý luận:
1.1. Hồ Chí Minh tiếp thu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê - nin
về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Những bài học rút ra từ những phong trào yêu nước của thế hệ cha anh, với 10
năm (1911 – 1920) bơn ba ở nước ngồi đã giúp Nguyễn Tất Thành phát triển và hoàn
thiện nguồn vốn chính trị, văn hóa và đời sống thực tiễn xã hội để hình thành nên bản
lĩnh chính trị của người chiến sỹ cách mạng. Chính bản lĩnh chính trị ấy đã giúp

Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng
tạo, không sao chép, giáo điều khi vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Với tư duy hành động, Người tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin còn do yêu cầu của
thực tiễn cách mạng Việt Nam, đó là con đường cứu nước, giành độc lập dân tộc.
Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin từ chủ nghĩa yêu nước.
Người nghiên cứu chủ nghĩa Mác một cách sâu sắc, khoa học, nắm chắc tinh
thần, bản chất để vận dụng phù hợp.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp quyết định bản chất tư
tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện: Tháng 7/1920 Hồ Chí Minh đọc “Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin là bước
quyết định nhảy vọt về chất trong quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
8


• Chủ nghĩa Mác - Lênin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan và phương
pháp luận duy vật biện chứng, để tổng kết lịch sử và kinh nghiệm thực tiễn, tích luỹ
kiến thức tìm ra con đường cứu nước mới.
• Chủ nghĩa Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí Minh vượt hẳn lên phía trước so với
những người yêu nước đương thời, khắc phục cuộc khủng hoảng về đường lối giải
phóng dân tộc, vạch ra con đường cứu nước đúng đắn: giải phóng dân tộc bằng con
đường cách mạng vô sản.
Như vậy, chủ nghĩa yêu nước là cơ sở ban đầu và là động lực thôi thúc Hồ Chí
Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Cịn chủ nghĩa Mác - Lênin đã nâng chủ nghĩa
yêu nước truyền thống ở Hồ Chí Minh lên một tầm cao mới, tạo ra bước phát triển mới
về chất phù hợp với thời đại mới.
Việc Hồ Chí Minh tiếp thu bản Luận cương của Lênin tháng 7/1920 và trở thành
người cộng sản vào cuối năm đó đã tạo nên bước ngoặt căn bản trong tư tưởng của
Người. Thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí Minh nhìn
nhận, đánh giá phân tích tổng kết các học thuyết, tư tưởng, đường lối các cuộc cách
mạng một cách khoa học; cùng với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình để đề ra

con đường cách mạng giải phóng dân tộc đứng đắn.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận cơ sở chủ yếu nhất của sự hình
thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.

1.2. Hồ Chí Minh kế thừa các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam:
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng
chiến đấu trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đồn kết, sống có tình, có nghĩa,
nhân ái Việt Nam. Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thì chủ
nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm
người, niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con người
Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó
là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì
tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt
qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
9


Chính sức mạnh truyền thống ấy đã thúc giục Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh)
đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Đó là động lực chi phối mọi suy nghĩ, hành động của
Người trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng. Đó cũng chính là cơ sở tư tưởng
đã dẫn dắt Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh viết: “Lúc đầu, chính
là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin,
tin theo Quốc tế thứ ba”.

2. Cơ sở thực tiễn:
2.1. Hồ Chí Minh tiếp thu kinh nghiệm thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa
trên thế giới:
Cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn nghủ nghĩa tư bản
độc quyền (chủ nghĩa đế quốc), với đặc điểm quan trọng nhất của nó là xâm chiếm

