MỤC LỤC
Trang
PHẦN I: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGHỆ THUẬT
BIỂU DIỄN CÙNG VỚI CỦA ÂM THANH TRANG5
1. Sự hình thành và phát triển của nghệ thuật biểu diễn
2. Sự ra đời và phát triển của âm thanh
PHẦN II: TỔNG QUÁT VỀ ÂM THANH TRANG8
PHẦN III. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VÀ Ý ĐỒ THU THANH
TRANG28
Tác phẩm 1: Trời Hà Nội xanh.
Tác phẩm 2 : Lời biển hát.
PHẦN IV: KẾT LUẬN CHUNG TRANG 53
PHỤ LỤC
Bản nhạc Trời Hà Nội xanh & Lời biển hát..
Đĩa CD ca khúc Trời Hà Nội xanh & Lời biển hát
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đề án tốt nghiệp 1 Trần Anh Tà
- Modern Recording Techniques.
- Audio pro home recording course
- The art of mixing - David Gibson
- Kỹ năng cơ bản âm thanh - Phạm Hoàng Dũng
- Các bái giảng của thầy giáo Phạm Hoàng Dũng, thầy giáo
Nguyễn Hồng Quân
LỜI NÓI ĐẦU
Đề án tốt nghiệp 2 Trần Anh Tà
Ngay từ buổi bình minh cuộc sống loài người mới ở chế độ xã hội bầy đàn nguyên
thuỷ, mỗi khi săn bắn hay hái lượm trở về người ta đã tụ họp xung quanh đống lửa, nhảy múa
hát hò để biểu lộ tình cảm trước thành quả lao động của mình.
Trải qua thời gian cùng sự phát triển của xã hội loài người, cũng như sự phát triển
của khoa học kỹ thuật thì nhu cầu hưởng thụ về đời sống tinh thần của con người ( như ca,
múa, nhạc, sân khấu, điện ảnh. ..) cũng ngày càng gia tăng
Sẽ rất tẻ nhạt, nếu như những bộ phim , những tác phẩm sân khấu, hay những lời
ca, tiếng nhạc mà thiếu đi sự hỗ trợ của âm thanh và ánh sáng. Chính vì lẽ đó nghành đạo diễn
âm thanh, ánh sáng ra đời, nó thể hiện nội dung tư tưởng những tác phẩm sân khấu và âm
nhạc, những ca khúc, nó có vai trò quan trọng để phục vụ xã hội và nhu cầu nhu cầu đời sống
tinh thần con người chúng ta.
Trường Đại học Văn hoá Nghệ thuật Quân đội trước kia và hiện nay luôn là con
chim đầu đàn trong sự nghệp trồng người. Trường đã đào tạo và bồi dưỡng nên những con
người đóng góp cho nền nghệ thuật nước nhà nói chung và Quân đội nói riêng, đóng góp có
hiệu quả vào sự phát triển chung của nghệ thuật Ca , Múa , Nhạc và sân khấu.....
Đặc biệt gánh vác nhiệm vụ chủ yếu trong sáng tạo biểu diễn và truyền bá các tác phẩm
Ca, Múa, Nhạc và sân khấu về đề tài bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước.
Do yêu cầu đòi hỏi của Nhà nước và Quân đội trong giai đoạn mới về đội ngũ
những người làm âm thanh, ánh sáng tại các đoàn nghệ thuật của cả nước trong và ngoài Quân
đội. Năm 2004, trường đã bắt đầu đào tạo đội ngũ những người làm âm thanh - ánh sáng mang
tính chính quy, để củng cố và hoàn thiện, đáp ứng được nhu cầu nhiệm vụ cho hoạt động Văn
Hoá Nghệ Thuật của nước nhà. Phía trước còn dài, chúng tôi tin tưởng rằng, bằng sự phát triển
và không ngừng tự hoàn thiện của nghành đạo diễn âm thanh, ánh sáng sẽ đem đến cho khán
giả, chiến sỹ những nét đẹp về nghệ thuật nước nhà.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình
học tập và viết luận án này . Đặc biệt, là sự chỉ báo giúp đỡ tận tình sâu sắc của thày giáo
chuyên môn Phạm Hoàng Dũng, thày giáo Nguyễn Hồng Quân. Bài đồ án của em không tránh
khỏi những khiếm khuyết, rất mong được sự thông cảm, chỉ bảo của hội đồng và các thầy bộ
môn, cùng sự chia sẻ của các bạn đồng nghiệp đã giúp đỡ để đồ án của em được hoàn thiện
hơn.
Đề án tốt nghiệp 3 Trần Anh Tà
PHẦN I : SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGHỆ THUẬT
BIỂU DIỄN CÙNG VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ÂM THANH
I. Sự hình thành và phát triển của nghệ thuật sân khấu biểu diễn.
Con người sáng tạo ra nghệ thuật qua công việc lao động và sinh hoạt đời
sống hằng ngày. Nghệ thuật giống như "tấm gương phản chiếu cuộc đời". Để qua
đó tự chiêm ngưỡng mình, xem xét lại bản thân và tự đánh giá lại bản thân mình,
còn là "cuốn sách giáo khoa vĩ đại" giảng giải, hướng dẫn cho con người về cái
đẹp, cái thiện, ác, cái mới cũ, cái tiên tiến, lạc hậu tình yêu thương và lòng thù
hận.
Nghệ thuật biểu diễn là nghệ thuật tổng hợp, nó bao gồm cả: ca, múa, nhạc, họa, kịch,
thơ, triết học, mỹ học... đồng hành cùng với sự thể hiện khát vọng của con người. Với những
đề tài khác nhau như ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi hạnh phúc lứa đôi, ca ngợi lý tưởng
yêu nước thương dân, trọn nghĩa tình, phê phán cái ác, cái xấu. Nghệ thuật biểu diễn được thể
hiện trong sự giải thích tác phẩm nghệ thuật, dẫn dắt của tác phẩm nghệ thuật nhờ nội dung
của nó, biểu diễn bằng các hình tượng nghệ thuật. Là lôi cuốn sự chú ý động viên khả năng
sáng tạo, thức tỉnh và thúc đẩy thị hiếu âm nhạc và tài năng biểu diễn của người nghệ sỹ để tác
động tới công chúng. Nó chính là sức mạnh lớn lao làm thay đổi nhận thức và hành động của
con người, mang một chuỗi sáng tạo liên tục từ người viết tác phẩm, đến đạo diễn, diễn viên,
đến những người làm kỹ thuật âm thanh, ánh sáng, mỹ thuật... những người chuẩn bị đạo cụ
phục vụ cho biểu diễn. Có như vậy mới diễn đạt được một cách hiệu quả về cái đẹp, nội dung
tác phẩm mà họ muốn trình bày mang lại cho khán thính giả những ý tưởng đúng đắn và có
đầy đủ giá trị.
