Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN TẠI PHIÊN HỌP ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.8 KB, 70 trang )




V¨n phßng quèc héi ch−¬ng tr×nh ph¸t triÓn liªn hîp quèc

DỰ ÁN TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC CỦA CÁC CƠ QUAN DÂN CỬ
Ở VIỆT NAM



BÁO CÁO NGHIÊN CỨU

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN TẠI
PHIÊN HỌP ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI




Ấn phẩm này được hoàn thành và xuất bản với sự hỗ trợ kỹ thuật của Dự án
“Tăng cường năng lực cho các cơ quan đại diện ở Việt Nam” (giai đoạn III),
Văn phòng Quốc hội và UNDP tại Việt Nam. Những quan điểm thể hiện
trong ấn phẩm này là của tác giả, và không nhất thiết đại diện cho quan
điểm của Liên Hợp Quốc bao gồm UNDP cũng nh
ư các thành viên Liên Hợp
Quốc.
HÀ NỘI
Tháng 7-2012



2


MỤC LỤC
Mở đầu
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động chất vấn giữa hai kỳ họp QH
1.1- Về quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội 5
1.2- Vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội
8
1.2.1. Vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong hoạt động của Quốc hội nói chung 8
1.2.2. Vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong hoạt động chất vấn 12
1.3- M
ục đích, ý nghĩa của hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội 14
1.3.1. Mục đích 14
1.3.2. Ý nghĩa 17

Chương 2: Thực trạng hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ
Quốc hội


2.1- Thực trạng hệ thống quy định pháp luật về hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban
thường vụ Quốc hội 21
2.1.1. Quy định về điều kiện tổ chức hoạt động chất vấn 21
2.1.2. Quy định về đối tượng trả lời chất vấn 23
2.1.3. Quy định về quy trình tổ chức chất vấn 23
2.1.4. Quy định về hậu quả chấ
t vấn 24
2.1.5. Những vấn đề đặt ra 25
2.2- Thực trạng việc tổ chức hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội 30
2.2.1. Nội dung các phiên họp chất vấn đã tổ chức 30
2.2.2. Quy trình tiến hành hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội 36
2.2.3. Những kết quả đạt được việc tiến hành hoạ
t động chất vấn tại phiên họp Ủy ban

thường vụ Quốc hội 39
2.2.4. Một số hạn chế và những vấn đề đặt ra 42

Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động chất vấn tại phiên
họp Ủy ban thường vụ Quốc hội

3.1- Phương hướng chung về việc tổ chức hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ
Quốc hội 52
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật: đồng bộ hóa, bổ sung những quy định còn thiếu, sửa đổi những
quy định thiếu tính khả thi. 52
3.1.2. Tiếp tục tổ chức, tăng thời lượng, tần suất hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban
th
ường vụ Quốc hội 53
3.1.3. Khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn, tiếp tục đổi mới cách thức tổ chức
nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc
hội 54
3.2- Kiến nghị giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức hoạt
động
chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội 55
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành của pháp luật 55
3.2.2. Ban hành mới Quy chế về việc tổ chức hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban
thường vụ Quốc hội 66
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

3
Mở đầu
Quyền chất vấn là một trong những quyền quan trọng và cơ bản của các
đại biểu Quốc hội được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật có
liên quan. Trong các khóa Quốc hội gần đây, các phiên chất vấn của Quốc hội

đã được phát thanh, truyền hình trực tiếp và nhận được sự quan tâm sâu sắc của
đông đảo nhân dân cả nước, các phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh
đó,
hoạt động chất vấn cũng luôn được đổi mới về quy trình, thủ tục, cách thức điều
hành; việc tổng hợp, theo dõi việc thực hiện lời hứa của người trả lời chất vấn,
thông báo các nội dung có liên quan sau chất vấn… được thực hiện một cách
thường xuyên, đảm bảo chất lượng theo yêu cầu, góp phần nâng cao hiệu quả
chung của hoạt động giám sát. Nhìn chung, ho
ạt động chất vấn trở thành một
sinh hoạt thường xuyên, có hiệu quả thiết thực của Quốc hội, được đại biểu
Quốc hội, cử tri và nhân dân quan tâm, đánh giá cao. Đồng thời, đã giúp khẳng
định được trách nhiệm của cơ quan điều hành trong việc thực thi Hiến pháp,
pháp luật, nghị quyết của Quốc hội.
Từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, bên cạnh hoạ
t động chất vấn tại các kỳ
họp Quốc hội, hoạt động chất vấn tại Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian
giữa hai kỳ họp Quốc hội lần đầu tiên được tổ chức đã làm cho hoạt động của
Quốc hội nói chung và hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trở nên phong
phú, đa dạng hơn, góp phần xây d
ựng bộ máy nhà nước trong sạch, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả. Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn hoạt động chất
vấn tại 6 phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội vừa qua cho thấy vẫn còn một
số vấn đề bất cập đáng quan tâm, chủ yếu là về cơ sở pháp lý để tiến hành hoạt
động chấ
t vấn tại Ủy ban thường vụ Quốc hội. Hiện nay, quy định về vấn đề này
trong các văn bản pháp luật có liên quan như Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội,
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội còn chưa thống nhất, có những điểm
mâu thuẫn, chồng chéo; quy trình thủ tục chuẩn bị và tiến hành hoạt động chất
vấn còn thiếu
Xuất phát t

ừ yêu cầu của thực tiễn, với trách nhiệm của đơn vị được phân
công phối hợp tổ chức phục vụ hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội, Vụ
tổng hợp, Văn phòng Quốc hội xây dựng Báo cáo nghiên cứu về “Hoàn thiện
quy định của pháp luật về hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ
Quốc hội”. Việc xây dựng Báo cáo nghiên cứu hướng tới những mục đích sau
đây:

4
- Thiết thực phục vụ việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992, Luật tổ chức
Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và các văn bản pháp luật khác
có liên quan, góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc tổ chức hoạt động
chất vấn và trả lời chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Xây dựng quy trình, th
ủ tục cụ thể, chi tiết từ khâu chuẩn bị, tiến hành
đến hậu chất vấn, tạo điều kiện thuận lợi cho đại biểu Quốc hội tham gia hoạt
động chất vấn giữa hai kỳ họp Quốc hội và giúp cho các cơ quan tham mưu,
giúp việc dễ dàng hơn trong công tác phục vụ hoạt động này.
Nội dung của Báo cáo nghiên cứu tập trung vào những vấn đề sau đây:
- M
ột số vấn đề lý luận về hoạt động chất vấn giữa hai kỳ họp Quốc hội:
mục đích, ý nghĩa, yêu cầu và sự cần thiết tiến hành hoạt động chất vấn tại phiên
họp Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Phân tích thực trạng các quy định của pháp luật và việc thi hành các quy
định về việc tổ chức hoạt động chất vấn t
ại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc
hội.
- Kiến nghị hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về việc tổ chức
hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Để chuẩn bị, đồng thời xin ý kiến về những nội dung nghiên cứu chủ yếu,
Văn phòng Quốc hội đã tổ chức một cu

