Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Kiểm soát tập trung kinh tế theo quy định của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.8 KB, 16 trang )

Kiểm soát tập trung kinh tế theo quy định của
pháp luật Việt Nam

Phạm Thị Ngoan

Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: TS. Vũ Quang
Năm bảo vệ: 2011

Abstract: Trình bày những vấn đề lý luận chung về tập trung kinh tế và kiểm soát
bằng pháp luật đối với tập trung kinh tế. Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật cạnh
tranh kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế ở Việt Nam trong mối quan hệ so sánh
với pháp luật cạnh tranh ở một số nước trên thế giới. Đưa ra phương hướng và một số
giải pháp pháp lý nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế để đảm bảo
tính hệ thống, đồng bộ với các quy định của pháp luật hiện hành về cạnh tranh và hài
hòa với pháp luật quốc tế.

Keywords: Pháp luật Việt Nam; Luật kinh tế; Doanh Nghiệp

Content
MỞ ĐẦU
1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
Tập trung kinh tế là một hiện tượng bình thường trong đời sống kinh tế, là hành vi của doanh
nghiệp. Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường xuất phát điểm từ một nền sản xuất nhỏ
đi lên, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm một số lượng chủ yếu thì việc các doanh nghiệp đó tìm
cách liên kết, tập trung lại với nhau là một điều tất yếu và rất cần thiết. Mặt khác, trong bối cảnh
chúng ta đang tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, đã xuất hiện các công ty đa quốc gia, với tiềm
lực mạnh mẽ về kinh tế các công ty đa quốc gia này đã, đang và sẽ tiến hành các vụ tập trung kinh
tế nhằm hình thành vị trí thống lĩnh vị trí độc quyền dẫn đến một bộ phận doanh nghiệp Việt Nam
bị loại khỏi thương trường, gây tác hại tiêu cực đến nền kinh tế thị trường non trẻ Việt Nam. Rõ


ràng các hành vi tập trung kinh tế có các tác động khác nhau và tác động trực tiếp đến sự vận hành
của thị trường - cần thiết phải được pháp luật điều chỉnh. Nhận thức được tầm quan trọng của việc
tập trung kinh tế dẫn đến độc quyền nên hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ban hành pháp luật
để kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế.
Bài học đầu tiên đối với Việt Nam là học tập kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị
trường trong việc kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế và phải điều chỉnh, ban hành kịp
thời các quy định pháp luật cụ thể về vấn đề này. Tuy nhiên các quy định pháp luật về kiểm
soát tập trung kinh tế ở Việt Nam còn mới mẻ, khoa học pháp lý có ít những công trình
nghiên cứu toàn diện, công phu. Vì vậy tác giả đã mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu đề tài:
"Kiểm soát tập trung kinh tế theo quy định của pháp luật Việt Nam".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2
Hiện tượng tập trung kinh tế nói riêng và cạnh tranh nói chung đều được các quốc gia trên
thế giới quan tâm và kiểm soát bằng nhiều cách khác nhau như: chính sách thuế, kiểm soát giá
cả, quốc hữu hoá, ban hành pháp nhau trong đó việc các quốc gia ban hành pháp luật được
xem là công cụ hữu hiệu nhất.
Ở Việt Nam, Luật cạnh tranh được Quốc hội thông qua ngày 03/12/2004 và có hiệu lực từ
ngày 1/7/2005. Đây cũng là lần đầu tiên vấn đề về kiểm soát tập trung kinh tế mới được quy
định một cách có hệ thống. Do vậy dưới giác độ khoa học pháp lý, công việc nghiên cứu về
kiểm soát tập trung kinh tế mới chỉ dừng lại trong một số bài viết cho các tạp chí, các báo điện
tử hoặc với tính chất là một chuyên đề trong đề tài khoa học cấp trường, cấp Bộ mà chưa có
công trình nào khảo cứu chuyên sâu, được xem xét một cách hệ thống, toàn diện và cụ thể.
Như vậy, tính đến thời điểm mà tác giả lựa chọn và bảo vệ đề tài: "Kiểm soát tập trung kinh tế
theo quy định của pháp luật Việt Nam" thì có thể được coi là vấn đề còn mới ở Việt Nam.
Điều đó cũng đồng nghĩa việc tác giả phải đối mặt, song hành với nhiều cơ hội thách thức và
khó khăn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ bản chất, nội dung của tập trung kinh tế và pháp luật
cạnh tranh kiểm soát hành vi tập trung kinh tế, từ đó đưa ra phương hướng và các giải pháp

khi xây dựng, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh điều chỉnh vấn đề
này. Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận cơ bản về tập trung kinh tế.
Pháp luật Việt Nam điều chỉnh hành vi tập trung kinh tế.
Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật cạnh tranh kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế
ở Việt Nam trong mối quan hệ so sánh với pháp luật cạnh tranh ở một số nước trên thế giới.
Đưa ra phương hướng và một số giải pháp pháp lý nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm
soát tập trung kinh tế để đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ với các quy định của pháp luật hiện
hành về cạnh tranh và hài hòa với pháp luật quốc tế.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Mặc dù người viết có tinh thần quyết tâm cao muốn tìm hiểu việc pháp luật kiểm soát
hành vi tập trung kinh tế trong tổng thể các mối quan hệ pháp luật khác nhau nhưng theo yêu
cầu và giới hạn của luận văn tốt nghiệp cao học luật, người viết không thể có tham vọng
nghiên cứu sâu tất cả các vấn đề pháp luật liên quan đến kiểm soát tập trung kinh tế mà chỉ ở
một số các quy định trong Bộ luật dân sự, luật doanh nghiệp, luật đầu tư, luật chứng khoán.
Nhưng chủ yếu tác giả nghiên cứu cụ thể và luận giải bằng hệ thống các quy phạm trong Luật
cạnh tranh. Hy vọng một ngày không xa tác giả sẽ được quay trở lại nghiên cứu đề tài mà
mình yêu thích này ở mức độ hoàn thiện, toàn diện hơn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn đã sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, so sánh luật
học kết hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật, đồng thời quán
triệt sâu sắc các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong việc phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để giải quyết những mục đích, nhiệm vụ do đề tài đặt
ra.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn đã lý giải được cơ sở khoa học về sự ra đời của tập trung kinh tế, làm rõ đặc
điểm pháp lý của tập trung kinh tế và ảnh hưởng của tập trung kinh tế đến nền kinh tế.

3
Luận văn đã phân tích khá toàn diện quá trình kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp luật

cạnh tranh Việt Nam và pháp luật cạnh tranh một số nước trên thế giới.
Căn cứ vào yêu cầu thực tiễn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật cạnh
tranh trong quá trình kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về kiểm soát tập trung kinh tế và kiểm soát bằng
pháp luật đối với tập trung kinh tế.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát tập trung
kinh tế ở Việt Nam.

