Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

BTN-TMQT-NHOM04-N04TL1 (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (636.88 KB, 15 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
____________________

BÀI TẬP NHĨM
MƠN: THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

Đề bài
Trách nhiệm BTTH trong trường hợp vi phạm HĐ mua
bán hàng hóa quốc tế theo quy định của CISG và án lệ
điển hình

Nhóm

04

Lớp

N04.TL1

Hà Nội, 2021


BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA VÀ
KẾT QUẢ THAM GIA LÀM BÀI TẬP NHĨM
Nhóm trưởng: Nguyễn Thị Thu Trang
Nhóm số: 04
Lớp: CNBB20M-1-21 (N04)

Khóa: ............. K44........


Tổng số thành viên của nhóm: 07
Có mặt: 07
Vắng mặt: 00

Có lý do: …………………

Khơng lý do: ......................

Nội dung: Phân công làm bài tập với đề bài: “Trách nhiệm BTTH trong trường hợp vi

phạm HĐ mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của CISG và án lệ điển hình”
Mơn học: Luật Thương mại quốc tế
Xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia của từng sinh viên trong việc thực hiện bài
tập nhóm số. Kết quả như sau:
Đánh giá
của SV
STT

Họ và tên

Mã SV

A

1
2
3
4
5
6

7

440723
440724
440725
440726
440727
440728
440729

Lê Ngọc
Lê Thị Thu
Lê Đức
Nguyễn Tiến
Nguyễn Thị Thu
Nguyễn Thị Khánh
Hồ Văn Trường

Kết quả điểm bài viết:

Ánh
Trang
Thắng
Mạnh
Trang
Hoà
Sơn

B


C

Đánh giá
của GV

SV

tên Điểm
(số)








Chữ ký nhóm trưởng

-

Giáo viên chấm thứ nhất

Trang

-

Giáo viên chấm thứ hai

Nguyễn Thị Thu Trang


Kết quả điểm thuyết trình
-

Giáo viên cho thuyết trình

Điểm kết luận cuối cùng
-

Giáo viên đánh giá cuối cùng

Điểm
(chữ)

GV

tên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1
NỘI DUNG ...............................................................................................................1
I. Khái quát chung về vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động mua
bán hàng hóa quốc tế. ............................................................................................................... 1
1. Khái niệm, phân loại vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ........................... 1
1.1. Khái niệm ..................................................................................................................... 1
1.2. Phân loại ...................................................................................................................... 1
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa. ............. 2
2.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại. ............................................................ 2
2.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại. .............................................................. 2

2. 3. Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại .................................................. 3
2.4. Chế tài bồi thường thiệt hại ........................................................................................ 3
II. Án lệ điển hình về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ..................................................... 4
1.

Tóm tắt án lệ ............................................................................................................... 4
1.1. Vấn đề pháp lý ............................................................................................................. 5
1.2. Sự kiện pháp lý ............................................................................................................ 5

2.

Luật áp dụng ............................................................................................................... 5

3.

Tóm tắt lập luận của nguyên đơn, bị đơn, cơ quan tài phán .................................. 6
3.1. Lập luận của nguyên đơn ........................................................................................... 6
3.2. Lập luận của bị đơn .................................................................................................... 6
3.3. Lập luận của cơ quan tài phán .................................................................................. 7
3.4. Kết luận của cơ quan tài phán ................................................................................... 7

III.

Đánh giá, bình luận của nhóm ...................................................................................... 7

1. Nhận định về phán quyết của trọng tài .......................................................................... 7
2. Một số lưu ý dành cho doanh nghiệp Việt Nam ........................................................... 10

KẾT LUẬN .............................................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................



MỞ ĐẦU
Công ước Viên năm 1980 (CISG) về hợp đồng mua bán quốc tế là một trong
những công ước quốc tế về thương mại được phê chuẩn và áp dụng rộng rãi nhất hiện
nay, công ước này đã thống nhất hóa và khắc phục được nhiều mâu thuẫn giữa các hệ
thống pháp luật khác nhau trên thế giới, đóng vai trò giải quyết xung đột pháp luật trong
thương mại quốc tế, đem lại sự công bằng cho các thương vụ mua bán. Để tìm hiểu rõ
hơn Cơng ước này, nhóm chúng em xin chọn đề “Trách nhiệm BTTH trong trường hợp
vi phạm HĐ mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của CISG và án lệ điển hình”
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt
động mua bán hàng hóa quốc tế.
1. Khái niệm, phân loại vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.1. Khái niệm
Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hành vi của một bên không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo các điều kiện hợp đồng. Điều kiện hợp
đồng là bất kỳ điều kiện nào đã được các bên thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng hoặc được
xác định theo pháp luật quốc gia, pháp luật quốc tế hoặc tập quán quốc tế. Mọi sai lệch so
với các điều kiện này đều được coi là vi phạm hợp đồng. Vi phạm hợp đồng là căn cứ
pháp lý đầu tiên để áp dụng đối với bồi thường thiệt hại.
1.2. Phân loại
Cho đến nay có nhiều quan điểm khác nhau về việc phân loại vi phạm hợp đồng.
Căn cứ thực hiện nghĩa vụ hợp đồng có thể chia vi phạm hợp đồng do: từ chối
thực hiện nghĩa vụ; khơng có khả năng thực hiện hợp đồng và thực hiện không đầy đủ
các nghĩa vụ hợp đồng.
Căn cứ tính chất vi phạm nghĩa vụ hợp đồng: Vi phạm hợp đồng được chia thành
vi phạm cơ bản và vi phạm không cơ bản. Vi phạm cơ bản là vi phạm hợp đồng của một
bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia khơng đạt được mục đích của việc
giao kết hợp đồng. Vi phạm không cơ bản là vi phạm bên bị vi phạm không được áp

dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ
hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Căn cứ thời hạn thực hiện hợp đồng có thể chia vi phạm thực tế và vi phạm trước
thời hạn. Vi phạm trước thời hạn là vi phạm hợp đồng mà khi chưa đến hạn thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng, một bên có đủ cơ sở để tin tưởng hoặc chứng minh bên kia sẽ không
1


thực hiện hợp đồng và gây thiệt hại cho mình. Vi phạm thực tế là khi đến thời hạn thực
hiện hợp đồng, một trong các bên có thể khơng thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ hợp đồng, tức là vi phạm hợp đồng trên thực tế, nếu gây ra thiệt hại thì phải chịu
trách nhiệm bồi thường.
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa.
2.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng mua bán quốc tế là một
loại trách nhiệm dân sự, phát sinh kể từ lúc một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng đã gây
cho bên kia một sự thiệt hại, theo đó bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi
phạm của mình gây ra cho bên kia. Tuy nhiên các khoản thiệt hại đòi bồi thường phải
nằm trong phạm vi được pháp luật ghi nhận. Hình thức trách nhiệm này khơng nhằm duy
trì hay chấm dứt hợp đồng mà áp dụng ngay cả khi hợp đồng được tiếp tục thực hiện hay
chấm dứt.
2.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
phát sinh trên cơ sở bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại phải có quan hệ hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế có hiệu lực.
Theo lý thuyết về quan hệ hợp đồng, chủ thể gây thiệt hại phải gánh chịu trách
nhiệm trước chủ thể bị thiệt hại theo giao kết hợp đồng và theo quy định pháp luật liên
quan. Trường hợp có nhiều chủ thể trong quan hệ hợp đồng gây thiệt hại, các chủ thể đó
chịu trách nhiệm riêng trừ khi các chủ thể này có thỏa thuận trước và hợp pháp. Trừ
trường hợp các bên trong hợp đồng có thỏa thuận khác, bên gây thiệt hại bồi thường thiệt

xong cho bên bị thiệt hại bên gây thiệt hại vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình
theo quy định của hợp đồng.
Trách nhiệm trong hợp đồng gắn liền với nghĩa vụ mà các chủ thể đã cam kết khi
giao kết hợp đồng. Vi phạm hợp đồng là vi phạm các nghĩa vụ mà các chủ thể trong hợp
đồng đã cam kết, nếu vi phạm đó gây thiệt hại thì bên gây thiệt hại phải có trách nhiệm
bồi thường thiệt hại cho bên bị thiệt hại, trừ trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do các bên có thỏa thuận hoặc trong trường hợp pháp luật quy định bên gây thiệt
hại được miễn trách nhiệm bồi thường như trường hợp bất khả kháng, thực hiện quyết
định của cơ quan có thẩm quyền mà các bên không thể biết vào thời điểm giao kết hợp
đồng. Thiệt hại được bồi thường là thiệt hại vật chất trực tiếp, thiệt hại tinh thần và những
thiệt hại mà các bên có thể tiên liệu được khi giao kết hợp đồng. Trong trách nhiệm bồi

