Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Pháp luật giải quyết tranh chấp kết nối viễn thông tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.7 KB, 18 trang )

Pháp luật giải quyết tranh chấp kết nối viễn
thông tại Việt Nam

Trần Văn Hoàn

Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Luật Kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Minh Mẫn
Năm bảo vệ: 2007


Abstract: Khái quát về mạng viễn thông, những vấn đề lý luận cơ bản về kết nối và tranh
chấp kết nối viễn thông, về quá trình hình thành, phát triển của tranh chấp, về bản chất,
đặc điểm của tranh chấp. Thực trạng tranh chấp và pháp luật về giải quyết tranh chấp kết
nối tại Việt Nam thông qua vụ việc điển hình VNPT-VIETEL, làm rõ những phương án
pháp lý có thể vận dụng, giải quyết các tranh chấp kết nối viễn thông theo quy định hiện
hành tại Việt Nam. Phân tích và rút ra nhận xét về một số điểm bất cập của hệ thống pháp
luật hiện tại trong quá trình kết nối viễn thông. Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện
từng bước hệ thống quy định pháp luật về trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp kết nối
viễn thông tại Việt Nam

Keywords: Luật kinh tế; Pháp luật Việt Nam; Tranh chấp; Viễn thông


Content
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Luận văn cao học: “Pháp luật giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông" được chọn làm đề
tài nghiên cứu trên ba đòi hỏi sau đây:
- Đòi hỏi từ thực tiễn tranh chấp và cách giải quyết tranh chấp thời gian qua: Các cơ
quan quản lý thì lúng túng; Các chủ thể tham gia tranh chấp có tâm lý không tin tưởng vào trình
tự, thủ tục giải quyết theo pháp luật hiện hành, thay vào đó, họ lại hành chính hoá tiến trình giải


quyết; Số lượng các vụ tranh chấp kết nối có xu hướng ngày càng tăng do số lượng dịch vụ mới
và doanh nghiệp mới tăng.
- Đòi hỏi từ quá trình hội nhập Kinh tế, quốc tế của đất nước: Phải minh bạch, thực
thi hóa hệ thống pháp luật, nhằm tạo tính cạnh tranh cho thị trường Viễn thông, phù hợp với cam
kết quốc tế.
- Đòi hỏi từ sự thiếu thống nhất, thiếu khả thi giữa các văn bản tham gia giải quyết
tranh chấp: Hiện nay, tại Việt Nam đang tồn tại đồng thời 4 trình tự, thủ tục giải quyết tranh
chấp kết nối viễn thông: 1) Pháp Lệnh Bưu chính, Viễn thông; 2) Pháp Lệnh trọng tài Thương
mại; 3) Bộ luật tố tụng dân sự; 4) Luật cạnh tranh. Tuy vậy, tính khả thi của mỗi trình tự không
cao, không phù hợp với đặc thù của tranh chấp kết nối viễn thông.
2. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Pháp luật giải quyết tranh chấp kết nối viễn thông là một khái niệm rộng. Do điều kiện về
thời gian, nguồn tài liệu khan hiếm và sự hạn chế trong nhận thức, Luận văn này chỉ tập trung
nghiên cứu trình tự, thủ tục liên quan đến giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông trong các văn
bản pháp luật Việt Nam, của ITU và một số nước trên thế giới. Ngoài ra, các bài viết liên quan
trên tạp chí, sách, báo, một số kết quả nghiên cứu trước đây về tranh chấp thương mại trong các
Luận văn thạc sĩ, công trình nghiên cứu khoa học, các khuyến nghị của ITU cũng như thực tiễn
tranh chấp và giải quyết tranh chấp kết nối tại Việt Nam cũng được đưa vào phạm vi, đối tượng
nghiên cứu.
3. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN: Ngoài phần mở đầu, Kết luận và tài liệu tham khảo,
Luận văn chia thành 3 Chương: Chương 1: Những vấn đề chung; Chương 2: Thực trạng tranh
chấp và pháp luật về giải quyết tranh chấp kết nối viễn thông tại Việt Nam; Chương 3: Một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kết nỗi viễn thông tại Việt Nam.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Chương này bao gồm 3 nội dung cơ bản: 1) Khái quát về mạng Viễn thông; 2) Kết nối viễn
thông; 3) Tranh chấp kết nối viễn thông.
1.1 Khái quát về mạng Viễn thông:
Mục đích: Tập hợp những kiến thức cơ bản nhất về mạng viễn thông. Từ đó, tìm hiểu và
khái quát toàn bộ mạng viễn thông tại Việt Nam hiện nay, tạo tiền đề kiến thức cho phần tiếp