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ VÀ KIỂM SOÁT BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TẬP
TRUNG KINH TẾ
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về tập trung kinh tế
1.1.1. Sự hình thành và phát triển của hiện tượng tập trung kinh tế trên thế giới và ở Việt Nam
* Tập trung kinh tế bắt nguồn từ một số nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, do nhu cầu tăng hiệu quả kinh tế và nắm vị thế độc quyền trên thị trường.
Thứ hai, do tác động của cạnh tranh và nhu cầu chia sẻ rủi ro trong kinh doanh
Thứ ba, do các cuộc khủng hoảng kinh tế.
* Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động tập trung kinh tế:
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX do tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển và đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung tư bản, hình thành các
xí nghiệp có quy mô lớn. Như vậy, tập trung kinh tế là một xu hướng phát triển tất yếu của tư
bản. Tập trung kinh tế được thể hiện dưới các hình thức sáp nhập, mua lại xí nghiệp: các xí
nghiệp lớn luôn tìm cách mua lại các xí nghiệp nhỏ, yếu hơn; còn các xí nghiệp nhỏ liên kết,
sáp nhập với nhau để tránh nguy cơ bị các xí nghiệp lớn thôn tính. Ở Mỹ nửa đầu thập kỷ

1980 đã diễn ra hàng loạt những vụ hợp nhất bắt đầu từ các công ty hoạt động trong ngành
công nghiệp, sau đó lấn sang toàn bộ nền kinh tế và cuối cùng tràn ra toàn thế giới.
Việt Nam hình thức tập trung kinh tế xuất hiện đầu tiên là các Tổng công ty nhà nước
được thành lập theo Quyết định số 90 và 91/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 7/3//1994
(gọi tắt là Tổng công ty 90 và 91). Song thực chất, việc tính thành các Tổng công ty 90 và 91
lại là sự liên minh, sáp nhập theo thể thức hành chính chứ không mang bản chất của hành vi tập
trung kinh tế theo quy định của hệ thống pháp luật cạnh tranh.
Khi Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với sự ra
đời của Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật doanh
nghiệp nhà nước 1995 đã xuất hiện các vụ sáp nhập, hợp nhất, liên doanh Trong suốt thời
gian qua trước khi có Luật cạnh tranh 2004, chúng ta đã giảm số lượng từ trên 13000 doanh

4
nghiệp nhà nước xuống còn trên 3000 doanh nghiệp thông qua việc hợp nhất các doanh
nghiệp lại với nhau
1.1.2. Khái niệm và bản chất pháp lý của tập trung kinh tế
Tập trung kinh tế ở Việt Nam được xem xét theo ba cách tiếp cận cơ bản:
Thứ nhất: Với tính chất là quá trình gắn liền với hơn hình thành và thay đổi của cấu trúc
thị trường, tập trung kinh tế được hiểu là quá trình mà số lượng các doanh nghiệp độc lập
cạnh tranh trên thị trường bị giảm đi thông qua các hành vi sáp nhập (theo nghĩa rộng) hoặc
thông qua tăng trưởng nội sinh của doanh nghiệp trên cơ sở mở rộng năng lực sản xuất.
Thứ hai: Với tính chất là hành vi của các doanh nghiệp, tập trung kinh tế (còn gọi là tập
trung tư bản) được hiểu là sự gia tăng tư bản do hợp nhất nhiều tư bản lại hoặc một tư bản này
thu hút một tư bản khác
Thứ ba: Dưới góc độ pháp luật, Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định các hành vi được coi
là tập trung kinh tế. Theo đó, khoản 3 Điều 3 quy định tập trung kinh tế thuộc nhóm các hành
vi hạn chế cạnh tranh. Chỉ có các trường hợp tập trung kinh tế tạo ra trên 50% thị phần kết
hợp trên thị trường liên quan mới tiềm ẩn nguy cơ hạn chế cạnh tranh,
1.1.3. Các hình thức tập trung kinh tế
Tập trung kinh tế bao gồm tập trung theo chiều ngang, tập trung theo chiều dọc hoặc tập

trung theo đường chéo (tập trung hỗn hợp).
Tập trung kinh tế theo chiều ngang: là sự sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh của
các doanh nghiệp trong một thị trường liên quan (sản phẩm và không gian).
Tập trung kinh tế theo chiều dọc: là sự hợp nhất, sáp nhập, mua lại hoặc liên doanh giữa
các doanh nghiệp có quan hệ người mua - người bán với nhau.
Tập trung kinh tế theo đường chéo là sự hợp nhất, sáp nhập, mua lại, liên doanh của các
doanh nghiệp không cùng hoạt động trên một thị trường sản phẩm đồng thời cũng không có mối
quan hệ khách hàng với nhau.
1.1.4. Tác động của tập trung kinh tế đối với nền kinh tế
Tập trung kinh tế là một hiện tượng kinh tế xuất hiện trong môi trường tự do cạnh tranh.
Sự ra đời của hiện tượng tập trung kinh tế có tác động nhất định tới cơ cấu nền kinh tế nói
chung và cạnh tranh nói riêng. Tuy nhiên tác động của tập trung kinh tế tới cạnh tranh cũng
được đánh giá theo hai mặt tích cực và tiêu cực của nó.
- Tập trung kinh tế tạo ra quy mô kinh doanh lớn (đặc biệt hữu ích đối với những doanh
nghiệp có quy mô vừa và nhỏ tham gia tập trung kinh tế
- Tập trung kinh tế giúp thúc đẩy tiến Bộ khoa học kỹ thuật: Với sự phát triển như vũ bão
của các cuộc cách mạng khoa học- công nghệ đã rút ngắn chu kỳ sống của các thế hệ công
nghệ, vì vậy để đứng vững và giành được ưu thế trên thương trường bắt buộc các doanh
nghiệp luôn phải đầu tư đổi mới công nghệ.
Bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực, bất lợi đối với nền kinh tế, tập trung kinh tế cũng có
những mặt tiêu cực sau: "Tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất
này, khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền". Như vậy tập trung kinh tế
là "cửa ngõ" tạo ra những doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể hoặc tăng quyền lực
của thị trường mà doanh nghiệp duy nhất đã vốn có hoặc tán ra sự độc quyền.
- Tập trung kinh tế còn làm giảm đối thủ cạnh tranh độc lập trên thị trường và tạo điều
kiện "thúc đẩy" những doanh nghiệp còn lại tham gia vào việc liên kết mang tính phản cạnh

5
tranh theo các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh để chống lại sức mạnh của những
doanh nghiệp được hình thành sau vụ tập trung kinh tế.

