Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Xác lập quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (611.14 KB, 131 trang )


1
Mở Đầu

1. Lý do lựa chọn đề tài
Chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam từ 2001-2010 đã vạch
rõ một trong những mục tiêu cơ bản trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam là "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình
phù hợp với điều kiện của nớc ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong
quan hệ song phơng và đa phơng nh AFTA, APEC, Hiệp định Thơng mại
Việt - Mỹ, tiến tới gia nhập WTO".
Trong bối cảnh nhu cầu hội nhập đang trở thành một vấn đề mang tính
tất yếu khách quan, kinh tế tri thức chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong nền
kinh tế toàn cầu, vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ (SHTT) đã trở thành yếu tố không
thể bỏ qua và ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của nó. SHTT đợc đề
cập đến trong tất cả mọi mặt của đời sống: kinh tế, thơng mại, khoa học -
công nghệ, văn hóa - nghệ thuậtVấn đề bảo hộ quyền SHTT xuất hiện trong
hầu hết các Hiệp định thơng mại song phơng, đa phơng; nó đợc coi là
một trong những yếu tố nhằm khuyến khích, thúc đẩy đầu t sáng tạo trí tuệ,
góp phần phát triển nền kinh tế quốc gia.
Trong những năm qua, để đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của quá trình hội
nhập quốc tế, bên cạnh việc tham gia các hoạt động về SHTT của các tổ chức
khu vực và quốc tế (nh ASEAN, APEC), Việt Nam đã đàm phán ký kết với
nớc ngoài các Hiệp định có nội dung liên quan đến SHTT nh: Hiệp định
Thơng mại Việt - Mỹ (BTA), Hiệp định về hợp tác SHTT giữa Việt Nam-
Thụy Sĩ, đồng thời đã nỗ lực, gấp rút chuẩn bị các điều kiện cần thiết trong
đó có một nội dung trọng yếu là hoàn thiện hệ thống pháp luật về SHTT và cơ
chế bảo hộ SHTT để gia nhập Tổ chức Thơng mại Thế giới (WTO).
Để trở thành thành viên của WTO, một nhiệm vụ rất quan trọng của
Việt Nam là phải đáp ứng đầy đủ và hiệu quả các yêu cầu quy định trong hiệp


2
định về các khía cạnh thơng mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS).
Ngoài ra, Việt Nam cũng cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật SHTT của
mình để phù hợp với các hiệp định, hiệp ớc song phơng và đa phơng mà
Việt Nam sẽ tham gia trong thời gian tới.
Vào thời điểm nộp đơn gia nhập WTO (1995), hệ thống pháp luật SHTT
của Việt Nam bị đánh giá là còn nhiều điểm "cha phù hợp và thiếu hụt lớn so
với TRIPS" và "cha phải là một hệ thống đầy đủ và hiệu quả" [7, tr. 12]. Để
cải thiện tình hình này và cũng nhằm bảo đảm thi hành các nghĩa vụ quốc tế,
Việt Nam đã xây dựng một Chơng trình hành động về SHTT khá cụ thể và
nhất quán nhằm hoàn thiện cơ chế bảo hộ SHTT. Với những nỗ lực to lớn
trong việc thực hiện Chơng trình hành động về SHTT, cho tới nay có thể nói
rằng về cơ bản các mục tiêu quan trọng nhất đã đạt đợc làm cho hệ thống
pháp luật SHTT của Việt Nam có những bớc tiến đáng kể. Một trong những
kết quả đáng nói nhất là Luật SHTT đã đợc Quốc hội khóa IX thông qua ngày
19/11/2005 tại kỳ họp thứ 8 và sẽ có hiệu lực ngày 1/7/2006.
Trong cơ chế bảo hộ quyền SHTT nói chung và quyền sở hữu công
nghiệp (SHCN) nói riêng việc xác lập quyền là điều kiện tiên quyết. Để đợc
Nhà nớc bảo hộ, trớc hết quyền phải đợc thừa nhận. Quyền SHCN có thể
đợc xác lập một cách tự động hoặc trên cơ sở đăng ký bảo hộ tại cơ quan có
thẩm quyền theo trình tự, thủ tục luật định. Là một nội dung thuộc cơ chế bảo
hộ SHTT, vấn đề xác lập quyền SHCN của Việt Nam hiện nay cũng đang
trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện theo hớng hài hòa hóa với các yêu
cầu của TRIPS và các điều ớc quốc tế (ĐƯQT) khác mà Việt Nam đã hoặc
đang dự định ký kết, tham gia.
Là một học viên chuyên ngành Luật Dân sự, hiện đang công tác tại
Cục SHTT - cơ quan có chức năng xác lập quyền SHCN, tôi lựa chọn đề tài
"Xỏc lp quyn s hu cụng nghip theo quy nh ca phỏp lut Vit Nam"
làm đề tài nghiên cứu trong luận văn của mình với mong muốn tìm hiểu, đánh
giá về cơ chế, hệ thống xác lập quyền SHCN trên cơ sở phân tích các quy định


3
của pháp luật về SHTT quốc tế trong tơng quan so sánh với pháp luật Việt
Nam, từ đó nêu và phân tích những bất cập, hạn chế trong quy định pháp luật
Việt Nam về vấn đề này và đa ra những định hớng, đề xuất nhằm hoàn thiện
cơ chế, hệ thống xác lập quyền SHCN.
2. Tình hình nghiên cứu
Xuất phát từ ý nghĩa và tính thời sự của vấn đề, cho đến nay đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, bài viết của các tác giả trong
và ngoài nớc khai thác về các vấn đề liên quan đến SHCN và xác lập quyền
SHCN dới nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau; nhiều hội thảo, lớp tập huấn
quy mô quốc gia và quốc tế về cơ chế, hệ thống xác lập quyền SHCN đã đợc
tổ chức và thực hiện.
Các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo có thể kể đến những
công trình sau: Những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện khung pháp luật
Việt Nam về bảo hộ sở hữu trí tuệ trong xu thế hội nhập quốc tế và khu vực
(đề tài nghiên cứu khoa học QG 01.10 do Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội thực hiện); cuốn Bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - Những vấn đề
lý luận và thực tiễn do Viện Khoa học Pháp lý - Bộ T pháp ấn hành, Nxb T
pháp, 2004; cuốn Các yếu tố của quyền sở hữu trí tuệ của TS. Phùng Trung Tập,
Nxb T pháp, 2004; Luận văn cao học: Quyền u tiên đối với việc đăng ký sở
hữu công nghiệp tại Việt Nam của Lê Mai Thanh, Khoa Luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội, 1999. Ngoài ra, còn có các đề án nghiên cứu cấp Nhà nớc, cấp
Bộ, cấp cơ sở về xác lập quyền sở hữu công nghiệp và tăng cờng hiệu quả hệ
thống xác lập quyền sở hữu công nghiệp do Cục SHTT chủ trì thực hiện...
Các chuyên đề, bài viết có thể đến các bài viết của TS. Nguyễn Thị
Quế Anh: Bảo hộ tên thơng mại ở Việt Nam và một số kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về bảo hộ tên thơng mại, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà
Nội, số 4/2002; Một số vấn đề về bảo hộ bí mật kinh doanh và hoàn thiện
pháp luật bảo hộ bí mật kinh doanh ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học