theo: “Kết nối viễn thông”.
Để đạt được mục đích đó, trong phần này, trên cơ sở phân tích các khái niệm về mạng viễn
thông dưới góc độ kỹ thuật và pháp lý, luận văn đã tiến hành phân loại mạng viễn thông, sau đó
tập trung vào mô tả, khái quát toàn bộ thực trạng mạng lưới viễn thông tại Việt Nam hiện nay
thông qua những thông tin, mô hình chí tiết mạng của một số doanh nghiệp viễn thông lớn như:
VNPT, Vietel, EVN Telcom, Saigon Postel.v.v
Một số khái niệm điển hình về mạng viễn thông:
- “Mạng Viễn thông là phương tiện truyền đưa thông tin từ đầu phát tới đầu thu. Mạng
Viễn thông bao gồm các thành phần chính: Thiết bị chuyển mạch, thiết bị truyền dẫn, môi
trường truyền và thiết bị đầu cuối”.
- “Mạng Viễn thông là một hệ thống gồm các nút chuyển mạch được nối với nhau bằng các
đường truyền dẫn. Nút được phân thành nhiều cấp và kết hợp với các đường truyền dẫn tạo thành
các cấp mạng khác nhau”.
- “Mạng Viễn thông là tập hợp các thiết bị Viễn thông được liên kết với nhau bằng các
đường truyền dẫn bao gồm: Mạng Viễn thông công cộng, Mạng Viễn thông dùng riêng và Mạng
Viễn thông chuyên dùng”
1.2. Kết nối Viễn thông
Mục đích: Làm sáng tỏ bản chất của kết nối viễn thông, đồng thời nghiên cứu mở rộng
một số vấn đề có liên quan để hiểu rõ hơn về kết nối viễn thông.
Để đạt được mục đích đó, trong phần này, ngoài việc đưa ra những khái niệm “Kết nối
viễn thông”, luật văn cũng trình bày về: Phân loại kết nối viễn thông; Ý nghĩa, tầm quan trọng
của kết nối viễn thông; Điểm kết nối; Dùng chung cơ sở hạ tầng và Thoả thuận kết nối viễn
thông.
1.2.1. Một số khái niệm về kết nối viễn thông:
- Khái niệm của Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU): Kết nối Viễn thông là những thoả
thuận về thương mại và kỹ thuật giữa những nhà cung cấp dịch vụ nhằm “nối” thiết bị, mạng và
dịch vụ với nhau để khách hàng của doanh nghiệp viễn thông có thể vào mạng, sử dụng dịch vụ
và thiết bị và khách hàng của doanh nghiệp viễn thông khác.
- Khái niệm của Tổ chức thương mại quốc tế (WTO): Kết nối Viễn thông là sự liên kết
giữa những doanh nghiệp viễn thông hoặc mạng Viễn thông công cộng để cho phép người sử

dụng của doanh nghiệp viễn thông này liên lạc được với người sử dụng của doanh nghiệp viễn
thông kia và truy nhập vào dịch vụ của nhà cung cấp dịch vụ ấy theo một cam kết đã được hai
bên thoả thuận
- Kết nối theo quan điểm của các nước Châu Âu: Kết nối Viễn thông là sự liên kết về mặt
logic và mặt vật lý giữa các mạng Viễn thông trong cùng một hoặc nhiều tổ chức khác nhau
nhằm cho phép người sử dụng của một tổ chức có thể liên lạc được với người sử dụng khác
thuộc cùng hoặc khác tổ chức hoặc để truy nhập vào dịch vụ của một tổ chức khác. Dịch vụ có
thể được cung cấp bởi các bên có liên quan hoặc bên truy nhập vào mạng khác.
- Khái niệm quy định trong Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông Việt Nam: Kết nối là việc
liên kết vật lý và lô gích các mạng Viễn thông, qua đó người sử dụng dịch vụ của mạng này có
thể truy nhập tới người sử dụng hoặc dịch vụ của mạng kia và ngược lại.
1.2.2. Điểm kết nối.
- Hầu hết các nước có quan điểm thống nhất: Điểm kết nối phải khả thi về mặt kỹ thuật
cho hai mạng Viễn thông, thường là các điểm kết nối trung kế trên mạng nội hạt và tổng đài
tandem quốc gia.
- Tại Việt Nam, Điểm kết nối là điểm nằm trên tuyến kết nối hai mạng Viễn thông với
nhau, phân định trách nhiệm kinh tế, kỹ thuật giữa hai doanh nghiệp Viễn thông. Vị trí địa lý của
điểm kết nối là: (1) Vị trí địa lý của điểm kết nối cho liên lạc nội hạt là tổng đài nội hạt hoặc tổng
đài tandem nội hạt; (2) Vị trí địa lý của điểm kết nối cho liên lạc đường dài trong nước là tổng
đài tandem nội hạt hoặc tổng đài đường dài; (3) Vị trí địa lý của điểm kết nối cho liên lac quốc tế
là tổng đài đường dài hoặc tổng đài quốc tế; (4) Vị trí địa lý cho liên lạc di động là tổng đài
tandem nội hạt, hoặc tổng đài đường dài, hoặc tổng đài di động (Nghị định 160/2004 NĐ-CP).
1.2.3. Dùng chung cơ sở hạ tầng
- Khi kết nối viễn thông, để giảm tối đa các chi phí đối với các doanh nghiệp viễn thông
chia sẻ, sử dụng chung các tổng đài nội hạt hoặc hạ tầng mạng lưới, thiết bị của nhau như: Hạ
tầng mạng cáp, cống, bể cáp, nguồn điện Dùng chung cơ sở hạ tầng là một quy định có tính bắt
buộc tại nhiều nước trên thế giới.
- Tại Việt Nam, nguyên tắc sử dụng chung cơ sở hạ tầng được thể hiện trong Pháp lệnh
BCVT và Nghị định 160/2004/NĐ-CP. Trong đó có các quy định mang tính nguyên tắc về việc
sử dụng chung vị trí và cơ sở hạ tầng để nâng cao hiệu quả sử dụng mặt bằng, giảm chi phí và