ộc Tọa đàm với sự tham gia của một số
vị đại biểu Quốc hội, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động
thực tiễn, thảo luận, trao đổi về những vấn đề liên quan đến nội dung Báo cáo
nghiên cứu. Bên cạnh đó, các chuyên gia tiến hành nghiên cứu cũng đã sưu tầm,
phân tích tài liệu, số liệu; so sánh, đối chiếu với hoạt động chất vấn tại kỳ họ
p
Quốc hội và hoạt động giải trình tại các Ủy ban; thảo luận nhóm và xây dựng dự
thảo Báo cáo; xin ý kiến một số chuyên gia, Lãnh đạo Văn phòng Quốc hội, Ban
công tác đại biểu và tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện Báo cáo.
Báo cáo được xây dựng trong một thời gian ngắn (từ tháng 4 đến hết
tháng 6-2012), vì vậy không tránh khỏi những khiếm khuyết, hạn chế. Trân
trọng kính gửi các vị đại biểu Quốc hội để tham kh
ảo. Nếu có ý kiến góp ý, phản
hồi xin được gửi về Vụ tổng hợp (Văn phòng Quốc hội) để tiếp tục chỉnh lý,
hoàn thiện báo cáo.


5
Chương I-
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG
CHẤT VẤN GIỮA HAI KỲ HỌP QUỐC HỘI

1.1- Về quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội
Trong các hình thức hoạt động giám sát của Quốc hội nước ta thì chất vấn
là hình thức giám sát trực tiếp và được đại biểu Quốc hội tiến hành thường
xuyên. Chất vấn có vai trò r
ất quan trọng trong hoạt động giám sát tối cao của
Quốc hội, đồng thời có tác động lớn đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ
quan Nhà nước. Các đại biểu Quốc hội khi thực hiện quyền chất vấn không nhân
danh cá nhân mà nhân danh chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước là nhân dân,

thay mặt nhân dân yêu cầu người bị chất vấn phải trả lời về nhữ
ng vấn đề liên
quan đến trách nhiệm pháp lý; quy trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm chính trị
đối với người bị chất vấn.
Theo Từ điển tiếng Việt năm 1999
1
, thì “chất vấn là yêu cầu phải giải
thích rõ ràng - Đại biểu Quốc hội chất vấn Chính phủ”.
Theo quy định của Điều 2, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm
2003, thì chất vấn là một hoạt động giám sát, trong đó đại biểu Quốc hội nêu
những vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ
t
ướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án
Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và yêu cầu
những người này trả lời”.
Từ quy định nêu trên có thể thấy rằng, chất vấn là hoạt động quyền lực
nhằm thực hiện chức năng giám sát, là quyền hiến định của đại biểu Quốc hội,
được thể hiện bằng hình thức hỏi – đáp. B
ản chất của hoạt động chất vấn là việc
đại biểu Quốc hội yêu cầu những người giữ các chức danh do Quốc hội bầu


1
Minh Tân - Thanh Nghi - Xuân Lãm, Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Thanh Hóa, 1999, trang 200.

6
hoặc phê chuẩn trả lời về trách nhiệm của mình trong việc thực hiện chính sách
của Nhà nước hay về một vấn đề thời sự nào đó được nhân dân quan tâm.
2


Chất vấn chính là một trong những phương thức thiết yếu giúp Nghị viện
nhiều nước áp đặt trách nhiệm chính trị lên Chính phủ. Theo TS. Nguyễn Sĩ
Dũng, mục đích của chất vấn là để làm rõ trách nhiệm. Có nhiều loại trách
nhiệm và được xác định thông qua những cách thức và thủ tục khác nhau. Trách
nhiệm kỷ luật được xác định thông qua hoạt động kiểm tra, trách nhiệm hành
chính thông qua hoạt động thanh tra, trách nhiệm hình s
ự thông qua hoạt động
điều tra. Với tính chất là một hình thức giám sát của Quốc hội, chất vấn không
nhằm xác định các loại trách nhiệm kể trên, mà chủ yếu để làm rõ trách nhiệm
chính trị. Ví dụ như, nếu chính sách đầu tư là dàn trải, nếu bệnh thành tích là căn
bệnh trầm kha của ngành giáo dục, nếu năng lực điều chỉnh giá thuốc là bất cập
đối với ngành y tế thì ch
ế độ trách nhiệm ở đây trước hết là trách nhiệm chính
trị. Và hoạt động chất vấn của Quốc hội được sinh ra để làm rõ loại trách nhiệm
này. Chất vấn khẳng định chế độ trách nhiệm và tính công khai, minh bạch trong
hoạt động của Nhà nước ta
.
3

TS Lê Thanh Vân cho rằng, việc đặt câu hỏi chất vấn chính là bám vào
mục tiêu làm rõ vấn đề để điều chỉnh hành vi lãnh đạo, quản lý của đối tượng bị
chất vấn, góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu chung của sự nghiệp phát
triển đất nước, xã hội. Trên cơ sở giải trình và đưa ra phương án để giải quyết
vấn đề mà đại biểu Quốc hội chấ
t vấn (bao gồm giải trình về thực trạng/thực
chất của vấn đề, giải trình về nguyên nhân/lý do nảy sinh vấn đề, giải trình về
trách nhiệm quản lý, giải quyết vấn đề) để điều chỉnh các hành vi trong lãnh đạo,
quản lý của các bộ. Mặt khác, khi chất vấn của Quốc hội được truyền hình trực



2
TS. Hoàng Văn Tú, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu lập pháp, Cơ sở pháp lý của hoạt động chất vấn tại
phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội, phát biểu tại cuộc Tọa đàm về Hoàn thiện pháp luật về hoạt động chất
vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hà Nội, 12.4.2012.
3
TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Chất vấn, Báo Người đại biểu nhân dân, 24/4/2008.

