Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.86 KB, 14 trang )

Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập
doanh nghiệp


Nguyê
̃
n Thi
̣
Phương Tha
̉
o


Khoa Luật
Luận văn ThS. ngành: Luâ
̣
t kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyê
̃
n Như Pha
́
t
Năm bảo vệ: 2010


Abstract. Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu so sánh pháp luật
về thành lập doanh nghiệp. So sánh pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam
với một số nước. Đề xuất những khuyến nghị ban đầu tư
̀
nghiên c ứu so sánh nhằm
hoàn thiện pháp luật về thành lập doanh nghiệp của Việt Nam.



Keywords. Luật kinh tế; Pháp luật Việt Nam; Doanh nghiệp


Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ở Việt Nam, Luật Doanh nghiệp 2005 và tiếp theo đó là các Nghị định, Thông tư
hướng dẫn được ban hành đã đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật thành lập doanh
nghiệp. Những quy định cụ thể và tương đối phù hợp đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
trong nước thành lập, phát huy nội lực, khai thác tiềm năng sẵn có và bước đầu tạo môi
trường pháp lý thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, sau 5 năm thực hiện, Luật Doanh nghiệp 2005 cũng như những văn bản
hướng dẫn thi hành đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập trước sự phát triển mạnh mẽ của đời
sống kinh tế - xã hội, nhất là sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) ngày 11 tháng 01 năm 2007. Pháp luật Việt Nam về kinh doanh
nói chung và về thành lập doanh nghiệp nói riêng, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế,
không những phải đáp ứng yêu cầu cụ thể hóa đường lối, chủ chương, chính sách phát triển
kinh tế của Đảng và Nhà nước, điều chỉnh có hiệu quả hoạt động kinh doanh của quốc gia,
mà còn phải phù hợp với pháp luật kinh doanh của cộng đồng quốc tế. Vì vậy, pháp luật về
thành lập doanh nghiệp của Việt Nam cần được so sánh, đối chiếu với pháp luật thành lập
doanh nghiệp của các nước để nhìn nhận rõ hơn những thành tựu đã đạt được cũng như
những hạn chế và tham khảo, học hỏi để từng bước hoàn thiện pháp luật kinh doanh của Việt
Nam.
Vì vậy, nghiên cứu Đề tài "Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp" là
rất cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu Đề tài
Từ trước đến nay đã có một số công trình khoa học, bài viết hoặc tham luận khoa học
được công bố trên các sách chuyên khảo, tạp chí khoa học chuyên ngành hoặc các diễn đàn
khoa học đề cập đến so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp ở những cấp độ và phạm vi

khác nhau, như: Dự án VIE/97/016 so sánh về luật doanh nghiệp của 4 nước: Singapore,
Malaysia, Philipine và Thái Lan của Nguyễn Toàn Phan và John Bentley; "Hình thức pháp lý
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ luật so sánh" của TS Nguyễn Am Hiểu; “Sự
thay đổi trong luật công ty Đức và so sánh với pháp luật công ty Việt Nam” và "Uớc mơ nửa
triệu doanh nghiệp và một đạo luật chung: Luật doanh nghiệp 2005 từ một góc nhìn so sánh"
của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa; “Tiếp nhận pháp luật nước ngoài: nhìn từ ví dụ luật công ty của
Nhật và Luật doanh nghiệp của Việt Nam” của Th.s Nguyễn Đức Lam… Nhưng có thể thấy,
hầu hết những công trình khoa học hoặc bài viết đó hoặc là nghiên cứu so sánh chung về luật
doanh nghiệp, hoặc là nghiên cứu so sánh một lĩnh vực cụ thể nào đó của luật doanh nghiệp
chứ chưa có công trình nào nghiên cứu so sánh riêng về pháp luật thành lập doanh nghiệp giữa
Việt Nam và các nước khác.
Đề tài "Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp" là một đề tài hoàn toàn
mới và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn trong khoa học pháp lý của Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: so sánh pháp luật về thành lâp doanh nghiệp của Việt Nam với một
số nước nhằm làm rõ sự tương đồng, khác biệt và rút ra những giá trị có thể tham khảo, học hỏi
góp phần xây dựng, hoàn thiện pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu: làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu so sánh pháp
luật về thành lập doanh nghiệp; so sánh pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam với một
số nước; đề xuất những khuyến nghị ban đầu qua việc nghiên cứu so sánh nhằm hoàn thiện pháp
luật về thành lập doanh nghiệp của Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: pháp luật về thành lập doanh nghiệp của Việt Nam và của một
số nước được chọn lựa so sánh.
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu pháp luật về việc thành lập mới một số loại hình doanh
nghiệp là: doanh nghiệp tư nhân, hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần
(tương ứng với các loại hình doanh nghiệp được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005 của
Việt Nam); không nghiên cứu việc thành lập các loại hình doanh nghiệp khác (như doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ) cũng như việc chuyển đổi loại
hình doanh nghiệp, thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh hoặc việc thành lập chi nhánh, văn

phòng đại diện của doanh nghiệp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ yếu là phương pháp hệ
thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử - lôgic, đối chiếu so sánh.
6. Đóng góp khoa học của Đề tài
Góp phần làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt, làm cơ sở cho việc nghiên cứu, học
tập về pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam và một số nước trên thế giới, góp phần
làm cơ sở để xây dựng và hoàn thiện pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam.
7. Kết cấu Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Mục lục và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu
gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về nghiên cứu so sánh pháp luật thành lập doanh
nghiệp
Chương 2: So sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp
Chương 3: Một số khuyến nghị ban đầu từ nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập
doanh nghiệp

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU SO SÁNH
PHÁP LUẬT THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP
1.1. Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp
1.1.1. Nhận dạng đối tượng nghiên cứu - pháp luật về thành lập doanh nghiệp
Pháp luật về thành lập doanh nghiệp là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước
ban hành (hoặc thừa nhận) và đảm bảo thực hiện, điều chỉnh về các loại hình doanh nghiệp
được phép thành lập, điều kiện, hồ sơ, trình tự thủ tục thành lập doanh nghiệp. Pháp luật về
thành lập doanh nghiệp là một chế định có vị trí quan trọng của pháp luật kinh doanh, là cơ
sở để xây dựng các chế định khác như đầu tư, cạnh tranh, hợp đồng; tranh chấp thương mại
Hầu như các nước đều có pháp luật về thành lập doanh nghiệp, trong đó quy định về các
loại hình doanh nghiệp đuợc thành lập, điều kiện thành lập, hồ sơ, trình tự, thủ tục thành lập
doanh nghiệp. Tuy nhiên, do sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế, về văn hóa pháp lý, về