tạo thuận lợi trong khai thác mạng lưới. Việc sử dụng chung được thực hiện thông qua hợp đồng
trên cơ sở thoả thuận giữa các doanh nghiệp viễn thông. Bộ Bưu chính, Viễn thông giữ quyền
quyết định việc sử dụng chung cơ sở hạ tầng Viễn thông nếu các doanh nghiệp không thoả thuận
được, và xét thấy cần thiết phải bảo vệ lợi ích của nhà nước, của doanh nghiệp và người sử dụng.
1.2.4. Thỏa thuận kết nối (Ineterconnection Agrement)
Về nội dung, một thỏa thuận kết nối thường gồm hai phần cơ bản: Phần thứ nhất là nội
dung chính của thỏa thuận (thỏa thuận khung). Phần này bao gồm những quy định mang tính
tổng quan, nguyên tắc định hướng chung cho toàn bộ phần còn lại như: Loại hình dịch vụ, phạm
vi cung cấp; Nguyên tắc kết nối; Cước dịch vụ kết nối, cước kết nối; Đối soát, hóa đơn, thu cước;
Kinh doanh chăm sóc khách hàng; Những cam kết chung và xử lý tranh chấp.v.v Phần thứ hai
bao gồm những phụ lục chi tiết hóa. Thông thường có thể có 7 phụ lục sau: Phụ lục I: Các văn
bản pháp lý chính của Chính phủ và Bộ Bưu chính Viễn thông (Đây là phụ lục thường có ở các
văn bản mang tính hợp đồng tại Việt Nam); Phụ lục II: Các nội dung cơ bản về kết nối kỹ thuật
cung cấp dịch vụ; Phụ lục III: Qui định phối hợp xử lý sự cố kết nối; Phụ lục IV: Qui định xử lý
các cuộc gọi không bình thường; Phụ lục V: Qui định gửi số liệu cước, đối soát cước kết nối,
cước dịch vụ giữa hai bên; Phụ lục VI: Qui định về thanh toán cước kết nối, cước dịch vụ; Phụ
lục VII: Qui định về phối hợp giải quyết khiếu nại khách hàng. Thông qua bảng minh họa dưới
đây, chúng ta sẽ thấy phần nào về tính phức tạp của một thỏa thuận kết nối.
Về hình thức pháp lý: Thỏa thuận kết nối giữa các nhà cung cấp dịch vụ Viễn thông công
cộng mang bản chất một hợp đồng, tại Việt Nam, đó là hợp đồng thương mại.
1.3. Tranh chấp kết nối Viễn thông
Mục tiêu của phần này là: Làm rõ khái niệm “tranh chấp kết nối viễn thông” và phân
biệt nó với tranh chấp thương mại thông thường.
Hiện chưa có tài liệu chính thức nào đưa ra khái niệm “tranh chấp kết nối viễn thông”.
Trong khi lại có nhiều tài liệu đề cập đến khái niệm “tranh chấp”. Về cơ bản, các tài liệu thống
nhất hiểu “tranh chấp” là một dạng xung đột về lợi ích.
Để làm rõ khái niệm “tranh chấp kết nỗi viễn thông”, luận văn tập trung làm rõ hai vấn đề
cơ bản: 1) Nguyên nhân, điều kiện tồn tại của tranh chấp kết nối Viễn thông; 2) Bản chất, đặc
điểm của tranh chấp kết nối Viễn thông.
1.3.1. Nguyên nhân, điều kiện tồn tại của tranh chấp kết nối viễn thông.

Trên cơ sở phân tích bản chất của thị trường viễn thông trước và sau khi có cạnh tranh tự
do tại thị trường một số nước điển hình như Pháp, Anh, Trung Quốc, Nhật Bản.v.v và Việt
nam, luận văn kết luận: Điều kiện tồn tại của tranh chấp kết nối là thị trường tự do cạnh tranh,
nguyên nhân cơ bản của tranh chấp kết nối Viễn thông là sự xung đột về lợi ích và vị thế trên thị
trường giữa các doanh nghiệp viễn thông.
1.3.2. Bản chất, đặc điểm của tranh chấp kết nối Viễn thông.
Căn cứ vào thực tiễn và các quy định pháp lý về Viễn thông của Việt Nam và một số
nước trên thế giới, tranh chấp kết nối Viễn thông có 6 đặc điểm sau đây:
1) Tranh chấp kết nối Viễn thông nảy sinh trong lĩnh vực Viễn thông.
2) Chủ thể trong tranh chấp kết nối Viễn thông luôn là những doanh nghiệp viễn thông
(chủ yếu là thoại cố định và di động), mặc dù, ngoài doanh nghiệp Viễn thông, trong lĩnh vực
Viễn thông còn có người sử dụng, mạng Viễn thông dùng riêng, đại lý dịch vụ Viễn thông.v.v…
3) Về hình thức giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông: Ngoài 4 hình thức phổ biến giải
quyết tranh chấp thương mại thông thường là: Thương lượng, hòa giải, tòa án, trọng tài, trong
lĩnh vực Viễn thông, hình thành một hình thức giải quyết đặc biệt, nó là tổng hòa những đặc
trưng của giải quyết bằng hình thức tòa án, trọng tài, thỏa thuận, hòa giải, thêm vào đó là những
yếu tố có tính kỹ thuật, công nghệ Viễn thông. Sự kết hợp này cho ra đời một hình thức giải
quyết linh động, mềm dẻo, phù hợp với đòi hỏi về tính liên tục, thông suốt của thông tin liên lạc.
Hình thức này có thể được giao cho Cơ quan quản lý Viễn thông quốc gia, một tòa án đặc biệt,
trọng tài, hay cơ quan quản lý cạnh tranh đảm nhận.
4) Khác với đa phần các tranh chấp hợp đồng khác, tranh chấp kết nối Viễn thông nảy
sinh ngay cả khi các bên đang trong giai đoạn đàm phán.
5) Tranh chấp kết nối Viễn thông không mang tính “một mất, một còn”, mà các bên vừa
là đối thủ, vừa là đối tác của nhau. Có thể nói tranh chấp kết nối Viễn thông là sự tranh chấp
trong “hoà bình”.
6) Tranh chấp kết nối Viễn thông liên quan mật thiết tới quyền lợi các bên thứ ba như:
Người sử dụng dịch vụ, nhà nước.
Từ những phân tích trên đây, Luận văn đã rút ra khái niệm: “Tranh chấp kết nối Viễn
thông” là một dạng đặc biệt của tranh chấp thương mại, nảy sinh trong lĩnh vực Viễn thông, liên
quan đến việc đàm phán, ký kết, thực hiện “Thoả thuận kết nối” giữa các doanh nghiệp cung