thuộc địa. Thống trị và xâm chiếm thuộc địa đã đẩy mạnh phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc trên thế giới => Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân giành độc lập
dân tộc, gắn bó với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản thế giới là đặc điểm mới của
thời đại.
Sự thất bại của các phong trào cứu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nguyễn
Tất Thành tuy chưa nhận thức được đặc điểm của thời đại, nhưng Người cũng thấy rõ
con đường cứu nước của các bậc tiền bối cách mạng là không phù hợp, khơng đem lại
kết quả. Người phải đi tìm một con đường mới. Mục đích ra đi lúc đầu là tìm hiểu tại
sao và bằng cách nào mà các nước phương Tây giàu mạnh? Cái gì ẩn dấu đằng sau
những câu châm ngơn lý tưởng về Tự do, Bình đẳng, Bác ái?
Mong muốn mở rộng tầm nhìn bằng ra đi tìm một con đường cứu nước mới bằng
một trái tim u nước, một bộ óc thơng minh khát khao hiểu biết và bằng hai bàn tay
lao động - Nguyễn Tất Thành đã vượt qua ba đại dương, bốn châu lục và khoảng gần
30 nước, giúp cho Người nhận thức được bản chất của chủ nghĩa đế quốc, cũng như
hoàn cảnh của các nước thuộc địa, phụ thuộc trên thế giới cùng cảnh ngộ với dân tộc
mình.
Cuối năm 1917, Nguyễn Ái Quốc từ Anh trở về Pháp, trung tâm văn minh đương
thời với khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng - Bác ái, và là kẻ thù của dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc đã sát cánh với những người Việt Nam yêu nước và những chiến sỹ
10


cách mạng từ những nước thuộc địa của thực dân Pháp, thực dân Anh đang hoạt động
ở đây. Người gia nhập Đảng xã hội Pháp, một chính đảng duy nhất của nước Pháp
bênh vực các dân tộc thuộc địa.
Năm 1919: tại hội nghị Véc - xây, Nguyễn Ái Quốc gửi bản yêu sách của nhân
dân An Nam đòi các quyền tự do dân chủ tối thiểu...cho Việt Nam, nhưng không được
chấp nhận. Từ sự thật đó Nguyễn Ái Quốc nhận thức được rằng: muốn được giải
phóng các dân tộc chỉ có thể trơng cậy vào bản thân mình.
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và Lênin thành lập Quốc tế Cộng sản III

(tháng 3/1919) dẫn đến sự phân hoá trong nội bộ các Đảng dân chủ xã hội ở nhiều
nước, cuộc đấu tranh trong nội bộ các đảng này là ở lại Quốc tế II hay gia nhập Quốc
tế III.
Tháng 7/1920, sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa của Lênin đăng trên báo Luymanitê đã tạo ra sự chuyển biến sâu sắc trong nhận
thức của Người. Cụ thể:
• Từ nhận thức về quan hệ áp bức dân tộc đến nhận thức về quan hệ áp bức giai
cấp và mâu thuẫn giữa giai cấp vơ sản với giai cấp tư sản.
• Từ nhận thức về quyền độc lập tự do của các dân tộc bị áp bức, Người đi tới
nhận thức về quyền tự do dân chủ của con người, về vấn đề giải phóng con người và
giải phóng lồi người.
• Xác định kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động quốc tế là chủ nghĩa đế quốc, Người thấy rõ giai cấp vô sản và nhân
dân lao động ở các nước chính quốc là bạn đồng minh của các dân tộc thuộc địa trong
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc..
Từ đó, Người tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc: Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Từ những nhận thức cực kỳ quan trọng này. Cuối tháng 12/1920, tại Đại hội
Đảng xã hội Pháp họp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc Đảng xã hội
Pháp gia nhập Quốc tế III. Người trở thành một trong những người sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp và là người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Sự kiện này đánh dấu bước
ngoặt trong cuộc đời cách mạng của Nguyễn Ái Quốc với 3 dấu ấn: từ chủ nghĩa yêu
11


nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin; tìm thấy con đường giải phóng dân tộc; từ người
yêu nước trở thành người cộng sản.