ngôn ngữ pháp luật về thành lập doanh nghiệp của mỗi nước lại có những điểm khác biệt nhất
định, như: pháp luật về thành lập doanh nghiệp, có nước xuất hiện rất sớm có nước ra đời
muộn; có nước khá ổn định - có nước thường xuyên thay đổ; có nước quy định chung ở một
luật - có nước lại quy định riêng ở nhiều luật tương ứng với mỗi loại hình doanh nghiệp; có
nước quy định về thành lập doanh nghiệp ở luật, có nước lại quy định cả ở những văn bản dưới
luật; đặc biệt ở một số nước liên bang, pháp luật về thành lập doanh nghiệp được quy định tại
luật liên bang, sau đó tại các tiểu bang lại có những quy định riêng.
1.1.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu so sánh
Chỉ lựa chọn so sánh pháp luật thành lập doanh nghiệp của một số nước dựa trên một số
tiêu chí nhất định, như: những nước có quan hệ hợp tác kinh tế truyền thống, lâu dài: Mỹ, Anh,
Nhật Bản, Pháp…; những nước có điểm tương đồng về đường lối chính sách kinh tế với Việt
Nam như Trung Quốc; những nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Singapore,
Malaysia, Philippines….
Chỉ nghiên cứu so sánh pháp luật thành lập doanh nghiệp của 4 loại hình cơ bản là:
doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty TNHH và công ty cổ phần (trong phạm vi
đối tượng điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 2005) không nghiên cứu việc thành lập các loại
hình doanh nghiệp khác như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài ; chỉ so sánh thành lập mới doanh nghiệp (không so sánh về thay đổi nội dung đăng ký
kinh doanh hoặc việc thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện).
1.2. Nhu cầu và thực trạng nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh
nghiệp của nước ta hiện nay
1.2.1. Nhu cầu nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp của nước ta
hiện nay
Hoạt động so sánh pháp luật giúp hiểu biết sâu sắc hơn về đời sống xã hội, văn hóa của các
dân tộc trên thế giới nói chung và hệ thống pháp luật cũng như nền khoa học pháp lý của mỗi quốc
gia nói riêng.
Việc so sánh, đối chiếu pháp luật thành lập doanh nghiệp sẽ giúp cho các chuyên gia
pháp lý nhìn nhận một cách khách quan hơn về đặc điểm, thực trạng của hệ thống pháp luật
thành lập doanh nghiệp của quốc gia, rút ra những kinh nghiệm bổ ích để học hỏi và qua đó
đưa ra các chuẩn mực pháp luật quốc gia, tìm kiếm, xây dựng mô hình pháp luật lý tưởng,

phù hợp để hoàn thiện pháp luật về thành lập doanh nghiệp của nước nhà.
1.2.2. Thực trạng nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp của nước
ta hiện nay
Hoạt động nghiên cứu so sánh về pháp luật thành lập doanh nghiệp của nước ta đã bước
đầu được chú trọng, chẳng hạn như việc khảo sát mô hình doanh nghiệp của các nước (trong
đó có nghiên cứu cách thức thành lập doanh nghiệp) để tham khảo khi xây dựng luật doanh
nghiệp, tuy nhiên, công việc này chưa hệ thống, chưa thường xuyên, mới chỉ chú trọng trong
những thời điểm cụ thể, trước những yêu cầu cụ thể.
Nguyên nhân của thực trạng trên là do nghiên cứu so sánh là một lĩnh vực mới và khó,
các cơ sở đảm bảo cho việc nghiên cứu so sánh như kinh phí khảo sát, việc đi sang nước
ngoài học tập, nghiên cứu, việc dịch tài liệu của nước ngoài… còn thiếu và khó khăn hoặc
chưa được đầu tư đúng mức.
Kết luận chương 1
Để nghiên cứu so sánh pháp luật thành lập doanh nghiệp giữa Việt Nam và một số nước
trước hết phải nhận dạng đối tượng so sánh và giới hạn phạm vi so sánh. Không thể so sánh
những nội dung không thuộc pháp luật thành lập doanh nghiệp và cũng không thể so sánh với
pháp luật của những nước không có mối liên hệ gì với Việt Nam hoặc nếu có so sánh cũng
không phục vụ cho mục đích tìm hiểu, tham khảo, học hỏi. Do đó, cần xác định nội hàm của
khái niệm pháp luật thành lập doanh nghiệp, khẳng định pháp luật thành lập doanh nghiệp
của các nước có sự tương đồng và khác biệt và dựa trên những tiêu chí nhất định, lựa chọn
pháp luật của một số nước, giới hạn một số lĩnh vực cụ thể để so sánh.
Bên cạnh đó, xem xét nhu cầu và thực trạng nghiên cứu so sánh về pháp luật thành lập
doanh nghiệp hiện nay ở nước ta sẽ cung cấp một cái nhìn khách quan, toàn diện về tầm quan
trọng, những thuận lợi, khó khăn, sự kế thừa, phát triển của công trình nghiên cứu. Đây chính
là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để lựa chọn phương pháp, xác định những nội dung
trọng tâm cần nghiên cứu và đảm bảo cho việc nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập
doanh nghiệp được đúng hướng, mang lại những kết quả có giá trị.


Chương 2

SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP
2.1. So sánh về các loại hình doanh nghiệp được phép thành lập
2.1.1. So sánh về loại hình doanh nghiệp tư nhân
Đây là hình thức kinh doanh lâu đời và thường được sử dụng cho những cá nhân muốn
tiến hành các hoạt động kinh doanh riêng lẻ, cá thể dưới hình thức chủ sở hữu duy nhất. Pháp
luật Mỹ gọi hình thức này là cá thể kinh doanh (sole proprietorship hoặc individual
proprietorship), các cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có thể tiến hành các hoạt động
kinh doanh nhân danh tên của họ hoặc tên gọi thương mại mà không cần phải làm thủ tục xin
phép.
Theo luật Malaysia và Singapore, doanh nghiệp tư nhân là hình thức kinh doanh do một
người có thể là thể nhân hoặc pháp nhân thành lập, có toàn quyền quản lý, điều hành hoạt
động kinh doanh, chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của doanh nghiệp. Theo luật
Malaysia và luật Singapore, một công ty có thể trở thành chủ sở hữu một doanh nghiệp tư
nhân. Điều này không được thừa nhận trong luật của Thái Lan và Philippines. Ở Thái Lan và
Philippines, hình thức này chỉ có thể do thể nhân thành lập.
Có thể thấy một số điểm tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và một số nước trong
quan niệm về loại hình doanh nghiệp này. Nếu như Mỹ coi đây là hình thức kinh doanh của cá
nhân và có thể hoặc không cần phải đăng ký kinh doanh thì các nước như Việt Nam và
Singapore, Malaysia, Thái Lan và Philippines lại coi đây là một loại hình doanh nghiệp và phải
tiến hành đăng ký kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bên cạnh đó, chủ thể của
loại hình kinh doanh này cũng được chia thành hai trường phái: đối với pháp luật của các nước
Mỹ, Việt Nam, Thái Lan và Philippines thì chỉ quy định cho cá nhân, còn đối với pháp luật của
Singapore và Malaysia có thể do thể nhân thành lập. Tuy vậy, về bản chất, loại hình doanh
nghiệp này có những đặc điểm chung mà pháp luật các nước đều thừa nhận là chủ doanh nghiệp
có thể toàn quyền định đoạt công việc kinh doanh của mình, được hưởng toàn bộ lợi nhuận thu
được và phải mang toàn bộ tài sản để chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh.
2.1.2. So sánh về loại hình công ty hợp danh
Anh là một nước có truyền thống pháp luật lâu đời về hợp danh. Hợp danh của Anh được
chia làm hai loại là Hợp danh thông thường (hay đầy đủ) (The full partnership) và Hợp danh
TNHH (The limited partnership).