cấp dịch vụ, nhằm mục tiêu tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ trên cơ sở một “Thỏa thuận kết
nối” phù hợp với lợi ích các bên, lợi ích nhà nước và lợi ích của cộng đồng người sử dụng dịch
vụ”.
Căn cứ và đặc điểm và khái niệm “Tranh chấp kết nối Viễn thông”, có thể phân biệt được
với tranh chấp thương mại thông thường. Trong số những điểm khác biệt đó, khác biệt cơ bản và
quan trọng nhất là: Tranh chấp thương mại có thể dẫn đến chấm dứt mối quan hệ giữa các bên
(đôi khi mục tiêu của tranh chấp là để chấm dứt quan hệ). Trong khi với tranh chấp kết nối Viễn
thông, quan hệ giữa các bên vẫn tiếp tục được duy trì, trong nhiều trường hợp, việc giải quyết
tranh chấp mới chỉ là điểm bắt đầu của một giai đoạn quan hệ mới.
Chương 2
THỰC TRẠNG TRANH CHẤP VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KẾT
NỐI VIỄN THÔNG TẠI VIỆT NAM
Chương này bao gồm 2 nội dung chính: 1) Thực trạng tranh chấp kết nối viễn thông; 2) Pháp
luật về giải quyết tranh chấp kết nối viễn thông tại Việt Nam hiện nay.
2.1. Thực trạng tranh chấp kết nối Viễn thông tại Việt Nam trong thời gian qua.
Mục tiêu: Đánh giá thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh chấp kết nối viễn thông trong
thời gian qua, từ đó rút ra điểm hạn chế, làm cơ sở, tiền đề cho những kiến nghị sửa đổi tại
Chương 3.
Phù hợp với mục tiêu trên, Mục này có 3 nội dung chính: 1) Các giai đoạn phát triển của
tranh chấp kết nối viễn thông tại Việt Nam; 2) Vụ tranh chấp kết nối viễn thông điển hình Vietel-
VNPT; 3) Một số nhận xét quan trọng sau khi khảo sát thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh
chấp viễn thông tại Việt Nam.
Quá trình hình thành và phát triển của tranh chấp kết nối viễn thông tại Việt Nam chia
làm ba giai đoạn: Trước năm 1995 (chưa có tranh chấp); Từ 1995-2005 (đã có tranh chấp nhưng
còn manh nha, nhỏ lẻ); Từ 2005 trở về đây: Tranh chấp kết nối viễn thông thực sự xảy ra một
cách phổ biến, công khai và theo nghĩa đầy đủ hơn.
Từ năm 2005 trở lại đây, đã xảy ra một số vụ tranh chấp về kết nối. Điển hình nhất là vụ
tranh chấp giữa Vietel và VNPT. Trên cơ sở phân tích tiến trình giải quyết tranh chấp vụ việc
này, cùng sự nghiên cứu, khái quát những chi tiết từ những vụ việc khác, Luận văn rút ra bảy kết
luận sau đây:

Một là, tranh chấp kết nối Viễn thông ở ta chủ yếu là tranh chấp về dung lượng, chưa
thấy xuất hiện những dạng tranh chấp khác như: Tranh chấp liên quan đến hỗ trợ kỹ thuật, sử
dụng chung cơ sở hạ tầng, thời gian thực hiện kết nối, cước kết nối.v.v
Hai là, theo các quy định hiện hành, tranh chấp kết nối nói chung, tranh chấp Vietel-
VNPT nói riêng là một dạng của tranh chấp thương mại.
Ba là, nếu vụ việc giữa VNPT và Vietel không được Bộ Bưu chính, Viễn thông giải
quyết dứt điểm, tranh chấp này sẽ được giải quyết ở đâu? Tại sao Toà án, Trọng tài thương mại,
hoặc cơ quan quản lý cạnh tranh không được các bên tham gia tranh chấp lựa chọn?
Bốn là, xuất hiện xu hướng hành chính hoá các quan hệ kinh tế trong giải quyết tranh
chấp kết nối viễn thông. Thực tế này đặt ra một câu hỏi, trong tương lai không xa, khi các doanh
nghiệp nước ngoài tham gia kinh doanh dịch vụ Viễn thông ngày càng phổ biến hơn tại Việt
Nam, liệu họ có chấp nhận cách giải quyết như vậy hay không?
Năm là, tính đến thời điểm xảy ra tranh chấp VNPT-Vietel, Bộ BCVT chưa thành lập cơ
quan chuyên trách về kết nối mạng và dịch vụ Viễn thông công cộng như đã được quy định tại
Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông và Nghị định 160/2004/NĐ-CP hướng dẫn Pháp lệnh về viễn
thông. Cũng thời điểm này, tức là sau 4 năm kể từ ngày Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông có
hiệu lực, nhưng VNPT chưa ban hành được “Thoả thuận kết nối mẫu” theo như quy định của
Pháp lệnh. Bộ Bưu chính, Viễn thông cũng chưa có Quy định chi tiết việc giải quyết tranh chấp
kết nối Viễn thông ngoài một số Điều khoản mang tính nguyên tắc tại Nghị định 160/2004/NĐ-
CP hướng dẫn Pháp lệnh BCVT về Viễn thông (Quyết định 12/2006/QĐ-BBCVT được ban hành
sau khi tranh chấp VNPT-Vietel kết thúc). Thực tế này phản ánh hai đòi hỏi mang tính bắt buộc
trong hội nhập quốc tế: 1) Các quy định hướng dẫn thi hành chưa minh bạch, rõ ràng; 2) Chúng
ta chưa có cơ chế xử lý nghiêm những hành vi kéo dài trình tự, thủ tục giải quyết vụ tranh chấp.
Sáu là, dư luận hoài nghi về tính chuyên nghiệp của các chuyên gia có trách nhiệm tổ
chức hiệp thương giải quyết tranh chấp kết nối viễn thông tại Bộ Bưu chính, Viễn thông. Nếu
không có sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng, liệu vụ việc có được giải quyết dứt điểm?
Bảy là, Quyết định 12/2006/QĐ-BBCVT là một giải pháp sáng tạo của Bộ Bưu chính,
Viễn thông. Nhưng giải pháp này cũng chỉ là giải pháp tình thế, nhằm làm dịu bớt sức nóng của
các vụ tranh chấp, không đồng nghĩa với pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp kết
nối đã phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn cho dù, sau khi Quyết định ra đời, tình trạng tranh chấp