2.2. Hồ Chí Minh nghiên cứu nắm vững đặc điểm Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã
hội:

Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX là một xã hội phong kiến, nông nghiệp lạc hậu.
Phong trào yêu nước chống Pháp phát triển mạnh mẽ với các xu hướng khác nhau và
sự bế tắc về đường lối cách mạng.
• Phong trào của các sỹ phu yêu nước theo ý thức hệ phong kiến: với tư tưởng
tôn quân, chưa tin tưởng vào nhân dân. Mục tiêu đánh Pháp để phục hồi chế độ phong
kiến: Tiêu biểu như Trương Định, Nguyễn Trung Trực ở Miền Nam, Phan Đình Phùng
ở Miền Trung, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích ở Miền Bắc... Sự thất bại
của các cuộc khởi nghĩa này về bản chất thể hiện sự bất lực, sự lỗi thời của hệ tư tưởng
phong kiến trước nhiệm vụ lịch sử.
• Sang đầu thế kỷ XX: phong trào yêu nước chuyển dần sang xu hướng dân chủ
tư sản với các phong trào Đông du, Duy tân, Đông kinh nghĩa thục... nổi lên mạnh mẽ
và rộng khắp nhưng nhanh chóng thất bại vì đường lối cách mạng không rõ ràng,
không huy động được mọi tầng lớp nhân dân, tư tưởng cầu viện nước ngoài, khơng
độc lập tự chủ...
Tóm lại: Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là xã hội thuộc địa nửa
phong kiến với hai mâu thuẫn cơ bản:
• Một là: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược
và tay sai.
• Hai là: mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam mà chủ yếu là nông dân với giai cấp
địa chủ phong kiến.
Để giải quyết các mâu thuẫn khách quan đó, các phong trào yêu nước đã nổ ra
liên tiếp nhưng đều không thành công. Sự thất bại của phong trào yêu nước nói lên sự
khủng hoảng về đường lối chính trị ở Việt Nam, do đó, địi hỏi khách quan của thực
tiễn lúc này là phải tìm kiếm một đường lối mới để giải phóng dân tộc Việt Nam. Hồ
Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước là một tất yếu lịch sử.

12


III. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá

độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
1. Tính chất, đặc điểm và nhiệm vụ của thời kì q độ:
1.1. Tính chất của thời kì quá độ:
Đây là thời kì cải biến sâu sắc nhất nhưng phức tạp, lâu dài, khó khăn, gian khổ.
Trung thành với lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững thực tiễn đặc điểm
Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội thuộc địa nửa phong kiến sang
xã hội xã hội chủ nghĩa. Sau khi hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội, không kinh qua giai đoạn Tư bản chủ nghĩa, bởi vậy cách mạng
nước ta tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta thuộc loại hình quá độ gián tiếp.
Quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội đã đặt ra cho chúng ta biết bao khó khăn
phức tạp, khiến chúng ta khơng thể chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn.
Theo Hồ Chí Minh, thời kì q độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời cải
biến xã hội cũ thành xã hội mới – một xã hội hồn tồn chưa từng có trong lịch sử dân
tộc ta. Thời kỳ dân tộc ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và
thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm; phải xóa bỏ giai cấp bóc lột; phải biến một
nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống vui tươi hạnh phúc
trong điều kiện nước ta là một nước nơng nghiệp lạc hậu, mới thốt khỏi ách thực dân,
phong kiến nên đây là công cuộc biến đổi sâu sắc nhất, khó khăn nhất, thậm chí cịn
phức tạp, khó khăn hơn cả việc đánh giặc, vì vậy, tiến lên chủ nghĩa xã hội không thể
một sớm một chiều, không thể làm mau được mà phải làm dần dần.