Kiểm soát tập trung kinh tế nhằm tăng cường lợi ích và hạn chế mặt tiêu cực của nó đối với thị trường.
1.2 Kiểm soát bằng pháp luật đối với tập trung kinh tế.
1.2.1. Các luận cứ cho việc kiểm soát tập trung kinh tế
Thứ nhất: Tập trung kinh tế để các doanh nghiệp phát triển kinh doanh
Thứ hai: Tập trung kinh tế để thống lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh.
1.2.2. Vai trò của pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế
Vai trò của Nhà nước trong kiểm soát tập trung kinh tế là rất quan trọng. Cạnh tranh là
cuộc chạy đua để xác định những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả nhất, nhà nước có vai trò
đảm bảo trật tự chung và chỉ nên can thiệp vào cạnh tranh một cách hạn chế. Để bảo vệ lợi ích
của người tiêu dùng, các cơ quan kiểm soát độc quyền (trong đó có kiểm soát tập trung kinh
tế) nên xem xét ảnh hưởng của hành vi độc quyền dưới hai tiêu chí cơ bản:
- Đối với sự phân bổ có hiệu quả của mọi nguồn lực kinh tế;
- Đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.3. Những yếu tố chi phối hoạt động về kiểm soát tập trung kinh tế
Cơ chế quản lý kinh tế là khái niệm dùng để chỉ phương thức mà qua đó nhà nước tác
động vào nền kinh tế để định hướng nền kinh tế tự vận động đến các mục tiêu đã định. Cơ chế
quản lý kinh tế là phương thức tác động của Nhà nước do đó nó mang tính chủ quan. Cơ chế
kinh tế là phương thức vận động của nền kinh tế, nó mang tính khách quan. Nhà nước tác
động vào nền kinh tế thông qua cơ chế kinh tế chứ không trực tiếp tác động vào nền kinh tế.
Thị trường mà nhà nước không can thiệp vào gọi là thị trường tự do. Và người ta coi "bàn tay
vô hình" là các quy luật kinh tế khách quan sẽ chi phối nền kinh tế. Thị trường tự do cho phép cá
nhân theo đuổi lợi ích riêng của mình mà không có sự khống chế nào của chính phủ. Lúc này hiện
tượng tập trung kinh tế diễn ra phổ biến nhưng dựa trên nền tảng "tự do được nuôi dưỡng bởi tự
do" nên không có sự điều tiết và kiểm soát từ nhà nước, đương nhiên sẽ không thể có pháp luật
điều chỉnh hành vi tập trung kinh tế.
1.2.4. Những nội dung cơ bản của pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế một số nước
trên thế giới và Việt Nam
Quy chế 139/2004 đã được Ủy ban Châu Âu ban hành ngày 20/2004 tại Điều 3 định
nghĩa về hoạt động tập trung kinh tế thuộc phạm vi điều chỉnh của Quy chế:
Liên bang Nga không có khái niệm riêng về tập trung kinh tế. Theo Luật về cạnh tranh

và hạn chế độc quyền trên thị trường hàng hóa năm 1991, sửa đổi mới nhất năm 2002 thì mục
đích ngăn ngừa việc lạm dụng vị trí thống lĩnh của các tổ chức kinh tế hoặc việc hạn chế cạnh
tranh của cơ quan chống độc quyền liên bang, nhà nước thực hiện việc kiểm soát các hành vi
sau:
- Kiểm soát việc thành lập, tổ chức lại và giải thể các tổ chức kinh tế khác và các liên hiệp
gồm: Thành lập, sáp nhập, hợp nhất liên minh các tổ chức kinh tế, sáp nhập, hợp nhất các tổ
chức kinh tế mà tổng giá trị tài sản của năm tài chính gần nhất vượt quá 200.000 lần mức
lương tối thiểu
- Kiểm soát việc thực hiện pháp luật chống độc quyền trong các trường hợp sau khi góp
vốn hoặc mua cổ phần có quyền biểu quyết chiếm trên 20% vốn điều lệ của các tổ chức kinh
tế, nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản của một chủ thể kinh doanh khác nếu giá trị

6
tài sản giao dịch vượt quá 10% tổng giá trị tài sản của chủ thể kinh doanh đó, nhận các quyền
cho phép chủ thể kinh doanh đó thực hiện chức năng điều hành doanh nghiệp
Ở Nga hệ thống pháp luật của nhà nước kiểm soát về tập trung kinh tế trên thị trường
hàng hóa gồm hai bộ phận: Giám sát việc thành lập, tổ chức lại, giải thể các tổ chức thương
mại và phi thương mại; Kiểm soát việc thực thi pháp luật chống độc quyền trong việc mua cổ
phần, vốn góp vào vốn điều lệ của các tổ chức thương mại và trong các trường hợp khác
Ở Việt Nam quan điểm về tập trung kinh tế được thể hiện trong các văn kiện của Đại hội
Đảng: và sau đó được thể chế hóa trong một số văn bản pháp luật hiện hành sau:
- Luật cạnh tranh 2004; Bộ luật dân sự 2005; Luật doanh nghiệp 2005; Luật đầu tư 2005
- Nghị định số 16 của Chính phủ ngày 15/9/2005 (NĐ 116/cp) quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật cạnh tranh;
- Nghị định số 120/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/9/2005 (sau đây gọi tắt là Nghị
định 120/CP) quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh;
- Nghị định số 05 của Chính phủ ngày 9/1/2006 (sau đây gọi tắt là Nghị định 05/CP) về
việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng
cạnh tranh;
- Nghị định 06 của Chính phủ ngày 9/1/2006 (sau đây gọi tắt là Nghị định 06/CP) quy