4
Quốc gia Hà Nội, số 3/2004; bài viết Một số vấn đề về nhãn hiệu nổi tiếng của
tác giả Nguyễn Nh Quỳnh, tạp chí Luật học, số 2/2001...
Các tài liệu nớc ngoài khá nhiều, nổi bật nh: cuốn Cẩm nang Sở
hữu trí tuệ: chính sách, pháp luật và áp dụng (IP Law handbook: policy, law
and use), Nhà xuất bản WIPO, 2000 (Bản dịch của Cục Sở hữu trí tuệ, 2005);
cuốn Sở hữu trí tuệ - một công cụ đắc lực để phát triển kinh tế (Intellectual
property a power tool for economic growth) của Kamil Idris, Nhà xuất bản
WIPO, 1999 (Bản dịch Tiếng Việt của Cục Sở hữu trí tuệ, 2005). Ngoài ra,
còn có các dự án quốc tế nghiên cứu về hệ thống xác lập quyền của các quốc
gia thuộc các cộng đồng, khu vực: ASEAN, APEC, EU...
Tuy nhiên, cha có một công trình nghiên cứu khoa học nào đi sâu phân
tích về hệ thống xác lập quyền SHCN theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài "Xác lập quyền sở hữu công nghiệp theo quy định
của pháp luật Việt Nam" không bị trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
a) Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về SHCN và hệ
thống xác lập quyền SHCN cùng với việc phân tích luật thực định và thực
trạng của hoạt động xác lập quyền SHCN ở Việt Nam, tác giả đa ra những đề
xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế và hệ thống xác lập quyền SHCN ở
Việt Nam từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động xác lập quyền.
b) Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể nh sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về SHCN và xác lập quyền SHCN;
- Tìm hiểu các nguyên tắc và hệ thống xác lập quyền SHCN theo quy
định tại các ĐƯQT và quy định pháp luật của một số nớc trên thế giới;

5

- Phân tích hệ thống xác lập quyền SHCN theo quy định của pháp luật
Việt Nam từ đó đặt ra những vấn đề, nội dung bất cập cần đợc khắc phục,
sửa đổi, bổ sung;
- Đa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định pháp
luật Việt Nam về xác lập quyền SHCN.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu
những vấn đề lý luận liên quan đến hệ thống xác lập quyền SHCN và pháp
luật thực định của Việt Nam, của một số nớc trên thế giới cũng nh quy định
của các ĐƯQT về xác lập quyền SHCN cùng với việc đánh giá thực trạng xác
lập quyền SHCN ở Việt Nam từ đó đa ra những lập luận nhằm hoàn thiện vấn
đề nghiên cứu.
5. Những cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
Những cơ sở lý luận của luận văn là các thành tựu của các chuyên
ngành khoa học pháp lý nh: lịch sử pháp luật, lý luận về pháp luật, xã hội học
pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học trong
các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài đăng trên tạp chí của
các nhà khoa học - luật gia Việt Nam và nớc ngoài. Ngoài ra, để góp phần
phân tích khoa học nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
SHCN và xác lập quyền SHCN, trong quá trình viết luận văn, tác giả còn sử
dụng hệ thống các văn bản pháp luật của Nhà nớc cũng nh những văn bản
hớng dẫn, cụ thể hóa của các cơ quan quản lý nhà nớc về vấn đề này.
Luận văn đã sử dụng các phơng pháp nghiên cứu chuyên ngành để
tiếp cận, làm sáng tỏ về mặt khoa học các vấn đề nghiên cứu tơng ứng với cơ
sở phơng pháp luận là triết học Mác - Lênin (đi từ những nội dung có tính lý
luận đến những vấn đề thực tiễn). Các phơng pháp nghiên cứu đợc sử dụng
bao gồm: phân tích, hệ thống hóa, so sánh, thống kê, tổng hợp

6
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về xác lập quyền SHCN;
- Làm rõ tiến trình phát triển của pháp luật về bảo hộ quyền SHCN và
xác lập quyền SHCN trên thế giới và ở Việt Nam qua đó làm sáng tỏ tính kế
thừa và phát triển của các quy định pháp luật về vấn đề này;
- Phân tích, đánh giá về hệ thống xác lập quyền SHCN theo quy định
của các ĐƯQT và của một số nớc trên thế giới;
- Đa ra một bức tranh toàn cảnh về thực trạng hoạt động xác lập
quyền SHCN theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, chỉ ra những
hạn chế, bất cập và nguyên nhân của vấn đề đồng thời đánh giá, so sánh các quy
định mới trong Luật SHTT về các vấn đề liên quan đến xác lập quyền SHCN;
- Đa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt
động xác lập quyền SHCN và những kiến nghị đề xuất cụ thể về trình tự, thủ
tục xác lập quyền SHCN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục văn bản pháp luật, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chơng:
Chơng I: Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp và xác lập
quyền sở hữu công nghiệp.
Chơng 2: Hệ thống xác lập quyền sở hữu công nghiệp theo quy định
của pháp luật Việt Nam - thực trạng và những vấn đề đặt ra.
Chơng 3: Thực trạng hoạt động xác lập quyền sở hữu công nghiệp ở
Việt Nam và phơng hớng hoàn thiện.


7
Chơng 1
Khái Quát CHUNG Về Quyền sở hữu công nghiệp
Và Xác Lập Quyền sở hữu công nghiệp


1.1. Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp
1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp
Khái niệm quyền SHCN là một bộ phận cấu thành của một khái niệm
có nội hàm rộng hơn, đó là quyền SHTT. Do vậy, trớc khi đi vào nghiên cứu
nội dung khái niệm quyền SHCN, cần phải hiểu quyền SHTT là gì.
SHTT có thể đợc hiểu một cách chung nhất là những kết quả sáng tạo
trí tuệ mang tính vô hình nhng lại có ý nghĩa rất lớn khi đợc ứng dụng vào
các sản phẩm hữu hình; đó là những sản phẩm của quá trình sáng tạo khoa học -
công nghệ, văn học, nghệ thuật, khoa học... Thuật ngữ SHTT đợc hình thành
và đợc đề cập đến cùng với quá trình áp dụng trí tởng tợng và tri thức của
con ngời để đổi mới và sáng tạo. Ngày nay, thuật ngữ này đang đợc sử dụng
ngày càng rộng rãi trong đời sống xã hội.
Công ớc thành lập WIPO tại Stockholm ngày 14-7-1967 đã đa ra hệ
thống các đối tợng thuộc phạm trù SHTT đợc chấp nhận trên toàn thế giới,
bao gồm:
i) Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học;
ii) Cuộc biểu diễn của nghệ sĩ biểu diễn, bản ghi âm và cuộc phát sóng;
iii) Sáng chế thuộc mọi lĩnh vực nỗ lực của con ngời;
iv) Phát minh khoa học;
v) Kiểu dáng công nghiệp (KDCN);
vi) Nhãn hiệu, tên và chỉ dẫn thơng mại;
vii) Bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh;

8
viii) Tất cả các quyền khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong lĩnh
vực công nghiệp, khoa học, văn học và nghệ thuật.
Các lĩnh vực nêu tại điểm (i) và (ii) thuộc nhánh "Quyền tác giả", trong
đó các lĩnh vực thuộc điểm (ii) đợc gọi là "quyền liên quan (quyền kề cận)"
và các lĩnh vực nêu tại các điểm từ (iii) đến (vii) thuộc nhánh "Quyền sở hữu
công nghiệp".