Ở tại châu Âu, đặc biệt là thời kỳ Văn minh Hy Lạp cổ đại cách đây hàng
ngàn năm, người ta xây dựng lên sân khấu khổng lồ mà người ta gọi là diễn
trường để biểu diễn. Thời kỳ đó loại hình biểu diễn chính là kịch. Các vở hài kịch
do các tác giả thời bấy giờ sáng tác như: Ecxin, Xophoc, Arich... đồng thời nơi đây
cũng là nơi để tổ chức các cuộc lễ hội tế thần, và các sinh hoạt cộng đồng khác.
Thời La Mã cách nay 2000 năm đã xây dựng nên một diễn trườn mang tên
Colido vĩ đại, có cấu trúc ba mặt gần giống như sân vận động ngày nay, có thể
Đề án tốt nghiệp 4 Trần Anh Tà
chứa được 87.000 người xem, bức tường vây xung quanh cao tới 50m và được
trạm trổ hết sức công phu. Cho đến ngày nay vẫn còn lưu giữ được một phần nhỏ
nguyên vẹn của diễn trường này.
II. Sự ra đời và phát triển của âm thanh và ánh sáng
Từ xưa khi chưa có điện, tất cả các loại hình biểu diễn đều là diễn với ánh
sáng tự nhiên "ban ngày" và tất nhiên là không có âm thanh, phải đến thế kỷ 18 -
19 cùng với sự phát minh ra điện và ánh sáng điện xuất hiện, đã tạo ra một bước
chuyển biến vô cùng to lớn cho nghệ thuật sân khấu biểu diễn.
Cho đến nay, nhờ vào khoa học kỹ thuật, sân khấu biểu diễn được trang
hoàng lộng lẫy hơn nhờ ánh sáng đèn rực rỡ cộng với âm thanh được khuyếch đại
lớn lên phục vụ cho người nghe được rõ hơn ở mọi vị trí, nên cảm thụ và cảm xúc
cho khán giả được nâng lên mạnh mẽ hơn trước rất nhiều.
Âm thanh là một lĩnh vực bao gồm cả khoa học và công nghệ. Công nghệ
âm thanh đòi hỏi một nghiệp vụ có sự kết hợp chặt chẽ những yếu tố nghệ thuật và
kỹ thuật, trong đó việc lựa chọn giải pháp cho vấn đề nghệ thuật phải dựa trên
những kiến thức sâu rộng về kỹ thuật, nó còn dựa trên quy luật tâm sinh học
những đặc điểm mang tính chủ quan của con người trong quá trình cảm thụ âm
thanh.
Các nhà hát cận đại như "Grosses chau Spie" ở Bec Ling, nhà hát "Thia
trem yes hot" ở Matscơva, Nhà hát "phea trepi galle" ở pari được trang bị những
trang thiết bị âm thanh, ánh sáng và sân khấu được cho là tối tân nhất thời kỳ bấy
giờ. Với hệ thống âm thanh và loa công suất lớn phục vụ cho rất đông khán giả,
làm cho khán giả choáng ngợp trong hiệu quả mà âm thanh mang lại.
Hệ thống ánh sáng thì đã có nhiều đèn để có thể chia được nhiều vị trí khác
nhau để có thể cắt cảnh, cắt tầng làm thay đổi về không gian và tạo cảm giác rất ấn
tượng với người xem. Còn sân khấu thì có thể di chuyển theo chiều ngang, dọc
hoặc xoay tròn, làm cho việc thay đổi cảnh trí và không gian được dễ dàng hơn.
Đề án tốt nghiệp 5 Trần Anh Tà
Bắt đầu từ thời kỳ này cùng với sự phát triển các loại máy móc điện tử phục
vụ cho sân khấu biểu diễn là các kỹ sư, những người thợ chuyên nghiệp phục vụ
cho âm thanh và ánh sáng biểu diễn "Sound man" người làm âm thanh và
“lighting man" người làm ánh sáng, vai trò của những người này là rất quan trọng,
luôn gắn bó chặt chẽ đối với nghệ thuật biểu diễn và là một phần không thể thiếu
được của mọi loại hình biểu diễn nghệ thuật.
Cùng với thời gian và kinh nghiệm với sự lớn mạnh và phát triển không
ngừng của nghệ thuật sân khấu biểu diễn thì âm thanh ánh sáng cũng song song và
cùng đồng hành phát triển, đi từ không đến có, từ nghiệp dư đến chuyên nghiệp.
Đội ngũ những người làm kỹ thuật âm thanh, ánh sáng, với bao khó khăn thiếu
thốn đã đúc kết thành những kinh nghiệm thành những bài học xương máu. Để
đến hôm nay chúng ta có thể tự hào đó nói đó là một "nghề" và một bộ phận
không thể thiếu được của nghệ thuật sân khấu biểu diễn.
Ta có thể tạm lấy mốc của âm thanh, ánh sáng phát triển từ năm 1955 đến
nay một khoảng thời gian khá dài đối với một đời người, nhưng với một ngành
nghề thì chưa là bao. Vậy mà chỉ mới hơn 50 năm hoạt động và sáng tạo đó, đội
ngũ những người làm kỹ thuật âm thanh, ánh sáng biểu diễn của nghệ thuật biểu
diễn nói chung. Đã đi từ không đến có đạt được những thành công lớn phục vụ
cho nghệ thuật biểu diễn, với một đội ngũ những người làm kỹ thuật đông đảo,
giàu kinh nghiệm, tâm huyết với nghề, tạo nên nhiều diện mạo cho nghệ thuật sân
khấu biểu diễn, góp thêm một bông hoa tươi đẹp cho rừng hoa nghệ thuật nước
nhà thêm tươi đẹp hơn, rực rỡ hơn.
Thiên niên kỷ trước đã khép lại, bước sang thế kỷ mới, với sự phát triển
mạnh mẽ về kinh tế, chính trị của đất nước.
Cùng với sự lớn mạnh của ngành nghệ thuật biểu diễn nói chung và sự bùng
nổ của công nghệ điện tử, viễn thông, công nghệ số... Nhất định những người làm
kỹ âm thanh, ánh sáng của Việt Nam sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để hoạt động
Đề án tốt nghiệp 6 Trần Anh Tà
và sáng tạo hơn nữa, tìm ra nhiều hoa tươi cỏ lạ đẹp đẽ hơn nữa cho vườn hoa
nghệ thuật.
PHẦN II/ TỔNG QUÁT VỀ ÂM THANH
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ÂM THANH:
1. Âm thanh được tạo ra như thế nào?
- Âm thanh được tạo ra bởi các dao động cơ học và trong môi trường đàn hồi.
- Âm thanh truyền được trong chất lỏng, khí, rắn nhưng không truyền được
trong chân không.
2. Các tính chất cơ bản của âm thanh.
P =
F
[
N
]
S
[
m
]
* Áp suất âm thanh: Là lực mà âm thanh tác dụng lên một đơn vị diện tích.