1.2. Đặc điểm của thời kì quá độ:
Đặc điểm lớn nhất của thời kì quá độ ở Việt Nam là từ một nước nông nghiệp lạc
hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa.
Bước vào thời kì q độ, Việt Nam cũng có những đặc điểm giống như đặc điểm
của các nước khác khi bước vào thời kì này như sự tồn tại đan xen giữa các yếu tố của
xã hội cũ bên cạnh những yếu tố của xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống;

13


là giai đoạn đầu, khi các yếu tố của xã hội cũ cịn cụm lại thành một thế lực thì có khi
nó cịn chiến thắng những yếu tố của xã hội mới vừa xuất hiện, v.v...; song, từ thực tế
của xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận thấy “đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ
quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải
kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Cùng với những đặc điểm khác và
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, đặc điểm này quy định nhiệm vụ của dân tộc ta trong
thời kỳ quá độ.
Đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã
được Hồ Chí Minh chỉ rõ. Theo Người, đặc điểm to lớn nhất là từ một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển Tư
bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
và làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn cơ bản nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt nam là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước và thực
trạng kinh tế xã hội quá thấp kém của ta. Do đó “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một
cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”, bởi vì “chúng ta phải xây
dựng một xã hội hồn tồn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng
ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ hàng
ngàn năm... biến nước ta từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp”.

1.3. Nhiệm vụ của thời kì q độ:
Đấu tranh cải tạo, xóa bỏ tàn tích của chế độ xã hội cũ, xây dựng các yếu tố mới
phù hợp với quy luật tiến lên chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống,
trong đó :
Về chính trị, phải xây dựng được chế độ dân chủ vì đây là bản chất của chủ nghĩa
xã hội. Muốn xây dựng được chế độ này, theo Hồ Chí Minh, phải chống tất cả các biểu
hiện của chủ nghĩa cá nhân, trước hết ở trong Đảng, trong bộ máy chính quyền từ cấp
cơ sở đến Trung ương đồng thời phải bồi dưỡng, giáo dục để nhân dân có tri thức, có

năng lực làm chế độ xã hội.
Về kinh tế, trong bối cảnh nền kinh tế của nước ta nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu,
Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của thời kì quá độ là phải cải tạo nền
kinh tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại. Đây là
14


quá trình xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Giữa cải tạo và
xây dựng thì xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài và phải luôn gắn với việc thực
hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Về văn hóa, phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nơ dịch của
văn hóa đế quốc; đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc
và hấp thụ những cái mới của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới để xây dựng một nền
văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng.
Về các quan hệ xã hội, phải thay đổi triệt để những quan hệ cũ đã trở thành thói
quen trong lối sống, nếp sống của con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân
đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn để mỗi người có điều kiện cải thiện đời
sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình trong sự hài
hịa với đời sống chung, với lợi ích chung của tập thể.

2. Một số nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ:
2.1. Mọi tư tưởng, hành động phải được thực hiện trên nền tảng chủ nghĩa Mác
– Lênin:
Theo quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng Mác – Lênin là khoa học về
cách mạng của quần chúng bị áp bức và bóc lột, là khoa học về sự thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội ở tất cả các nước, khoa học về xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Theo Người,
cuộc cách mạng mà giai cấp công nhân thực hiện chỉ có thể đạt được thành tựu trên cơ
sở trung thành sắt đá với nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ đó, Người ln
nhắc nhở, khuyến khích, động viên mọi người không ngừng “học lập trường, quan
điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin”, phải “cụ thể hóa chủ nghĩa Mác

Lênin cho thích hợp điều kiện hồn cảnh từng lúc và từng nơi”.

2.2. Phải giữ vững độc lập dân tộc:
Tự do cho đồng bào và độc lập dân tộc là mục đích mà Hồ Chí Minh ra đi tìm
đường cứu nước.
“Tồn thể dân tộc Việt Nam ta quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng
và của cải để giữ vững nền tự do và độc lập ấy” là lời chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
15


định khi nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời. Và ngay cả điều mong muốn cuối
cùng khi chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần cũng vẫn là mong nước nhà được thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Trong thâm tâm của Người thì một dân tộc “Khơng có
gì q hơn là độc lập, tự do”. Độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết của mỗi dân tộc;
còn đặt trong mối quan hệ với chủ nghĩa xã hội thì độc lập là điều kiện tiên quyết để
xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc
lập dân tộc trường tồn với đầy đủ ý nghĩa chân chính của nó.