kết nối Viễn thông đã tạm thời lắng xuống.
2.2. Pháp luật giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông tại Việt Nam hiện nay.
Mục tiêu: Trả lời cho câu hỏi, liệu Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông có phải là trình tự,
thủ tục duy nhất giải quyết tranh chấp kết nối viễn thông theo quy định của Pháp luật hiện nay
hay không? Cho phép nhìn nhận một cách tổng quan hơn và rút ra được nhận xét về sự hạn chế
của pháp luật giải quyết tranh chấp kết nối viễn thông tại Việt Nam. Những hạn chế này sẽ được
đặt bên cạnh, trong tương quan so sánh với kinh nghiệm giải quyết của một số quốc gia trên thế
giới, làm tiền đề cho kiến nghị, đề xuất tại Chương 3.
Để đáp ứng được mục tiêu nêu trên, trong phần này, căn cứ vào những quy định pháp lý
trong Bộ luật tố tụng dân sự, Luật Cạnh tranh, Pháp lệnh Trọng tài thương mại và Pháp lệnh Bưu
chính, Viễn thông, Luận văn khẳng định, hiện nay chúng ta có thể giải quyết tranh chấp kết nối
viễn thông theo 4 trình tự: Tố tụng dân sự, Tố tụng cạnh tranh, Tố tụng Trọng tài, Trình tự quy
định trong Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông. Ngoài ra, tranh chấp kết nối viễn thông cũng có thể
giải quyết bằng “Thoả thuận”.
Từ sự khẳng định trên, Luận văn giới thiệu 5 phương án có thể vận dụng để giải quyết
tranh chấp kết nối viễn thông tại Việt Nam hiện nay, bao gồm: 1) Áp dụng Bộ luật tố tụng dân sự
vào giải quyết tranh chấp kết nối viễn thông; 2) Áp dụng Luật Cạnh tranh giải quyết tranh chấp
kết nối viễn thông; 3) Áp dụng Pháp lệnh trọng tài thương mại giải quyết tranh chấp kết nối viễn
thông; 4) Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông và các văn bản hướng dẫn thi hành - Pháp luật
chuyên ngành giải quyết tranh chấp kết nối viễn thông; 5) Thoả thuận để giải quyết tranh chấp
kết nối viễn thông. Với mỗi phương án, Luận văn tập trung vào 4 ý: Một là: Cơ sở pháp lý nào
cho phép giải quyết tranh chấp kết nối viễn thông theo phương án đó; Hai là, những nội dung cơ
bản cần quan tâm khi vận dụng, giải quyết; Ba là, những ưu điểm, nhược điểm với từng phương
án (nếu có); Bốn là, giới thiệu thực tiễn vận dụng từng phương án để giải quyết tranh chấp kết
nối trong thời gian qua đối với các doanh nghiệp viễn thông.
Từ đó, Luận văn rút ra 4 nhận xét quan trọng về pháp luật giải quyết tranh chấp kết nối
viễn thông tại Việt Nam trên cơ sở lồng ghép, so sánh với kinh nghiệm các nước về từng vấn đề.
Cụ thể như sau:
- Nhận xét về cơ quan giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông
Hiện nay, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông tại Việt

Nam bao gồm: Tòa án, Trọng tài thương mại, Cơ quan quản lý cạnh tranh, Bộ Bưu chính, Viễn
thông. Tòa án và Trọng tài thương mại có thể đảm bảo tính độc lập, khách quan, chỉ tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết, thì lại thiếu trình tự, thủ tục và nhân lực phù hợp với tranh
chấp kết nối viễn thông. Bộ Bưu chính, Viễn thông được cho là vừa đá bóng, vừa thổi còi và
thiếu tính khách quan. Cơ quan quản lý cạnh tranh là đơn vị chức năng thuộc Bộ thương mại,
chưa đủ sức mạnh và sự độc lập hoàn toàn với những chủ thể tham gia tranh chấp, đặc biệt là
VNPT – Tập đoàn do Thủ tướng trực tiếp hình thành và quản lý. Nguồn gốc hình thành này vô
hình chung đẩy VNPT và cơ quan quản lý cạnh tranh vào thế “anh em một nhà„.
Thực tế là, hiện nay tại Việt Nam, cơ quan có đủ sự độc lập, khách quan về mặt tổ chức,
nhân sự lại không có khả năng, kinh nghiệm và trình tự, thủ tục hợp lý để giải quyết tranh chấp
kết nối, trong khi tổ chức có phần hội tụ đủ hai yếu tố đó lại không độc lập khách quan về tổ
chức, nhân sự.
Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, mặc dù có thể là Tòa án, Trọng tài, Cơ quan quản lý
cạnh tranh hay cơ quan quản lý hành chính về Viễn thông có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
kết nối, nhưng các cơ quan này, nhìn cung đều là những cơ quan có địa vị pháp lý cao, độc lập về
tổ chức, tài chính và nhân sự.
- Nhận xét về nhân lực tham gia giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông.
Ngoài Bộ Bưu chính, Viễn thông, tất cả những cơ quan còn lại đều thiếu nhân lực đủ
trình độ giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông, đặc biệt là kiến thức, kinh nghiệm về công
nghệ thông tin và Viễn thông như: Thẩm phán, Kiểm sát viên, Trọng tài viễn, Điều tra viễn, cũng
như những người tiến hành tố tụng khác.
Tại Ấn độ, tiêu chuẩn để một người được chọn vào phục vụ trong cơ quan giải quyết
tranh chấp Viễn thông phải là thẩm phán có kinh nghiệm hoặc những cựu quan chức cấp cao
trong chính phủ, có kiến thức và kinh nghiệm đồng thời trong lĩnh vực công nghệ Viễn thông,
hành chính, thương mại và công nghiệp. Tại Australia, trong cơ cấu của ACCC có một nhóm
chuyên gia về pháp luật và công nghệ Viễn thông (ACCC’s Telecommunication and legal
group). Nhóm này chịu trách nhiệm hỗ trợ trực tiếp cho các Ủy viên (Commmisioners) trong
việc điều tra, xác minh vụ việc và ra quyết định giải quyết. Tại Mỹ, trọng tài viên tham gia giải
quyết phải là chuyên gia có kinh nghiệp về Viễn thông và am hiểu thủ tục giải quyết trọng tài của
AAA, đồng thời đảm bảo tính độc lập, khách quan trong quá trình giải quyết.