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh…
Kiểm soát tập trung kinh tế đã được coi là một trong những nhiệm vụ cơ bản của pháp luật
cạnh tranh hiện đại. Tất cả các quốc gia đang phát triển thị trường đều đặt ra cơ chế phối hợp giữa
pháp luật cạnh tranh và pháp luật về doanh nghiệp để kiểm soát việc tập trung kinh tế Theo đó,
pháp luật về doanh nghiệp sẽ thừa nhận quyền được tập trung kinh tế của doanh nhân, quy định về
thủ tục pháp lý để họ thực hiện các hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua lại và góp vốn để bảo đảm
trật tự pháp lý trong kinh doanh. Pháp luật cạnh tranh kiểm soát các hiện tượng tập trung kinh tế
có khả năng đe dọa đến trật tự cạnh tranh của thị trường bằng hai cơ chế, đó là:
- Cấm đoán các trường hợp tập trung kinh tế làm tổn hại đến tình trạng cạnh tranh;
- Kiểm soát các trường hợp có khả năng tổn hại đến cạnh tranh.
- Các trường hợp tập trung kinh tế được tự do thực hiện; Các trường hợp tập trung kinh tế
được thực hiện sau khi được cơ quan nước có thẩm quyền xem xét chấp nhận; Cho hưởng
miễn trừ đối với một số trường hợp tập trung kinh tế thuộc diện bị cấm.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT
TẬP TRUNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
2.1. Các quy định về tập trung kinh tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam có nhiều luật và văn bản dưới luật có các quy định
liên quan đến tập trung kinh tế.
* Bộ Luật Dân sự: Điều 94, 95 Bộ luật Dân sự 2005
* Luật Doanh nghiệp: Các quy định trong Luật Doanh nghiệp có thể được sử dụng làm căn
cứ pháp lý để làm rõ khái niệm và phạm vi của các hoạt động tập trung kinh tế. Chẳng hạn để xác
định khái niệm mua lại doanh nghiệp, khi thực thi cơ quan quản lý cạnh tranh có thể dẫn chiếu
đến Luật Doanh nghiệp. Vấn đề mấu chốt để xác định hơn mua lại là quyền chi phối và kiểm soát
doanh nghiệp bị mua lại, theo đó, nếu hơn mua tài sản chưa đủ tạo nên quyền chi phối, kiểm
soát doanh nghiệp bị mua lại thì chưa cấu thành hiện tượng tập trung kinh tế. Pháp luật cạnh
tranh xác định hai trường hợp tạo nên quyền kiểm soát, chi phối doanh nghiệp khác là:

7
- Dành được quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp bị kiểm soát đủ chiếm được trên 50%

quyền bỏ phiếu tại Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị;
- Dành được quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp bị kiểm soát ở mức mà theo quy định
của pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp bị kiểm soát đủ để doanh nghiệp mua lại chi phối
các chính sách tài chính và hoạt động của doanh nghiệp bị kiểm soát nhằm thu được lợi ích
kinh tế từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị kiểm soát.
* Luật Cạnh tranh: Theo Ðiều 16 Luật Cạnh tranh do Quốc hội ban hành ngày 3/12/2004
và có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2005 thì: "Tập trung kinh tế là hành vi của doanh nghiệp bao
gồm:Sáp nhập doanh nghiệp; Hợp nhất doanh nghiệp; Mua lại doanh nghiệp; Liên doanh giữa
các doanh nghiệp và các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
* Luật Chứng khoán: Luật Chứng khoán 2006 cũng có các điều khoản liên quan đến tập
trung kinh tế thông qua các giao dịch trên thị trường chứng khoán như sau: "Tổ chức, cá nhân
trở thành cổ đông lớn của công ty đại chúng (sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp từ 5% trở lên số
cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty đại chúng) phải báo cáo công ty đại chúng, Ủy ban
chứng khoán nhà nước và Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán nơi
cổ phiếu của công ty đại chúng đó được niêm yết". Điều 29 và Điều 32 quy định về hơn chào
mua công khai theo đó các tổ chức, cá nhân chào mua công khai số cổ phiếu có quyền biểu
quyết dẫn đến hơn sở hữu từ 25% trở lên số cổ phiếu đang lưu hành của một công ty đại
chúng phải gửi đăng ký chào mua đến UBCKNN. Điều 69 quy định về chia, tách, sáp nhập,
hợp nhất, chuyển đổi công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, theo đó các công ty này đều
phải được sự chấp thuận của UBCKNN khi thực hiện các giao dịch này.
*Luật các Tổ chức tín dụng: Điều 34 Luật các Tổ chức tín dụng 1997 quy định hơn chia,
tách, hợp nhất, sáp nhập, mua lại, giải thể tổ chức tín dụng phải được Ngân hàng nhà nước
chấp thuận bằng văn bản.
Tập trung kinh tế - giải pháp hữu hiệu để các ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng
yêu cầu tăng vốn pháp định trong điều kiện hiện nay
2.2. Mô hình kiểm soát tập trung kinh tế
2.2.1. Mô hình kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp luật các nước
Trên thế giới tồn tại hai mô hình chính của cơ chế kiểm soát tập trung kinh tế là mô hình
Mỹ và mô hình châu Âu.
2.2.2. Kiểm soát tập trung kinh tế theo quy định của pháp luật Việt Nam

Luật Cạnh tranh có nhiều điều khoản tạo hành lang pháp lý cho phép các cơ quan quản lý
nhà nước kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế. Cụ thể là:
*Được tự do tập trung kinh tế (khoản 1 Điều 20): Tất cả những trường hợp tập trung kinh
tế mà có thị phần kết hợp dưới 30% thì không bị cấm và cũng không phải có nghĩa vụ thông
báo; Những trường hợp tập trung kinh tế mà có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% cũng không
bị cấm và không cần thông báo, nếu căn cứ vào sức mạnh cụ thể của doanh nghiệp trong thị
trường mà chúng vẫn được xếp vào loại doanh nghiệp vừa và nhỏ theo quy định của pháp
luật.
* Được xem xét chấp nhận tập trung kinh tế: Đây là những trường hợp tập trung kinh tế
chưa bị mặc nhiên cấm nhưng có thể được xem xét đồng ý sau khi làm thủ tục thông báo tại
Cơ quan quản lý cạnh tranh. Khoản 1 Điều 20 Luật Cạnh tranh quy định: "Các doanh nghiệp
tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện

8
hợp pháp của các doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi
tiến hành tập trung kinh tế".)
* Tập trung kinh tế được miễn trừ: Các trường hợp tập trung kinh tế được miễn trừ Ở Việt
Nam được ghi nhận tại Điều 19 Luật cạnh tranh. Đó !à các trường hợp tập trung kinh tế bị
cấm theo quy định tại điều 18 của Luật cạnh tranh nhưng có thể được xem xét miễn trừ khi:
Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể lâm vào tình
trạng phá sản. Bộ trưởng Bộ Thương mại xem xét, quyết định việc miễn trừ bằng văn bản đối
với trường hợp này
* Tập trung kinh tế bị cấm: Luật Cạnh tranh có quy định cấm thực hiện tập trung kinh tế
đối với các trường hợp trong đó thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của các doanh
nghiệp tham gia chiếm trên 50% trên thị trường liên quan và doanh nghiệp hình thành sau
hoạt động tập trung kinh tế không thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp
luật (Điều 18, Luật Cạnh tranh). Tuy nhiên, các vụ việc tập trung kinh tế thuộc diện bị cấm
cũng có thể được xem xét và miễn trừ trong hai trường hợp:
- Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm
vào tình trạng phá sản;

- Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế -
xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ (Điều 19 Luật Cạnh tranh).
2.3. Thủ tục kiểm soát tập trung kinh tế
Thủ tục kiểm soát tập trung kinh tế có thể được thực hiện theo chế độ tiền kiểm hoặc hậu
kiểm. Tiền kiểm là việc thông báo dự án tập trung kinh tế hoặc hoạt động tập trung kinh tế
vừa thực hiện. Ngược lại hậu kiểm lại là việc cơ quan quản lý cạnh tranh xem xét vụ tập trung
kinh tế sau khi nó đã được thực hiện xong để xem có vi phạm pháp luật về tập trung kinh tế
không.
2.3.1. Thủ tục kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp luật các nước
Pháp áp dụng thủ tục kiểm soát tập trung kinh tế dựa vào dự án cụ thể phải đạt tới một
ngưỡng nhất định (đó là những giá trị định lượng tuyệt đối tức là doanh thu) và không thực
hiện trên quy mô cộng đồng Châu Âu. Ngưỡng cụ thể như sau:
- Tổng doanh thu chưa tính thuế trên phạm vi toàn cầu của toàn bộ các doanh nghiệp hoặc
các nhóm thể nhân hoặc pháp nhân tham gia vụ tập trung kinh tế đạt trên 150 triệu euro;
- Tổng doanh thu chưa tính thuế thực hiện trên lãnh thổ Pháp bởi ít nhất hai doanh nghiệp
hoặc hai nhóm thể nhân hoặc pháp nhân liên quan đạt trên 50 triệu euro [29, tr.103].Việc
kiểm soát tập trung kinh tế ở Pháp được chia thành các giai đoạn:
Giai đoạn 1 gồm 2 bước sau:
* Thông báo tập trung kinh tế
* Thụ lý, xem xét hồ sơ vụ tập trung kinh tế:
Quan điểm của Pháp là: Nếu hoạt động tập trung kinh tế không làm hạn chế một cách
đáng kể cạnh tranh thực tế trên thị trường chung hoặc trên một phần đáng kể của thị trường
chung, đặc biệt vì nó không tạo ra hoặc không củng cố vị trí thống lĩnh, thì phải được coi là
phù hợp với thị trường chung. Ngược lại, nếu hoạt động tập trung kinh tế làm cho cạnh tranh
thực tế bị hạn chế một cách đáng kể trên thị trường chung hoặc trên một phần đáng kể của thị
trường chung, đặc biệt thông qua việc tạo lập hoặc củng cố vị trí thống lĩnh, thì phải được coi
là không phù hợp với thị trường chung.
2.3.2. Trình tự, thủ tục xem xét tập trung kinh tế theo Luật cạnh tranh Việt Nam

9

Trình tự, thủ tục xem xét một vụ tập trung kinh tế ở Việt Nam được quy định trong Luật
cạnh tranh gồm các bước sau:
Bước 1: Thông báo tập trung kinh tế
Khoản 1 Điều 20 Luật Cạnh tranh Việt Nam quy định: Các doanh nghiệp tập trung kinh tế
có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của các
doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung
kinh tế. Trường hợp thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế thấp
hơn 30% trên thị trường liên quan hoặc trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung
kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật thì không phải
thông báo.
Bước 2: Thụ lý hồ sơ thông báo tập trung kinh tế
Bước 3: Trả lời thông báo
2.4. Tố Tụng cạnh tranh (vụ việc tập trung kinh tế)
2.4.1. Cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh
Tố tụng cạnh tranh khác với tố tụng trong các hoạt động tư pháp. Tố tụng cạnh tranh là
hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính. Cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh gồm cơ
quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh. Tuy nhiên Luật cạnh tranh Việt Nam đã tách
hai chức năng điều tra và xử lý vụ việc tập trung cho hai cơ quan này:
Cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ thụ lý, điều tra các vụ việc liên quan đến cạnh tranh và
kiểm soát quá trình tập trung kinh tế, đó !à Cục quản lý cạnh tranh thuộc Bộ Thương mại đã
được thành lập theo Nghị định số 06/CP của Chính phủ ngày 9/1/2006.
Cùng ngày 9/1/2006. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 05/CP về việc thành lập
và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh:
Theo đó, Hội đồng cạnh tranh là cơ quan thực thi quyền lực nhà nước độc lập có chức năng
xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh. Cụ thể: Hội đồng cạnh tranh có nhiệm vụ tổ chức xử lý,
giải quyết khiếu nại đối với vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh.
2.4.2. Trình tự tố tụng cạnh tranh (vụ việc về tập trung kinh tế) ở Việt Nam
Bước 1: Khiếu nại về vụ việc cạnh tranh
Bước 2: Thụ lý hồ sơ khiếu nại
Bước 3: Điều tra vụ việc cạnh tranh

Điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh được tiến hành theo quyết định của Thủ trưởng
Bước 4: Mở phiên điều trần
2.5. Xử lý vi phạm pháp luật về tập trung kinh tế
Tại Việt Nam, hành vi vi phạm quy định về tập trung kinh tế được đề cập cụ thể tại Luật
cạnh tranh 2004 và NĐ số 120 của Chính phủ ngày 30/9/2005 quy định về xử lý pháp luật
trong lĩnh vực cạnh tranh bao gồm các hành vi:
- Hành vi sáp nhập doanh nghiệp bị cấm (Điều 25)
- Hành vi hợp nhất doanh nghiệp bị cấm (Điều 26)
- Hành vi mua lại doanh nghiệp bị cấm (Điều 27)
- Hành vi liên doanh doanh giữa các doanh nghiệp bị cấm (Điều 28)
- Hành vi không thông báo về tập trung kinh tế (Điều 29)
Chế tài áp dụng đối với mỗi hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh là chủ thể vi phạm
phải chịu hình phạt chính là phạt tiền. Ngoài việc bị phạt tiền, doanh nghiệp vi phạm có thể bị
buộc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả như chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập,

10
hợp nhất, buộc bán lại doanh nghiệp đã mua, và các hình thức xử phạt bổ sung như bị thu hồi
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đã cấp cho doanh nghiệp hợp nhất, doanh nghiệp liên
doanh.
2.6. Cơ quan quản lý cạnh tranh trong kiểm soát tập trung kinh tế
Theo pháp luật cạnh tranh và pháp luật doanh nghiệp, hơn kiểm soát các hành vi sáp
nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh giữa các doanh nghiệp có sự tham gia của các cơ quan
là:
Cơ quan quản lý cạnh tranh có chức năng: Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế; Thẩm
định hồ sơ thông báo, hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ tập trung kinh tế; Thụ lý, tổ chức điều tra
vụ hơn cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh (gồm cả tập trung kinh tế;
Hội đồng cạnh tranh 14 xử lý các hành vi vi phạm pháp luật như thực hiện tập trung kinh
tế trong trường hợp bị cấm, tập trung kinh tế mà không thực hiện hơn thông báo;
Cơ quan đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch Đầu tư và các Sở Kế hoạch đầu tư) thực hiện
các thủ tục liên quan đến đăng ký kinh doanh trong các trường hợp sáp nhập, hợp nhất, mua

lại, liên doanh.
Các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành (Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước…) thực hiện chức năng thẩm định, cấp phép đối với các trường hợp tập
trung kinh tế trong lĩnh vực chuyên ngành theo pháp luật.