7
tiếp để đông đảo cử tri cả nước có thể theo dõi và phản hồi ý kiến, thì đó sẽ là áp
lực, góp phần đẩy nhanh, mạnh và vững chắc các điều chỉnh cần thiết.
4

Có thể nói, chất vấn là một quyền riêng có của đại biểu Quốc hội, là việc
thực hiện một trong những hình thức giám sát mang lại hệ quả chính trị và hệ
quả xã hội to lớn. Từ kết quả trả lời chất vấn, đại biểu Quốc hội và các cơ quan
có thẩm quyền có thể thực hiện quyền kiến nghị bỏ phiếu tín nhiệm đối v
ới
người trả lời chất vấn. Với sự thu hút sự chú ý rộng rãi của công luận, các phiên
họp chất vấn được coi là đợt sinh hoạt chính trị về các vấn đề đang đặt ra trong
đời sống xã hội cần được giải quyết, do đó tạo sức ép lên Chính phủ để tăng
cường trách nhiệm, giải quyết nhanh hơn, tốt hơn vấn đề mà đại biểu đã nêu lên
hoặc cảnh báo qua các câu hỏi chất vấn.
Trong giai đoạn đổi mới, cùng với những đổi mới mạnh mẽ về đường lối,
chính sách phát triển kinh tế, đời sống chính trị của đất nước ta cũng từng bước
cởi mở, dân chủ hơn. Một trong những biểu hiện quan trọng nhất là hoạt động
của cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân – Quốc h
ội - dần trở nên thực chất,
công khai hơn với những hoạt động bao trùm như lập pháp, giám sát, quyết định
các vấn đề quan trọng, hoạt động tiếp xúc cử tri và đặc biệt là hoạt động chất
vấn các thành viên Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng

Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đây là hoạt động mới, được phát thanh, truyền
hình trực tiếp nên tạo ra nét hấp dẫn, cuốn hút đối với ng
ười dân, bởi nó giúp
người dân được tiếp cận nhiều hơn với hoạt động của các cơ quan công quyền
vốn khá khép kín trong thời kỳ bao cấp trước đây. Tuy nhiên, về lâu dài, nếu
không liên tục tạo ra được tính ”hấp dẫn”, ”cuốn hút”, không đem lại những
hiệu quả thiết thực, cụ thể mà chỉ là sự ”xới xáo” một số vấn đề rồi lại để chìm
vào quên lãng thì dần d
ần người dân cũng sẽ cảm thấy nhàm chán, thấy rõ tính
chất ”trình diễn” trong hoạt động của cơ quan dân cử. Đó chính là đòi hỏi, là áp
lực đặt ra đối với hoạt động của Quốc hội nói chung và hoạt động chất vấn nói
riêng trong thời gian tới.


4
Lê Thanh Vân, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Hoàn thiện các quy định của pháp luật về chất vấn và trả
lời chất vấn của đại biểu Quốc hội", Hà Nội, tháng 12-2001, tr6.

8
1.2- Vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với hoạt động chất
vấn của đại biểu Quốc hội
1.2.1. Vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong hoạt động của Quốc
hội nói chung
Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội, Ủy ban thường
vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội nướ
c ta. Trong cơ cấu của
Quốc hội, vị trí của Ủy ban thường vụ Quốc hội có thể được mô tả như sau:
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của Quốc hội
5



Trong điều kiện Quốc hội hoạt động không thường xuyên, mỗi năm
thường họp 2 kỳ với tổng thời gian khoảng 60 ngày, Ủy ban thường vụ Quốc hội
vừa là một cơ quan thuộc cơ cấu tổ chức của Quốc hội được thực hiện một số
nhiệm vụ trong thời gian giữa hai kỳ họp; vừa là một thực thể
độc lập, có vai trò
quan trọng đối với hoạt động của Quốc hội, cụ thể là:


5
Nguồn: website của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
/>

9
Trong lĩnh vực lập pháp: lập pháp là một trong những nội dung hoạt động
quan trọng của Ủy ban thường vụ Quốc hội, tất cả các dự án luật trước khi được
trình ra Quốc hội đều phải được Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý
kiến; bên cạnh đó, Ủy ban thường vụ Quốc hội tự mình xem xét, thông qua pháp
lệnh, nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật. Hoạ
t động lập pháp chiếm một
thời lượng đáng kể trong các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Chẳng
hạn, năm 2009, trong số 11 phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khóa XII,
(từ phiên họp thứ 16 đến phiên họp thứ 26), phiên họp nào cũng có nội dung về
hoạt động lập pháp. Tính trung bình thời gian dành cho hoạt động lập pháp của
Uỷ ban thường vụ Quố
c hội trong năm 2009 là xấp xỉ 44,11% tổng số thời gian
họp, trong đó có phiên họp mà thời gian dành cho hoạt động lập pháp lên đến
82,14%
6
(phiên họp thứ 19). Tại các phiên họp này, Uỷ ban thường vụ Quốc hội

thường thảo luận, cho ý kiến về những định hướng chính sách quan trọng cho
các dự án. Trên cơ sở những ý kiến này, các dự án luật, dự thảo nghị quyết được
chỉnh lý, hoàn thiện, trình Quốc hội.
Trong việc quyết định các vấn đề quan trọng: theo quy định của Hiến
pháp và Luật tổ chức Quốc h
ội, Ủy ban thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ và
quyền hạn liên quan đến việc quyết định các vấn đề quan trọng như sau: Trong
trường hợp Quốc hội không thể họp được, quyết định việc tuyên bố tình trạng
chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định
tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội; Quyết định t
ổng động viên hoặc động viên
cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;
Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết
định của Quốc hội
7
Ngoài ra, trong một số văn bản khác, Ủy ban thường vụ
Quốc hội cũng được giao những nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến thẩm quyền
quyết định các vấn đề quan trọng như Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Chính phủ, Luật ngân sách Nhà


6
Trung tâm thông tin, thư viện và nghiên cứu khoa học, Hoạt động của Quốc hội năm 2009 – một số số liệu
thống kê và phân tích.
7
Điều 91, Hiến pháp 1992, Điều 7, Luật tổ chức Quốc hội

10
nước, Luật khiếu nại, tố cáo, Luật thanh tra, Luật phòng, chống tham nhũng,
Luật kiểm toán Nhà nước…