Nh vậy, một cách truyền thống, quyền SHTT đợc hiểu là bao gồm
hai nội dung, đó là "quyền tác giả" và "quyền sở hữu công nghiệp".
Quyền tác giả đề cập đến quyền của ngời sáng tạo trí tuệ trong lĩnh
vực văn học, nghệ thuật, khoa học. Những sáng tạo đợc bảo hộ quyền tác giả
là những sáng tạo trong việc lựa chọn và sắp xếp từ ngữ, nốt nhạc, màu sắc và
hình khối. Luật về quyền tác giả bảo hộ chủ sở hữu quyền đối với những tác
phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học nhằm chống lại việc sao chép, sử dụng
hình thức của tác phẩm nguyên gốc đã đợc bảo hộ. Các đối tợng có thể
đợc bảo hộ quyền tác giả là các tác phẩm văn học, nghệ thuật, âm nhạc, tạo
hình, phát thanh, truyền hình, hệ thống lu trữ và truy cập thông tin trong máy
tính... Tuy nhiên, luật về quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức thể hiện ý tởng
chứ không bảo hộ nội dung các ý tởng đó.
Quyền SHCN đề cập đến quyền của ngời sáng tạo trí tuệ liên quan
đến các đối tợng thuộc lĩnh vực khoa học, công nghệ và thơng mại, bao
gồm: sáng chế, giải pháp hữu ích, KDCN, nhãn hiệu, chỉ dẫn thơng mại (tên
thơng mại, chỉ dẫn địa lý) và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
Tuy nhiên, thực tế đã chỉ ra rằng, SHTT nói chung và SHCN nói riêng
là vấn đề chịu ảnh hởng lớn của sự vận động, phát triển của khoa học, công
nghệ và đời sống xã hội [23, tr. 19]. Các ĐƯQT đợc ký kết từ năm 1967 trở
lại đây, trong đó đáng chú ý là Hiệp định TRIPS đã đa ra và làm rõ thêm
những loại hình mới của SHTT nh: chỉ dẫn địa lý, thiết kế bố trí mạch tích
hợp, thông tin bí mật, chơng trình máy tính, bộ su tập dữ liệu... Xu hớng

9
này cho thấy tính năng động của SHTT trong việc thích ứng với sự phát triển
công nghệ và văn hóa, nói cách khác, nội hàm của khái niệm quyền SHCN
vẫn đang ngày càng đợc mở rộng bao trùm các đối tợng mới của đời sống
xã hội.
Đối tợng quyền SHCN có thể đợc phân thành hai nhóm theo tính chất
riêng của chúng:

Nhóm các thành quả sáng tạo khoa học - công nghệ: bao gồm sáng chế,
giải pháp hữu ích, KDCN, thông tin bí mật, thiết kế bố trí mạch tích hợp.
Nhóm các dấu hiệu đặc trng dùng để phân biệt: bao gồm nhãn hiệu,
chỉ dẫn địa lý, tên thơng mại. Những đối tợng này hàm chứa yếu tố sáng tạo
trí tuệ không đáng kể, không nổi trội nhng vẫn đợc coi là đối tợng SHTT
vì chúng chứa đựng những dấu hiệu có khả năng truyền tin tới ngời tiêu dùng
về sản phẩm, dịch vụ đang lu thông trên thị trờng. Việc bảo hộ các dấu hiệu
mang tính đặc trng này nhằm khuyến khích cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ
quyền lợi ngời tiêu dùng.
Quyền SHCN đợc thừa nhận nhằm bảo hộ các thành quả sáng tạo trí tuệ
của con ngời. Với sự ghi nhận bảo hộ bởi cỡng chế nhà nớc, quyền SHCN trở
thành một loại quyền tài sản có giá trị lớn đối với chủ sở hữu. Ví dụ, có những
nhãn hiệu có thể trở thành tài sản lớn nhất mà một doanh nghiệp có thể chiếm
giữ [39, tr. 563]. Để bảo hộ quyền SHCN, mỗi quốc gia có một hệ thống bảo hộ
riêng phù hợp với các đặc điểm về kinh tế, chính trị và xã hội của mình.
Dới giác độ pháp lý, thuật ngữ "quyền sở hữu công nghiệp" đợc hiểu
theo hai nghĩa:
Theo nghĩa khách quan, quyền SHCN là một chế định pháp luật bao
gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình chiếm hữu, sử dụng, định đoạt các đối tợng SHCN đợc
Nhà nớc bảo hộ.

10
Theo nghĩa chủ quan, quyền SHCN là các quyền dân sự cụ thể của các
chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt các đối tợng SHCN.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995, quyền SHCN đợc
hiểu là "quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với sáng chế, giải pháp hữu
ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, quyền sử dụng đối với tên gọi
xuất xứ hàng hóa và quyền sở hữu đối với các đối tợng khác do pháp luật
quy định". "Các đối tợng khác" này đã đợc cụ thể hóa trong các Nghị định

hớng dẫn thi hành BLDS (Nghị định 54/2000/NĐ-CP và 42/2003/NĐ-CP),
bao gồm: chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh, tên thơng mại, quyền chống
cạnh tranh không lành mạnh và thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn.
BLDS năm 2005 thay thế BLDS năm 1995 nêu trên quy định về quyền
SHCN theo hớng liệt kê các đối tợng quyền: "Đối tợng quyền sở hữu công
nghiệp bao gồm: sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích
hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thơng mại và chỉ dẫn địa lý"
(Điều 750).
Luật SHTT với t cách là một đạo luật chuyên ngành điều chỉnh về SHTT
quy định cụ thể hơn: quyền SHCN là "Quyền hợp pháp của tổ chức, cá nhân
đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn,
nhãn hiệu, tên thơng mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo
ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh" (Điều 4.4).
Quyền SHCN theo quy định của pháp luật Việt Nam và các đối tợng
đợc bảo hộ SHCN về cơ bản phù hợp với yêu cầu của TRIPS và các ĐƯQT
về SHCN cũng nh thông lệ quốc tế.
1.1.2. Đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp
Quyền SHCN là một loại quyền tài sản, do đó, nó có đầy đủ các đặc tính
của quyền sở hữu tài sản nói chung, đó là: chủ sở hữu có toàn quyền đối với tài
sản của mình và không ai đợc sử dụng tài sản đó nếu không đợc sự cho phép

11
của chủ sở hữu. Bên cạnh đó, xuất phát từ tính chất đặc thù của các đối tợng
SHCN - tài sản trí tuệ, quyền SHCN có những đặc điểm khác với các quyền sở
hữu khác và thậm chí khác cả với quyền tác giả - một bộ phận của quyền SHTT.
a) Sự khác biệt giữa quyền SHCN và quyền sở hữu đối với tài sản
hữu hình
Sự khác biệt giữa quyền SHCN và quyền sở hữu đối với tài sản hữu
hình xuất phát từ thuộc tính vô hình của các đối tợng SHCN. Quyền SHCN
không thể xác định đợc thông qua các đặc điểm vật chất của đối tợng