P
0
=2.10
-5
N/m
2
= 0 dB (gọi là mức ngưỡng thấp nhất mà tai người
nghe được)
- Trong âm thanh kỹ thuật người ta còn sử dụng một đơn vị khác là dB
dB=20log
P
P
0
P
0
được gọi là thanh áp chuẩn, đây là mức thanh áp nhỏ nhất mà tai người
có thể cảm thụ được.
* Tốc độ truyền âm(Vận tốc âm thanh)
- Trong không khí là 340 m/s
* Tần số của âm thanh : Là số lần dao động cơ học thực hiện trong 1 giây
- Tai ta cảm nhận tần số âm thanh như là độ cao thấp của âm thanh. Ví dụ:
âm thanh sinh ra do dao động 100 lần trong 1s [100Hz] tai ta sẽ nhận biết như là
Đề án tốt nghiệp 7 Trần Anh Tà
âm trầm. Ngược lại dao động sinh ra 4000 lần trong 1s [4000Hz], tai ta cảm nhận
như là âm cao.
- Tai người có thể nghe thấy tần số âm thanh từ 16-20 KHz.
- Dải tần số đó gọi là dải âm tần.
- Âm thanh có tần số f < 16Hz - gọi là hạ âm.
- Âm thanh có tần số f > 20KHz - gọi là siêu âm. (Tai người không nghe
thấy những âm này)
Giữa Fat, Vat, λ, T có một mối quan hệ sau
V=λ . f
Với : f =
1
T
Để có khái niệm về các đại lượng này ta có thể đi từ dao động của âm
thanh.
* Phân tích một âm thanh:
- Âm đơn là âm có dao động dạng hình Sin, trên phổ tần số nó được biểu
hiện như một vạch.
- Âm phức là âm thanh có dạng dao động không phải là hình Sin (như tiếng
đàn), nó là tổng hợp các dạng dao động hình Sin có tần số và biên độ khác nhau.
- Trong âm phức, âm có tần số thấp nhất gọi là âm cơ bản, các âm có tần số
dao động lớn gấp 2,3,4.. . gọi là các hài bậc 2,bậc 3,bậc 4 ...
Dạng âm phức có thể như hình vẽ:
A
Đề án tốt nghiệp 8 Trần Anh Tà
t
- Tỷ lệ giữa các hài bậc cao với âm cơ bản, nói cách khác là thành phần phổ
của âm thanh có tác dụng quyết định tới màu sắc của âm thanh. Chính vì vậy mà
tai người nhận biết được tiếng đàn khác nhau, giọng nói khác nhau.
3. Sự cảm nhận của tai người với âm thanh.
- Con người nhận biết và phân tích âm thanh là nhờ có cơ quan thính
giác(tai). Tai người là một máy đo âm thanh mà không một máy móc nào có thể
thay thế được.
- Các đặc tính cơ bản của tai người là:
+ Ngưỡng nghe thấy: Là mức âm thanh bé nhất mà tai người cảm nhận
được; ở tần số 1000Hz ngưỡng này là 2
-10
N/m
2
(ứng với cường độ âm thanh là 10
w/m
3
)
+ Ngưỡng đau tai: Là mức âm to nhất mà tai người còn có thể cảm nhận
được; ở mức này tai bắt đầu cảm thấy đau.
Ngưỡng nghe thấy và đau tai ở mỗi người và mỗi lứa tuổi có sự khác biệt.
- Đường đẳng âm: Đó là một đặc điểm thể hiện tai người đánh giá độ to,
nhỏ của âm thanh ở các tần số khác nhau, ví dụ:f = 1KHz tai ta đánh giá một âm
thanh có mức (độ lớn) là L1(dB) thì ở tần số 2KHz vẫn âm thanh ấy tai ta cảm
nhận như là nhỏ hơn. Muốn có cảm giác về độ lớn giống như trước (ở f=1KHz) ta
phải nâng mức âm thanh lên tới L2(dB). Như vậy đường đẳng âm là đường nối tất
cả các điểm mà mức âm tai ta cảm nhận giống nhau ở các tần số khác nhau
L mức âm[dB]
Ngưỡng chói tai 130dB
Đề án tốt nghiệp 9 Trần Anh Tà
10dB
L2 0dB
L1
Ngưỡng nghe thấy 1KHz 2KHz f (Hz)
(2÷4 dB)
- Hiệu ứng nghe bằng tai ( Hiệu ứng nhị phân)
+ Khả năng cảm thụ âm thanh của tai người ở hai tai khác nhau đối với một
nguồn âm trong không gian;điều đó có thể thấy được trên hình vẽ:
M (nguồn âm)
Tai F Tai T
* Nếu nguồn âm ở bên trái thì sóng âm đi tới tai trái trước, tai phải sau. Do
đó hai tai có sự cảm nhận khác nhau về thời gian của sóng âm.
* Do quãng đường từ nguồn âm tới tai trái gần hơn tai phải nên sự suy giảm
của năng lượng âm thanh ít hơn,cộng với sự chắn của đầu người mà cường độ âm
thanh tác động vào tai trái lớn hơn là ở tai phải.
* Cũng do khoảng cách từ nguồn âm tới tai trái nhỏ hơn tới tai phải và ảnh
hưởng của sự chắn âm do đầu người gây ra nên khi âm thanh tới được tai phải sẽ
Đề án tốt nghiệp 10 Trần Anh Tà
bị hao hụt về tần số (mất tần số cao). Do vậy cảm giác về màu sắc âm thanh của
hai tai cũng khác nhau.
* Cuối cùng sóng âm tới tai người còn có sự chênh lệch về pha. Tất cả các
đặc điểm trên giúp cho con người có thể định vị được nguồn âm trong không gian;
nhờ vậy mà ta biết được từ đâu tới.
* Hiệu ứng nhị phân được ứng dụng trong âm thanh lập thể.
Âm thanh lập thể là một phương pháp ghi và phát lại âm thanh nhằm tạo
điều kiện cho con người có cảm giác về không gian khi nghe lại các tác phẩm thu
thanh (ví dụ: cách bố trí dàn nhạc ở nhà hát, chuyển động của diễn viên, ca sĩ trên
sân khấu, các tiếng động khác như tàu hỏa, ô tô, tiếng súng.. . trong phim ảnh)
Ghi âm lập thể thực chất là ghi và truyền lại nhiều điểm trong không gian
nơi âm thanh được tạo ra.
II. SÓNG ÂM-NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Sự lan truyền của sóng âm.
Trong không khí, âm thanh truyền lan ở dạng sóng dọc (hình 2.1). Với
phương thức lan truyền này,các phân tử không khí sẽ tạo thành những vùng ép
(không khí đặc lại) và vùng dãn (không khí loãng ra) thay đổi nhau. Vùng ép sẽ
làm cho thanh áp tăng lên và vũng dãn sẽ làm cho thanh áp giảm đi. Trong quá
trình lan truyền của sóng âm,
các phân tử không khí chỉ dao động tại chỗ;
điều đó có nghĩa là sóng âm không vận
chuyển vật chất mà chỉ chuyển năng lượng
-năng lượng âm.