2.3. Phải đồn kết, học tập kinh nghiệm của các nước anh em:
Xác định “Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của lực lượng hịa bình, dân chủ,
xã hội chủ nghĩa trên thế giới”, Hồ Chí Minh quan niệm “sự đoàn kết giữa lực lượng
các nước xã hội chủ nghĩa và sự đồn kết nhất trí giữa các Đảng cộng sản và cơng
nhân các nước có ý nghĩa quan trọng bậc nhất”.
Cách mạng Việt Nam phải học hỏi kinh nghiệm các nước anh em song không
được áp đặt kinh nghiệm ấy một cách máy móc mà cần vận dụng một cách sáng tạo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “ta khơng hề giống Liên Xơ vì Liên Xơ có
phong tục tập qn khác, có lịch sử địa lý khác,… ta có thể đi con đường khác để tiến
lên xã hội chủ nghĩa” mặc dù chúng ta có thể dễ dàng thấy được Liên Xô đã đặt rất
nhiều thành tựu khi xây dựng xã hội chủ nghĩa.


16


2.4. Xây phải đi đơi với chống:
Theo Hồ Chí Minh, muốn đạt được và giữ được thành quả của cách mạng thì
cùng với việc xây dựng các lĩnh vực của đời sống xã hội phải chống lại mọi hình thức
của các thế lực cản trở, phá hoại sự phát triển của cách mạng.
Người căn dặn: “đối với kẻ địch phải ln tỉnh táo, giữ vững lập trường, quyết
khơng vì hồn cảnh hịa bình mà mất cảnh giác, phải ln sẵn sàng đập tan mọi âm
mưu độc ác của kẻ địch, bảo vệ thành quả của cách mạng, bảo vệ hòa bình của nhân
dân”. Phải chống lại “căn bệnh” “Nghe những lời bình luận khơng đúng cũng làm
thinh, khơng biện bác,… Ai nói sao, ai làm gì cũng mặc kệ”. “Phải thay đổi triệt để các
thói quen, nếp sống, ý nghĩ và thành kiến gốc rễ sâu xa ngàn năm” - đối với tàn dư của
xã hội cũ.
Đối với mỗi cá nhân phải đánh thắng kẻ địch bên trong chính mình là chủ nghĩa
cá nhân bởi chủ nghĩa cá nhân như một loại vi trùng độc hại, sản sinh ra bệnh tham
lam, bệnh kiêu ngạo, bệnh háo danh, bệnh vô tổ chức, vô kỷ luật,… - những bệnh
không chỉ làm hại đến cá nhân mà còn làm hại đến nhân dân và tổ chức Đảng.

IV. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá
độ lên chủ nghĩa xã hội vào công cuộc mới hiện nay:
1. Kiên định mục tiêu và con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh đã xác định:
Tiến tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là quá trình hợp quy luật, phù
hợp với khát vọng của nhân dân Việt Nam, là sự lựa chọn đúng đắn của Hồ Chí Minh
và sự khẳng định của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng
được khát vọng của toàn dân tộc: độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, cơm no
áo ấm cho mọi người dân Việt Nam. Kể từ khi nước nhà hịa bình, độc lập, thống nhất,
non sơng liền một dải đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành 9 kỳ Đại hội.
Trong suốt hành trình đó, đặc biệt là sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất
nước, độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội được Đảng ta, nhân dân ta kiên định

thực hiện, bất chấp sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch, bất chấp sự sụp
đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Nhiệm vụ xây dựng chủ
17


nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa luôn được thấm nhuần trong tư tưởng
và hành động của mỗi cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân Việt Nam; trở thành bài
học đầu tiên được Đảng rút ra tại Đại hội lần thứ VII (1991), đó là: “Nắm vững ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt trong quá trình cách
mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc”. Tiếp đó, kiên định
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII nhấn mạnh:
“Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Xét
trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ
bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội Đảng lần thứ IX cũng
tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam
theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh”. Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng khẳng định nhận
thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
ngày càng sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng cơ bản; đồng thời, nhấn mạnh bài học số một là:
Trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) tại Đại hội XI của Đảng (2011) đã rút ra 5 bài học cơ bản
và tiếp tục nhấn mạnh bài học đầu tiên là phải “nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội – ngọn cờ quang vinh mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế
hệ hôm nay và các thế hệ mai sau”. Cương lĩnh nêu lên những nội dung cơ bản của
con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; bổ sung, phát triển những đặc trưng
của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng với 8 đặc trưng cơ bản, 8
phương hướng cơ bản:

- Một là, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
- Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
18


- Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội.
- Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hồ bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
- Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
- Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
- Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng
nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát
triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng
xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hố, thực
hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ;... Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí. Tất cả
những phương hướng và mối quan hệ nêu trên đã khẳng định rằng, chỉ có chủ nghĩa xã
hội mới bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc và là hai mặt không thể tách rời của
con đường phát triển đất nước, hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Sự thống nhất giữa tính kiên định và đổi mới, khoa học và cách
mạng, trí tuệ và tình cảm, hiện tại và tương lai của Cương lĩnh là định hướng cho cả

dân tộc thực hiện mục tiêu và con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh đã xác định.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng cơ sở, nền
tảng cho phát triển của đất nước trên tất cả các lĩnh vực. Đồng thời, trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta vẫn luôn kiên định độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, không chỉ tạo cơ sở lý luận và
thực tiễn cho con đường phát triển của cách mạng Việt Nam mà còn là điều kiện tiên
quyết để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, nhân
nguồn sức mạnh tinh thần, thống nhất về tư tưởng, ý chí, hành động của nhân dân ta,
19


đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, về những thành tựu trong công cuộc đổi mới đã và đang trở thành
hiện thực sinh động ở Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.

2. Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa:
Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội mà toàn Đảng, toàn dân đã, đang và sẽ tiếp
tục xây dựng. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước ta
luôn hướng tới, quyết tâm biến nó thành hiện thực. Đại hội XI của Đảng đã khẳng định
mục tiêu: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ...”. Trong đó có hai
điểm mới quan trọng được bổ sung và phát triển so với Nghị quyết Đại hội X của
Đảng: Một là, đưa cụm từ dân chủ lên trước cụm từ công bằng, văn minh. Điều đó cho
thấy Đảng ta đã xác định rõ vị trí của dân chủ và thực hành dân chủ trong q trình
phát triển xã hội. Để có xã hội dân giàu, nước mạnh, trước hết phải bảo đảm trong xã
hội có nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và phải thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa một
cách thực chất, vì đó là điều kiện tiên quyết, là cơ sở thiết yếu để xây dựng xã hội công
bằng, văn minh. Hai là, khẳng định đặc trưng quan trọng của xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta đang xây dựng là xã hội do nhân dân làm chủ, thể hiện rõ bản chất của
chế độ xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Trong tư duy lý luận của Đảng ta, vấn đề không dừng lại ở quan niệm về dân chủ
xã hội chủ nghĩa, mà điều quan trọng hơn là tiếp tục phát huy sức mạnh dân chủ xã hội
chủ nghĩa, nghĩa là phải tạo được bước chuyển căn bản từ nhận thức đến hành động.
Để đạt được mục tiêu xây dựng xã hội thực sự dân chủ, Đại hội XII xác định rõ: “Tiếp
tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra
những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân”. Phương thức, cơ chế
thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua
hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp,
dân chủ đại diện, mà trọng tâm là thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, như văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra. Dưới
20


nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân là chủ thể của quyền lực, là người thực hiện
quyền lực; đa số nhân dân lao động có quyền và được bảo đảm các điều kiện cần thiết
để tham gia các hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Nhằm phát huy sức mạnh
dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đại hội Đảng xác định:
- Thứ nhất, thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện.
- Thứ hai, thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”.
- Thứ ba, để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân
chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội.
- Thứ tư, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải đi liền với việc đề cao
trách nhiệm công dân và bảo đảm giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội, không được tách
rời, đối lập giữa thực hành dân chủ và kỷ cương, pháp luật.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng
cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao

đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý
nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an tồn
xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân”.
Điều đó khẳng định bản chất dân chủ thực sự của Nhà nước ta.

3. Củng cố, kiện toàn, phát huy sức mạnh và hiệu quả hoạt động của tồn bộ
hệ thống chính trị
Đặc điểm của hệ thống chính trị ở Việt Nam là tính nhất nguyên và tính thống
nhất: Nhất nguyên về chính trị, về tổ chức, về tư tưởng; Thống nhất dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam, thống nhất về mục tiêu chính trị. Các tổ chức trong hệ
thống chính trị ở Việt Nam có tính chất, vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ khác nhau,
phương thức hoạt động khác nhau nhưng gắn bó mật thiết với nhau, tạo nên một thể
thống nhất, phát huy sức mạnh để xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm dân chủ được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực. Nhân dân thực hiện quyền làm

21


chủ thông qua hoạt động của nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân
chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí
tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống
đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của
Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ
nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái.
Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực,
có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; quan tâm bồi dưỡng, đào
tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Nguồn lực của nhân dân, của con người Việt Nam bao gồm trí tuệ, tài năng, sức

lao động, của cải thật to lớn. Để phát huy tốt sức mạnh của toàn dân tộc nhằm xây
dựng và phát triển đất nước cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
- Tin dân, dựa vào dân, xác lập quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế, làm cho
chế độ dân chủ được thực hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người, nhất là ở
địa phương, cơ sở, làm cho dân chủ thật sự trở thành động lực cho sự phát triển xã hội.
- Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực
- Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, trên cơ
sở lấy liên minh cơng – nơng – tri thức làm nịng cốt, tạo nên sự đồng thuận xã hội
vững chắc vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Như vậy, củng cố, kiện toàn, phát huy sức mạnh và hiệu quả hoạt động của tồn
bộ hệ thống chính trị thực chất là để nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện,
quyền làm chủ của nhân dân được phát huy đầy đủ. Muốn vậy, cần xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam cầm quyền, một Đảng “đạo đức, văn minh”. Cán bộ, đảng viên

22


gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là người hướng dẫn, lãnh đạo nhân dân, vừa hết
lòng hết sức, phục vụ nhân dân, gương mẫu trong mọi việc.

4. Đấu tranh chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống và ‘’tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ:
Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam thu được nhiều thành tựu vĩ đại trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và trong sự
nghiệp đổi mới. Song, chỉ trong một thời gian rất ngắn so với lịch sử của Đảng, tình
trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, Đảng viên đã xuất hiện và trở nên nghiêm trọng. Nếu không ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thối này sẽ dẫn đến những tổn thất khơn lường đối với vận mệnh của đất nước,
của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong
giai đoạn hiện nay là phải tích cực thực hiện, thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của
Đảng, trong đó các nghị quyết về xây dựng Đảng giữ vị trí cực kì quan trọng vì xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt trong sự nghiệp đổi mới.
Bằng các giải pháp thiết thực, cụ thể, hình thành một đội ngũ cán bộ liêm khiết,
tận trung với nước, tận hiếu với dân; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy chính quyền
những “ơng quan cách mạng”, lạm dụng quyền lực của dân để mưu cầu lợi ích riêng;
phát huy vai trò của nhân dân trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Hồ Chí Minh chưa sử dụng những khái niệm như “suy thoái” tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa’’ nhưng Người đã đề cập đến nhiều
“căn bệnh” biểu hiện của nó và đã cảnh báo về tác hại của những “căn bệnh” này.
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là những hành
động cụ thể, đặt trong bối cảnh cụ thể mà Đảng tiếp tục thực hiện tư tưởng Hồ Chí
Minh để Đảng xứng đáng là Đảng cầm quyền, thực hiện được nhiệm vụ của Đảng cầm
quyền trong sự nghiệp xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, cơng
23