SHCN mà nó phải đợc thể hiện thông qua một dạng vật chất hữu hình hoặc
một cách thức cụ thể nào đó để có thể bảo vệ đợc. Có thể xem xét, đánh giá
sự khác biệt của hai phạm trù này trên các khía cạnh sau:
- Về căn cứ xác lập quyền:
Quyền sở hữu tài sản hữu hình đợc xác lập trên cơ sở các sự kiện
pháp lý quy định trong BLDS. Quyền SHCN đối với hầu hết các đối tợng
SHCN đợc xác lập thông qua việc nộp đơn đăng ký và cấp văn bằng bảo hộ
hoặc có thể đợc xác lập một cách tự động nếu đối tợng SHCN đáp ứng
những tiêu chuẩn bảo hộ nhất định do pháp luật quy định.
- Về chủ thể quyền:
Chủ thể quyền sở hữu tài sản nói chung có thể là bất kỳ ai: cá nhân,
pháp nhân, tổ chức và cũng có thể là Nhà nớc - ngời chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản hợp pháp. Trong khi đó, chủ thể quyền SHCN chỉ có thể là
những cá nhân, tổ chức, đáp ứng các điều kiện tơng ứng với từng loại đối
tợng SHCN theo quy định của pháp luật. Chẳng hạn, chủ sở hữu nhãn hiệu phải
là những ngời có hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc lĩnh vực đăng ký nhãn
hiệu; chủ ở hữu nhãn hiệu tập thể chỉ có thể là một tổ chức (hội, hiệp hội
ngành nghề); chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận chỉ có thể là cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền chứng nhận đối với loại sản phẩm mang nhãn hiệu.

12
- Về đối tợng quyền:
Đối tợng của quyền sở hữu tài sản nói chung là các loại vật chất hữu
hình có thể "cầm, nắm, giữ" đợc và một số quyền tài sản luôn xác định đợc
bằng một số lợng vật chất cụ thể. Trong khi đó, đối tợng của quyền SHCN
là những sản phẩm vô hình chỉ có thể đợc định tính, định lợng khi ứng dụng
vào các loại sản phẩm hữu hình hoặc các hoạt động cụ thể.
- Về phạm vi bảo hộ:
Quyền sở hữu đối với tài sản thông thờng đợc bảo hộ vô thời hạn và
chỉ chấm dứt khi có các căn cứ chấm dứt quyền sở hữu đợc ghi nhận trong

các văn bản pháp luật hoặc khi tài sản bị tiêu huỷ. Quyền sở hữu đối với tài
sản thông thờng không bị giới hạn về mặt không gian. Trong khi đó, quyền
SHCN chỉ có thể đợc bảo hộ trong một khoảng thời gian xác định tùy thuộc
vào từng loại đối tợng và chỉ giới hạn trong một phạm vi lãnh thổ xác định.
- Về nội dung, ý nghĩa của các quyền năng sở hữu:
Đối với tài sản hữu hình, trong ba quyền năng cơ bản của chủ sở hữu
(chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) thì quyền chiếm hữu dờng nh là quyền cơ
bản và quan trọng nhất. Điều này xuất phát từ các đặc tính của tài sản hữu
hình: trong hầu hết các trờng hợp, chủ sở hữu phải chiếm hữu tài sản thì mới
có thể khai thác công dụng của tài sản đó.
Trong khi đó, đối với quyền SHCN, quyền sử dụng lại đợc coi là quyền
năng cơ bản nhất. Điều này cũng xuất phát từ tính vô hình của các đối tợng
SHCN. Chủ sở hữu không thể chiếm hữu (cầm, nắm, giữ) tài sản. Việc khai
thác giá trị quyền đợc thực hiện thông qua hành vi sử dụng đối tợng. Bản
thân các đối tợng SHCN không tạo ra giá trị mà chúng phải đợc ứng dụng
vào những loại vật chất hữu hình cụ thể và phát sinh giá trị quá trình sử dụng,
vận hành, khai thác các loại vật chất hữu hình này. Về bản chất, việc bảo hộ
quyền SHCN cũng là sự bảo hộ độc quyền khai thác, sử dụng đối tợng chống
lại các hành vi khai thác, sử dụng trái phép. Quyền của chủ sở hữu đối tợng
SHCN cũng đợc thể hiện chủ yếu và cơ bản nhất ở quyền sử dụng đối tợng.

13
b) Sự khác biệt giữa quyền SHCN và quyền tác giả
Quyền tác giả và quyền SHCN là hai nội dung cơ bản hợp thành quyền
SHTT. Hai lĩnh vực này có những thuộc tính chung nh: đặc tính "vô hình"
của đối tợng, tính chất của các quyền nhân thân và quyền tài sản dành cho
chủ thể sáng tạo và/hoặc chủ sở hữu, quyền sử dụng là quyền năng cơ bản
nhất và sự giới hạn về thời gian và không gian bảo hộ Tuy nhiên, có thể
phân biệt hai lĩnh vực này thông qua những đặc điểm chủ yếu sau:
Tiêu chí

so sánh
Quyền sở hữu công nghiệp Quyền tác giả
Lịch sử
hình
thành
Xuất hiện nhằm giải quyết những nhiệm
vụ khoa học công nghệ, kỹ thuật, thơng
mại đặt ra trong quá trình sản xuất sản
phẩm công nghiệp bằng máy móc thay
cho phơng pháp thủ công truyền thống.
Do đó, gắn với trình độ phát triển của
lực lợng sản xuất.
Xuất hiện nhằm đáp ứng nhu cầu
về tinh thần, văn hóa, tình cảm,
nhận thức, hiểu biết của con ngời.
Do đó, đợc tiến hành song song
cùng với sự tiến triển của xã hội
loài ngời.
Lĩnh vực
áp dụng
Kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ.
Chủ yếu áp dụng trong lĩnh vực văn
học, nghệ thuật.
Đối
tợng
quyền
Các kết quả của hoạt động sáng tạo kỹ
thuật (sáng chế, giải pháp hữu ích, thông
tin bí mật, thiết kế bố trí mạch tích
hợp); hoạt động sáng tạo mỹ thuật ứng

dụng (KDCN) hay hoạt động sáng tạo
trong thơng mại (nhãn hiệu, chỉ dẫn
địa lý, tên thơng mại).
Các tác phẩm văn học, nghệ thuật,
khoa học và các quyền phát sinh
có liên quan trực tiếp đến quyền
tác giả và việc thể hiện tác phẩm
(biểu diễn, ghi âm, phát thanh và
truyền hình).
Nội dung
bảo hộ
- Bảo hộ đối tợng thông qua các quy
định cấm ngời khác không đợc sử
dụng đối tợng đang đợc bảo hộ để
thu lợi nhuận mà không xin phép chủ
sở hữu.
- Chú trọng bảo hộ quyền tài sản hơn so
với các quyền nhân thân.
- Chú trọng bảo hộ quyền của chủ sở
hữu hơn so với quyền của ngời trực
tiếp sáng tạo.
- Bảo hộ hình thức sáng tạo của tác
phẩm nhằm cấm ngời khác sao
chép tác phẩm nếu không đợc phép
của tác giả/chủ sở hữu tác phẩm.
- Các quyền nhân thân đợc chú
trọng bảo hộ hơn so với quyền tài
sản.
- Thông thờng chú trọng bảo hộ
quyền của tác giả hơn so với quyền

của chủ sở hữu.
Thời hạn
bảo hộ
Thời hạn bảo hộ ngắn hơn so với thời
hạn bảo hộ quyền tác giả (5 năm đối
với KDCN, 10 năm đối với nhãn hiệu,
20 năm đối với sáng chế - có thể gia
hạn thêm 1 khoảng thời gian tơng ứng
với từng đối tợng).
Thời hạn bảo hộ dài hơn: thờng là
hết cuộc đời tác giả và 50 (hoặc 60,
70) năm sau khi tác giả qua đời;
một số quyền nhân thân của tác giả
đợc bảo hộ vô thời hạn (đặt tên tác
phẩm, đứng tên thật hoặc bút danh,
nêu tên thật hoặc bút danh khi tác