2


thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng yếu tố có lỗi là bắt buộc nhưng lỗi ở đây được suy
đoán.
2. 3. Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Về nguyên tắc, bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mà gây thiệt hại cho bên kia thì
phải bồi thường thiệt hại. Pháp luật nhiều quốc gia đều thừa nhận chế tài bồi thường thiệt
hại trong hợp đồng được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng: Biểu hiện cụ thể của hành vi vi phạm hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế là việc khơng thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa
vụ của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Vi phạm hợp đồng khơng chỉ là vi phạm
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mà còn là vi phạm nghĩa vụ theo quy định của pháp luật
- Có thiệt hại xảy ra: Thiệt hại phát sinh do hành vi vi phạm hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế do các bên thỏa thuận trong hợp đồng và theo quy định của pháp luật.
Thiệt hại do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế gây ra là căn cứ bắt buộc phải
có khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại.
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại: Mối hệ nhân quả

giữa hành vi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc quan tế và thiệt hại được xác
định khi hành vi vi phạm và thiệt hại có mối quan hệ nội tại, tất yếu. Hành vi vi phạm là
nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Bên vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
chỉ phải bồi thường thiệt hại khi thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi vi phạm
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
- Có lỗi của bên vi phạm: Lỗi được hiểu là trạng thái tâm lý và mức độ nhận thức
của một người đối với hành vi của họ và hậu quả của hành vi đó. Lỗi được đặt ra đối với
chủ thể là cá nhân, đối với chủ thể là tổ chức lỗi của tổ chức đặt ra đối với lỗi của người
đại diện cho tổ chức đã giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
2.4. Chế tài bồi thường thiệt hại
Chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được
xem xét trên các khía cạnh sau:
- Phạm vi thiệt hại được đền bù: Khi xác định thiệt hại, pháp luật các quốc gia và
quốc tế đều giới hạn phạm vi thiệt hại được đền bù. Công ước CISG quy định bên vi
phạm hợp đồng phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên bị vi phạm.
- Thiệt hại ước tính: Thiệt hại ước tính được xác lập tại thời điểm giao kết hợp
đồng, tức là trước khi có thiệt hại thực tế xảy ra. Thiệt hại ước tính được các bên thỏa
thuận về một thiệt hại có thể xảy ra nhưng không được quá lớn so với thiệt hại thực tế
xảy ra. Thiệt hại ước tính khơng phải là phạt do vi phạm hợp đồng.

3


- Bồi thường chênh lệch giá: Thiệt hại phát sinh khi hợp đồng mua bán hàng hóa
bị hủy và bên bị vi phạm đã ký hợp đồng thay thế hoặc không ký hợp đồng thay thế.
Trường hợp thiệt hại phát sinh khi hợp đồng thay thế có giá trị cao hơn hợp đồng bị hủy
bên vi phạm hợp đồng phải bồi thường khoản chênh lệch giữa giá trị hợp đồng bị hủy và
hợp đồng thay thế cho bên bị vi phạm. Trường hợp bên bị vi phạm không ký hợp đồng
thay thế, bên vi phạm bồi thường chênh lệch giữa giá hợp đồng bị hủy và giá thị trường
hiện hành cao hơn giá hợp đồng đã bị hủy.

- Tiền lãi do chậm thanh toán: Tiền lãi phát sinh khi một khoản tiền chưa được
thanh toán đúng thời hạn theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật.
Công ước CISG không xác định lãi suất cần áp dụng Khoản 9, Điều 78. Trong khi đó,
Bộ nguyên tắc PICC năm 2016 lại có quy định tiền lãi do chậm thanh tốn, theo đó lãi
suất trung bình cho vay ngắn hạn của ngân hàng được áp dụng cho đồng tiền thanh toán
của hợp đồng Khoản 23, Điều 7.4.9.
- Nghĩa vụ chứng minh thiệt hại: Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại trong quan hệ
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại. Về vấn đề
chứng minh thiệt hại, Công ước CISG không quy định về tính xác thực của thiệt hại và
cũng không xác định mức độ mà bên bị thiệt hại cần chứng minh về tổn thất được đền bù
- Tiền tệ tính tốn thiệt hại: Tiền tệ tính tốn thiệt hại khơng đồng nhất với tiền tệ
thanh tốn hàng hóa theo hợp đồng. Thiệt hại phát sinh có nguồn gốc từ các khoản chi
phí và các loại tiền khác nhau trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và cần thống
nhất thiệt hại quy ra một loại đồng tiền căn cứ tỷ giá hối đoái nhằm tránh tranh chấp kéo
dài.
- Nghĩa vụ ngăn chặn, hạn chế thiệt hại: Nghĩa vụ này được bên vi phạm xem xét
khi bên bị vi phạm có yêu cầu bồi thường thiệt hại.
II. Án lệ điển hình về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Án lệ lựa chọn: Án lệ vụ Soinco v. NKAP giải quyết tranh chấp trong hợp đồng
mua bán nhôm giữa người bán Nga và nhóm cơng ty đúc nhơm ở Argentina và Hungary.
1. Tóm tắt án lệ
- Ngun đơn: nhóm cơng ty đúc nhôm ở Achentina và Hungary – Bên bán
- Bị đơn: người bán Nga – Bên mua
- Đối tượng tranh chấp: Hàng hố là nhơm
- Nội dung (Diễn biến vụ tranh chấp):
Từ năm 1991, một người bán Nga (một tổ chức của Chính phủ) ký kết một số hợp
đồng bán nhơm cho một số cơng ty có trụ sở kinh doanh ở Achentina và Hungary. Việc
giao hàng được tiến hành đúng thời hạn cho tới khi công ty người bán chuyển quyền sở
4