Theo quan niệm của các nhà làm luật Mỹ thì “hợp danh là một sự liên kết tự nguyện của ít
nhất hai người trở lên nhằm thực hiện công việc kinh doanh như những người đồng sở hữu, vì mục
tiêu lợi nhuận”.
Theo luật Singapore, hợp danh là thoả thuận giữa những người tiến hành kinh doanh
nhằm thu lợi. Số lượng thành viên tối thiểu của hợp danh theo luật Singapore là 2 và tối đa là
20. Philippines và Thái Lan quy định về hợp danh hữu hạn còn Singapore và Malaysia thì
không có loại hình hợp danh hữu hạn.
Pháp luật Việt Nam cũng giống pháp luật các nước khi quy định hợp danh được thành
lập vì mục đích kinh doanh, lợi nhuận, phải do ít nhất hai người trở lên thành lập và là chủ sở
hữu chung. Tuy nhiên, nếu như các nhà làm luật Mỹ, Anh, Singapore quan niệm hợp danh là
một sự liên kết, tức là chỉ cần chứng minh giữa hai người có sự liên kết với nhau để kinh
doanh như hai chủ sở hữu vì mục tiêu lợi nhuận thì đó là hợp danh thì theo luật Việt Nam
hợp danh là một công ty.
Về thủ tục thành lập hợp danh, các nước quan niệm hợp danh chỉ là sự liên kết thì
không nhất thiết phải tiến hành các thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (trừ
loại hợp danh hữu hạn). Còn những nước xác định hợp danh là công ty thì chỉ được công
nhận là hợp danh khi đã trải qua những thủ tục pháp lý thành lập công ty.
Pháp luật của nhiều nước quan niệm rằng hợp danh có tư cách pháp nhân (luật
Philippine, Việt Nam), nhiều nước lại cho rằng hợp danh không có tư cách pháp nhân (pháp
luật Singapore và Malaysia) hoặc xem xét tư cách pháp nhân của hợp danh thông qua việc nó
có được đăng ký trước cơ quan nhà nước hay không vì ở nước đó hợp danh có thể đăng ký
hoặc không đăng ký, nhưng chỉ khi đăng ký thì mới có tư cách pháp nhân (pháp luật Thái
Lan).
Ngoài ra, việc phân chia hay không phân chia hợp danh thành hai loại thông thường và
hữu hạn cũng tạo nên sự khác biệt giữa pháp luật các nước về vấn đề hợp danh.
2.1.3. So sánh về loại hình công ty cổ phần
Ở Pháp, công ty cổ phần, hay còn gọi là công ty vô danh (Société Anonyme –SA) được
ra đời khá sớm. Ngoài SA, Pháp còn có loại hình công ty cổ phần đơn giản (Société par
actions simplifiée – SAS). Ở Nhật Bản, công ty cổ phần được gọi là Kabushiki-Kaisha (KK).
Loại hình công ty cổ phần của Trung Quốc được quy định tại Điều 79 Luật công ty Trung

Quốc 2005. Pháp luật Mỹ quy định hai loại hình công ty cổ phần: công ty cổ phần công cộng
hay công ty chứng khoán (Public stock companies) và công ty cổ phần tư nhân (Private stock
companies). Tương tự như luật Mỹ, Luật Singapore, Thái Lan, Philippines, Malaysia cũng
chia công ty cổ phần thành hai loại. Luật Philippines gọi là Ordinary Corporation và Close
Corporation còn luật Singapore, Thái Lan, Malaysia gọi là Public Limited Company và
Private Limited Company. Công ty cổ phần của Việt Nam được quy định tại Điều 77 Luật
Doanh nghiệp 2005.
Về bản chất của công ty cổ phần, pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước không
có sự khác biệt khi quan niệm đây là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn với đặc điểm
quan trọng là có sự tách bạch tài sản của công ty và tài sản của cá nhân, các thành viên chỉ
chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn mà họ góp vào công
ty; vốn cơ bản của công ty được chia thành các cổ phần, trong quá trình hoạt động, công ty cổ
phần được phát hành các loại chứng khoán ra thị trường để công khai huy động vốn trong
công chúng.
Sự khác nhau là trong quy định về số lượng thành viên, cách thức góp vốn, cơ chế quản
lý điều hành công ty cổ phần. Nhật Bản quy định tối thiểu phải có 7 thành viên, Trung Quốc tối
thiểu là 2 tối đa là 200, Singapore và Malaysia không quá 50 cổ đông còn Philippines không
quá 20, Thái Lan không quá 99 cổ đông (đối với công ty cổ phần hạn chế), còn theo pháp luật
Việt Nam số thành viên công ty cổ phần tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa.
Nhiều nước phân chia công ty cổ phần thành nhiều loại, tương ứng với nó là những quy
chế pháp lý được quy định rất cụ thể cho từng loại (Pháp, Mỹ, Singapore Thái Lan,
Philippines, Malaysia). Nước ta do hình thức công ty cổ phần mới xuất hiện vài chục năm
gần đây, đặc biệt là thị trường chứng khoán cũng mới ra đời nên so với các nước có bề dày
lịch sử hàng trăm năm, pháp luật về công ty cổ phần ở nước ta vẫn còn khá sơ sài cũng là
điều không khó để lý giải.
2.1.4. So sánh về loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn
Pháp luật của các nước đều có quy định về loại hình công ty TNHH với những điểm
chung về tính chịu trách nhiệm hữu hạn của nó. Chính vì vậy, trên bảng hiệu, hoá đơn và các
tài liệu giao dịch của loại hình công ty này phải ghi rõ tên công ty gắn với loại hình công ty
“TNHH” để công khai trước các đối tác về tính chịu trách nhiệm (hữu hạn) của công ty đối với