Chương 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
3.1. Một số căn cứ cho việc đƣa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tập
trung kinh tế ở Việt Nam
Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm quy mô doanh nghiệp tuyệt đại đa số là nhỏ bé, các vụ giao
dịch quy mô nhỏ và vừa vẫn chiếm đại đa số thì các vụ tập trung kinh tế chịu sự điều chỉnh của
pháp luật cạnh tranh chưa nhiều.
Thứ hai, đa số các vụ tập trung kinh tế có quy mô đáng kể đều do các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài thực hiện,
Thứ ba Các vụ tập trung kinh tế nằm trong ngưỡng phải thông báo hoặc bị cấm đã bắt đầu
xuất hiện và có xu hướng gia tăng.
Thứ tư, cần thống nhất một khái niệm và cách hiểu đúng về "kiểm soát tập trung kinh tế",
đây là khái niệm được đưa ra dưới góc độ của pháp luật cạnh tranh và là một chức năng của
Cục quản lý cạnh tranh.
3.2. Những giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả kiểm soát tập trung kinh tế ở
Việt Nam
3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế
Từ năm 2004 đến nay, Nhà nước Việt Nam đã ban hành Luật cạnh tranh, sửa đổi bổ sung
Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư và một số Nghị định hướng dẫn Luật cạnh
tranh điều chỉnh hành vi tập trung kinh tế.
Nghị quyết của Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã ghi nhận cơ chế thị trường
đòi hỏi phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh. cạnh
tranh vì lợi ích phát triển đất nước, chứ không phải làm phá sản hàng loạt, lãng phí nguồn lực,
thôn tính lẫn nhau.


11
- Các quy định kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế phải đảm bản sự bình đẳng giữa
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ hoàn toàn hiện tượng phân biệt đối xử
giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác,
- Pháp luật cần có những chuẩn mực hợp lý để phân tách những trường hợp tập trung kinh
tế gây tổn hại thực sự cho thị trường cạnh tranh và những trường hợp có tác dụng tích cực cho
nền kinh tế.
- Các thủ tục cần được thực hiện không bị lạm dụng để gây khó khăn cho doanh nghiệp,
không cản trở các chiến lược, kế hoạch kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp.
Để cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng trên, các nhà hoạch định chính sách cũng
cần nhìn nhận theo hướng khách quan và tích cực, nghĩa là hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi
tối đa cho doanh nghiệp, những chủ thể chính trên thị trường, có khả năng tiếp cận, gia nhập
thị trường không gặp trở ngại bởi những rào cản về mặt hành chính. Theo đó, các thủ tục cần
phải được minh bạch, công khai, không tạo nên sự "khó hiểu" cho doanh nghiệp.
* Pháp luật về tập trung kinh tế không thể tồn tại độc lập với chính sách cạnh tranh nói
chung và định hướng phát triển trong từng ngành lĩnh vực kinh tế cụ thể.
* Cần thống nhất và làm rõ các khái niệm về những hành vi tập trung kinh tế, đặc biệt là
quan niệm về hành vi mua lại doanh nghiệp giữa các lĩnh vực pháp luật có liên quan
* Nên nghiên cứu xem xét điều chỉnh Luật Cạnh tranh theo hướng quy định thủ tục thông
báo tập trung kinh tế tự động theo tiêu chí kết hợp giữa thị phần và quy mô vốn điều lệ của
doanh nghiệp tham gia.
* Cần coi tập trung kinh tế là một kênh tiềm năng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài có
hiệu quả. Theo đó, cần hoàn thiện khung pháp lý để xác lập và điều chỉnh các giao dịch tập
trung kinh tế một cách minh bạch, có tính hướng dẫn và tiên liệu chắc chắn
3.2.2. Nâng cao năng lực của cơ quan quản lý cạnh tranh trong kiểm soát tập trung tế
Cần tăng cường khả năng kiểm soát của Cục quản lý cạnh tranh - Cơ quan có chức năng
kiểm soát tập trung kinh tế theo hướng cơ quan quản lý cạnh tranh cần được trao quyền chủ
động khi thực thi dựa trên những nguyên tắc được pháp luật ghi nhận, bao gồm quyền tự chủ
trong việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện, công cụ kỹ thuật cho từng vụ việc; chủ động

xây dựng quy trình cho việc kiểm soát tập trung kinh tế.
Để việc kiểm soát tập trung kinh tế được chủ động và hiệu quả, cơ quan quản lý cạnh
tranh nên có những nghiên cứu và dự đoán trước những thị trường, những lĩnh vực kinh tế có
nguy cơ xảy ra hiện tượng tập trung kinh tế, thậm chí những doanh nghiệp có khả năng thực
hiện hành vi thâu tóm thị trường bằng hình thức tập trung kinh tế.
Không phải mọi lĩnh vực kinh tế khi xảy ra hiện tượng tập trung kinh tế đều thuộc phạm
vi kiểm soát của pháp luật cạnh tranh. Các cuộc sáp nhập, mua lại…ở những thị trường có qui
mô đầu tư nhỏ, phân tán sẽ không gây ảnh hưởng đến cơ cấu cạnh tranh của thị trường và
thường không thuộc phạm vi kiểm soát của pháp luật về tập trung kinh tế. Phần lớn các vụ tập
trung kinh tế có tác động lớn đến thị trường cạnh tranh xảy ra ở những khu vực thị trường
đang có mức độ tập trung kinh tế đáng kể hoặc có vị trí tương đối trong nền kinh tế. Những
dự báo khi kết hợp với chính sách phát triển chung giúp cơ quan có thẩm quyền
Để việc kiểm soát tập trung kinh tế hiệu quả, cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan
quản lý cạnh tranh và cơ quan đăng ký kinh doanh và các cơ quan quản lý nhà nước chuyên
ngành