Trong không khí cũng như chất khí nói
chung và trong chất lỏng, âm thanh chỉ truyền Hình 2.1:Dạng truyền lan của
Đề án tốt nghiệp 11 Trần Anh Tà
lan ở dạng sóng dọc. sóng dọc (trong không khí)
Trong chất rắn, ngoài dạng sóng dọc, âm
thanh còn lan truyền ở dạng sóng ngang (hình
2.2).
Trong chất rắn còn tồn tại các dạng sóng
đặc biệt như sóng uốn trong các dạng tấm Hình 2.2:Dạng truyền lan của sóng ngang
và màng mỏng, sóng xoắn trong các dây và
thanh.
Trong không khí, sóng âm lan truyền từ nguồn âm ra tất cả các hướng. Nếu
nguồn âm có kích thước nhỏ so với bước sóng thì ta có thể coi nó như một nguồn
âm điểm, và sóng âm sẽ lan toả từ một điểm đó ra không gian như những hình cầu
lớn dần. Dạng sóng âm ấy ta gọi là sóng cầu. Càng ra xa nguồn âm các mặt cầu
càng lớn và các vòm cầu càng phẳng dần, tới một giới hạn nào đó có thể coi mặt
sóng như một mặt phẳng và ta gọi đó là sóng phẳng.
a) Sóng cầu (ở trường gần)
b)Sóng phẳng(ở trường xa)
Dạng sóng ở trường gần và trường xa của một nguồn âm.
Với sóng cầu, càng ra xa nguồn âm thì cường độ càng suy giảm. Với sóng
phẳng,về lý thuyết cường độ có thể coi như không đổi trên đường lan truyền, còn
trong thực tế nó chỉ suy giảm rất ít. Điều đáng chú ý là trên đường truyền lan, sóng
âm còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác.
Đề án tốt nghiệp 12 Trần Anh Tà
2. Các đại lượng vật lý của sóng âm và trường âm.
Một môi trường vật chất mà trong đó sóng âm truyền lan được gọi là trường
âm. Cấu trúc của trường âm có thể được xác định rõ ràng bởi sự phân bố về thời
gian và không gian của một trong hai đại lượng vật lý của trường âm là áp suất âm
thanh hay thanh áp, (biểu thị bằng p) và tốc độ dao động âm (biểu thị bằng v)
Trong cuộc sống hàng ngày, trường âm không chỉ có ý nghĩa đặc biệt (nhất
là đối với công nghệ thu thanh), có cấu trúc rất phức tạp, và cũng chiếm đa số.
Trường âm không chỉ được xác định bởi:
- Đặc điểm của nguồn âm
- Tính chất vật lý của không khí
- Hình dạng và cấu tạo các mặt bao quanh của phòng và đồ vật trong phòng.
Về khái niệm áp suất âm thanh cần được hiểu rằng đó là độ dao động áp
suất của khí quyển khi bị sóng âm tác động. Thanh áp là một đại lượng cực nhỏ,
thí dụ ở khoảng cách 1m một người nói bình thường chỉ tạo ra một phần triệu áp
suất khí quyển. Thanh áp tác động lên mọi hướng không gian như nhau. Điều đó
có nghĩa là một micrôphôn thu thanh áp thì độ nhậy của nó từ mọi hướng đều
bằng nhau (ta gọi là micrôphôn toàn hướng, hay “búp hướng” hình cầu), nếu kích
thước của nó nhỏ hơn so với bước sóng. Độ lớn của thanh áp được biểu thị bằng
nhiều đơn vị khác nhau, tính theo giá trị hiệu dụng (effectiv):
- Trước kia đo bằng µbar ( 1 µbar = 0,1 N/m
2
);
- Bằng Niutơn/m
2
(N/m
2
);
- Hiện nay thống nhất theo ISO đo bằng Pascal (Pa) (1Pa = 1N/m
2
).
Trong thực tế ta thường biểu thị thanh áp ở dạng mức - mức thanh áp- với
đơn vị đo là đềxiben (dB).
L = 20lg
P
[dB],trong đó p là thanh áp, và p
0
là thanh áp lấy làm chuẩn.
p
0
Đề án tốt nghiệp 13 Trần Anh Tà
Thanh áp chuẩn p
0
là trị số thanh áp của ngưỡng nghe và bằng 2.10
-5
N/m
2
.
Khi có tác động của sóng âm, các phân tử không khí dao động xung quanh vị
trí cân bằng của nó. Tốc độ dao động của các phân tử không khí do tác động của
âm thanh gọi là tốc độ dao động âm. Cần phân biệt tốc độ dao động với tốc độ
truyền lan của âm thanh.
Ở nhiệt độ 20
o
C và áp suất khi quyển bình thường,âm thanh truyền lan trong
không khí với tốc độ 340 m/s,còn tốc độ dao động âm thì cực nhỏ và phụ thuộc
vào cường độ âm thanh.Trong dải thanh áp từ 10
-9
đến 10
-3
átmốtphe thì tốc độ dao
động âm tương ứng từ 2,5.10
-7
đến 0,25 m/s.
Thanh áp và tốc độ dao động âm là hai đại lượng có ý nghĩa đặc biệt đối với sự
cảm thụ âm thanh(xem mục 2.1.2) cũng như đối với kỹ thuật thu thanh micrôphôn.
Trong trường gần, thanh áp biến đổi theo tỷ lệ nghịch với khoảng cách (p
~1/r) và không phụ thuộc vào tần số,còn tốc độ dao động âm lại phụ thuộc vào tần
số,ở tần số thấp nó biến đổi nhanh hơn theo khoảng cách: biến đổi theo tỷ lệ
nghịch với bình phương khoảng cách (v ~ 1/r
2
).
Theo nguyên lý hoạt động, micrôphôn chia làm 2 loại : loại thu thanh áp (p)
và loại thu tốc độ dao động(v) hoặc thu gradient thanh áp (∆p) -tức là độ chênh
lệch thanh áp (hiệu thanh áp) giữa hai điểm không gian trong trường âm. Các
micrôphôn có búp hướng hình cầu (toàn hướng) là loại thu thanh áp, còn
micrôphôn định hướng (độc hướng hoặc nhị hướng) là loại thu gradient thanh áp.
Chỉ có một vài loại (thí dụ micrôphôn dải băng) là loại thu trực tiếp tốc độ dao
động. Như vậy, nếu ta dùng micrôphôn định hướng (thí dụ cardioide) mà thu gần
nguồn âm thì tiếng trầm sẽ bị nâng lên một cách bất hợp lý, không trung thực với
tín hiệu âm thanh tự nhiên của nguồn âm.