hữu cho một công ty tư nhân của Nga. Công ty này ngay lập tức tuyên bố sẽ không tiếp
tục thực hiện việc giao hàng. Trong quá trình trao đổi giữa hai bên sau đó, Bên mua lưu
ý rằng, họ sẽ phải chịu những thiệt hại nặng nề nếu như hàng hố khơng được giao đúng
hạn. Bên bán đưa ra hố đơn theo đó ghi rõ số tiền cụ thể địi bên mua phải thanh tốn
theo nhiều chuyến hàng trước đó. Bên bán cho rằng, việc Bên mua trì hỗn thanh tốn
tiền hàng những lơ hàng trước dẫn tới vi phạm cơ bản nghĩa vụ của Bên mua theo hợp
đồng, do vậy, Bên bán có quyền từ chối thực hiện hợp đồng. Bên mua đề nghị đàm phán
để giải quyết tranh chấp nhưng Bên bán từ chối. Bên mua đã kiện Bên bán ra trọng tài đòi
bồi thường các khoản thiệt hại phát sinh do không giao hàng.
❖ Vấn đề pháp lý và Sự kiện pháp lý
1.1. Vấn đề pháp lý
Tranh chấp xoay quanh việc trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
mua bán nhôm giữa người bán Nga và nhóm cơng ty đúc nhơm ở Argentina và Hungary.
Trong vụ việc trên, các vấn đề pháp ý quan trọng nhất cần được giải quyết chính là việc:
• Bên bán có vi phạm nghĩa vụ ghi trong hợp đồng khơng?
• Bên mua có vi phạm nghĩa vụ thanh tốn theo hợp đồng khơng?
Những vấn đề trên đây là mấu chốt để giải quyết mâu thuẫn giữa hai bên. Từ đó, có thể
xác định được quyền, nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của mỗi bên trong trường hợp này.
1.2. Sự kiện pháp lý
Từ năm 1991, một người bán Nga (một tổ chức của Chính phủ) ký kết một số hợp
đồng bán nhơm cho một số cơng ty có trụ sở kinh doanh ở Achentina và Hungary. Việc
giao hàng được tiến hành đúng thời hạn.
Người bán Nga tiến hành chuyển quyền sở hữu cho một công ty tư nhân của Nga.
Công ty này ngay lập tức tuyên bố sẽ không tiếp tục thực hiện việc giao hàng.
Sau đó hai bên trao đổi, Bên mua chỉ rõ thiệt hại họ phải chịu nếu không giao hàng
đúng hạn. Nhưng, Bên bán cho rằng Bên mua vi phạm hợp đồng vì trì hỗn khơng thanh
tốn tiền các lơ hàng trước.
Bên mua đề nghị đàm phán để giải quyết tranh chấp nhưng Bên bán từ chối.
Bên mua đã kiện Bên bán ra trọng tài địi bồi thường các khoản thiệt hại phát sinh

do khơng giao hàng.
2. Luật áp dụng
Công ước Viên về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (sau đây gọi là CISG) do
Uỷ ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) soạn thảo và được

5


thông qua tại Viên năm 1980. Đây là công ước được chấp nhận trên phạm vi toàn cầu1 và
được xem là cơng ước thành cơng nhất góp phần thúc đẩy thương mại quốc tế. Các điều
khoản được áp dụng như sau: Điều 30, 25, 49, 64, 73 và 74 Công ước viên năm 1980 về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG).
3. Tóm tắt lập luận của nguyên đơn, bị đơn, cơ quan tài phán
3.1. Lập luận của nguyên đơn
Bên phía nguyên đơn cho rằng việc bên bán ngừng giao hàng là vi phạm các quy
định của hợp đồng và sẽ dẫn tới thiệt hại nặng nề cho bên ngun đơn. Khơng có căn cứ
nào cho thấy bên mua khơng có ý định thanh tốn cho bên bán. Bên nguyên đơn cho rằng
bên bị đơn phải áp dụng thời hạn bổ sung như quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 64,
Công ước Viên 1980 và bên bị đơn đã không làm. Trên thực tế, bên bị đơn cho rằng yêu
cầu của bên nguyên đơn về việc thanh toán ngày 5, 13, 19 tháng 1 năm 1995 không rõ
ràng vì bên bị đơn u cầu thanh tốn 6.060.000 đơ la Mỹ, một số tiền theo cách họ nói là
“khoản nợ gần đúng” về “tạm tính sơ bộ”. Vào ngày 3 tháng 6 năm 1994 bên nguyên đơn
đã thanh toán các khoản nợ của họ sau khi giải quyết vấn đề sai lệch với bên bị đơn.
Tháng 1 năm 1995, bên nguyên đơn yêu cầu một cuộc họp để thảo luận về các khoản nợ
mà xuất hiện sai số tuy nhiên bên bị đơn đã từ chối. Điều này không phù hợp với quy
trình giao dịch như quy định tại Khoản 3, Điều 8, Công ước Viên 1980
3.2. Lập luận của bị đơn
Tháng 12 năm 1994, bên bán thực hiện tư nhân hoá và ngừng giao hàng cho
nguyên đơn. Đại diện phía bị đơn cho rằng nghĩa vụ hợp đồng là mua cổ phần ở Arkuz và
Eural là không phù hợp với các quy định của luật Liên bang số 173-FZ quy định về tiền