Như vậy, yêu cầu chung về trình độ nhân lực tham gia giải quyết tranh chấp kết nối Viễn
thông phải đảm bảo hai yếu tố tối thiếu, hiểu biết về Viễn thông và kết nối Viễn thông, nhưng
cũng phải thông thạo những kiến thức pháp lý. Đây là đòi hỏi tất yếu khách quan tại Việt Nam,
đặc biệt khi chúng ta đang đứng trước ngưỡng cửa Hội nhập như hiện nay với sự xuất hiện ngày
càng phổ biết hơn các doanh nghiệp Viễn thông 100% vốn đầu tư nước ngoài.
- Nhận xét về thời hạn giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông.
Đảm bảo sự thông suốt trong liên lạc Viễn thông một mặt bảo vệ quyền lợi chính đáng
của người sử dụng, mặt khác còn liên quan đến mật thiết đến đời sống kinh tế, chính trị, an ninh
quốc phòng của một quốc gia. Chính vì vậy, việc giải quyết tranh chấp phải đảm bảo tính nhanh
chóng, kịp thời. Trong khi, để giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông theo Luật cạnh tranh lên
đến trên 500 ngày, Bộ luật tố tụng dân sự là 600 ngày. Quy định này dẫn đến việc giải quyết vụ
tranh chấp kết nối bị kéo dài, ảnh hướng đến lợi ích các bên cũng như lợi ích chung của cộng
đồng người sử dụng dịch vụ. Không phù hợp với nguyên tắc đảm bảo tính thông suốt, liên tục
của thông tin liên lạc. Trên cơ sở tham khảo pháp luật Viễn thông các quốc gia, căn cứ vào yêu
cầu thực tiễn tại Việt Nam, Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông quy định thời gian thụ lý và hiệp
thương, giải quyết tranh chấp không được quá 120 ngày.
Thời gian này là 6 tháng ở Pháp, 2-5 tháng ở Phần Lan, 10 tuần ở Đức, Tây Ban Nha là 6
tháng, Ấn độ không quá 90 ngày.v.v…Đặc biệt, có nước còn trao quyền ấn định thời gian giải
quyết cho chính cơ quan có thẩm quyền giải quyết, điển hình cho xu hướng này là Australia. Tại
Australia, ACCC được quyền quyết định tiến độ giải quyết trên cơ sở công bằng và hợp lý với
từng vụ việc cụ thể.
- Nhận xét về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông.
+ Nhận xét thứ nhất: Sự đa dạng về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp kết nỗi viễn
thông tại Việt Nam cũng đặt ra một số vấn đề:
Thứ nhất, chúng ta cần một số lượng lớn những trọng tài viên, người tiến hành tố tụng có
hiểu biết chuyên sâu về kêt nối và tranh chấp kết nối Viễn thông bên cạnh kiến thức pháp luật
vững vàng. Điều này không thể thực hiện trong ngày một, ngày hai.
Ở những quốc gia mạnh về đội ngũ nhân lực thường cho phép tồn tại cùng lúc nhiều trình
tự pháp lý giải quyết khác nhau như: Anh, Mỹ và một số nước bắc Mỹ khác.v.v… Nhưng cũng
có quốc gia lựa chọn xu hướng thành lập một cơ quan duy nhất có thẩm quyền giải quyết tranh

chấp kết nối Viễn thông, điển hình cho xu hướng này là Singapore, Australia, Ấn độ.v.v…
Thứ hai, có hay không sự ưu tiên áp dụng một trong những trình tự này trước trình tự
kia? Trên thực tế, xuất hiện không ít quan điểm cho rằng, trình tự giải quyết tranh chấp kết nối
Viễn thông quy định trong Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông là trình tự đầu tiên được ưu tiên áp
dụng trong giải quyết tranh chấp kết nối. Có ý kiến còn cho rằng, đây là trình tự duy nhất tại Việt
Nam có thể áp dụng để giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông.
+ Nhận xét thứ hai: Đặc thù trong lĩnh vực Viễn thông đòi hỏi phải có những trình tự,
thủ tục đặc biệt, không áp dụng chung với các tranh chấp thương mại thông thường. Việc Tố
tụng dân sự, tố tụng cạnh tranh đang được áp dụng chung cho giải quyết tranh chấp kết nối viễn
thông như tại Việt Nam chúng ta sẽ dẫn đến những bất hợp lý. Ví dụ như:
- Quy định về chuyển hồ sơ đến cơ quan điều tra để xử lý hình sự nếu phát hiện thấy dấu
hiệu tội phạm trong Tố tụng dân sự và Cạnh tranh khiến cho chủ thể tham gia tranh chấp có thể
có tâm lý e ngại.
- Theo quy định của Luật cạnh tranh và Bộ luật tố tụng dân sự, những phần Quyết định
giải quyết tranh chấp chưa có hiệu lực hoặc bị khiếu nại thì chưa được thi hành. Điều này không
phù hợp với tranh chấp viễn thông. Trong lĩnh vực Viễn thông, trước tiên phải đảm bảo liên lạc
thông suốt, không bị dán đoạn, ngay kể cả trong giai đoạn giải quyết tranh chấp nguyên tắc này
cũng không được phá vỡ.
- Nhiều chế tài xử phạt hành chính trong Luật cạnh tranh không phù hợp trong lĩnh vực
Viễn thông như: Cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường; Tịch thu tang vật,
phương tiện được dùng để vi phạm pháp luật cạnh tranh, thu hồi giấy phép.v.v…
Kinh nghiệm một số nước cho thấy, bên cạnh tố tụng trọng tài, dân sự, cạnh tranh dành
cho những tranh chấp thương mại thông thường, để giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông, các
nước thường xây dựng một trình tự, thủ tục đặc thù riêng.
Tại Mỹ, Hiệp hội trọng tài (AAA) và Hiệp hội Viễn thông, Internet (CTIA) đã cùng nhau
xây dựng trình tự, thủ tục giải quyết riêng cho tranh chấp kết nối Viễn thông. Thủ tục giải quyết
của AAA với tranh chấp kết nối Viễn thông chia làm 3 loại: 1/ Regular Track Procedures (áp
dụng cho những vụ tranh chấp có trị giá từ 2000 usd -500,000usd); 2/ Fast Track Procedures (áp
dụng cho những vụ tranh chấp có trị giá dưới USD 2,000); 3/ Large/Complex Case Track
Procedures (áp dụng cho những vụ tranh chấp có trị giá dưới ít nhất từ USD 500,000). Mỗi loại