các chủ nợ của mình. Theo pháp luật một số nước, nếu công ty vi phạm điều này thì phải chịu
trách nhiệm vô hạn đối với những người có quan hệ giao dịch với công ty, bởi sự vi phạm này
được coi là sự lừa dối trong kinh doanh.
Tuy nhiên, pháp luật các nước có nhiều sự khác biệt khi quy định về số lượng thành
viên của công ty TNHH, tư cách thành viên tham gia công ty TNHH, sự phân loại công ty
TNHH và tương ứng với nó là cơ chế quản lý, điều hành có thể khác nhau đối với từng loại
công ty TNHH cụ thể. Pháp, Trung Quốc, Việt Nam đều chia hai loại hình TNHH một thành
viên và từ hai thành viên trở nên. Mỹ không giới hạn về số lượng thành viên cho một công ty
TNHH còn Pháp, Trung Quốc và Việt Nam đều giới hạn không vượt quá 50.
2.2. So sánh về một số điều kiện thành lập doanh nghiệp
2.2.1. So sánh điều kiện về chủ thể
Cùng quy định về chủ thể nhưng pháp luật các nước có hai dạng: hoặc là quy định
chung chung hoặc là quy định cụ thể trong luật doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp Philippines
và Thái Lan chỉ quy định chung: người sáng lập phải có đầy đủ năng lực pháp luật còn Luật
doanh nghiệp Singapore và Malaysia quy định cụ thể hơn: người từ 21 tuổi trở lên mới được
thành lập doanh nghiệp. Về lý lịch tư pháp, Luật Philippines không quy định nhưng luật Thái
Lan, Singapore và Malaysia đều quy định những người đang làm thủ tục phá sản mà không
được phép của Tòa án cũng không được tham gia thành lập doanh nghiệp.
Pháp luật Malaysia và Singapore không hạn chế người nước ngoài thành lập hoặc tham
gia vào các công ty. Người nước ngoài đáp ứng được những yêu cầu có thể thành lập doanh
nghiệp theo cách tương tự như người dân địa phương. Còn luật Philippines và Thái Lan quy
định người sáng lập công ty không nhất thiết phải là công dân nước mình (có thể là người
nước ngoài) nhưng phải là người thường trú tại đó. Pháp luật một số nước còn quy định cụ
thể quốc tịch của một số thành viên chủ chốt trong công ty sẽ được thành lập. Có nước còn
quy định riêng những điều kiện về chủ thể tương ứng với các loại hình doanh nghiệp.
So với pháp luật nhiều nước thì Luật Doanh nghiệp Việt Nam quy định khá cụ thể và chi
tiết những đối tượng không được thành lập và quản lý doanh nghiệp (Khoản 2 Điều 13 Luật
Doanh nghiệp). Tuy nhiên, vấn đề xác minh, thẩm định điều kiện về chủ thể vẫn còn là một bài
toán khó đang đặt ra với các cơ quan chức năng của Việt Nam khi xem xét hồ sơ đăng ký thành
lập doanh nghiệp.

2.2.2. So sánh điều kiện về vốn góp
Luật Liên bang Nga quy định: đối với công ty TNHH thì mức vốn điều lệ tối thiểu là
bằng 100 lần mức lương tối thiểu; đối với công ty cổ phần thì mức vốn điều lệ tối thiểu là
bằng 1000 lần mức lương tối thiểu tại thời điểm thành lập doanh nghiệp. Luật Cộng hòa liên
bang Đức quy định: mức vốn điều lệ tối thiểu đối với công ty trách nhiệm hữu hạn là 25.000
Euro, mức tối thiểu của mỗi phần vốn góp là 100 Euro. Vốn tối thiểu đối với công ty cổ phần
là 50,000 Euro. Theo Luật Doanh nghiệp Trung Quốc 2005, vốn điều lệ tối thiê
̉
u cu
̉
a mô
̣
t
công ty TNHH la
̀
30.000 Nhân dân tê
̣
, công ty cô
̉
phần la
̀
5 triê
̣
u Nhân dân tê
̣
và đối vơ
́
i công
ty TNHH mô
̣

t thành viên là 100.000 Nhân dân tê
̣
. Nhà đầu tư ở Pháp có thể thành lập công ty
TNHH chỉ với 1 Euro. Điều này cũng tương tự như ở Nhật, các công ty này có thể bắt đầu
với số vốn rất tượng trưng thậm chí chỉ cần 1 Yên trở lên.
Không chỉ quy định về mức vốn điều lệ tối thiểu, pháp luật của một số nước còn quy
định rất cụ thể về cách thức góp vốn, tiến độ góp vốn, xác định việc góp vốn.
Như vậy, điều kiện về vốn được quy định khá khác nhau trong pháp luật của các nước. Có
nước quy định, có nước không quy định vốn tối thiểu khi thành lập. Mức vốn tối thiểu đặt ra cũng
rất khác nhau, cơ chế kiểm tra, xác định vốn góp khi thành lập cũng được chú trọng ở mức khác
nhau tuỳ theo quan niệm của nước đó cần sự quản lý chặt chẽ hay tạo điều kiện thông thoáng cho
doanh nghiệp khi thành lập. Việc định tiến độ góp vốn tại thời điểm đăng ký kinh doanh và
khoảng thời gian tiếp sau đó cũng được quy định khác nhau ở từng nước, đặc biệt, pháp luật Việt
Nam không hề quy định về vấn đề này.
2.2.3. So sánh điều kiện về ngành nghề đăng ký kinh doanh
Pháp luật các nước không quy định cụ thể, chi tiết danh mục các ngành nghề được phép
đăng ký kinh doanh ngay trong luật doanh nghiệp hay luật công ty như những điều kiện về
chủ thể hay về vốn mà thường quy định ở những đạo luật riêng. Có lẽ do các lĩnh vực ngành
nghề rất phong phú, không thể liệt kê trong luật. Thông thường, luật doanh nghiệp của các
nước dẫn chiếu tới luật khác để khi thành lập doanh nghiệp các chủ thể lựa chọn ngành nghề
phù hợp và thường chỉ quy định chung mang tính gợi mở như được phép kinh doanh những
ngành nghề mà pháp luật không cấm hoặc đối với những ngành nghề đặc biệt phải thoả mãn
những điều kiện nhất định và được sự cho phép của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2.2.4. So sánh điều kiện về tên của doanh nghiệp
Nhiều nước quy định điều kiện về tên của doanh nghiệp trong luật doanh nghiệp, luật
công ty như một phần trong các văn bản đó (Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan) nhưng cũng
có nước quy định ở hẳn một đạo luật riêng (Philippine). Đặc biệt, đối với một số nước lại có
yêu cầu riêng về tên doanh nghiệp tương ứng với loại hình doanh nghiệp (quy định về đặt tên
đối với hợp danh trong luật của Thái Lan).
Pháp luật một số nước còn có những yêu cầu riêng về tên đối với từng loại hình doanh