tệ và kiểm soát hối đoái (luật kiểm sốt tiền tệ) của Nga và do đó nghĩa vụ này vi phạm
quy định của pháp luật Nga. Điều này kéo theo tất cả nghĩa vụ khác của NKAP với
ngun đơn trở nên vơ hiệu, do đó hợp đồng và các giao dịch trở nên vơ hiệu. Phía bị đơn
cho rằng bên nguyên đơn đã vi phạm nghĩa vụ cơ bản của mình vì chưa thanh tốn xong
số hàng hoá được giao theo hợp đồng 60-2. Việc giao hàng lại cần được sự chấp thuận
của hội đồng quản trị mới và căn cứ vào hạn ngạch mà Bộ Kinh tế và Bộ Kinh Tế đối
ngoại. Bên bán đã fax cho bên mua đề nghị bên mua rằng họ có thể mua nhơm từ một
nhà máy khác, bên bán sẽ giúp bên mua, tuy nhiên điều này khơng có trong hợp đồng,
bên mua không đồng ý .

1

Peter Schlechtriem và Ingeborg Schwenzer, Commentary on the UN Convention on the International Sale of
Goods (CISG), Oxford University Press, 2nd edn., (2005), tr.1

6


3.3. Lập luận của cơ quan tài phán
Ủy ban trọng tài cho rằng mặc dù có thể xét đến các quy định về luật kiểm sốt
tiền tệ nhưng nó vẫn chưa có quy định với các hợp đồng ký kết trước ngày luật có hiệu
lực nên khơng thể chắc chắn rằng phía Nga có sự hạn chế nào đối với việc thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng hay không. Bị đơn đã xác nhận với phía ngun đơn rằng khơng có
khó khăn nào trong việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Uỷ ban trọng tài cho rằng không
thể vịn cớ chưa được sự chấp thuận từ hội đồng quản trị để không thực hiện nghĩa vụ của
hợp đồng. Việc bên bán khước từ thiện chí thoả thuận của bên mua ở Hungary và
Milanno để giải quyết các mâu thuẫn là thiếu thiện chí. Trọng tài cho việc từ chối thực
hiện giao lượng nhơm cịn lại được lập luận là do vi phạm cơ bản của người mua (Điều
81 CISG) về nghĩa vụ thanh toán của họ theo hợp đồng giao hàng từng phần (Khoản 2
Điều 73 CISG). Khoản 2 Điều 73 CISG có thể được áp dụng để tuyên bố hủy hợp đồng

đối với vi phạm khi một bên “có lý do xác đáng” để cho rằng có sự vi phạm cơ bản hợp
đồng đối với hợp đồng giao hàng từng phần (lần giao hàng trong tương lai) cơ bản dự
đoán trước. Tuy nhiên khi căn cứ chứng cứ thì khơng có chứng cứ nào thể hiện việc bên
mua khơng thanh tốn hoặc khơng có khả năng thanh tốn.
3.4. Kết luận của cơ quan tài phán
Về việc người bán vi phạm nghĩa vụ giao hàng: Trọng tài phán xét rằng, việc
người bán ngừng giao hàng dẫn tới vi phạm nghĩa vụ của người bán theo điều 30 CISG.
Hơn nữa, người bán lại tuyên bố rõ là từ chối thực hiện nghĩa vụ giao hàng, điều này
khiến cho vi phạm của người bán cấu thành vi phạm cơ bản theo điều 25 CISG và vì
vậy, bên mua được quyền tuyên bố huỷ hợp đồng mà không cần phải gia hạn cho người
bán (theo điều 49.1.a CISG).
Việc người mua vi phạm nghĩa vụ thanh tốn: Trọng tài lập luận rằng, khơng có
chứng cứ chỉ ra việc bên mua khơng thể hay khơng có thiện chí thực hiện nghĩa vụ thanh
tốn của mình, vì trên thực tế, bên mua vẫn có khả năng thanh toán và vẫn muốn đàm
phán với bên bán về việc tiếp tục thực hiện hợp đồng. Hơn nữa, bên bán đã khơng gia hạn
thêm cho việc thanh tốn và vì thế khơng thể địi hủy hợp đồng theo điều 64.1.b CISG.
Trọng tài chỉ thêm rằng, việc bên bán từ chối đàm phán với bên mua đi ngược lại với
nguyên tắc thiện chí. Với những lập luận nói trên, trọng tài ra phán quyết người mua
được đòi bồi thường những thiệt hại cho những tổn thất thực tế của họ (bao gồm chi phí
lưu kho và chi phí tài chính phát sinh do việc ngừng giao hàng), theo điều 74 CISG.
III. Đánh giá, bình luận của nhóm
1. Nhận định về phán quyết của trọng tài