Đề án tốt nghiệp 14 Trần Anh Tà
Trong trường âm của sóng phẳng (trong trường xa), thanh áp cũng như hiệu
thanh áp và tốc độ dao động âm đồng pha và tỷ lệ thuận với nhau, và càng tới gần
nguồn âm thì độ lệch pha sẽ tiến gần tới 90
0
, hai đại lượng này sẽ không tỷ lệ
thuận với nhau nữa.
Tỷ số giữa thanh áp và tốc độ dao động là trở kháng âm thanh (hình
2.5).Trong trường gần, trở kháng âm là một đại lượng phức, còn ở trường xa nó
chỉ là một hằng số- âm kháng của không khí.
Bước sóng là một đại lượng có nhiều ý nghĩa thực tế đối với kỹ thuật thu
thanh; nó chiếm một dải khá rộng, từ khoảng 17m (ở tần số thấp nhất) tới 1,7cm
(ở tần số cao nhất) trong dải tần âm thanh quan trọng nhất đối với âm nhạc và
thính giác.
Mối tương quan giữa các đại lượng của sóng âm và trường âm được biểu diễn
trên các hình 2.4 và 2.5.
3. Phân tích tín hiệu âm thanh
Âm thanh của các nguồn âm như âm nhạc, tiếng nói, tiếng động là tập hợp của rất
nhiều dao động thành phần. Phân tích một tín hiệu âm thanh có nghĩa là xác định tần số, biên
độ và đôi khi cả trạng thái pha của các dao động thành phần đó.
Các quá trình dao động âm tuần hoàn (periodic) chỉ bao gồm các thành phần hài bậc
cao là bội số nguyên lần cơ bản (tần số cơ bản). Các dao động âm không tuần hoàn là một tập
hợp của vô số các tần số ngẫu nhiên, nằm sát cạnh nhau không theo quy luật. Các âm thanh
dạng này điển hình như tiếng động và tất cả các quá trình xuất hiện một lần (quá trình dao
động quá độ, dao động chuyển tiếp). Các nguồn âm tự nhiên tạo nên sự pha trộn cả dao động
tuần hoàn và dao động không tuần hoàn; tiếng nói và tiếng động bao gồm chủ yếu các dao
động không tuần hoàn, âm nhạc lại bao gồm chủ yếu là các dao động tuần hoàn.
Tuỳ theo nhiệm vụ đặt ra và loại dao động âm, ta có thể áp dụng những
phương pháp phân tích cho phù hợp.Thí dụ: đối với các âm thanh ổn định ta có thể
dùng phương pháp phân tích bằng phổ kế trượt và phân tích chuỗi Fuariê hoặc các
bộ lọc đấu song song (phổ kế 1/3 ốcta và 1 ốcta); các dao động âm không ổn định
có thể dùng phổ kế dải hẹp,phổ kế 1/3 hoặc 1 ốcta. Phổ kế thời gian thực có thể áp
Đề án tốt nghiệp 15 Trần Anh Tà
dụng cho mọi phương pháp phân tích. Nó hoạt động theo nguyên lý biến đổi
Fuariê nhanh (Fast Fourier Transformation-FFT), thí dụ cứ 200 ms lại chỉ thị một
phổ âm thanh mới được tích phân từ một tín hiệu đã số hoá.Bằng phương pháp xử
lý thống kê, ta có thể thu được các kết quả đủ độ tin cậy từ các giá trị đo tức thời
theo phương pháp đo FFT ở trên.
III. TRƯỜNG ÂM
Những sự kiện âm thanh hàng ngày như tiếng động, tiếng nói và âm nhạc
thường đan xen, pha trộn với nhau trong một không gian sinh hoạt quen thuộc-
trong một phòng. Và phòng đó có thể nhỏ, có thể lớn-thậm chí rất lớn, có thể vang
và cũng có thể rất “khô”. Một không gian khép kín mà ta gọi là phòng ấy (phòng
ở, phòng họp,phòng hoà nhạc...) có một ý nghĩa đặc biệt đối với sự cảm thụ âm
thanh của con người, giống như ý nghĩa của ánh sáng đối với việc thưởng thức
một bức tranh hay một pho tượng. Không có phòng, ta không cảm nhận được đầy
đủ những hiện tượng âm thanh; cũng như không có ánh sáng, ta không cảm nhận
được hết các thông tin của hình ảnh.Vậy, phòng cũng như ánh sáng là các môi
trường, là chất xúc tác tạo nên sự cảm thụ âm thanh và hình ảnh. Chúng không
đứng “trung lập”, mà tác động trực tiếp, làm biến đổi hoặc nhấn mạnh các sự kiện
âm thanh cũng như hình ảnh ở một góc độ nào đó. Như vậy, đặc điểm âm học của
mỗi phòng khác nhau sẽ tạo nên một trường âm khác nhau, bổ sung cho âm nhạc
hay tiếng nói những thông tin về thể loại phòng, về độ lớn cũng như về đặc trưng
vật lý của các bề mặt phản âm trong phòng (tường, trần, nền.. .). Những đặc điểm
âm học của mỗi trường âm đồng thời cũng có thể chứa đựng những thông tin
mang tính văn hóa hay xã hội. Thí dụ: đặc điểm âm thanh của nhà thờ biểu hiện
một quang cảnh giáo đường, mang phong cách và màu sắc tôn giáo.
Hoặc giả, âm nhạc thính phòng phải có sắc thái âm thanh của một phòng hoà
nhạc nhỏ đúng phong cách “thính phòng” chứ không phải âm thanh của một
Đề án tốt nghiệp 16 Trần Anh Tà
phòng hoà nhạc lớn cho hàng ngàn người nghe. Và cuối cùng cần phải nói tới một
vấn đề rất dễ bị bỏ qua: những nhạc cụ thuộc thời đại lịch sử nào thì phải được thu
trong một phòng thu có không gian âm thanh phù hợp với không gian biểu diễn
của thời đại lịch sử ấy, phong cách âm nhạc của thời kì ấy.
Khi phát lại những sự kiện âm thanh qua hệ thống đIện thanh ta mất đi một khả năng thông tin
quan trọng bằng hình-tức là cảm nhận không gian biểu diễn bằng mắt-do đó sự tưởng tượng ra
không gian biểu diễn qua các thông tin đơn thuần bằng âm thanh càng giữ vai trò quan trọng.
IV. ÂM THANH KIẾN TRÚC - NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Ảnh hưởng của phòng tới tín hiệu âm thanh.