nghiệp bên cạnh những yêu cầu chung và quy định rất cụ thể về việc đăng ký và bảo lưu tên
gọi trong một khoảng thời gian nhất định trong khi làm các thủ tục khác. Việc xử lý vấn đề
trùng tên gọi hay tên gây nhầm lẫn cũng được pháp luật nhiều nước quy định cụ thể trong
luật.
Pháp luật Việt Nam quy định cụ thể và chi tiết về tên của doanh nghiệp tuy nhiên vấn
đề bảo lưu tên gọi lại không thấy xuất hiện trong Luật Doanh nghiệp 2005 của Việt Nam và
việc giải quyết tranh chấp về tên gọi, việc chứng nhận tên đã đăng ký coi đó như là một thứ
tài sản vô hình của doanh nghiệp cũng chưa được chú trọng đúng mức như pháp luật của
nhiều nước.
2.3. So sánh về thủ tục thành lập doanh nghiệp
Quy định về trình tự, thủ tục thành lập doanh nghiệp trong pháp luật của các nước
không có sự đồng nhất. Có nước quy định chung cho tất cả mọi loại hình doanh nghiệp và chỉ
bổ sung thêm những nội dung cần thiết riêng cho từng loại hình. Có nước lại quy định trình
tự, thủ tục riêng cho từng loại hình ở trong từng đạo luật cụ thể (Anh, Mỹ). Đây là những
nước mỗi một loại hình doanh nghiệp có một đạo luật riêng điều chỉnh và trong đó quy định
luôn trình tự, thủ tục thành lập cho loại hình doanh nghiệp đó.
2.3.1. Các thủ tục chuẩn bị thành lập doanh nghiệp
Vai trò chính trong giai đoạn này là những người sáng lập. Quy định về sáng lập viên ở
pháp luật các nước khác nhau. Mỹ và Trung Quốc quy định rất cụ thể về sáng lập viên tuy
nhiên ở Việt Nam chưa quy định cụ thể về đối tượng này trong Luật Doanh nghiệp, đặc biệt
là trong trường hợp đó là những người chỉ đứng ra thành lập công ty rồi bán lại hoặc những
người chuyên tiến hành dịch vụ thành lập doanh nghiệp.
Pháp luật mỗi nước quy định về hồ sơ và các loại giấy tờ cần thiết phải nộp không
giống nhau nhưng đều nhấn mạnh tầm quan trọng và quy định khá chi tiết về điều lệ và đăng
ký điều lệ. Pháp luật nhiều nước đã mẫu hóa, thống nhất các loại văn bản, giấy tờ để đơn
giản, thuận tiện cho cơ quan nhà nước khi xét duyệt cũng như người dân khi làm các thủ tục.
2.3.2. Các thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp
Việc nộp hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền có
thể trực tiếp do các thành viên sáng lập tiến hành hoặc có thể thông qua các văn phòng tư vấn
pháp luật về thành lập doanh nghiệp. Nhiều nước quy định người thành lập doanh nghiệp

phải đến làm thủ tục trực tiếp tại cơ quan quản lý nhà nước nhưng cũng có nước chỉ cần
thông qua hệ thống điện tử.
Tùy theo truyền thống của từng nước, cơ quan đăng ký thành lập doanh nghiệp có thể là
cơ quan hành chính hoặc Toà án. Một số nước như Pháp, Đức, Ba Lan… tổ chức cơ quan
đăng ký thành lập doanh nghiệp nằm trong hệ thống Toà án, nhưng đa phần các nước như ở
Thuỵ Điển, Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam… thiết lập một cơ quan chuyên
trách thực hiện công việc này.
Pháp luật nhiều nước đều quy định về lệ phí, tuy nhiên, cơ sở để tính mức lệ phí có sự
khác nhau: có thể ấn định mức khung cho từng loại hình doanh nghiệp và có sẵn trong bảng
niêm yết, có thể là mức lệ phí giao động dựa trên những căn cứ nhất định, chẳng hạn dựa trên
số vốn thành lập. Theo pháp luật Việt Nam, lệ phí đăng ký được xác định căn cứ vào số
lượng ngành, nghề đăng ký kinh doanh; người thành lập doanh nghiệp phải nộp lệ phí đăng
ký doanh nghiệp tại thời điểm nộp hồ sơ đăng ký doanh nghiệp.
Theo pháp luật Thái Lan, thời gian đăng ký thành lập công ty là 3-4 tuần; Philippin là
15 ngày theo thường lệ, 2 ngày theo “kênh hoả tốc”; Singapore là 10 ngày, Malaysia từ 2-3
tuần; Mỹ từ 1-3 tuần. Còn theo pháp luật Việt Nam, trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Cơ quan ĐKKD phải cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp cho doanh nghiệp.
2.3.3. Các thủ tục sau khi đăng ký thành lập doanh nghiệp
Sau khi đăng ký thành lập, doanh nghiệp phải tiến hành công bố thông tin về nội dung
đã đăng ký. Theo pháp luật Singapore, các công việc doanh nghiệp cần làm ngay sau khi
đăng ký thành lập là: gửi bản khai báo chi tiết về các giám đốc, nhân viên quản lý, thư ký và
kiểm toán viên… trong vòng 1 tháng kể từ khi thành lập với các giấy tờ khác của công ty.
Theo luật Mỹ, trong vòng 1 tháng sau ngày đăng ký tại cơ quan nhà nước, một công ty cổ
phần bắt buộc phải đăng ký các vấn đề chia sẻ quyền hạn, phân công trách nhiệm giữa các
thành viên sáng lập trong tổ chức của công ty cổ phần tại Cơ quan Thị trường Tài chính Liên
bang. Theo Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan, sau khi doanh nghiệp được thành lập
phải thực hiện nghĩa vụ công bố trên Công báo của Chính phủ tóm tắt những nội dung ghi
trong sổ đăng ký.
Không có sự khác biệt cơ bản giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước trong quy