14
phẩm đợc công bố)
1.1.3. ý nghĩa của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Việc bảo hộ quyền SHCN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ
đối với các chủ thể sáng tạo/chủ sở hữu quyền, đối với xã hội, cộng đồng nói
chung mà còn tác động đến quá trình phát triển của nền kinh tế đất nớc và
thúc đẩy phát triển hợp tác quốc tế.
- Đối với chủ thể sáng tạo/chủ sở hữu quyền:
Việc bảo hộ quyền SHCN cho các chủ thể sáng tạo và chủ sở hữu quyền
bởi cỡng chế nhà nớc nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong việc
khai thác, sử dụng đồng thời ngăn chặn hành vi khai thác, sử dụng đối tợng
SHCN mà không xin phép. Điều này góp phần khích lệ các chủ thể trong hoạt
động nghiên cứu và sáng tạo.

Khi đợc cấp Văn bằng bảo hộ quyền SHCN, chủ sở hữu đợc độc quyền
khai thác đối tợng trong một khoảng thời gian nhất định. Trong thời gian đó,
chủ sở hữu có thể tự mình sử dụng, khai thác các lợi ích vật chất từ đối tợng
cũng có thể chuyển giao quyền sử dụng hoặc chuyển nhợng quyền sở hữu
đối tợng cho ngời khác và thu về một khoản lợi ích vật chất nhất định nhằm
bù đắp cho những chi phí và công sức đã bỏ ra trong quá trình sáng tạo.
Cơ chế bảo hộ quyền SHCN tốt sẽ tạo cho chủ sở hữu có đợc những lợi
thế so với các chủ thể khác thông qua việc khai thác, sử dụng đối tợng phục vụ
cho mục đích của mình [16, tr. 3].
- Đối với xã hội nói chung:
Việc bảo hộ quyền SHCN mang lại lợi ích chung cho toàn xã hội, nó
tạo điều kiện đảm bảo cho ngời tiêu dùng đợc sử dụng những sản phẩm,
dịch vụ tốt về chất lợng do đợc áp dụng những thành quả sáng tạo trong quá
trình sản xuất, đúng về nguồn gốc xuất xứ thông qua lựa chọn các dấu hiệu
đặc trng hoặc chỉ dẫn về nguồn gốc.

15
Các thành quả sáng tạo trí tuệ luôn luôn là những sản phẩm có ý nghĩa
quan trọng đối với mọi thời đại, mọi hình thái xã hội. Nó góp phần tạo nên sự
phát triển của xã hội nói chung. Mặt khác, thực tế đã chỉ ra rằng: cơ chế bảo
hộ quyền SHCN là một trong những điều kiện quan trọng nhằm khuyến khích
việc sáng tạo ra ngày càng nhiều hơn các sản phẩm mới đáp ứng các nhu cầu
của xã hội. Chính vì vậy, bảo hộ quyền SHCN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đối với xã hội nói chung. Có thể nói, "cơ chế bảo hộ sở hữu công nghiệp đã
tồn tại một cách thực sự ở tất cả các quốc gia văn minh nh một phần quan
trọng trong hạ tầng cơ sở của một xã hội hiện đại" [34, tr. 27].
- Đối với nền kinh tế đất nớc:
Sự vận hành và phát triển của nền kinh tế luôn tiềm ẩn trong nó những
hiện tợng trục lợi bất hợp pháp, nếu không có cơ chế kiểm soát, các hiện
tợng này sẽ là lực cản đối với sự phát triển của nền kinh tế [37, tr. 137). Bảo

hộ quyền SHCN chính là một trong những cơ chế kiểm soát hữu hiệu nhằm
tạo điều kiện đảm bảo cho nền kinh tế phát triển trong một môi trờng kinh
doanh lành mạnh, có trật tự, đúng định hớng. Chính vì vậy, việc bảo hộ quyền
SHCN nhằm thiết lập và duy trì sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, bảo hộ quyền SHCN còn góp phần nâng cao trình độ nền
kinh tế. Xét từ góc độ kinh tế, trình độ phát triển của nền kinh tế quốc gia
đợc đo bằng chỉ số GDP (tổng sản phẩm quốc nội chia cho toàn bộ dân số
hay thu nhập bình quân theo đầu ngời), chính vì vậy, nâng cao GDP là một
trong những u tiên hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách đặc biệt là
đối với các nớc đang phát triển. Để đạt đợc điều đó, việc cải tiến kỹ thuật,
phát triển khoa học - công nghệ đang đợc coi là những yếu tố quan trọng
thiết yếu hàng đầu. Kinh nghiệm của các quốc gia phát triển cho thấy chỉ khi
có cơ chế bảo hộ quyền SHCN hiệu quả thì mới có thể khuyến khích cải tiến
kỹ thuật và phát triển khoa học - công nghệ.

16
Ngoài ra, cơ chế bảo hộ SHCN ổn định và hoàn thiện cũng góp phần
quan trọng vào việc bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu t, từ đó thu
hút và khuyến khích đầu t nớc ngoài, thúc đẩy giao lu thơng mại quốc tế.
Thực tế cũng đã chỉ ra rằng hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền SHCN hoàn
thiện có thể giúp cho nền kinh tế giữ đợc thế chủ động trong quá trình hội nhập.
- Đối với quá trình giao lu, hợp tác quốc tế
SHCN gắn liền với nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, do đó, việc mở
rộng hợp tác, trao đổi, giao lu quốc tế giữa các quốc gia, tổ chức quốc tế trong
bảo hộ SHCN cũng là cầu nối cho việc phát triển quan hệ hợp tác quốc tế trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nh: khoa học, công nghệ, văn hóa, giáo dục,
thơng mại Bảo hộ SHCN đợc coi là cầu nối thúc đẩy quá trình giao lu,
hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực.
1.1.4. Sơ lợc lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp và xác lập quyền sở hữu công nghiệp trên

thế giới và ở Việt Nam
a) Trên thế giới
Nhu cầu bảo hộ quyền SHCN xuất hiện cùng với sự phát triển của giao
lu thơng mại nhằm bảo vệ quyền của chủ sở hữu đối với các đối tợng
SHCN. Sáng chế là đối tợng đợc bảo hộ đầu tiên. Việc bảo hộ sáng chế dới
hình thức bằng độc quyền sáng chế một cách có hệ thống đợc đề cập lần đầu
tiên trong Đạo luật Venice năm 1474, theo đó, kết quả sáng tạo đợc thừa nhận
và bảo hộ dới hình thức độc quyền của chủ thể sáng tạo, tơng ứng với nó,
các lợi ích của công chúng nói chung đối với sáng chế đó bị hạn chế. Đến thế
kỷ XVI, dới triều đại Vua Tudor, nớc Anh đã xây dựng một hệ thống bằng độc
quyền sáng chế. Đạo luật về Đặc quyền năm 1624 (Statute of Monopolies) là
luật thành văn đầu tiên quy định về việc cấp đặc quyền cho sáng chế trong
một khoảng thời gian có giới hạn.