Nhìn chung, khi thu thanh, nguồn âm được đặt trong một không gian khép
kín-một phòng, không chỉ vì nó có nhiều thuận lợi, mà trước hết còn do phòng có
chức năng làm biến đổi và bổ sung cho sự kiện âm thanh mà người nghe cảm thấy
cần thiết để tạo cho âm thanh đẹp hơn. Nếu như ngày nay kỹ thuật thu thanh hiện
đại thường dùng các thiết bị tạo vang để thay thế một phần hay toàn bộ những ảnh
hưởng của phòng thu vào tín hiệu âm thanh do những khả năng ưu việt của thiết bị
vang nhân tạo, như thay đổi được thời gian vang, phổ tần số của tín hiệu vang,tạo
vang sau khi thu, kinh tế hơn,... thì những nguyên tắc được đặt ra trên kia vẫn
không có gì thay đổi, nghĩa là phải làm cho âm thanh đẹp hơn nhưng vẫn phải giữ
được tính tự nhiên của trường âm thực (natural). Những ảnh hưởng của phòng đến
sự kiện âm thanh có thể được mô tả bằng hai cách sau đây:
Thứ nhất - một cách khách quan do đo đạc phân tích các sự kiện âm thanh
và độ biến thiên theo thời gian của nó (ÂM THANH KIẾN TRÚC) .
Thứ hai – một cách chủ quan bằng mô tả theo cảm quan thông qua phương
pháp nghe phân tích (ÂM NHẠC CHỦ QUAN) .
Cả hai phương pháp đều cần thiết và có hiệu quả cao; tuỳ theo cách đặt vấn
đề, mỗi phương pháp sẽ cho những kết luận phù hợp, ưu tiên hơn.
Đề án tốt nghiệp 17 Trần Anh Tà
Những khái niệm mang tính khách quan thuộc lĩnh vực âm thanh chủ quan
sẽ nhắc tới ở phần dưới đây cũng đã mang tính phổ cập và thống nhất.
Song mục tiêu được đặt ra ở đây là tìm hiểu mối quan hệ giữa những khái
niệm vật lý của âm thanh kiến trúc với những khái niệm tâm-sinh học của lĩnh vực
âm thanh chủ quan để bổ sung cho nhau, nhằm mô tả, đánh giá và khai thác các
đặc điểm của mỗi trường âm cho công việc thu thanh cũng như đánh giá chất
lượng các sản phẩm thu thanh.
2. Những khái niệm cơ bản về âm thanh kiến trúc.
Trong một không gian khép kín- một phòng,sóng âm từ nguồn âm một mặt
lan truyền trực tiếp tới người nghe hoặc micrôphôn - đó là TRỰC ÂM, mặt khác
nó đập vào các bề mặt giới hạn của phòng (tường, trần, nền) và các đồ vật đặt
trong phòng rồi phản xạ trở lại- đó là PHẢN ÂM.
Hiện tượng này của sóng âm không chỉ xảy ra một lần mà cứ lặp đi lặp lại,
mỗi lần gặp chướng ngại thì một phần năng lượng âm bị tiêu hao vào vật liệu cấu
tạo của vật đó - ta gọi là hiện tượng hấp thụ âm thanh, một phần bức xạ trở lại
không khí - ta gọi là hiện tượng phản xạ âm thanh. Những âm phản xạ lần thứ nhất
gọi là phản âm bậc 1, chúng thường có năng lượng lớn (chỉ nhỏ hơn trực âm) và
tách biệt thành những phản xạ rời rạc, nghĩa là có khoảng cách thời gian giữa phản
âm bậc 1 của tia này với phản âm bậc 1 của tia khác, tuỳ thuộc hình dạng và kích
thước của phòng. Phản âm bậc 1 có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự cảm
nhận không gian của phòng thu, cho dù trong thực tế ta khó có thể nghe tách biệt
chúng ra khỏi tín hiệu chung. Các phản âm bậc 2 ,bậc 3,...ngày càng dầy và đan
xen từ nhiều hướng, nhưng sau mỗi lần phản xạ, năng lượng âm lại suy giảm và
dần dần bị tiêu hao cho đến hết, ta gọi đó là hiên tượng kết vang. Số đo biểu thị tốc
độ suy giảm năng lượng âm như trên gọi là thời gian vàng (reverberation time),
hay chính xác là thời gian kết vang.
Đề án tốt nghiệp 18 Trần Anh Tà
Đối với một tín hiệu âm thanh kéo dài sẽ xảy ra một hiện tượng cân bằng
giữa năng lượng âm phát ra từ nguồn và năng lượng được hấp thụ. Trạng thái cân
bằng này không phải xuất hiện ngay từ đầu khi âm thanh mới phát ra từ nguồn mà
phải sau một khoảng thời gian đủ để phản âm phân bố đều đặn trong phòng - ta
gọi đó là giai đoạn khởi vang, tức là dao động khởi đầu kích thích phòng tạo nên
tiếng vang.
Vì sóng âm phản xạ từ tất cả các hướng tới micrôphôn (hoặc người nghe)
nên nó tạo thành một trường âm tán xạ, tạo cảm giác âm thanh không gian, hoặc
âm thanh quang cảnh. Trực âm thì suy giảm dần khi càng ra xa nguồn âm, còn
phản âm (hay âm thanh quang cảnh) thì phân bố khá đều đặn trong toàn bộ không
gian của phòng. Điều đó có nghĩa là tỷ số năng lượng giữa trực âm (Directsound,
D) và phản âm (Reflect sound, R) sẽ biến đổi theo khoảng cách tới nguồn âm. Tỷ lệ
năng lượng này là một tiêu chí cực kì quan trọng đối với việc lựa chọn khoảng
cách đặt micrôphôn thu thanh. Tại các điểm nằm trên bán kính vang (hay bán kính
giới hạn) thì năng lượng trực âm và phản âm là bằng nhau.
3. Những khái niệm cơ bản về âm thanh chủ quan - thính âm.
Để có thể mô tả theo cách chủ quan về đặc điểm âm thanh của một phòng ta thường sử
dụng những khái niệm sau đây:
Độ rõ lời (hay độ rõ tiếng) là khả năng thích hợp về âm thanh của một
phòng đối với biểu diễn các loại hình tiếng nói (thí dụ kịch nói, diễn thuyết, hội
họp,...).
Độ nét là mức độ trong sáng, rõ nét của âm nhạc nhờ khả năng phân biệt
được các sự kiện âm thanh (thí dụ các tuyến giai điệu của một đoạn nhạc) xảy ra
đồng thời hoặc kế tiếp nhau.
Cảm giác không gian là khả năng kình dung được độ lớn và cách xử lý âm
thanh trong một phòng. Cảm giác không gian được tạo nên bởi những khái niệm
cơ bản như mức độ cuốn hút người nghe vào khung cảnh âm thanh, độ lớn hay
kích thước của phòng, độ vang và quang cảnh âm thanh của phòng.