định về những công việc mà doanh nghiệp phải tiến hành sau khi đã đăng ký thành lập tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền như đăng thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng,
thông báo cho các cơ quan chức năng có liên quan, cung cấp thông tin cho các đối tác kinh
doanh và những đối tượng cần quan tâm.
2.4. So sánh về xử lý vi phạm pháp luật thành lập doanh nghiệp
Theo pháp luật Anh, nếu thành viên không thực hiện các nghĩa vụ thông báo về việc
thay đổi tư cách thành viên, thông thường sẽ bị phạt theo Luật Hành pháp chung, người nào
cố tình gian dối tạo hồ sơ, ký hoặc gửi hồ để đăng ký sẽ bị phạt tù cải tạo với thời hạn không
quá 2 năm. Ở Pháp, những công ty không tồn tại trên thực tế hay mang tính gian lận sẽ bị vô
hiệu, những người sáng lập và người điều hành có thể bị buộc tội đối với việc lưu hành cổ
phần bất hợp lệ. Theo pháp luật Trung Quốc, nếu như khai khống vốn khi thành lập, thành
viên công ty và người định giá phải bồi hoàn cho công ty và chủ nợ. Thái Lan còn quy định
về việc xoá sổ đăng ký những công ty không có hoạt động gì trên thực tế.
So với các nước, pháp luật Việt Nam quy định về việc xử lý vi phạm pháp luật thành
lập doanh nghiệp khá cụ thể và chi tiết. pháp luật Việt Nam quy định 3 hình thức xử lý khi có
vi phạm pháp luật thành lập doanh nghiệp là xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu
trách nhiệm hình sự tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm.
Từ việc xác định vai trò quan trọng của việc phòng ngừa, răn đe và trừng trị thích đáng
những hiện tượng vi phạm pháp luật thành lập doanh nghiệp, pháp luật các nước đều có
những quy định xác định rõ hành vi nào là vi phạm, mức độ vi phạm và biện pháp xử lý với
từng loại vi phạm cụ thể. Tuy nhiên, cũng có thể thấy quan niệm về vi phạm, mức độ xử lý,
các hình thức xử lý vi phạm ở mỗi nước cũng còn có nhiều khác biệt.
Kết luận chương 2
Trên cơ sở nghiên cứu hệ thống pháp luật của một số nước có quan hệ hợp tác kinh tế
với Việt Nam như Mỹ, Anh, Pháp, Nhật, một số nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái
Lan, Singapore, Philippines, Malaysia và nước láng giềng với Việt Nam là Trung Quốc,
những điểm tương đồng và khác biệt trong các quy định về thành lập doanh nghiệp được đối
chiếu, so sánh theo từng nội dung cụ thể. Bốn loại hình doanh nghiệp thành lập phổ biến
được so sánh là công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH và công ty cổ phần.
Những điều kiện chính để thành lập doanh nghiệp được so sánh là điều kiện về chủ thể, điều

kiện về ngành nghề, điều kiện về vốn, điều kiện về tên gọi của doanh nghiệp. Thủ tục chuẩn
bị thành lập, đăng ký thành lập tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các công việc phải
tiến hành sau khi đăng ký thành lập cũng được so sánh, trong đó tập trung vào các quy định
về hồ sơ, lệ phí, thẩm quyền ĐKKD, thời hạn, nội dung xét duyệt, công bố việc thành lập, xử
lý các vi phạm trong thành lập doanh nghiệp
Mặc dù mới chỉ dừng lại ở việc chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt trong pháp
luật thành lập doanh nghiệp của một số nước, trên một vài lĩnh vực chủ yếu nhưng những kết
quả so sánh cũng phần nào giúp ta tìm hiểu những quy định của pháp luật các nước và nhìn
nhận rõ hơn về hệ thống pháp luật thành lập doanh nghiệp của nước ta hiện nay. Đây cũng
chính là những cơ sở quan trọng để có những khuyến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện một
bước pháp luật thành lập doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế, quốc tế.


Chương 3
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ BAN ĐẦU TỪ NGHIÊN CỨU
SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP
3.1. Phân loại đa dạng doanh nghiệp và quy định cụ thể về thành lập cho từng loại hình
Về cơ bản sự phân chia các loại hình doanh nghiệp của Việt Nam so với các nước là
tương đồng. Tuy nhiên, trong mỗi loại hình lại có sự phân chia khá đa dạng và phức tạp theo
pháp luật của từng nước. Luật Doanh nghiệp 2005 của nước ta ngoài việc phân chia công ty
TNHH thành hai loại: TNHH một thành viên và TNHH từ hai thành viên trở lên thì các loại
hình còn lại như hợp danh, công ty cổ phần không có sự phân loại nào. Chính điều này đôi
khi dẫn tới sự không rõ ràng và bất hợp lý trong cơ chế điều chỉnh cho từng loại hình.
Việc pháp luật nhiều nước trong mỗi loại hình doanh nghiệp lại có sự phân loại cụ thể
thậm chí còn tách ra thành các luật riêng điều chỉnh với những quy chế riêng nhằm xác định
rõ địa vị pháp lý của từng loại doanh nghiệp tạo điều kiện dễ dàng cho nhà đầu tư lựa chọn và
hình dung cách thức tổ chức, quản lý kinh doanh cũng như quyền, nghĩa vụ của mình ngay từ
khi thành lập, trong việc chuẩn bị hồ sơ, tiến hành các thủ tục thành lập cũng là một kinh
nghiệm mà Việt Nam có thể tham khảo trong quá trình hoàn thiện Luật Doanh nghiệp.
3.2. Xác định địa vị pháp lý phù hợp để thúc đẩy việc thành lập loại hình hợp danh

Muốn thành lập được một công ty hợp danh ở Việt Nam phải tốn khá nhiều thời gian
cho các loại giấy tờ theo quy định quản lý của nhà nước, trong khi đó muốn thành lập hợp
danh ở những nước không quan niệm hợp danh là công ty thì chỉ cần có sự thỏa thuận của các
thành viên. Vấn đề này cần được nghiên cứu, xem xét trong việc quy định về hợp danh ở Việt
Nam.
Khác hẳn với luật Việt Nam, pháp luật của nhiều nước không coi hợp danh là pháp
nhân nên hợp danh không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Chính quy định về thuế là
một cản trở rất lớn đối với sự phát triển của loại hình công ty hợp danh ở Việt Nam. Bởi trách
nhiệm của các thành viên hợp danh là vô hạn, cộng thêm là lại phải chịu thuế hai lần, nên
thực tế chỉ có rất ít công ty hợp danh ở Việt Nam được thành lập.
Hợp danh có nên coi là công ty không? Cơ cấu tổ chức của hợp danh do các chủ thể tự
xác định hay phải quy định cụ thể trong luật, hợp danh có tư cách pháp nhân không? Có chịu
thuế thu nhập doanh nghiệp không? Đây là những vấn đề cần được các nhà xây dựng luật của
Việt Nam quan tâm, cân nhắc và có những điều chỉnh cho phù hợp để tạo điều kiện cho loại
hình kinh doanh này phát triển và đủ sức cạnh tranh với các loại hình doanh nghiệp khác
đang ngày càng chiếm những ưu thế trên thị trường.
3.3. Quy định về đăng ký và bảo lưu tên gọi trong thủ tục thành lập doanh nghiệp
Pháp luật Việt Nam quy định khá cụ thể và chi tiết về tên gọi của doanh nghiệp trong
Luật Doanh nghiệp 2005. Tuy nhiên, cả Luật Doanh nghiệp 2005 và các văn bản hướng dẫn
đều không quy định vấn đề đăng ký trước và bảo lưu tên gọi giống như pháp luật của nhiều
nước như Mỹ, Singapore, Malaysia…Pháp luật của những nước này quy định rất cụ thể về việc
đăng ký và bảo lưu tên gọi trong một khoảng thời gian nhất định trong khi làm các thủ tục
khác.
Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời trong bối cảnh cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp chưa hoàn thiện, việc đăng ký qua mạng chưa được áp dụng nên việc đăng ký và bảo
lưu tên gọi khó có thể áp dụng. Nhưng cùng với việc ra đời Nghị định 43/2010/NĐ-CP và
việc chính thức đưa Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp ứng dụng trên toàn
quốc, vấn đề trùng tên, tên gây nhầm lẫn trong phạm vi toàn quốc sẽ dần được xử lý, việc
đăng ký qua mạng sẽ phát triển và đây cũng chính là cơ sở cho các quy định về đăng ký và
bảo lưu tên gọi trong luật của Việt Nam.