bằng, dân chủ, văn minh, để giữ vững nền độc lập dân tộc trên con đường quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội.
Tại Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII), Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định:
“Trong Đảng có một bộ phận giảm sút về ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao
động, mất lịng tin, trong đó một số chịu ảnh hưởng của khuynh hướng cơ hội, xét lại,
muốn đưa đất nước đi vào con đường khác; thậm chí đã có người phản bội, đầu hàng.
Khơng ít cán bộ, đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân thực dụng cuốn hút, trở nên thối hóa,
hư hỏng. Tệ nạn tham nhũng, hối lộ, bn lậu, ăn chơi, phung phí tài sản của nhân dân
rất nghiêm trọng và kéo dài”.
Đấu tranh chống suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống được xem là

giải pháp trọng yếu ngăn ngừa, giảm thiểu tình trạng tham nhũng ở nước ta hiện nay.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó, cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp, từ đổi mới
công tác lý luận, tăng cường hiệu quả giáo dục chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ,
đảng viên và quần chúng đến đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, tăng cường bảo vệ
chính trị nội bộ; tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước cùng với thực hiện dân chủ
xã hội chủ nghĩa; coi trọng công tác thanh tra, kiểm tra trong Đảng và Nhà nước, xử lý
nghiêm minh, kịp thời những vi phạm; kịp thời đấu tranh với những tư tưởng, quan
điểm sai trái, thù địch.

24


KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận, ta thấy rằng đây là một sản phẩm sáng tạo của trí tuệ Hồ Chí
Minh trên cơ sở kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống dân tộc, tiếp thu kinh
nghiệm cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới, trung thành và vận dụng sáng tạo lý
luận Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào thực
tiễn Việt Nam. Đây là cống hiến lớn của Người cả trên phương diện lý luận và thực
tiễn chỉ đạo cách mạng; là một trong các nhân tố có vai trị quan trọng, quyết định
thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chúng ta đã có cái nhìn tồn diện nhất về tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đầu tiên về tính chất, đây là thời kỳ cải biến sâu
sắc nhất nhưng phức tạp, lâu dài, khó khăn, gian khổ. Về đặc điểm, từ một nước nông
nghiệp lạc hậu thẳng tiến lên chủ nghĩa xã hội, không trải qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa. Tiếp đó đã xác định được nhiệm vụ của thời kì quá độ là đấu tranh cải
tạo, xóa bỏ tàn tích của chế độ xã hội cũ, xây dựng các yếu tố mới phù hợp với quy
luật tiến lên chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực đời sống như: kinh tế, chính trị,
văn hóa, các quan hệ xã hội. Đồng thời cũng nêu ra một số nguyên tắc xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ: mọi tư tưởng, hành động phải được thực hiện trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin; phải giữ vững độc lập dân tộc; phải đoàn kết, học tập

kinh nghiệm của các nước anh em và xây phải đi đôi với chống.
Hiện nay, Đảng và nhà nước ta vẫn đang vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam: kiên
định mục tiêu và con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh đã xác định; phát huy sức
mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa và củng cố, kiện toàn, phát huy sức mạnh và hiệu quả
hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị. Nhưng bên cạnh đó, tình trạng suy thối về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một số bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
đã xuất hiện và trở nên nghiêm trọng. Vậy nên cần phải tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

25


×