7


Thứ nhất, về việc người bán vi phạm nghĩa vụ giao hàng: Trọng tài phán xét rằng,
việc người bán ngừng giao hàng dẫn tới vi phạm nghĩa vụ của người bán theo điều 30
CISG; chính xác hơn là người bán đã cố ý ngừng giao hàng cho người mua là vi phạm cơ
bản hợp đồng và đây là vi phạm đối với hợp đồng giao hàng từng phần, vì vậy căn cứ

Điều 49, 72 và 73 CISG, người mua có quyền tuyên bố hủy hợp đồng mà không phải ấn
định thêm thời gian để thực hiện). Ở đây, phía người bán đã trì hỗn việc giao đủ lượng
nhơm trong hợp đồng mà hai bên đã ký kết khiến cho việc sản xuất của người mua bị
đình trệ, tính thiệt hại vơ cùng nghiêm trọng khi mà nhơm đóng vai trị rất lớn trong công
nghiệp và ngành xây dựng. Mặc dù người mua đã yêu cầu đàm phán để giải quyết tranh
chấp một cách hòa nhã tuy nhiên người bán vẫn khơng tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của
mình buộc người bán phải đã đưa ra tố tụng trọng tài yêu cầu giao số lượng nhôm theo
quy định trong hợp đồng và những thiệt hại phát sinh do việc giao hàng chậm trễ. Mặt
khác, người bán lại tuyên bố rõ là từ chối thực hiện nghĩa vụ giao hàng, điều này khiến
cho vi phạm của người bán cấu thành vi phạm cơ bản theo điều 25 CISG. Thực tiễn vận
dụng quy định vi phạm cơ bản hợp đồng cho thấy, hành vi vi phạm hợp đồng của người
bán (giao hàng không đúng thời gian) sẽ bị coi là vi phạm cơ bản nếu nó thỏa mãn hai
yếu tố: (i) Trong hợp đồng có ấn định một thời hạn giao hàng cụ thể và người bán đã vi
phạm thời hạn giao hàng cụ thể đó; (ii) Việc vi phạm thời hạn giao hàng cụ thể đã được
ấn định trong hợp đồng gây tổn hại đến lợi ích của người mua. Bên bán hẳn đã tiên liệu
trước rằng nếu không giao lượng nhôm đúng, đủ trong thời gian mà hai bên đã thỏa thuận
thì người mua sẽ bị ảnh hưởng xấu thế nào khi mà bên này khơng dự tính trước điều đó
mà trách nhiệm thuộc về người bán; người mua đã bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi
trên cơ sở hợp đồng nhưng người bán vẫn không giao lượng nhôm họ cần và vì vậy, bên
mua được quyền tuyên bố huỷ hợp đồng mà không cần phải gia hạn cho người bán nếu
việc người bán không thực hiện nghĩa vụ giao hàng phát sinh từ hợp đồng (theo điểm a
khoản 1 Điều 49 CISG).
Thứ hai, về việc người mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán: Ban đầu, người bán cho
rằng việc từ chối thực hiện giao lượng nhơm cịn lại được lập luận là do vi phạm cơ bản
của người mua (Điều 81 CISG) về nghĩa vụ thanh toán của họ theo hợp đồng giao hàng
từng phần (Khoản 2 Điều 73 CISG). Khoản 2 Điều 73 CISG có thể được áp dụng để
tuyên bố hủy hợp đồng đối với vi phạm khi một bên “có lý do xác đáng” để cho rằng có
sự vi phạm cơ bản hợp đồng đối với hợp đồng giao hàng từng phần (lần giao hàng trong
tương lai) cơ bản dự đốn trước. Người bán có quyền tuyên bố hủy hợp đồng, tuy nhiên
họ phải có cơ sở xác đáng để tin rằng người mua sẽ tiếp tục vi phạm cơ bản hợp đồng cho