này khác nhau về trình tự giải quyết, về trọng tài viên về việc xem xét lại phán quyết và về thời
gian giải quyết.v.v… Tương tự như vậy, đặc thù này cũng có ở Ấn độ, Jordan, Australia.v.v
Tại Việt Nam, hiện nay, thủ tục giải quyết tranh chấp trong Pháp lệnh Bưu chính, Viễn
thông, Nghị định 160/2004/NĐ-CP và Quyết định 12/2006/QĐ-BBCVT được coi là thủ tục hợp
lý nhất và cũng được các doanh nghiệp Viễn thông áp dụng nhiều nhất. Tuy nhiên, ngay trình tự,
thủ tục này cũng còn bộc lộ một số hạn chế nhất định sau đây:
- Giải quyết thông qua hình thức hiệp thương tại Bộ Bưu chính, Viễn thông có thể dẫn
đến tâm lý e ngại cho các doanh nghiệp Viễn thông vì hai lý do cơ bản: 1) Bộ Bưu chính, Viễn
thông đồng thời cũng là cơ quan quản lý về hành chính lĩnh vực Viễn thông, không doanh nghiệp
nào muốn cơ quan quan quản lý nào hiểu quá rõ về những thông tin nội bộ; 2) Lịch sử phát triển
của ngành Viễn thông dẫn đến nhân sự chủ chốt của Bộ Bưu chính, Viễn thông hiện nay phần
lớn hoặc đã từng làm lãnh đạo của Tổng cục Bưu điện và VNPT, hoặc có quan hệ mật thiết với
VNPT. Do vậy, nhiều ý kiến cho rằng, có thể có sự thiên vị cho VNPT trong giải quyết tranh
chấp kết nối với các doanh nghiệp khác.
- Thực chất của trình tự giải quyết này là thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp kết nối
Viễn thông. Tuy nhiên, nếu so với tố tụng cạnh tranh, tố tụng trọng tài hoặc tố tụng tòa án thì
những quy định trong Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông và những văn bản hướng dẫn thi hành
còn khá đơn giản, chưa đáp ứng được yêu cầu chặt chẽ, khách quan, vẫn có chỗ cho ý chí chủ
quan can thiệp như: Chưa quy định về trình tự của phiên hiệp thương; Vấn đề luật sư tham gia;
Vấn đề thay đổi người tiến hành giải quyết tranh chấp, tiêu chuẩn của chuyên gia giải quyết tranh
chấp, vấn đề kết hợp sử dụng trung gian hòa giải, trọng tài vào trong quá trình giải quyết tranh
chấp.v.v…
- Mặc dù quy định, trường hợp không đồng ý với kết quả giải quyết, các bên có thể tiếp
tục yêu cầu giải quyết hoặc khởi kiện ra tòa để được giải quyết theo quy định pháp luật. Tuy
nhiên, tòa án ở đây là tòa hành chính để xem xét quyết định của Bộ BCVT hay tòa kinh tế để giải
quyêt vụ việc theo trình tự tố tụng dân sự lại chưa được quy định rõ, khiến cho các bên và cơ
quan quản lý còn lúng túng trong việc vận dụng.
- Cơ quan trực tiếp giải quyết – Tổ kết nối Viễn thông - chưa có được sự độc lập cần
thiết. Tổ trưởng Tổ kết nối đồng thời là Vụ trưởng Vụ Viễn thông. Như vậy, cơ quan hoạch định
chính sách đồng thời cũng là cơ quan thực thi chính sách, do vậy tình trạng “vừa đá bóng, vừa