3.4. Quy định chặt chẽ về điều kiện thành lập doanh nghiệp và có cơ chế thẩm định,
giám sát phù hợp
Các nhà làm luật Việt Nam không cần phải quy định các thủ tục và điều kiện rườm rà
đến mức cản trở hoạt động thành lập doanh nghiệp như trước đây nhưng cũng không thể
thông thoáng đến mức các chủ thể kinh doanh thả sức “lách luật”. Nhà nước cần rà soát và
quy định hợp lý, chặt chẽ những điều kiện thành lập doanh nghiệp.
Mặc dù được đánh giá là tương đối hoàn thiện nhưng hoạt động quản lý ĐKKD trong
Luật Doanh nghiệp mới chỉ chú trọng đến một nửa là “tiền đăng”, còn một nửa kia là vấn đề
“hậu kiểm” chưa được coi trọng đúng mức. Thực tế này dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực thành lập doanh nghiệp hiện nay trở nên khá phổ biến. Mở rộng, tự do hoá
kinh doanh phải đi đôi với quản lý và giám sát chặt chẽ của Nhà nước có thể đã là bài học
kinh nghiệm của nhiều nước đi trước chúng ta trong quá trình chuyển đổi.
Kết luận chương 3
Một trong những mục đích quan trọng của việc nghiên cứu so sánh pháp luật là nhìn
nhận một cách khách quan, toàn diện hệ thống pháp luật quốc gia, tìm hiểu và rút ra những
điểm tiến bộ có thể học hỏi từ pháp luật nước ngoài để từ đó đề xuất những giải pháp từng
bước hoàn thiện pháp luật nước mình sao cho vừa phù hợp với tình hình đất nước vừa phù
hợp với thông lệ quốc tế trong quá trình giao lưu, hội nhập.
Pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam đã thay đổi đáng kể những năm gần đây,
đặc biệt là có nhiều quy định khá thông thoáng và tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các doanh
nghiệp được thành lập. Tuy nhiên, khi so sánh với pháp luật một số nước có thể thấy những điểm
bất cập trong hệ thống pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam, như chưa có sự phân loại
đa dạng doanh nghiệp để có cơ chế điều chỉnh phù hợp ngay từ khâu thành lập; việc xác định địa
vị pháp lý của hợp danh chưa phù hợp dẫn đến loại hình doanh nghiệp này chưa phát triển ở Việt
Nam; quy định về điều kiện thành lập doanh nghiệp quá dễ dàng nhưng lại không quy định cơ
chế thẩm định, giám sát phù hợp… Đây là những điểm cần khắc phục trong quá trình sửa đổi, bổ
sung pháp luật thành lập doanh nghiệp.
Qua những kết quả so sánh bước đầu về pháp luật thành lập doanh nghiệp, luận văn đưa
ra một số khuyến nghị là: cần phân loại đa dạng doanh nghiệp và quy định cụ thể về thành lập
cho từng loại hình; xác định địa vị pháp lý phù hợp để thúc đẩy việc thành lập loại hình hợp

danh. Vấn đề đăng ký và bảo lưu tên gọi cần được xem xét để áp dụng tại Việt Nam. Bên
cạnh đó, điều kiện thành lập doanh nghiệp cũng cần quy định chặt chẽ hơn cùng với cơ chế
quản lý, thẩm định, giám sát hiệu quả để tránh việc gian lận và vi phạm pháp luật trong thành
lập doanh nghiệp.


KẾT LUẬN
So sánh pháp luật là hiện tượng khoa học pháp lý mới xuất hiện trong những năm gần đây
khi xu thế hội nhập quốc tế giữa các quốc gia đang được mở rộng và phát triển. So sánh, đối
chiếu pháp luật giúp chúng ta nhìn nhận, tư duy lại hệ thống pháp luật quốc gia một cách khách
quan, toàn diện, học hỏi kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài, qua đó, có những giải pháp để
hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
Trong bối cảnh hiện nay, so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp là nhu cầu cấp
thiết cả về lý luận và thực tiễn, tuy nhiên, đây vẫn là một lĩnh vực khá mới mẻ. Thực trạng cho
thấy, có rất ít công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực này một cách tập trung và hệ thống,
hoạt động nghiên cứu so sánh về pháp luật thành lập doanh nghiệp chưa thường xuyên, mới chỉ
chú trọng trong những thời điểm cụ thể, trước những yêu cầu cụ thể.
Do pháp luật về thành lập doanh nghiệp có thể so sánh nhiều nội dung, theo từng góc độ
tiếp cận khác nhau, vì vậy, trong luận văn, tác giả chỉ giới hạn phạm vi so sánh nhất định. Nội
dung so sánh là những vấn đề cơ bản nhất trong pháp luật thành lập doanh nghiệp: loại hình
doanh nghiệp được phép thành lập, điều kiện, thủ tục thành lập doanh nghiệp, việc xử lý vi
phạm pháp luật thành lập doanh nghiệp. Việc lựa chọn pháp luật của những nước Mỹ, Anh,
Pháp, Đức, Nhật Bản, Trung Quốc, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Philippines để so sánh là
dựa trên tiêu chí các nước láng giềng, trong khu vực hoặc có quan hệ hợp tác kinh tế với Việt
Nam.
Bằng các phương pháp của luật so sánh, luận văn đã chỉ ra sự tương đồng, khác biệt giữa
pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam và một số nước trong một số nội dung cơ bản,
như: loại hình doanh nghiệp được phép thành lập, một số điều kiện thành lập doanh nghiệp, thủ
tục thành lập doanh nghiệp và xử lý vi phạm pháp luật thành lập doanh nghiệp. Thông qua
những kết quả nghiên cứu so sánh đó, luận văn đã đưa ra một số khuyến nghị ban đầu góp phần

hoàn thiện hệ thống pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam hiện đại, đáp ứng yêu cầu
các cam kết quốc tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà.