12
Việc kiểm soát tập trung kinh tế hiệu quả, cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan
quản lý cạnh tranh đối với cộng đồng doanh nghiệp
3.2.3. Xây dựng cơ chế thực thi pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế
Hiệu lực và sức mạnh của một đạo luật phụ thuộc vào khả năng tổ chức thực thi của Nhà
nước và thái độ đón nhận của xã hội" Vì thế phải có các giải pháp nhằm xây dựng một cơ chế
thực thi pháp luật cạnh tranh đủ mạnh để kiểm soát, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, đảm bảo
nguyên tắc độc lập trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thực thi Luật cạnh tranh.
Chương 2 luận văn đã đề cập đến cơ quan thực thi Luật cạnh tranh của Việt Nam bao
gồm hai cơ quan là: Hội đồng cạnh tranh là Cục quản lý cạnh tranh. Hội đồng cạnh tranh là cơ
quan thực thi quyền lực nhà nước độc lập, có chức năng xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh.
Cục quản lý cạnh tranh là tổ chức trực thuộc Bộ công thương. Khi giải quyết một vụ tập trung
kinh tế, Cục quản lý cạnh tranh có nhiệm vụ thụ lý, điều tra vụ việc; còn Hội đồng cạnh tranh
là cơ quan có quyền xử lý vụ việc (có thẩm quyền tổ chức phiên điều trần và quyết định xử lý

vụ việc qua Hội đồng xử lý vụ việc). Như vậy, kết quả xử lý vụ việc của Hội đồng cạnh tranh
gần như phải lệ thuộc vào kết quả của hoạt động điều tra của Cục quản lý cạnh tranh. Qua đó
nhận thấy, nếu Cục quản lý cạnh tranh không vô tư, không có thực quyền thì vấn đề thực thi
Luật cạnh tranh khó mà hiệu quả và công bằng. Tham khảo kinh nghiệm của các nước thấy họ
không những trao quyền lực cho cơ quan thực thi cạnh tranh mà còn đặt chúng đúng vị trí của
nó trong bộ máy các cơ quan nhà nước tùy thuộc vào điều kiện, đặc điểm thị trường của mỗi
quốc gia. Luật mẫu hiện tại được xây dựng trên cơ sở giả định rằng có lẽ mô hình cơ quan
quản lý cạnh tranh là cơ quan hành chính hiệu quả nhất nếu cơ quan này có thẩm quyền độc
lập với Chính phủ, với thẩm quyền về mặt hành chính và tư pháp lớn cho việc tiến hành điều
tra, xử lý, áp dụng chế tài.
Hiện nay ở Việt Nam, vị trí của Cục Quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ Công thương
dường như chưa hợp lý vì:
- Là một đơn vị hành chính của một Bộ nên khó bảo đảm tính độc lập trong hoạt động vì
rất dễ chịu sự can thiệp của Bộ công thương
- Bản thân Bộ công thương cũng là Bộ chủ quản của không ít doanh nghiệp nhà
nước.Trong các vụ kiện ra cơ quan quản lý cạnh tranh, liệu có niềm tin vào sự công bằng của
doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong trường hợp "phía bên kia vụ kiện" là doanh nghiệp nhà
nước, còn người cầm cân nảy mực lại là một đơn vị trực thuộc Bộ chủ quản của doanh nghiệp
nhà nước đó.
Do đó, cần phải nhanh chóng tách Cục quản lý cạnh tranh ra khỏi Bộ công thương và đảm
bảo nguyên tắc độc lập trong tổ chức và hoạt động của nó.
Hơn nữa, chuẩn bị về số lượng và chất lượng của đội ngũ nhân viên thực thi Luật cạnh
tranh.
Bồi dưỡng, nâng cao kiến thức kinh tế và pháp lý, chính sách và pháp luật cạnh tranh cho
nhân sự của các cơ quan quản lý cạnh tranh và các tổ chức có liên quan. Điều tra một vụ tập
trung kinh tế là vô cùng khăn, nhất là khi chúng ta chưa hề có kinh nghiệm trong việc kiểm
soát tập trung kinh tế, đã thế số lượng đội ngũ nhân sự lại có hạn. có lẽ trong bối cảnh đó một
giải pháp cần thiết là cơ quan quản lý cạnh tranh nên thiết lập một hệ thống cộng tác viên để
hỗ trợ cùng xử lý, giải quyết các vụ việc tập trung kinh tế, và đưa pháp luật cạnh tranh vào
chương trình giảng dạy của một số trường Đại học như Đại học Luật, Kinh tế, Học viện Tài

chính những nội dung kiến thức kinh tế và pháp lý để nhận biết và kiểm soát các hành vi tập
trung kinh tế.

13
Về cơ chế kháng cáo quyết định của cơ quan quản lý cạnh tranh. Có hai lý do kiến nghị
khi xây dựng các quy định của pháp luật để xác định cơ quan có thẩm quyền nào sẽ xem xét
các quyết đính của cơ quan cạnh tranh khi những quyết định này bị khiếu nại:
Thứ nhất: Việc giải quyết các vụ việc cạnh tranh đòi hỏi những người có chuyên môn giỏi
về kinh tế và pháp lý, không phải tòa án nào cũng có thẩm phán giỏi để xem xét lại các quyết
định của Hội đồng cạnh tranh. Vì vậy ở Việt Nam trong giai đoạn trước mắt nên trao thảm
quyền xét lại các khiếu nại của đương sự cho Tòa Kinh tế thuộc Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Nếu đương sự không đồng ý với quyết định của Tòa
Kinh tế thì có thể tiếp tục khiếu nại lên Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, quyết định
của Tòa này là chung thẩm. Tất nhiên vẫn có các thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Thứ hai: Vì quyết định của Hội đồng cạnh tranh là quyết định hành chính nên về nguyên tắc,
doanh nghiệp vẫn có thể khiếu nại về quyết định đó lên Tòa hành chính. Và như vậy, đội ngũ
thẩm phán ở Tòa hành chính phải được đào tạo kỹ càng các kiến thức kinh tế, pháp lý liên quan
đến việc xem xét, giải quyết vụ việc tập trung kinh tế vì "Chừng nào Tòa hành chính còn chưa đủ
mạnh thì chừng đó vẫn còn có thể xuất hiện nguy cơ lợi ích của doanh nghiệp bị xâm hại do một
quyết định hành chính không khách quan".