Đề án tốt nghiệp 19 Trần Anh Tà
Sự thích nghi về âm thanh của một phòng cho tiếng nói có nghĩa là: thí dụ
không cần hệ trang âm điện thanh mà vẫn đảm bảo được độ rõ cho tiếng nói (thí
dụ cho diễn kịch) ở mọi vị trí trong phòng. Đánh giá về sự thích nghi âm học của
một phòng cho mục đích sử dụng nào đó (tiếng nói hay âm nhạc) được tiến hành
bằng phương pháp nghe kiểm thính. Thí dụ ta dùng các logatom (tức là các âm tiết
vô nghĩa) để kiểm tra độ rõ cho một phòng dùng để biểu diễn tiếng nói.
Độ nét hay độ trong sáng khi biểu diễn âm nhạc biểu thị khả năng phân biệt
được các nhạc khí, các nhóm nhạc khí hoặc các quãng âm của chúng, cho dù
chúng bị pha trộn với phản âm của phòng; nó tạo điều kiện cho sự cảm thụ về một
cấu trúc âm nhạc tổng thể. Độ nét thể hiện sự trong sáng của âm nhạc khi biểu
diễn trong một phòng hoà nhạc cũng tương tự như độ rõ của tiếng nói (nhất là độ
rõ của từ) khi tiếng nói được trình diễn (thí dụ kịch nói) trong một nhà hát. Trong
biểu diễn âm nhạc, các phản âm nằm trong khoảng 80 ms tính từ thời điểm bắt đầu
của sự kiện âm thanh (thí dụ một tiếng đàn pianô) có tác dụng nâng cao độ nét và
khả năng cảm nhận không gian; các phản âm đến muộn hơn lại làm giảm độ nét
của âm nhạc và làm tăng độ vang. Với tiếng nói, giới hạn này nằm trong khoảng
thời gian là 50 ms.
Cần phân biệt rõ tiếng vang (reverberation) và tiếng dội (Echo), tuy cùng là
một hiện tượng vật lý do phản xạ sóng âm tạo nên. Tiếng vang cho ta cảm giác
như một sự kiện âm kéo dài và suy giảm dần âm lượng. Tiếng dội cho ta cảm giác
như một cách nhắc lại sự kiện âm thanh, nghĩa là nghe tách rời khỏi tín hiệu gốc
(TRỰC ÂM). Với tiếng nói (vì có hình thức cấu tạo như những xung âm thanh),
các phản âm đến sau 50ms và có mức đủ lớn sẽ tạo thành tiếng dội, làm giảm độ
rõ. Âm nhạc cho phép độ trễ lớn hơn, có thể đến 80ms hoặc hơn nữa.
V. CÁC ĐẶC TÍNH VẬT LÝ CỦA TRƯỜNG ÂM
* Trường trực âm
Đề án tốt nghiệp 20 Trần Anh Tà
Trường trực âm thuần khiết (nghĩa là không có phản âm) chỉ tồn tại trong
không gian không có vật cản trên đường truyền lan của sóng âm, hoặc trong một
phòng câm mà năng lượng từ nguồn âm bị hấp thị hết bởi các mặt bao [8.1]. Trong
thực tế, ở khoảng cách rất gần nguồn âm và tỷ lệ năng lượng giữa phản âm và trực
âm rất nhỏ:
R
<< 1
D
Ta cũng có thể coi như trường trực âm, vì năng lượng trực âm chiếm ưu thế.
Trên đường lan truyền trực tiếp từ nguồn âm tới điểm thu (người nghe hoặc
micrôphôn) các đại lượng vật lý của trực âm bị biến đổi rất nhiều:
- Mức âm bị suy giảm theo khoảng cách,
- Năng lượng âm bị hấp thụ bởi không khí, tuỳ thuộc nhiệt độ và độ ẩm,
- Năng lượng âm bị hấp thụ bởi các vật hút âm (khán giả, ghế,...)
* Sự suy giảm năng lượng trên đường truyền lan
Trong thực tế, khi các nguồn âm có kích thước nhỏ hơn bước sóng đều có
thể coi là những nguồn âm điểm. Nguồn âm điểm phát ra sóng có dạng hình cầu
-sóng cầu, nghĩa là sóng âm bức xạ đều ra các hướng; nói cách khác năng lượng
âm được phân bố đều đặn trên mặt cầu. Diện tích mặt cầu tăng theo tỷ lệ bình
phương với bán kính F ~ r
2
, điều đó có nghĩa là năng lượng âm sẽ giảm theo tỷ lệ
với bình phương của khoảng cách tới nguồn âm, tức là suy giảm rất nhanh: mỗi
khi khoảng cách tăng gấp đôi (thí dụ từ 2m lên 4m) thì thanh áp giảm đi một nửa
hoặc mức thanh áp giảm đi 6dB (hình 2.11). Như vậy là ở trường gần năng lượng
(hay mức âm) suy giảm rất nhanh, ở trường xa độ suy giảm chậm hơn.
Khi có rất nhiều nguồn âm điểm nối tiếp nhau thành một tuyến (một đường)
sẽ tạo thành nguồn âm tuyến kéo dài, thí dụ một tuyến đường ô tô có xe chạy liên
tục, một tuyến đường sắt với một đoàn tàu hoả, và sóng âm của những nguồn âm
dạng tuyến như thế sẽ tạo thành những hình ống (“viên trụ”) bức xạ vào không
Đề án tốt nghiệp 21 Trần Anh Tà
trung. Sự suy giảm năng lượng của dạng nguồn âm này nhỏ hơn: khi khoảng cách
tăng gấp đôi thì nó chỉ giảm có 3dB. Chính vì thế tiếng ồn của các dòng xe (ô tô
hay tầu hoả) thường lan truyền đi khá xa.
Các nguồn âm có dạng như một mặt phẳng ta gọi là nguồn âm diện. Trong
trường gần của các nguồn âm diện có mặt bức xạ lớn mức âm hầu như không suy
giảm theo khoảng cách, vì ở đây sóng âm có dạng gần như sóng phẳng. Ở khá xa
nguồn âm diện (với khoảng cách R >> kích thước nguồn âm d) thì mức âm mới
suy giảm dần. Hiện tượng này cũng tương tự như dạng bức xạ âm thanh của các
nhạc khí bộ kèn đồng. Trong thực tế độ suy giảm trong trường gần khoảng 4dB
mỗi khi khoảng cách tăng gấp đôi. Các nguồn âm trong thiên nhiên thường có kích
thước nhất định và do đó độ suy giảm năng lượng lại phụ thuộc tần số. Thí dụ: các
nhạc khí ở dải tần cao có thể coi là nguồn âm diện, trong khi ở dải tần thấp lại
được coi như nguồn âm điểm. Điều đó có nghĩa là tần số thấp suy giảm theo
khoảng với tốc độ nhanh hơn, tần số cao suy giảm với tốc độ chậm hơn. Hiện
tượng này càng có hiệu quả rõ rệt đối với người nghe, vì độ thính (nhạy) của tai
người ở tần số thấp kém hơn ở dải trung (và cao).