Trong lĩnh vực giám sát: Theo các quy định pháp luật hiện hành về tổ
chức và hoạt động của Quốc hội, thẩm quyền giám sát được phân định cho từng
chủ thể, trong đó Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện quyền giám sát đối với
hoạt động của Chính phủ, Th
ủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên
khác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc thi hành
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban
thường vụ Quốc hội; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, ngh

quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc thuộc trung ương; giúp
Quốc hội giám sát theo sự phân công của Quốc hội. Thực tế, hoạt động giám sát
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội chủ yếu tập trung vào ba nội dung công việc là:
(1) Xem xét các báo cáo công tác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và yêu cầu các cơ quan này báo cáo những nội
dung khác khi xét thấy cần thiết.
(2) Xem xét báo cáo của các đoàn giám sát, bao g
ồm các đoàn giám sát
theo chương trình giám sát của Quốc hội và chương trình giám sát của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội trước khi báo cáo Quốc hội tại kỳ họp.
(3) Tổ chức hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn.
Nhìn chung, với vị trí là cơ quan thường trực của Quốc hội, vai trò của Ủy
ban thường vụ Quốc hội chủ yếu là cơ quan điều ph
ối chương trình, cân nhắc về
mặt quy trình, thủ tục để đưa các vấn đề trọng đại vào chương trình nghị sự của
Quốc hội. Bên cạnh đó, Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng được pháp luật giao
thẩm quyền quyết định trong việc thực hiện một số nhiệm vụ thuộc các lĩnh vực
lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọ
ng. Về định hướng phát


11
triển vị trí, vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian tới,
8
hiện nay
có hai luồng quan điểm , đó là:
Thứ nhất, xu hướng đưa Quốc hội từng bước tiến tới hoạt động thường
xuyên, theo đó sẽ tăng số lượng, thời gian tiến hành kỳ họp Quốc hội (đồng
nghĩa với việc tăng số lượng các phiên họp toàn thể) và thu hẹp thẩm quyền của
Ủy ban thường vụ Quốc hội. Ủ
y ban thường vụ Quốc hội sẽ chỉ chịu trách
nhiệm chuẩn bị cho các kỳ họp Quốc hội (xem xét, cho ý kiến về hồ sơ, tài liệu,
quy trình thủ tục chuẩn bị các văn bản dự kiến trình Quốc hội tại kỳ họp) mà
không còn những thẩm quyền riêng như: ban hành pháp lệnh, trực tiếp giám sát
hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao Trên thự
c tế hiện nay, đã và đang có những chính sách của Đảng và quy
định của pháp luật thể hiện xu thế này. Chẳng hạn, trước khi Hiến pháp 1992
được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001, Ủy ban thường vụ Quốc hội còn
có thẩm quyền: ”Trong thời gian Quốc hội không họp, phê chuẩn đề nghị của
Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễ
n nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng,
Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và báo cáo với Quốc hội tại kỳ
họp gần nhất của Quốc hội”
9
, nhưng hiện nay, thẩm quyền này đã bị bãi bỏ. Bên
cạnh đó, nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
X cũng khẳng định chủ trương đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội theo
hướng tập trung cao hơn quyền lập pháp vào Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội giảm ban hành pháp lệnh.

10

Thứ hai, xu hướng củng cố tổ chức và hoạt động của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, coi đây là một cơ cấu quan trọng, chịu trách nhiệm trong việc tổ chức
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của Quốc hội. Với việc thành
viên Ủy ban thường vụ Quốc hội đồng thời là thành viên Đảng đoàn Quốc hộ
i,
Ủy ban thường vụ Quốc hội còn có nhiệm vụ bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối


8
Các ý kiến thảo luận trong quá trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992.
9
Khoản 8, Điều 91, Hiến pháp 1992.
10
Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 09 tháng 02 năm 2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua tại
Hội nghị lần thứ tư, khoá X "Về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, định hướng về đổi mới tổ
chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội".


12
với hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
Như vậy, thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội không những không thu
hẹp mà còn được tăng cường và mọi vấn đề quan trọng Quốc hội sẽ xem xét trên
cơ sở Tờ trình, Báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Chúng tôi cho rằng, việc xây dựng
Ủy ban thường vụ Quốc hội trở thành
một ”Quốc hội thu nhỏ” để xem xét, quyết định nhiều vấn đề thuộc thẩm quyền
của Quốc hội (về mặt lý thuyết) khó có thể được Quốc hội đồng thuận trong giai
đoạn hiện nay, khi Quốc hội đang tiếp tục cải tiến, đổi mới hoạt động theo

hướng ngày càng dân chủ, công khai và rộng mở h
ơn. Tuy nhiên, với việc khẳng
định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà
nước trong Hiến pháp thì việc tồn tại cơ cấu Ủy ban thường vụ Quốc hội để bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Quốc hội là tất yếu. Do đó, vị
trí, vai trò của Ủy ban thường vụ Quố
c hội nói chung sẽ tiếp tục được củng cố
và phát huy trong hoạt động của Quốc hội.
1.2.2. Vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong hoạt động chất vấn
Trong việc tổ chức thực hiện quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội, theo
quy định tại Điều 16, Điều 49 Luật tổ chức Quốc hội, Điều 25 Quy ch
ế hoạt
động của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Tại các kỳ họp Quốc hội:
1. Nghe báo cáo về việc tiếp nhận, tổng hợp, phân loại chất vấn của đại
biểu Quốc hội;
2. Dự kiến các nội dung và danh sách những người có trách nhiệm trả lời
chấ
t vấn của đại biểu Quốc hội và báo cáo Quốc hội quyết định; yêu cầu người
bị chất vấn chuẩn bị nội dung trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội;
3. Khi xét thấy cần thiết, đề nghị Quốc hội ra nghị quyết về việc trả lời
chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn.
- Trong th
ời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội:

13
1. Chỉ đạo việc tiếp nhận chất vấn của đại biểu Quốc hội để chuyển đến
cơ quan hoặc người bị chất vấn;
2. Quyết định thời hạn, hình thức trả lời chất vấn;

3. Xem xét việc trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội được Quốc hội
quyết định cho trả lời tại phiên h
ọp Uỷ ban thường vụ Quốc hội và chất vấn
khác được gửi đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp
Quốc hội;
4. Xem xét việc trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội trong trường hợp
cần điều tra;
5. Xem xét việc trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội trong trường h
ợp
đại biểu Quốc hội không đồng ý với nội dung trả lời
bằng văn bản của người trả
lời chất vấn và được Chủ tịch Quốc hội đồng ý đưa ra thảo luận trước Uỷ ban
thường vụ Quốc hội;