các lần giao hàng. Đối với hợp đồng giao hàng từng phần, nếu một bên mất đi, một cách
hợp pháp, niềm tin vào việc thực hiện hợp đồng trong tương lai của bên kia và khơng có
8


cơ sở để chờ đợi bên kia tiếp tục thực hiện hợp đồng, tịa án thường cho rằng có vi phạm
cơ bản hợp đồng trong những trường hợp đó. Tuy nhiên, Trọng tài sáng suốt chỉ rằng bên
người bán đã khơng chứng minh được người mua khơng có thiện chí muốn trả tiền hoặc
khơng có khả năng chi trả, chậm thanh tốn mà vẫn nhập lượng nhơm về hoặc vì tâm lý
“thái quá” bởi giao hàng từng đợt mà bên mua chưa trả tiền những lần trước đó. Bên
người mua trì hỗn việc trả tiền có thể thỏa thuận giữa các bên là khi giao xong phần
hàng thì họ sẽ trả luôn một thể chứ không phải họ không muốn trả, điều đó khơng được
lợi lộc gì cho người mua và tất nhiên, nó cũng khơng thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới
người bán vì khơng có dấu hiệu nào cho thấy người mua không thể hoặc không sẵn sàng
thực hiện nghĩa vụ thanh toán của họ (Điểm a khoản 1 Điều 71 CISG), cũng như người
mua đã vi phạm hợp đồng cơ bản dự đoán trước (Điều 72 CISG) và trong bất kỳ trường
hợp nào người bán không ấn định thêm thời gian thanh toán (Điểm b khoản 1 Điều 64
CISG). Ngoài ra, việc người bán từ chối đàm phán một cách hòa nhã với người mua từ
đầu để rồi, cả hai phải kéo nhau ra Tòa án Trọng tài quốc tế để giải quyết tranh chấp đã
không thể hiện thiện chí của người bán, trái với quy trình giao dịch trước đó của các bên,
theo đó các bên đã quen với việc đàm phán lại để giải quyết tranh chấp của họ. Tóm lại,
trong trường hợp này, người mua khơng vi phạm nghĩa vụ thanh tốn và phán quyết của
Tòa án là hợp lý.
Thứ ba, về phán quyết cuối cùng của Hội đồng trọng tài Zurich: Trọng tài ra
phán quyết người mua được đòi bồi thường những thiệt hại cho những tổn thất thực tế
của họ (bao gồm chi phí lưu kho và chi phí tài chính phát sinh do việc ngừng giao hàng),
theo điều 74 CISG; tuy nhiên, tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất
thực tế mà người mua đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng bởi khi thực
hiện hợp đồng, rủi ro trách nhiệm pháp lý không phải là khơng có, khơng có gì đảm bảo
chắc chắn người bán sẽ giao hàng từng phần đúng thời hạn. Khi thực hiện phân tích của

mình, Trọng tài nhận thấy rằng số tiền bồi thường thiệt hại mà người mua yêu cầu nên
được giảm đến mức cần thiết để tính đến việc tăng giá của hàng hóa được cho là đã xảy
ra khi việc giao hàng còn lại được thực hiện. Trên thực tế, đúng là các hợp đồng ký kết
với cơ quan chính phủ (người bán Nga) đã cấp cho người mua với mức giá ưu đãi (tức là
thấp hơn trung bình giá thị trường thế giới), nhưng họ cũng quy định phải thương lượng
lại định kỳ (ba tháng một lần) về mức giá đó. Rõ ràng, việc phán quyết bên bán phải bồi
thường thiệt hại của Trọng tài là có căn cứ bởi những gì là ảnh hưởng đáng kể mà người
mua phải hứng chịu mà người bán khơng chứng minh được rằng việc người mua chậm
thanh tốn gây thiệt hại cho mình thế nào; tuy nhiên, lập luận của người bán khơng phải
là khơng có cơ sở dù sau đó bị Trọng tài bác bỏ. Việc người mua khơng thể địi được số
tiền đúng với hoặc cao hơn tổn thất thực tế cũng hồn tồn có lý khi mà họ nên thấy trước
9