17
Cho đến nửa sau thế kỷ XVIII - thời hoàng kim của thơng mại và
công nghiệp, để thiết lập cơ chế bảo hộ quyền SHCN, một số nớc đã thiết lập
hệ thống bằng độc quyền sáng chế đầu tiên của họ. Ví dụ: Luật về bằng độc
quyền sáng chế đầu tiên của Pháp năm 1791 quy định về bảo hộ quyền của
ngời sáng chế; Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1788 quy định về bằng độc quyền sáng
chế và sự bảo hộ đối với sáng chế thông qua việc cấp độc quyền cho ngời
sáng chế.
Trong thế kỷ XIX đã xuất hiện những trào lu tự do mậu dịch đòi hủy
bỏ hệ thống bảo hộ SHCN nhng làn sóng mạnh mẽ của chủ nghĩa dân tộc -
đặc trng cho thời kỳ đó - đã ngăn chặn trào lu này và đóng một vai trò quan
trọng trong việc duy trì và đa vào áp dụng hệ thống pháp luật SHTT hiện đại.
Từ đó đến nay, vấn đề bảo hộ quyền SHCN vẫn không ngừng vận động và
phát triển theo hớng mở rộng các quyền năng cho chủ sở hữu, mở rộng phạm vi
các đối tợng đợc bảo hộ. Vấn đề bảo hộ SHCN không còn chỉ là vấn đề của
từng quốc gia riêng lẻ mà nó đã trở thành vấn đề mang tính toàn cầu [38, tr. 126].

Trong thời kỳ đầu hình thành hệ thống bảo hộ quyền SHCN, vấn đề
đăng ký xác lập quyền cha đợc đặt ra. Quyền SHCN đối với các thành quả
sáng tạo đợc coi là những "đặc quyền" và đơng nhiên đợc công nhận cùng
với quá trình sử dụng thành quả sáng tạo đó của chủ sở hữu. Sự phát triển đa
dạng, phức tạp của các hoạt động kinh tế làm nảy sinh ngày càng nhiều các
hình thức vi phạm, tranh chấp liên quan đến quyền SHCN với mức độ phức tạp
ngày càng tăng, thiệt hại của chủ sở hữu ngày càng lớn. Việc sử dụng đối
tợng SHCN làm phát sinh quyền của chủ sở hữu trên thực tế nhng khi tranh
chấp nảy sinh, chủ sở hữu không có căn cứ, cơ sở chứng minh mình thực sự là
ngời có quyền sở hữu đối với đối tợng đó. Điều này làm phát sinh nhu cầu
cần có sự ghi nhận bảo hộ, đăng ký quyền sở hữu và bảo đảm bởi cỡng chế
nhà nớc đối với quyền SHCN của các chủ thể nhằm ngăn chặn sự xâm phạm
của ngời khác đối với các đối tợng đợc bảo hộ. Và những đạo luật đầu tiên

18
quy định về đăng ký xác lập quyền SHCN đợc ra đời ở Châu Âu vào nửa cuối
thế kỷ XVIII (Pháp, Thụy Sĩ). Các quốc gia đã xây dựng những đạo luật chung
về bảo hộ SHTT hoặc những đạo luật riêng về bảo hộ từng đối tợng SHCN,
trong đó có nội dung quy định cụ thể về trình tự, thủ tục và các yêu cầu liên
quan đến đăng ký xác lập quyền SHCN.
Tiếp đó, nhằm đáp ứng các nhu cầu của thực tế phát sinh trong quá trình
hội nhập, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể sáng tạo trong việc đăng ký
bảo hộ các đối tợng SHCN ở nhiều quốc gia khác nhau, các nớc đã cùng nhau
tiến hành đàm phán xây dựng các ĐƯQT một mặt nhằm làm hài hòa hóa các
quy định về xác lập quyền SHCN trong pháp luật của các quốc gia mặt khác
từng bớc thiết lập một hệ thống xác lập quyền SHCN mang tính quốc tế.
b) ở Việt Nam
Việt Nam coi vấn đề bảo hộ SHTT nói chung và SHCN nói riêng nh
một nhân tố quan trọng của chính sách cải cách, mở cửa và xây dựng nhà
nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Từ những năm 80 của thế kỷ XX, Nhà

nớc đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về SHCN (Nghị định về
Sáng kiến cải tiến kỹ thuật - hợp lý hóa sản xuất và Sáng chế năm 1981, Pháp
lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1989, Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác
giả năm 1994) nhằm tạo khung pháp lý cho việc bảo hộ quyền SHCN nói
chung và xác lập quyền SHCN nói riêng. Gắn liền với các giai đoạn phát triển
kinh tế và xã hội của đất nớc, hệ thống bảo hộ SHCN của Việt Nam cũng có
những bớc phát triển qua từng giai đoạn.
Giai đoạn 1945-1981:
Chính sách khuyến khích sáng tạo và bảo hộ thành quả sáng tạo đợc
chú trọng ngay từ những ngày đầu thành lập chính quyền, thể hiện bằng các
cuộc vận động thi đua cải tiến kỹ thuật. Trong giai đoạn này, một số văn bản
pháp luật về khuyến khích sáng tạo đã đợc ban hành làm tiền đề cho hệ

19
thống bảo hộ SHCN của Việt Nam nh:
- Thông t 04/LĐTT ngày 8/3/1958 của Bộ Lao động quy định về vấn
đề khen thởng các tác giả sáng kiến cải tiến kỹ thuật, sáng chế, phát minh;
- Nghị quyết số 175/TTg ngày 3/4/1958 của Thủ tớng Chính phủ quy
định về nhãn hiệu thơng phẩm;
- Chỉ thị 105/TTg ngày 11/03/1959 của Thủ tớng Chính phủ về tổ chức
lãnh đạo phong trào cải tiến kỹ thuật, sáng kiến, phát minh của quần chúng;
- Nghị định ngày 8/2/1965 của Hội đồng Chính phủ về khen thởng
sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến nghiệp vụ công tác.
ở miền Bắc, thời kỳ này cha hình thành một hệ thống bảo hộ quyền
SHCN theo đúng nghĩa. Quyền t hữu đối với các đối tợng SHCN không
đợc chấp nhận bảo hộ với lập luận cho rằng các sáng tạo của trí tuệ con
ngời thuộc sở hữu chung của toàn xã hội. Các tác giả, đồng tác giả chỉ đợc
hởng một số lợi ích mang ý nghĩa khuyến khích mà không có độc quyền đối
với các đối tợng do họ sáng tạo ra. Chính vì vậy, hoạt động đăng ký xác lập
quyền cũng không đợc đặt ra và hầu nh không đợc quan tâm.