6. Khi xét thấy cần thiết, ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách
nhiệm của người bị chất vấn.
Như vậy, có thể thấy rằng, Ủy ban thường vụ Quốc hội là một cơ cấu
quan trọng trong việc giúp Quốc hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ luật định, cả
trong lĩnh vực lập pháp, giám sát và quyết định các v
ấn đề quan trọng. Riêng đối
với việc thực hiện quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội trong thời gian Quốc
hội không họp, Ủy ban thường vụ Quốc hội có thẩm quyền ”xem xét việc trả lời
chất vấn” đối với bốn loại chất vấn của đại biểu Quốc hội, đó là:
(1) Các chất vấn cần điề
u tra;
(2) Các chất vấn được Quốc hội quyết định cho trả lời tại phiên họp Ủy
ban thường vụ Quốc hội;
(3) Các chất vấn được ”
gửi đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa
hai kỳ họp Quốc hội

” mà Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định ”hình thức trả
lời” là ”trả lời trước Ủy ban thường vụ Quốc hội”.

14
(4) Các chất vấn đã được trả lời bằng văn bản mà đại biểu Quốc hội
không đồng ý với nội dung trả lời
bằng văn bản của người trả lời chất vấn và
được Chủ tịch Quốc hội đồng ý đưa ra thảo luận trước Uỷ ban thường vụ Quốc
hội.
1.3- Mục đích, ý nghĩa của hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban
thường vụ Quốc hội
1.3.1. Mục đích
Trong các văn bản pháp luật hiện hành, từ Hiến pháp đế
n Luật tổ chức
Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và các văn bản liên quan khác,
khi đề cập đến hoạt động chất vấn tại các phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội
đều sử dụng thuật ngữ ”xem xét việc trả lời chất vấn”. Vậy thế nào là xem xét
việc trả lời chất vấn, mối quan hệ giữa thẩ
m quyền của Ủy ban thường vụ Quốc
hội xem xét việc trả lời chất vấn và quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội; có
phải trong mọi trường hợp tổ chức hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban
thường vụ Quốc hội đều là việc ”Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét việc trả lời
chất v
ấn”?
Nếu như quyền chất vấn là quyền riêng có của cá nhân đại biểu Quốc hội
thì hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội với tư cách là một tập thể, một cơ
quan của Quốc hội khi xem xét việc trả lời chất vấn là nhằm hướng vào chủ thể
trả lời chất vấn; đồng thời, là một hoạt
động giám sát của Ủy ban thường vụ
Quốc hội đối với các cá nhân do Quốc hội bầu, phê chuẩn. Trong trường hợp

này, có thể hiểu Ủy ban thường vụ Quốc hội tổ chức phiên họp để xem xét, đánh
giá việc trả lời đối với những chất vấn đã có, đã xác định trước của đại biểu
Quốc hội. Hay nói cách khác, đây chỉ là một hoạt độ
ng giám sát của chủ thể Ủy
ban thường vụ Quốc hội, không phải là hoạt động giám sát của đại biểu Quốc
hội.
Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội, với yêu cầu về
chủ thể quyết định tiến hành và nội dung của hoạt động chất vấn và trả lời chất
vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quố
c hội (Quốc hội quyết định trong trường

15
hợp cần điều tra về vấn đề đại biểu Quốc hội chất vấn; Chủ tịch Quốc hội quyết
định trong trường hợp đại biểu Quốc hội đề nghị khi không đồng ý với nội dung
trả lời bằng văn bản của người trả lời chất vấn) có thể thấy, đây là một hoạt động
không phổ bi
ến với mục đích là để làm sáng tỏ hơn những vấn đề đại biểu Quốc
hội đã chất vấn tại kỳ họp Quốc hội hoặc giữa hai kỳ họp Quốc hội và đây cũng
chính là việc Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét việc trả lời chất vấn.
Theo Luật hoạt động giám sát, Quy chế hoạt động c
ủa Ủy ban thường vụ
Quốc hội, với việc quy định “những chất vấn được gửi tới Ủy ban thường vụ
Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội” và “những chất vấn khác
do Quốc hội giao” đều có thể được đưa ra chất vấn tại phiên họp Ủy ban
thường vụ Quốc hội thì hoạt động chấ
t vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ
Quốc hội có mục đích là nhằm giải quyết kịp thời những vấn đề đại biểu
Quốc hội chất vấn giữa hai kỳ họp Quốc hội và giải quyết nốt những vấn đề
đại biểu Quốc hội nêu lên tại kỳ họp Quốc hội nhưng chưa có điề
u kiện về

thời gian để chất vấn trực tiếp tại các phiên họp toàn thể của Quốc hội. Vì
vậy, trong trường hợp này, có thể hiểu bản chất của hoạt động là: Ủy ban
thường vụ Quốc hội xem xét việc trả lời chất vấn, đồng thời, tổ chức để đại
biểu Quốc hội thực hiện quyền chất vấ
n giữa hai kỳ họp Quốc hội; hoạt động
chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội là sự tiếp nối của hoạt
động chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội. Chủ thể của hoạt động không chỉ là
Ủy ban thường vụ Quốc hội mà còn là đại biểu Quốc hội vì đại biểu sẽ tham
dự và tiếp t
ục đặt câu hỏi chất vấn. Do đó, có thể nói, đây không chỉ là hoạt
động giám sát của riêng Ủy ban thường vụ Quốc hội mà còn là hoạt động
giám sát của các vị đại biểu Quốc hội đối với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của các cá nhân được Quốc hội bầu, phê chuẩn.
Như vậy, ở các thời điểm khác nhau, Quốc hội có những quy
ết định khác
nhau về mục đích của hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc
hội. Đồng thời, những chủ thể chính mà hoạt động này hướng tới trong hai
trường hợp nêu trên cũng khác nhau. Chúng tôi cho rằng, vào thời điểm Quốc