rủi ro trong việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng bên bán có thể xảy ra; mặt khác, vì được
mua với mức giá ưu đãi (thấp hơn trung bình giá thị trường thế giới), tức người mua được
hưởng lợi rất nhiều nên phần nào đó, người bán cũng nên được một phần quyền lợi là
giảm số tiền bồi thường thiệt hại xuống một mức hợp lý. Phán quyết này cũng vừa hợp
tình, hợp lý giữa các bên.
2. Một số lưu ý dành cho doanh nghiệp Việt Nam
Thực tiễn khi tham gia vào các quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế, những sự cố
xảy ra và làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến một trong các bên hoặc cả hai bên khơng cịn
là một vấn đề xa lạ. Trước khi giao kết hợp đồng, các doanh nghiệp nên tìm hiểu kỹ thị
trường, pháp luật và tập quán thương mại của đối tác đồng thời cũng cần nắm rõ các quy
định của CISG khi thực hiện việc mua bán hàng hoá quốc tế, có như vậy, khi thương thảo
hợp đồng, nếu tranh chấp có xảy ra thì mới bảo vệ tốt nhất quyền lợi của mình. Ngồi ra,
các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần lưu ý một số điểm như sau:
Thứ nhất, cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, PICC2 và PECL3, CISG đã lựa
chọn giải pháp cho phép một bên hủy hợp đồng trong trường hợp vi phạm hợp đồng
trước thời hạn, biểu hiện ở việc thấy rõ ràng “một bên không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng

cấu thành vi phạm cơ bản” (đối với hợp đồng giao hàng một lần) hoặc có lý do xác đáng
để cho rằng “một bên sẽ vi phạm cơ bản đối với đối với lần giao hàng trong tương lai”
(đối với hợp đồng giao hàng từng phần). Có thể thấy ngay lợi ích của giải pháp này thể
hiện ở chỗ: bên có quyền được giải phóng khỏi hợp đồng và có thể đi tìm những giải
pháp thay thế chứ không cần phải đợi cho đến khi bên có nghĩa vụ khơng thực hiện hợp
đồng xảy ra trên thực tế. Tuy nhiên, điều kiện để hủy hợp đồng trước thời hạn là phải có
rõ ràng hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng hoặc có lý do xác đáng để tin rằng vi phạm cơ
bản hợp đồng sẽ xảy ra đối với lần giao hàng trong tương lai.
Thứ hai, nếu khơng vì lí do “trở ngại khách quan” hay “bất khả kháng”, người
bán không nên tự động tuyên bố việc ngừng thực hiện hợp đồng, nếu không, vi phạm của
người bán sẽ bị coi là vi phạm cơ bản và người bán sẽ phải bồi thường những thiệt hại đối
với người mua do việc vi phạm hợp đồng của người bán gây ra. Mặt khác, nếu người bán
cho rằng người mua vi phạm cơ bản hợp đồng thì phải có những căn cứ xác đáng và bằng
chứng chứng minh. Trong trường hợp người mua chậm thanh tốn, đây khơng được coi
là vi phạm cơ bản, người bán khơng có quyền ngay lập tức hủy hợp đồng. Người bán
phải gia hạn cho người mua một thời hạn hợp lý để người mua thực hiện nghĩa vụ. Nếu
hết thời hạn này mà người mua vẫn không thanh tốn thì người bán có quyền hủy hợp

2
3

PICC: Principles of international commercial contracts (Bộ Nguyên tắc Hợp Đồng Thương mại Quốc tế).
PECL: Principles of European Contract Law (Bộ nguyên tắc của luật hợp đồng châu Âu).

10


đồng và đòi bồi thường thiệt hại các tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên người bán đã
phải chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng từ phía người mua.
KẾT LUẬN

CISG là điều ước quốc tế được áp dụng rộng rãi trên thế giới, việc áp dụng CISG
trong mua bán hàng hóa quốc tế sẽ mang đến sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của
các bên, sự thống nhất về quan điểm để tránh xảy ra những tranh chấp trong quá trình
hợp đồng.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Công ước Liên Hợp Quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Công ước
Viên năm 1980 – CISG).
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 2017.
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế (Textbook on
International Trade and Business Law), Dự án Hỗ trợ chính sách Thương mại và
Đầu tư của châu Âu (EU-MUTRAP), Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2017.
4. Trường Đại học Ngoại thương – Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC),
101 Câu hỏi – đáp về Công ước của Liên hợp quốc về Hợp đồng mua bán hàng
hoá (CISG).
5. Switzerland 31 May 1996 Zürich Arbitration proceeding (Soinco v. NKAP), tham
khảo tại www.unilex.info/cisg/case/396.
6. Võ Sỹ Mạnh, Vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của Công ước Viên năm
1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và định hướng hồn thiện các quy
định có liên quan của pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại
học Luật TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 2015.
7. Nguyễn Đô, Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học
xã hội (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), Hà Nội, 2018.
8. Vi phạm cơ bản hợp đồng – Công ước Viên 1980 (CISG) cho người Việt Nam
(wordpress.com).

9. Nguyễn Minh Hằng ( 2007), “ Việt Nam và việc gia nhập Cơng ước Viên năm
1980”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp ( tháng 9/ 2017)



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×