References
Tiếng Việt
1. Phạm Bình An (2005), Đồng bộ hóa khung pháp luật đối với các loại hình doanh
nghiệp, Đề tài cấp thành phố, Hồ Chí Minh.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), Thông tư số 03/2006/TT-BKH ngày 19 tháng 10 năm 2006
hướng dẫn một số nội dung về hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh theo quy định tại
Nghị định 88/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh,
Hà Nội.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2010), Quyết định 337/QĐ-BKH của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
về việc ban hành Quy định nội dung Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam, Hà Nội.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2010), Thông tư số 14/2010/TT-BKH ngày 04 tháng 06 năm 2010
hướng dẫn một số nội dung về hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo quy định
tại Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 04 năm 2010 của Chính phủ về đăng ký
doanh nghiệp, Hà Nội.
5. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (2004), Khái quát hệ thống pháp luật Hoa Kỳ, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
6. Chính phủ (2006), Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12 tháng 6 năm 2006 của Chính phủ
Quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh
và kinh doanh có điều kiện, Hà Nội.
7. Chính phủ (2006), Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 của Chính phủ Quy
định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh
doanh và kinh doanh có điều kiện, Hà Nội.
8. Chính phủ (2006), Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2006 của Chính
phủ về đăng ký kinh doanh, Hà Nội.
9. Chính phủ (2007), Nghị định 139/2007/NĐ-CP của Chính phủ về việc hướng dẫn chi

tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
10. Chính phủ (2007), Quyết định 10/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2007 về Ban
hành Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam, Hà Nội.
11. Chính phủ (2007), Nghị định 53/2007/NĐ-CP ngày 4 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư, Hà Nội.
12. Chính phủ (2009), Nghị định số 72/2009/NĐ-CP về ngành nghề kinh doanh có điều
kiện, Hà Nội.
13. Chính phủ (2010), Nghị định 43/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2010 của Chính
phủ về đăng ký doanh nghiệp, Hà Nội.
14. Chính phủ (2010), Nghị định số 62/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 6 năm 2010 của Chính
phủ về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 53/2007/NĐ-CP ngày 04 tháng 4
năm 2007 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch
và đầu tư, Hà Nội.
15. Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế
hiện hành ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Ngô Huy Cương (2009), Luật so sánh và việc dạy luật so sánh ở Việt Nam: từ một quan
điểm tới một quan điểm về một số vấn đề cơ bản, Trường Đại học Quốc gia, Hà Nội.
17. Bích Hạnh (2009), Thành lập doanh nghiệp và kinh doanh tại Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia. Hà Nội.
18. Trần Hữu Huỳnh (2003),“Xây dựng hệ thống giám sát hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp”, Nghiên cứu lập pháp, 98(1), tr. 10-16.
19. Dương Đăng Huệ (2004), “Luật Doanh nghiệp chung: cần hay không cần ban hành?”,
Nghiên cứu Lập pháp, (5), tr. 29-35.
20. Nguyễn Am Hiểu (2003), “Hình thức pháp lý doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
nhìn từ góc độ luật so sánh”, Nhà nước và pháp luật, (1), tr. 20-23.
21. Bùi Xuân Hải (2006), “So sánh cấu trúc quản trị nội bộ của công ty cổ phần Việt Nam với
các mô hình điển hình trên thế giới”, Khoa học pháp lý, (6), tr. 37-42.
22. Dương Đăng Huệ (1999), Các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật kinh tế và vai trò của
các biện pháp hình sự trong việc bảo đảm trật tự quản lý kinh tế, Báo cáo khoa học tại
Bộ Tư pháp, Hà Nội.

23. Michel Fromont (2006), Các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới, Nxb Tư pháp, Hà
Nội.
24. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật kinh tế, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
25. Phạm Duy Nghĩa (2005), “Sự thay đổi trong Luật Công ty Đức và so sánh với pháp luật
công ty Việt Nam”, Nghiên cứu lập pháp, (75), tr. 20-25.
26. Phạm Duy Nghĩa (2006), Giám sát giấy phép và điều kiện kinh doanh ở Việt Nam nhằm
đảm bảo quyền tự do kinh doanh, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
27. Phạm Duy Nghĩa (2006), “Giấc mơ nửa triệu doanh nghiệp và một đạo luật chung:Luật
doanh nghiệp 2005 từ một góc nhìn so sánh”, Nghiên cứu lập pháp, (7), tr. 20-23.
28. Phạm Duy Nghĩa (2006), Luật doanh nghiệp – Tình huống, phân tích, bình luận, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
29. Phạm Duy Nghĩa (2010), “Sơ lược về công ty cổ phần ở Nhật Bản”, Nghiên cứu lập
pháp, (3), tr.16-22.
30. Lê Minh Phiếu (2006), “Các loại hình doanh nghiệp phổ biến ở Pháp”, Khoa học Pháp
luật, (4), tr 35-38.
31. Nguyễn Như Phát (2005), Cải cách Pháp luật doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay,
Tham luận của tại hội thảo Hội luật gia Việt Nam, Nha Trang.
32. Nguyễn Như Phát và Phạm Duy Nghĩa (2001), Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
33. Quốc hội (2001), Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã
được sửa đổi bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001-QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Quốc hội (2005), Luật doanh nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Đào Trí Úc (2005), Bước đầu tìm hiểu pháp luật thương mại Mỹ, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
36. Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương (1999), Nghiên cứu so sánh luật công ty
Đông Nam Á, Hà Nội.
37. Võ Khánh Vinh (2002), Giáo trình luật học so sánh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

Tiếng Anh
38. Japanese Company Act 2005,
39. Malaysia Companies Act 1965 (Amendment 2007) ,
40. Singapore Company Act 1994 (Amendment 2001, 2002, 2003, 2004, 2005),

41. Singapore Limited Liability Partnership Act 2005,
42. Thailand Civil and Commercial Code BE.2466 (1925) (Amendment No.14 BE.2548
(2005) and No.18 BE.2551 (2008),
43. Thailand Public Limited Company Act No.2 BE.2544 (2001) (Amendment 2008),

44. The company law of People's Republic of China 2005,
45. The Corporation Code of the Philippiness 1978,
46. The Limited Liability Partnerships Act 2000 (UK),
47. The Model Business Corporation Act 2002,
48. Uniform Commercial Code (UCC- 1990),
49. Uniform Limited Liability Company Act (ULLCA 1995),
50. Uniform Partnership Act 1997 (UPA 1997),

×