16
hội thông qua Hiến pháp năm 1992, những quy định của Hiến pháp và sau đó
được cụ thể hóa tại Luật tổ chức Quốc hội về hoạt động chất vấn tại phiên họp
Ủy ban thường vụ Quốc hội là phù hợp với thực tiễn hoạt động của Quốc hội với
số lượng chất vấn của đại biểu Quốc hội không nhiều, mứ
c độ công khai hóa
hoạt động của Quốc hội còn hạn chế (các phiên họp chất vấn chưa được truyền
hình, phát thanh trực tiếp để nhân dân theo dõi) Hơn hai nhiệm kỳ sau đó, với
những đổi mới không ngừng cả về tổ chức và phương thức hoạt động, Quốc hội
nước ta đã từng bước khẳng định được vị trí, vai trò của mình là cơ quan quyền
lự

c nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Cử tri và nhân
dân cả nước theo dõi sát sao hơn, đặt nhiều kỳ vọng hơn vào hoạt động của
Quốc hội nói chung và các vị đại biểu Quốc hội nói riêng. Vì vậy, yêu cầu đặt ra
đối với hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội
vào thời điểm Quốc hộ
i thông qua Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm
2003 đã khác hơn so với năm 1992. Đó có thể là những lý giải cho những “thay
đổi” hay “mở rộng” hơn về mục đích tổ chức hoạt động chất vấn tại phiên họp
Ủy ban thường vụ Quốc hội của Luật hoạt động giám sát so với Hiến pháp và
Luật tổ chức Quốc hội như trên. Những
điểm mở rộng đó chính là xuất phát từ
yêu cầu của thực tiễn và đã được đa số đại biểu Quốc hội chấp thuận với việc
biểu quyết thông qua Luật hoạt động giám sát.
Cũng có ý kiến băn khoăn về việc có nên tổ chức một cách thường xuyên
hoạt động chất vấn trong thời gian giữa hai kỳ họp như hiện nay hay chỉ
nên tổ
chức hoạt động này khi ”có vấn đề bức xúc trong thực tiễn”, ví dụ như vụ thất
thoát ngân sách nhà nước ở các Tập đoàn Vinashin, Vinalines hay vụ vi phạm
pháp luật trong cưỡng chế thu hồi đất ở Tiên Lãng, Hải Phòng Tuy vậy, ý
kiến khác lại cho rằng việc tổ chức thường xuyên các phiên họp chất vấn tại Ủy
ban thường vụ Quốc hội chính là thông điệp của Quốc hộ
i gửi tới cử tri để cử tri
thấy được tính thường xuyên, liên tục trong hoạt động của Quốc hội. Bên cạnh
đó, quan niệm về ”vấn đề bức xúc trong thực tiễn” để tổ chức hoạt động này
cũng không nên cứng nhắc, hoàn toàn có thể tổ chức chất vấn về những vấn đề

17
nhỏ nhưng có ý nghĩa xã hội to lớn và thể hiện tính chất phản ứng nhanh của
Quốc hội với các vấn đề bức xúc trong xã hội.
11


Chúng tôi cho rằng, việc tổ chức hoạt động chất vấn ”khi có vấn đề” theo
cách giải thích ở trên là rất cần thiết, nhằm gắn hoạt động của cơ quan lập pháp
với đời sống sinh động của xã hội, thực hiện quyền giám sát của mình đối với
các thiết chế khác. Tuy vậy, để phù hợp với điều kiện hoạt động của Quốc hội
nước ta, mỗi năm chỉ họp hai kỳ, phần lớn các đại biểu Quốc hội đều hoạt động
kiêm nhiệm, vì thế, việc tổ chức hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban
thường vụ Quốc hội và mục đích của hoạt động này cần phải được quy định một
cách linh hoạt, gắn với thực tiễn sinh động của cuộ
c sống. Ủy ban thường vụ
Quốc hội nên được giao đủ thẩm quyền để vừa tổ chức hoạt động chất vấn một
cách thường xuyên, định kỳ, vừa có thẩm quyền tổ chức hoạt động chất vấn khi
có vấn đề bức xúc trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, có vấn đề ”cần
điều tra” để trả lờ
i câu hỏi chất vấn của đại biểu Quốc hội hoặc khi đại biểu
Quốc hội không thỏa mãn với câu trả lời bằng văn bản của người trả lời chất
vấn.
1.3.2. Ý nghĩa
Để tìm hiểu về ý nghĩa của hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban
thường vụ Quốc hội, trước hết, cần phân tích sự giống nhau và khác nhau gi
ữa
hoạt động chất vấn tại kỳ họp và chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc
hội:
- Quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội cho dù được thực hiện tại các kỳ
họp Quốc hội hay tại các phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội đều là việc thực
hiện một trong những hình thức giám sát củ
a đại biểu Quốc hội. Phiên họp chất
vấn và trả lời chất vấn là diễn đàn để đại biểu Quốc hội nêu những vấn đề thuộc
trách nhiệm của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối



11
Ý kiến thảo luận tại Tọa đàm về Hoàn thiện pháp luật về hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Hà Nội, 12.4.2012

18
cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và yêu cầu những người này
trả lời. Đi kèm theo quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội là trách nhiệm phải
trả lời câu hỏi chất vấn của các đối tượng theo quy định của pháp luật. Hậu quả
pháp lý của hoạt động là đều có thể dẫn tới việc xác định trách nhiệm chính trị,
pháp lý của người trả
lời chất vấn, cụ thể và rõ ràng nhất là có thể dẫn tới việc
bỏ phiếu tín nhiệm.
- Về đối tượng, thành phần tham gia: chất vấn tại kỳ họp là hoạt động của
một ”phiên họp toàn thể”, với sự có mặt của tất cả các vị đại biểu Quốc hội, còn
chất vấn tại Ủy ban thường vụ Quốc hội thì
đối tượng, thành phần tham dự hạn
hẹp hơn:
1- Ủy ban thường vụ Quốc hội.
2- Các vị đại biểu Quốc hội có chất vấn được trả lời tại phiên họp
Ủy ban thường vụ Quốc hội.
3- Các vị đại biểu Quốc hội chuyên trách ở trung ương, Hà Nội và
một số tỉnh lân cận.
4- Khách mời của Ủy ban thường vụ Quốc hội không phải là đại
biểu Quốc hội (tham dự như
ng không chất vấn).
12

Tuy nhiên, cho đến phiên họp thứ sáu, Quốc hội khóa XIII, Ủy ban

thường vụ Quốc hội đã cải tiến cách thức tiến hành phiên họp chất vấn, theo đó,
toàn thể đại biểu Quốc hội ở 63 tỉnh, thành phố có điều kiện để tham dự trực tiếp
phiên chất vấn thông qua truyền hình trực tuyến, có quyền đặt câu hỏi đối với
người trả lời chất v
ấn. Như vậy, sự khác biệt về đối tượng, thành phần phiên họp
chất vấn tại kỳ họp Quốc hội và phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội đã không
còn mà chỉ là sự khác biệt trong cách thức tổ chức phiên họp.
- Về tính chất của hoạt động: tại kỳ họp Quốc hội, hoạt động chất vấn là
hoạt động giám sát tố
i cao, còn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội là hoạt
động giám sát của cơ quan thường trực của Quốc hội và đồng thời là hoạt động