KẾT LUẬN
Tập trung kinh tế là xu thế tất yếu của nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng. Tập trung kinh tế có những tác
động tích cực đến nền kinh tế, song mặt bên kia của tập trung kinh tế lớn lại chính là nguy cơ
hình thành độc quyền, triệt tiêu cạnh tranh. Vì vậy, các quốc gia với phương châm phòng thủ
từ xa đã ban hành pháp luật cạnh tranh - một đạo luật không thể thiếu của nền kinh tế thị
trường để kiểm soát các vụ tập trung kinh tế.
Nhìn chung các nước có nền kinh tế thị trường phát triển kiểm soát tập trung kinh tế là một
công việc thường nhật của các cơ quan quản lý cạnh tranh. Ngược lại đây là một nhiệm vụ mới

mà Việt Nam chưa từng có. Tính từ thời điểm Luật cạnh tranh có hiệu lực đến nay thì cơ quan
thực thi Luật cạnh tranh nhận giải quyết một vụ tập trung kinh tế còn hạn chế. Vì vậy, việc kiểm
soát tập trung kinh tế trên thị trường sẽ là một công việc vô cùng khó khăn đối với các cơ quan
thực thi Luật cạnh tranh, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Khoa học pháp lý cũng
chưa nghiên cứu kỹ về tập trung kinh tế, do vậy việc học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước
để trang bị đầy đủ các kiến thức kinh tế, pháp lý để kiểm soát hữu hiệu hiện tượng tập trung kinh
tế là việc bắt buộc phải thực hiện đối với các nhà lập pháp, các nhà quản lý kinh tế cũng như các
cơ quan quản lý cạnh tranh.
Từ yêu cầu của thực tiễn nền kinh tế Việt Nam trong xu thế hội nhập, trên cơ sở phân tích,
tham khảo kinh nghiệm một số nước về kiểm soát tập trung kinh tế, luận văn đã đưa ra các yêu
cầu xây dựng, hoàn thiện phương hướng và một số giải pháp đề hoàn thiện pháp luật về kiểm soát
tập trung kinh tế ở Việt Nam phương hướng và một số giải pháp đề hoàn thiện pháp luật về kiểm
soát tập trung kinh tế ở Việt Nam là:- Pháp luật cạnh tranh phải phù hợp với đặc điểm của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam;
- Pháp luật cạnh tranh phải bảo đảm sự bình đẳng cho các chủ thể kinh doanh và khuyến
khích cạnh tranh lành mạnh;
- Pháp luật cạnh tranh phải phù hợp với hệ thống pháp luật nói chung và tiếp thu các giá
trị, yếu tố hợp lý của pháp luật các nước.

14
Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hành vi
tập trung kinh tế bao gồm:
- Hoàn thiện các quy định pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế.
- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước kiểm soát tập trung tế
- Xây dựng cơ chế thực thi pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế.
Tập trung kinh tế và kiểm soát tập trung kinh tế là một vấn đề phức tạp, có ảnh hưởng
lớn và trực tiếp đến nền kinh tế. Luận văn này mới chỉ dừng lại ở những bước phác thảo đầu
tiên dưới góc độ pháp lý về kiểm soát tập trung kinh tế. Chắc chắn nó sẽ đòi hỏi sự đầu tư
nghiên cứu ở quy mô rộng, chuyên sâu đồng thời có sự phối hợp, hợp tác chặt chẽ giữa các
nhà khoa học thuộc các chuyên ngành khác nhau cùng giới doanh nhân để kiểm soát tập trung

kinh tế một cách hữu hiệu nhất.

References
1. Nguyễn Thị Bảo Ánh (2006), Một số vấn đề pháp lý về tập trung kinh tế theo luật cạnh
tranh Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội.
2. Bộ Công thương (2009), Báo cáo tập trung kinh tế tại Việt Nam - Hiện trạng và dự báo,
Hà Nội.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2003), Báo cáo tổng kết Luật Doanh nghiệp nhà nước, Hà Nội.
4. Bộ Thương mại (2003), Đóng góp ý kiến cho dự thảo Luật cạnh tranh Việt Nam và các
văn bản hướng dẫn thi hành, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội.
5. Bộ Thương mại (2003), Tài liệu tham khảo khuôn khổ pháp lý đa phương điều chỉnh hoạt
động cạnh tranh và Luật cạnh tranh của một số nước và vùng lãnh thổ, Hà Nội.
6. Bộ Thương mại (2004), Tờ trình Chính phủ về dự án Luật cạnh tranh, ngày 6/1, Hà Nội.
7. Chính phủ (2005), Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9 quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật cạnh tranh, Hà Nội.
8. Chính phủ (2005), Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9 quy định về xử lý vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, Hà Nội.
9. Chính phủ (2006), Nghị định số 05/2006/NĐ-CP ngày 09/01 về việc thành lập và quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh, Hà
Nội.
10. Chính phủ (2006), Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01 quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh, Hà Nội.

15
11. Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh
tế hiện hành Ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
lần thứ 7 khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các Bộ môn khoa học Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Phạm Hùng (2007), "Tổng quan về kiểm soát tập trung kinh tế trên thế giới", opera.com,
tháng 12.
18. Nguyễn Hữu Huyên (2004), Luật cạnh tranh của Pháp và Liên minh Châu Âu, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
19. Khoa Quan hệ Quốc tế - Học viện Chính trị khu vực I (2006), Tập bài giảng: Quan hệ
quốc tế và đường lỗi đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, Nxb Lao động - xã hội,
Hà Nội.
20. Hoàng Thị Bích Loan (2002), Công ty xuyên quốc gia của các nền kinh tế công nghiệp
mới Châu Á, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. C. Mác - Ph. Ănghen (1978), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
22. Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD, Khuôn khổ cho
việc xây dựng và thực thi Luật và Chính sách cạnh tranh.
23. Nguyễn Như Phát - Bùi Nguyên Khánh (2001), Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh
tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường Ở Việt Nam, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.

16
24. Nguyễn Như Phát - Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Phân tích và luận giải các quy định của
Luật cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn
chế cạnh tranh, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
25. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
26. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
27. Quốc hội (2004), Luật cạnh tranh, Hà Nội.

28. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
29. Quốc hội (2005), Luật đầu tư, Hà Nội.
30. Quốc hội (2005), Luật doanh nghiệp, Hà Nội.
31. Quốc hội (2006), Luật chứng khoán, Hà Nội.
32. Nguyễn Thiết Sơn (2004), Giáo trình: Các công ty xuyên quốc gia, Nxb Đại học quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh.
33. Nguyễn Ngọc Sơn (2006), "Kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh và vấn
đề của Việt Nam", Nghiên cứu lập pháp, (79).
34. Lê Viết Thái, Hành vi tập trung kinh tế và vấn đề kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam.
35. Tổ chức Thương mại và phát triển Liên Hợp Quốc (2003), Luật mẫu về cạnh tranh, Loạt
công trình nghiên cứu của UNCTAD về các vấn đề được đề cập trong luật và chính sách
cạnh tranh.
36. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2004), Báo cáo số 265/UBTVQH 11 ngày 13/10 giải trình
tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật cạnh tranh trình Quốc hội, Hà Nội.
37. Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc. tế (2005), Chính sách và thực tiễn pháp luật cạnh
tranh của Cộng hòa Pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2005), Các vấn đề pháp lý và thể chế về
chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh, Hà Nội.

×