Trong khi đó, ở miền Nam, hệ thống bảo hộ SHCN đợc chú trọng hơn
với quan điểm thừa nhận quyền t hữu của chủ sở hữu đối với đối tợng
SHCN. Chính quyền Sài Gòn đã ban hành một số văn bản độc lập về bảo hộ
các đối tợng SHCN nh:
- Luật 12/57 ngày 1/8/1957 bảo hộ sáng chế;
- Luật 13/57 ngày 1/8/1957 bảo hộ nhãn hiệu;
- Luật 14/59 ngày 11/6/1959 về chống sản xuất hàng giả.
Các vấn đề liên quan đến đăng ký xác lập quyền đã đợc quy định cụ
thể, chi tiết trong các văn bản pháp luật và là yêu cầu bắt buộc đối với các chủ
thể nhằm chính thức ghi nhận sự bảo hộ từ phía nhà nớc đối với quyền SHCN

20
của chủ sở hữu.
Giai đoạn từ 1981-1988:
Hệ thống bảo hộ SHCN giai đoạn này đợc áp dụng theo mô hình phổ
biến ở các nớc xã hội chủ nghĩa có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đó là
sự bảo hộ chủ yếu nhằm vào các quyền tinh thần hơn là các quyền tài sản của
ngời sáng tạo. Cơ chế "dùng lợi ích vật chất làm động lực thúc đẩy hoạt động
sáng tạo trí tuệ" hầu nh cha đợc áp dụng. Biện pháp bảo hộ chủ yếu và
dờng nh duy nhất là biện pháp hành chính. "Sản phẩm sáng tạo trí tuệ đợc
coi là sản phẩm phục vụ cho xã hội, quyền t hữu và các lợi ích kinh tế đối với
các sản phẩm đó của tác giả hầu nh không đợc chấp nhận. Tác giả của sản
phẩm chỉ có thể đợc thởng hoặc ghi công mà thôi" [32, tr. 4].
Cũng giống nh quy luật phát triển của pháp luật về bảo hộ SHCN trên
thế giới, sáng chế là đối tợng SHCN đợc ghi nhận bảo hộ đầu tiên theo quy
định của pháp luật Việt Nam (Nghị định 31/CP ngày 28/1/1981 về sáng kiến,
cải tiến kỹ thuật - hợp lý hóa sản xuất). Tuy nhiên, theo nghị định này, quyền
sở hữu đối với sáng chế lại thuộc về Nhà nớc, hay nói cách khác, sáng chế
đợc công hữu hóa, tác giả sáng chế chỉ đợc hởng các quyền nhân thân và
một phần vật chất mang tính tợng trng dới dạng tiền thởng.

Về vấn đề xác lập quyền SHCN đối với sáng chế, Nghị định 31/CP nêu
trên có những quy định về trình tự, thủ tục đăng ký sáng kiến, sáng chế cũng
nh thẩm quyền cấp Văn bằng bảo hộ đối với các đối tợng này. Một giải
pháp kỹ thuật đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ theo quy định sẽ đợc cấp Bằng
Tác giả sáng chế hoặc Bằng Sáng chế độc quyền. Để đăng ký sáng chế, tác giả
sáng chế (hoặc cơ quan, xí nghiệp đối với sáng chế công vụ) phải nộp đơn
đăng ký sáng chế tại ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nớc và phải trả lệ phí
đăng ký theo quy định. Thời gian xét nghiệm sáng chế đợc quy định rất dài:
21 tháng (3 tháng xét nghiệm hình thức và 18 tháng xét nghiệm nội dung).

21
Tiếp sau nghị định về bảo hộ sáng chế, lần lợt các nghị định khác
đợc ban hành nhằm bảo hộ đối với các đối tợng SHCN khác, cụ thể là:
- Nghị định 197/HĐBT ngày 14-12-1982 về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa;
- Nghị định 85/HĐBT ngày 13-5-1988 về bảo hộ KDCN;
- Nghị định 200/HĐBT ngày 28-12-1988 về bảo hộ giải pháp hữu ích;
- Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nớc ngoài vào Việt Nam năm 1988.
Theo các văn bản trên, việc xác lập quyền SHCN đối với các đối tợng
giải pháp hữu ích, KDCN và nhãn hiệu hàng hóa đợc thực hiện trên cơ sở đăng
ký bảo hộ tại Cục Sáng chế thuộc ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nớc.
Một đặc điểm nổi bật có thể nhận thấy trong giai đoạn này là trình tự,
thủ tục đăng ký bảo hộ các đối tợng SHCN đợc quy định mang nặng tính
hành chính, mệnh lệnh theo cơ chế xin - cho. Thời hạn xét nghiệm kéo dài
(trên 12 tháng)
Giai đoạn từ 1989-1995:
Giai đoạn này đợc coi là giai đoạn hệ thống SHCN của Việt Nam
tiếp cận với hệ thống SHCN hiện đại. Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế
sang cơ chế thị trờng, hệ thống SHCN của Việt Nam cũng đợc đổi mới
một bớc, bắt đầu bằng việc ban hành Pháp lệnh bảo hộ quyền SHCN ngày
28/1/1989 và sau đó là hàng loạt các hoạt động đổi mới khác theo hớng

chuyển dần hệ thống bảo hộ SHCN mang đặc trng của nền kinh kế tập
trung sang tiếp cận hệ thống SHCN hiện đại với đặc trng của nền kinh tế thị
trờng cạnh tranh. Pháp lệnh bảo hộ quyền SHCN ra đời xóa bỏ hình thức
công hữu đối với sáng chế thay vào đó là chế độ t hữu, đồng thời mở rộng
đối tợng bảo hộ bao gồm cả tên gọi xuất xứ (TGXX). Trong giai đoạn này,
đã có khoảng 50 văn bản pháp lý đợc ban hành quy định một cách khá đầy
đủ, cụ thể và toàn diện về phạm vi, nội dung bảo hộ quyền SHCN cũng nh
trình tự, thủ tục xác lập quyền SHCN tại Việt Nam. Các văn bản này đã tạo

22
nên một hệ thống pháp luật về SHCN tơng đối hoàn chỉnh, đồng bộ ở Việt
Nam. Chúng thể hiện đợc định hớng mới của pháp luật trong bớc chuyển
sang nền kinh tế thị trờng. Quyền SHCN đợc công nhận bảo hộ là một loại
quyền tài sản và đợc tự do khai thác, chuyển giao nh một đối tợng của
giao dịch dân sự.
Về hoạt động xác lập quyền SHCN, Cục Sáng chế đợc đổi tên thành
Cục SHCN cho phù hợp với phạm vi chức năng, nhiệm vụ đối với tất cả các
đối tợng SHCN. Cục SHCN là cơ quan duy nhất có thẩm quyền tiến hành các
thủ tục đăng ký xác lập quyền đối với các đối tợng SHCN. Các quy định về
trình tự, thủ tục xác lập quyền SHCN đợc quy định một cách cụ thể, rõ ràng
hơn tơng ứng với từng loại đối tợng SHCN.
Giai đoạn này đã hình thành mạng lới các cơ quan quản lý nhà nớc
về SHCN trên toàn quốc đặt trong hệ thống quản lý khoa học, công nghệ và
môi trờng. Các cơ quan này bên cạnh chức năng quản lý nhà nớc về SHCN
còn có trách nhiệm, thẩm quyền hớng dẫn, hỗ trợ các chủ thể trong quá trình
tiến hành các thủ tục xác lập quyền SHCN.
Giai đoạn từ 1995 đến nay:
Giai đoạn này đợc đánh giá là giai đoạn hệ thống SHCN Việt Nam
hớng tới một hệ thống SHCN đầy đủ, và hiệu quả theo yêu cầu của WTO.
BLDS 1995 đợc ban hành trong đó có một phần độc lập quy định về SHTT

và chuyển giao công nghệ (Phần thứ VI) đã đánh dấu bớc chuyển mới của hệ
thống bảo hộ SHCN Việt Nam với mục tiêu đáp ứng ngày càng tốt hơn các
tiêu chuẩn về SHTT của WTO. Tiếp đó là hàng loạt các nghị định, thông t
hớng dẫn thi hành BLDS liên quan đến SHCN và xác lập quyền SHCN:
- Nghị định 63/CP ngày 24-10-1996 quy định chi tiết về SHCN. Nghị
định này đã đợc sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 06/2001/CP ngày 1-2-2001;
- Nghị định 45/1998/NĐ-CP ngày 1-7-1998 quy định chi tiết về chuyển
giao công nghệ;