Trong các phòng bình thường, trực âm và phản âm của một nguồn âm thường
pha trộn với nhau. Chỉ trong vùng bán kính giới hạn (bán kính vang) thì trực âm
mới chiếm ưu thế. Bán kính vang không chỉ phụ thuộc vào thể tích và cách xử lý
âm thanh các mặt bao của phòng, mà còn bị chi phối bởi tính định hướng của
nguồn âm và búp hướng của micrôphôn trong kỹ thuật thu thanh.
Đề án tốt nghiệp 22 Trần Anh Tà
VI. CÁC HIỆN TƯỢNG ÂM THANH CẦN CHÚ Ý KHI THU THANH
* Phản xạ âm thanh:
Âm thanh đang lan truyền gặp vật cản, một phần sóng âm bị phản xạ trở lại.
Hiện tượng này ta thường gặp trong các phòng thu khi nguồn âm phát ra gặp phải
các tường chắn bị phản xạ trở lại gây ra các hiện tượng xấu cho thu thanh.
* Sóng đứng:
Khi sóng âm phát ra giữa hai mặt tường cứng dễ xảy ra hiện tượng sóng
đứng và cộng hưởng.Vì vậy, trong các phòng thu người ta tránh làm các mặt tường
giống nhau và song song với nhau. Nếu tồn tại các mặt tường như vậy thì phải tiến
hành trang âm với các vật liệu khác nhau.
* Hội tụ âm thanh: (thường xảy ra ở bề mặt cong, lõm)
Khi sóng âm gặp phải các mặt cong,lõm các tia phản xạ dễ tạo thành các
điểm hội tụ âm thanh làm cho trường âm không đồng đều
• Thu thanh.
Có thể nhận thấy rằng, từ khi kỹ thuật phát thanh. truyền hình, đĩa và băng
âm thanh ra đời thì người ta thưởng thức nghệ thuật âm nhạc chủ yếu qua các
mạng truyền thông đại chúng đó. Và khi kỹ thuật âm thanh lập thể được áp dụng
để chuyển tải các chương trình âm nhạc thì người nghe đã có điều kiện tốt hơn
nhiều để “ sống thực”với những sự kiện âm thanh trong cuộc sống, nhất là với
“âm thanh lập thể quang cảnh” ngày nay.
Người đạo diễn âm thanh trong nhiệm vụ thu thanh của mình có trách
nhiệm phải nghiên cứu:
- Đặc điểm âm thanh của phòng thu
- Tính chất của tác phẩm âm nhạc(thể loại, phong cách, biên chế dàn nhạc)
- Bố trí cách ngồi thu thanh cho các nhạc công để lựa chọn cho các Micro
phôn và phương pháp thu thanh thích hợp, tạo được những phối cảnh không gian
tối ưu cho ảnh âm lập thể với những thể loại âm nhạcvà tiết tấu rõ nét ( đặc biệt
Đề án tốt nghiệp 23 Trần Anh Tà
nhạc khiêu vũ), phòng thu cần có thời gian âm vang thu nhỏ hơn khoảng 1”, ngay
cả với những phòng có thể tích lớn, các tín hiệu quang cảnh thông thường được xử
lý bằng thiết bị vang nhân tạo.
Với thể loại giao hưởng thính phòng, cần cố gắng dựng những ảnh âm giống
như đặc điểm âm thanh ở phòng hoà nhạc nổi tiếng vốn đã được người nghe cảm
nhậnvà trân trọng.
• Các phương thức ghi âm số ngày nay cũng phát triển mạnh mẽ:
Công nghệ ghi âm analog sử dụng nguyên lý ghi âm cơ tính trên đĩa nhựa,
quang tính trên phim nhựa, từ tính trên băng từ và phim từ. Trong khi các thiết bị
xử lý và chuyển tải thông tin khác đã đạt được chất lượng âm thanh rất cao thì
công đoạn ghi âm luôn luôn vẫn là cái nút cổ chai. Công nghệ ghi âm Digital cũng
sử dụng đĩa, băng và phim làm phương tiện hơn trừ thông tin nhưng kỹ thuật tinh
xảo và phức tạp hơn nhiều, kích thước băng và đĩa nhỏ gọn nhưng mật độ thông
tin lớn hơn nhiều và chất lượng âm thanh rất hoàn hảo. Trong ghi âm số, bên cạnh
các thông tin chính là tín hiệu âm thanh. Trên băng và đĩa còn chứa đựng thông tin
khác như mã thời gian, tiêu đề tác phẩm...cho phép tìm kiếm, xâm nhập thông tin
nhanh hơn.
Thời kỳ đổi mới không chỉ đem lại những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch
sử làm thay đổi bộ mặt của đất nước trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội mà còn tác
động mạnh mẽ đến sự phát triển tích cực của đời sống nghệ thuật. Nếu chúng ta có
được những người làm công tác phục vụ hết mình vì nghệ thuật để có được những
buổi biểu diễn phục vụ, nhu cầu thưởng thức nghệ thuật ngày càng cao của quần
chúng thính giả.
Đề án tốt nghiệp 24 Trần Anh Tà
PHẦN III : PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VÀ Ý ĐỒ THU THANH
1.Phân tích văn học ca khúc “Trời Hà Nội Xanh” :
Ca khúc “Trời Hà Nội Xanh”
Sáng tác : N.S Văn Ký
Xanh xanh thắm bầu trời xanh Hà Nội
Hồ Gươm xanh như mái tóc em xanh
Thân thương quá nụ cười người Hà Nội.
Đã gặp rồi mà bồi hồi nhớ mãi, Hà Nội ơi!
Ta chưa quên, ta chưa quên một mùa thu
Hà Nội vùng lên, Hồng Hà cuộn sóng.
Ta chưa quên những ngày đêm mịt mùng bão lửa.
Đêm pháo hoa anh lại gặp em.
Trời "Điện Biên Hà Nội" chiến thắng.
Cho mãi mãi bầu trời xanh Hà Nội.
Cầu Thăng Long soi bóng nước sông Hồng.
Tiếng người nói âm vang hồn sông núi
Hà Nội đi lên hôm nay trong nắng Ba Đình.
Cho mãi mãi một tình yêu Hà Nội
Rồi sẽ quen phút bỡ ngỡ ban đầu.
Tiếng người nói xôn xao mùa xuân tới
Hà Nội reo vui hôm nay tiếng hát xây đời.
Trong kho tàng ca khúc cách mạng Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua, những bài
hát viết về thủ đô Hà Nội đã chiếm một khối lượng đáng kể. Trên đất nước ta, có
lẽ không thành phố nào, miền đất nào lại có nhiều bài hát hay như Hà Nội. Điều
đó cũng dễ hiểu, bởi gần mười thế kỷ qua,mảnh đất Thăng Long đó đã trở thành
cố đô và luôn là trung tâm của đất nước trên khắp các lĩnh vực kinh tế, văn hoá.
Đề án tốt nghiệp 25 Trần Anh Tà