12
Kế hoạch số 98/KH-UBTVQH12 ngày 28 tháng 2 năm 2008 về việc tổ chức hoạt động chất vấn tại phiên
họp thứ bảy của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XII (tháng 3-2008)

19
giám sát của đại biểu Quốc hội. Trường hợp có Nghị quyết về chất vấn và trả
lời chất vấn thì Nghị quyết của Quốc hội có hiệu lực cao hơn so với Nghị quyết
của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Về nội dung chất vấn, một trong những mục đích hướng tới của hoạt
động chất vấ
n tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội được xác định ngay từ
những phiên họp đầu tiên là để dành thời gian chất vấn tại kỳ họp Quốc hội tập
trung vào các vấn đề ở tầm vĩ mô, còn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc
hội, sẽ tiến hành chất vấn đối với những vấn đề thời sự, mới phát sinh trong
th
ực tế. Tuy nhiên, hiện nay cơ chế để đưa “những vấn đề thời sự, mới phát sinh
trong thực tế” vào phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội còn chưa rõ ràng, gặp

nhiều khó khăn bởi số lượng câu hỏi chất vấn của đại biểu Quốc hội gửi đến
giữa hai kỳ họp là rất ít. Các nội dung chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường v

Quốc hội chủ yếu là những nội dung do Quốc hội quyết định tại kỳ họp trước
đó, vì vậy, tính thời sự không thật cao và khó có thể nói đó không phải là những
vấn đề “ở tầm vĩ mô”. Vì vậy, sự khác biệt trong nội dung chất vấn tại phiên họp
Ủy ban thường vụ Quốc hội và kỳ họp Quốc hội không thực sự rõ ràng.

Như vậy, ở thời điểm hiện nay, trong điều kiện hoạt động chất vấn tại
phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội có tính chất gần giống với hoạt động chất
vấn tại kỳ họp Quốc hội, việc tổ chức hoạt động này chỉ đơn thuần mang ý nghĩa
tăng tần suất hoạt động giám sát củ
a Quốc hội nhằm tiếp tục nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu
Quốc hội. Bên cạnh đó, do các phiên họp chất vấn được phát thanh, truyền hình
trực tiếp, được nhiều phương tiện thông tin đại chúng, báo chí bình luận, đưa tin
nên đã thu hút sự chú ý rộng rãi của nhân dân và công luận về những vấn đề bức
xúc về kinh tế, xã hội, có tác động mạnh mẽ và cũng là sức ép, áp lực để Chính
phủ giải quyết kịp thời và triệt để hơn những vấn đề bức xúc được đại biểu Quốc
hội thay mặt cử tri nêu lên. Ở một số nước, nhiều bộ trưởng phải từ chức do áp
lực của công luận chứ không nhất thiết là áp lực từ phía Nghị việ
n. Đồng thời,
thông qua các phiên họp chất vấn và trả lời chất vấn giữa hai kỳ họp Quốc hội,

20
cử tri cũng có điều kiện để hiểu biết tốt hơn về đời sống kinh tế, chính trị, xã hội
của đất nước; về hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp; về
những chính sách mới ban hành và sắp ban hành, như vậy, đóng góp tích cực
vào việc dân chủ hóa và minh bạch hóa hoạt động của các cơ quan trọng bộ máy
nhà nước.

Tóm lại, nghiên cứ
u cơ sở lý luận của hoạt động chất vấn tại phiên họp
Ủy ban thường vụ Quốc hội cho thấy về cơ bản, việc Ủy ban thường vụ Quốc
hội tổ chức hoạt động này là phù hợp với những nguyên lý cơ bản và điều kiện
về tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước ta, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
về việc tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XIII
(tháng 5,6-2012) vừa qua, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 27/2012/QH13
về một số cải tiến, đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động củ
a Quốc
hội, trong đó có nội dung đổi mới hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức
danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn. Có thể nói, hoạt động chất vấn giữa hai kỳ
họp sẽ góp phần tạo thêm diễn đàn để thảo luận và giúp đại biểu Quốc hội có
thêm thông tin cần thiết để đưa ra quyết định của mình.

21
Chương II-
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN
TẠI PHIÊN HỌP ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

2.1- Thực trạng hệ thống quy định pháp luật về hoạt động chất vấn
tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội
Như đã trình bày tại Chương I của Báo cáo, hệ thống quy định pháp luật
về hoạt động chất vấn t
ại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội được quy định
trong các văn bản pháp luật như: Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt
động giám sát của Quốc hội, Quy chế hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội. Có
thể phân loại quy
định pháp luật về lĩnh vực này theo những nội dung cơ bản

như sau:
2.1.1. Quy định về điều kiện tổ chức hoạt động chất vấn
a) Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội
Điểm 2 Điều 98, Hiến pháp 1992 và Điểm 2 Điều 49 Luật tổ chức Quốc
hội quy định:
“Người bị chất vấn ph
ải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp; trong trường
hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban
thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng
văn bản”.
Điểm 3 và 4, Điều 49 Luật tổ chức Quốc h
ội quy định:
“Trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội, chất vấn được gửi đến Uỷ ban
thường vụ Quốc hội để chuyển đến cơ quan hoặc người bị chất vấn và quyết
định thời hạn trả lời chất vấn. Nếu đại biểu Quốc hội không đồng ý với nội dung
trả lời thì có quyền đề nghị Chủ t
ịch Quốc hội đưa ra thảo luận trước Quốc hội
hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội.”