23
- Nghị định số 12/1999/NĐ-CP ngày 6-3-1999 về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực SHCN;
- Nghị định 54/200/NĐ-CP ngày 3-10-2000 về bảo hộ SHCN đối với
bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thơng mại và bảo hộ quyền chống cạnh
tranh không lành mạnh liên quan tới SHCN;
- Nghị định số 42/2003/NĐ-CP ngày 5-5-2003 về bảo hộ thiết kế bố trí
mạch tích hợp bán dẫn;
- Nghị định số 13/2001/NĐ-CP ngày 26-6-2001 về bảo hộ giống cây
trồng mới;
- Thông t 3055/TT/SHCN ngày 31-12-1996 hớng dẫn thi hành các
quy định về thủ tục xác lập quyền SHCN và một số thủ tục khác trong Nghị
định 63/CP;
- Thông t 825/2000/TT-BKHCNMT ngày 3-5-2000 của Bộ Khoa học
Công nghệ và Môi trờng hớng dẫn thi hành Nghị định 12/1999/NĐ-CP;
- Thông t 29/2003/NĐ-CP hớng dẫn thực hiện các thủ tục xác lập
quyền SHCN đối với KDCN;
- Thông t 30/2003/NĐ-CP hớng dẫn thực hiện các thủ tục xác lập
quyền SHCN đối với sáng chế, giải pháp hữu ích;
- Thông t 23/TC-TCT ngày 9-5-1997 của Bộ Tài chính về phí và lệ
phí SHCN. Thông t này đã đợc thay thế bởi Thông t 132/2004/TT-BTC

ngày 30-12-2004.
Sự ra đời của BLDS ngày 14-6-2005 (trong đó có Phần thứ 6 quy định
về Quyền SHTT và chuyển giao công nghệ) và Luật SHTT ngày 19/11/2005
đợc coi là sự kiện đánh dấu bớc phát triển mới của hệ thống SHTT Việt
Nam. Hệ thống xác lập quyền SHCN theo đó cũng đợc nâng lên một bớc
phát triển mới theo hớng hệ thống hóa, nhất thể hóa và hài hòa với các quy

24
định và thông lệ quốc tế. Lần đầu tiên các quy định về bảo hộ SHCN nói
chung và xác lập quyền SHCN nói riêng đợc tập trung, thống nhất và thể
hiện trong một đạo luật độc lập.
Bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia,
Việt Nam cũng là một trong những quốc gia tham gia các ĐƯQT về SHTT
trong đó có các ĐƯQT về xác lập quyền SHCN từ rất sớm:
- Tham gia công ớc Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp ngày 8-3-1949;
- Tham gia Thỏa ớc Madid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa
ngày 8-3-1949;
- Tham gia Công ớc Stockholm về thành lập Tổ chức SHTT thế giới
và trở thành thành viên của tổ chức này ngày 2-7-1976;
- Gia nhập Hiệp ớc Washington về SHTT đối với mạch tích hợp ngày
10-3-1993;
- Gia nhập Hiệp ớc hợp tác sáng chế PCT ngày 10-3-1993;
Hiện nay, Việt Nam vẫn đang trong tiến trình xây dựng một hệ thống
pháp luật SHCN trong đó có cơ chế xác lập quyền SHCN đầy đủ và hiệu quả,
đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi và thực thi các cam kết quốc tế.
1.2. Khái quát chung về xác lập quyền sở hữu công nghiệp
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của xác lập quyền sở hữu
công nghiệp
a) Khái niệm
Với tính chất là một loại quyền sở hữu, quyền SHCN chỉ phát sinh và

đợc bảo hộ dựa trên những căn cứ pháp lý nhất định hay nói cách khác, pháp
luật chỉ công nhận và bảo hộ các quyền của chủ sở hữu nếu quyền đó đợc
xác lập dựa trên những căn cứ do pháp luật quy định. Căn cứ làm phát sinh

25
quyền sở hữu nói chung là những sự kiện xảy ra trong đời sống thực tế nhng
có ý nghĩa pháp lý do pháp luật quy định qua đó làm phát sinh quyền sở hữu
của một hay nhiều chủ thể đối với một tài sản nhất định.
Đối với quyền SHCN, do chúng ta không thể nắm giữ, bảo vệ chúng
một cách cơ học nh với tài sản hữu hình và cũng không thể dễ dàng xác định
đợc tài sản đó có nguồn gốc từ đâu, thuộc về ai nh các đối tợng hữu hình
khác nên vấn đề xác lập quyền SHCN đợc đặt ra nh một điều kiện quan trọng
nhằm xác định và ghi nhận chủ sở hữu đối với đối tợng SHCN [12, tr. 25].
Xuất phát từ những tính chất đặc thù, riêng có của từng loại đối tợng SHCN,
pháp luật của hầu hết các nớc trên thế giới đều ghi nhận hai nguyên tắc xác
lập quyền cơ bản đó là (i) xác lập quyền theo nguyên tắc đăng ký bảo hộ tại
cơ quan có thẩm quyền và (ii) xác lập quyền theo nguyên tắc tự động khi đáp
ứng các điều kiện nhất định.
Nguyên tắc đăng ký bảo hộ thờng đợc áp dụng đối với các đối tợng
SHCN truyền thống nh sáng chế, giải pháp hữu ích, KDCN, nhãn hiệu, thiết
kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn và TGXX do các đối tợng này có tính chất
và nội dung phức tạp, điều kiện bảo hộ khắt khe; việc đánh giá, xem xét khả
năng đáp ứng các điều kiện bảo hộ không đơn giản, đòi hỏi trình độ chuyên
môn sâu và một hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu đầy đủ. Để quyền SHCN
đợc xác lập, chủ sở hữu các đối tợng này phải tiến hành thủ tục đăng ký
với một cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Cơ quan này có
trách nhiệm xem xét đơn đăng ký theo trình tự, thủ tục và đánh giá đối tợng
yêu cầu bảo hộ theo những tiêu chuẩn do pháp luật quy định. Nếu đối tợng
đáp ứng các điều kiện theo quy định, ngời đăng ký sẽ đợc cấp một văn
bằng bảo hộ với ý nghĩa xác nhận ngời đó có quyền đối với đối tợng đăng

ký trong thời hạn, phạm vi tơng ứng. Quyền SHCN đối với các đối tợng
này đợc xác lập theo quyết định cấp văn bằng bảo hộ đó của cơ quan có
thẩm quyền.

×