22
Như vậy, theo Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội thì mặc nhiên các chất
vấn của đại biểu Quốc hội giữa hai kỳ họp của Quốc hội sẽ được trả lời bằng
văn bản; chỉ có hai chủ thể có quyền quyết định việc tổ chức chất vấn hoặc thảo
luận về vấn đề chất vấn củ
a đại biểu Quốc hội trước Ủy ban thường vụ Quốc hội
và chỉ trong những trường hợp nhất định, đó là:
(1) Quốc hội quyết định: trong trường hợp cần điều tra về vấn đề đại biểu
Quốc hội chất vấn;
(2) Chủ tịch Quốc hội quyết định: trong trường hợp đại biểu Quốc hội đề
nghị khi không đồng ý với nội dung trả lời bằng văn bản của người trả lời chất

vấn.
b) Theo quy định của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Quy chế
hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội quy định tại điểm 3, Điều 15 về các
hoạt động giám sát củ
a Ủy ban thường vụ Quốc hội việc: “Xem xét việc trả lời
chất vấn của người bị chất vấn trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội” mà
không thể hiện rõ về điều kiện tổ chức hoạt động chất vấn.
Điểm a, khoản 1, Điều 19 quy định về quy trình trả lời chất vấn tại phiên
họp Uỷ ban thườ
ng vụ Quốc hội nêu một số điều kiện để tổ chức hoạt động chất
vấn như sau:
“Chủ tịch Quốc hội nêu chất vấn của đại biểu Quốc hội đã được Quốc hội
quyết định cho trả lời tại phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội và những chất
vấn khác được gửi tới U
ỷ ban thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ
họp Quốc hội;”
Khoản 3, Điều 25 Quy chế hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc tổ
chức thực hiện quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội quy định:

23
“Xem xét việc trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội được Quốc hội quyết
định cho trả lời tại phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội và chất vấn khác được
gửi đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội;”
Như vậy, theo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và
Quy chế hoạt
động của Ủy ban thường vụ Quốc hội
thì “những chất vấn được gửi tới Ủy ban
thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội” đều có thể

được đưa ra để Ủy ban thường vụ Quốc hội “xem xét việc trả lời” tại phiên
họp Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đồng thời, đối với những chất vấn do đại
biểu Quốc h
ội nêu lên tại kỳ họp, Quốc hội có thể quyết định “chuyển” sang
trả lời tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội không nhất thiết phải là
những chất vấn “cần điều tra”.
2.1.2. Quy định về đối tượng trả lời chất vấn
Điều 16 Luật tổ chức Quốc hội quy định về đối tượng trả lờ
i chất vấn
tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội như sau:
“Trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội
xem xét việc Thủ tướng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà
án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trả lời chất
vấn ”.
Trong khi đó, Điểm 1 Điều 98 Hiến pháp 1992 và Điều 49 Luật tổ ch
ức
Quốc hội quy định: ”Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ
tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ,
Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao”. Như vậy, đối tượng trả lời chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ
Quốc hội hẹp hơn đối t
ượng trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội và không bao
gồm Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội.
2.1.3. Quy định về quy trình tổ chức chất vấn
Quy trình tổ chức hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ
Quốc hội được quy định tại Điều 19 của Luật hoạt động giám sát của Quốc

24
hội như sau:
“a) Chủ tịch Quốc hội nêu chất vấn của đại biểu Quốc hội đã được

Quốc hội quyết định cho trả lời tại phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội và
những chất vấn khác được gửi tới Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong thời gian
giữa hai kỳ họp Quốc hội;
b) Người bị chấ
t vấn trả lời trực tiếp, đầy đủ nội dung các vấn đề mà
đại biểu Quốc hội đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm, biện pháp khắc
phục;
c) Đại biểu Quốc hội đã chất vấn có thể được mời tham dự phiên họp
Uỷ ban thường vụ Quốc hội và phát biểu ý kiến. Trong trường hợp đại biểu
Quốc hội có chất v
ấn không tham dự phiên họp thì nội dung trả lời chất vấn,
kết quả phiên họp trả lời chất vấn phải được gửi tới đại biểu đó chậm nhất là
bảy ngày, kể từ ngày kết thúc phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội; nếu đại
biểu Quốc hội có chất vấn không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề
nghị
Uỷ ban thường vụ Quốc hội đưa ra thảo luận tại kỳ họp Quốc hội.”
2.1.4. Quy định về hậu quả chất vấn
Việc ban hành Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về trả lời chất
vấn được quy định tại Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc
hội và Quy chế ho
ạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Cụ thể là:
- Điều 49, Luật tổ chức Quốc hội quy định: “khi cần thiết, Quốc hội hoặc
Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách
nhiệm của người bị chất vấn.”
- Điều 19, Luật hoạt động giám sát củ
a Quốc hội quy định: “Sau khi nghe
trả lời chất vấn, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết về việc trả lời chất
vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết”.
- Điều 25, Quy chế hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định:
“Khi xét thấy cần thiết, ra nghị quyết hoặ

c đề nghị Quốc hội ra nghị quyết về
việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn”.

25
Như vậy, theo quy định, khi cần thiết, có hai chủ thể có quyền ra nghị
quyết về hoạt động chất vấn đó là:
(1) Quốc hội
(2) Ủy ban thường vụ Quốc hội
Nội dung của nghị quyết có thể bao gồm hai vấn đề sau:
(1) Về việc trả lời chất vấn
(2) Về trách nhiệm của người bị chấ
t vấn.
Bên cạnh đó, khoản 5, Điều 11 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội quy định:
“Người đã trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, tại phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội
hoặc đã trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội bằng văn bản có trách nhiệm báo cáo với các
đại biểu Quố
c hội bằng văn bản về việc thực hiện những vấn đề đã hứa khi trả lời chất vấn tại
kỳ họp tiếp theo”. Đây cũng là một trong những quy định ràng buộc hậu chất vấn đối với
người trả lời chất vấn, là căn cứ giúp Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc
h
ội tiếp tục giám sát đối với người trả lời chất vấn.
2.1.5. Những vấn đề đặt ra
Nhìn chung, cơ sở pháp lý để tiến hành hoạt động chất vấn tại phiên
họp Ủy ban thường vụ Quốc hội đã được pháp luật quy định trong các văn
bản pháp luật, từ Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát
của Quốc hội đến các văn bản pháp quy khác như Quy chế hoạt động của Ủ
y
ban thường vụ Quốc hội, Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn
đại biểu Quốc hội, Nội quy kỳ họp Quốc hội. Cụ thể là pháp luật đã quy định
các vấn đề như: thẩm quyền, nhiệm vụ, trách nhiệm của Ủy ban thường vụ

Quốc hội trong việc tổ chức chất vấn và trả lời chấ
t vấn, đối tượng, quy trình
chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội, quyền của đại biểu Quốc
hội trong hoạt động chất vấn giữa hai kỳ họp Quốc hội .v.v Ủy ban thường
vụ Quốc hội có cơ sở, căn cứ pháp luật để có thể tổ chức hoạt động chất vấn
và xem xét việc trả lời ch
ất vấn tại các phiên họp thường kỳ giữa hai kỳ họp
Quốc hội.

×