thổi còi” là điều khó tránh khỏi.
- Chuyên gia giải quyết tranh chấp trong Tổ kết nối có kiến thức về Viễn thông nhưng lại
thiếu kiến thức cơ bản về pháp lý, bản thân Tổ kết nối chuyên trách cũng mới được thành lập, do
vậy, việc giải quyết dựa trên kinh nghiệm công tác là chính.
Chương 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP KẾT NỐI VIỄN THÔNG TẠI VIỆT NAM
Phần này bao gồm 2 nội dung chính: 1) Những kiến nghị liên quan đến sửa đổi, bổ sung
hoặc ban hành mới các văn bản, quy định pháp luật; 2) Những kiến nghị khác.
3.1. Những kiến nghị liên quan đến sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn
bản, quy định pháp luật.
Giải pháp tình thế trước mắt là cải tổ bộ phận phụ trách việc giải quyết tranh chấp
kết nối Viễn thông tại Bộ Bưu chính, Viễn thông theo hướng:
1) Tách riêng Tổ công tác chuyên trách về kết nối mạng và dịch vụ Viễn thông công cộng
ra khỏi Vụ Viễn thông; 2) Tiêu chuẩn hóa cán bộ phụ trách giải quyết tranh chấp kết nối tại Tổ
công tác; 3) Chi tiết hóa quy trình giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông theo hướng khách
quan, chi tiết và toàn diện hơn.
Để thực hiện điều này, Bộ trưởng Bộ Bưu chính, Viễn thông cần ban hành Quyết định
mới thay thế Quyết định số 813/QĐ-BBCVT về việc thành lập Tổ công tác chuyên trách về kết
nối mạng và dịch vụ Viễn thông. Thay vì chỉ định cụ thể cán bộ kiêm nhiệm như trong Quyết
định 813/QĐ-BBCVT, Quyết định này chỉ quy định về cơ cấu tổ chức và tiêu chuẩn của Tổ
trưởng, tổ phó và các thành viên trên nguyên tắc phải có đồng thời kiến thức và kinh nghiệm
trong cả lĩnh vực pháp lý và công nghệ Viễn thông.
Cùng với ban hành quyết định thay thế Quyết định 813/QĐ-BBCVT nói trên, Bộ trưởng
Bộ BCVT cũng phải ban hành Quyết định thay thế 12/2006/QĐ-BBCVT. Quyết định này được
soạn thảo theo hướng cụ thể, chi tiết hơn nữa trình tự, thủ tục giải quyết trên cơ sở khoa học,
khách quan, công bằng, trong đó cần quan tâm chi tiết hóa một số vấn đề sau:
+ Đối với quy trình nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp: Trong Quyết định sửa đổ, cần
xác định rõ: 1) Các phương thức nộp đơn (Nộp trực tiếp, Nộp qua công ty chuyên về dịch vụ
chuyển phát, Nộp qua Email, Qua Fax, hay qua đường Bưu điện); 2) Thời điểm được coi là đã

nộp đơn theo từng phương thức nộp đơn kể trên; 3) Quy trình thụ lý đơn và thời điểm được coi là
đã thụ lý đơn; 4) Thời gian quyết định việc thụ lý;
+ Có Điều khoản quy định rõ về việc Tổ kết nối chỉ thụ lý đơn khi các bên đã hòa giải
nhưng không thành.
+ Có điều khoản quy định doanh nghiệp Viễn thông không được ngừng cung cấp dịch vụ
trong quá trình giải quyết tranh chấp nếu không có sự đồng ý của Tổ kết nối và được thông báo
bằng văn bản tới khách hàng liên quan.
+ Có điều khoản quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin, hỗ trợ kỹ thuật, nhân lực
khi có yêu cầu của Tổ kết nối đối với doanh nghiệp Viễn thông.
+ Quy định trình tự, thủ tục của hiệp thương: Quy trình hỏi, trình bày chứng cứ, thành
phần tham gia, việc thay đổi người giải quyết, thời gian tổ chức Phiên hiệp thương kể từ thời
điểm thụ lý đơn, thời gian của phiên hiệp thương.
+ Trình tự thông qua Quyết định giải quyết tranh chấp kết nối. Thời gian ra Quyết định
giải quyết tranh chấp kể từ thời điểm kết thúc Hiệp thương.
+ Tương tự như vậy, cần quy định chi tiết trình tự, thủ tục Khiếu nại Quyết định giải
quyết tranh chấp lên Bộ trưởng Bộ BCVT và trình tự giải quyết của Bộ Trưởng.
+ Bỏ quy định có thể tiếp tục yêu cầu giải quyết lại từ đầu.
+ Bổ sung quy định nếu các bên không đồng ý sẽ đưa ra Tòa hành chính để giải quyết về
Quyết định hành chính.
+ Mở rộng phạm vi quy trình giải quyết tranh chấp kết nối liên quan đến từng khía cạnh
cụ thể như: Chất lượng thông tin, sử dụng chung cơ sở hạ tầng, Cước phí, thời hạn kết nối
v.v chứ không chỉ là dung lượng kết nối như hiện nay.
+ Cho phép luật sư tham gia vào giải quyết tranh chấp như một đại diện pháp lý chính
thức cho các bên. Và quy định liên quan đến thay thế người tiến hành tố tụng nếu không đảm bảo
tính khách quan, độc lập cần thiết.
Cùng với việc sửa đổi Quyết định 12/2006/QĐ-BBCVT, chúng ta cũng cần sửa đổi Bộ
Luật tố tụng, Luật cạnh tranh, Pháp lệnh trọng tài thương mại theo hướng bổ sung quy định
hướng dẫn việc giải quyết tranh chấp chỉ được thực hiện theo trình tự, thủ tục tại Pháp lệnh và
những văn bản hướng dẫn thi hành.
Về lâu dài cần nghiên cứu hình thành cơ quan giải quyết tranh chấp theo một trong

các hướng sau:
- Thành lập tòa chuyên trách việc giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông như là một cơ
quan duy nhất có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông bên cạnh những tòa
chuyên trách khác thuộc Tòa án nhân dân tối cao. Đồng thời với việc ban hành trình tự tố tụng
riêng áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông.
Để thực hiện, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức tòa án nhân dân. Cùng với
việc sửa đổi luật tổ chức tòa án nhân dân, cũng cần phải bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự phần
trình tự, thủ tục tố tụng dân sự áp dụng cho giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông. Trình tự
này, trên nguyên tắc cần đảm bảo một số yêu cầu: Thứ nhất, về thời gian phải nhanh chóng, tốt
nhất là 6 tháng trở lại cho phù hợp với thông lệ chung trên thế giới; Thứ hai, trong trình tự, thủ
tục có cho phép trọng tài, hoặc bên trung gian thứ ba tham gia giải quyết tranh chấp, để tạo sự
mềm dẻo, linh hoạt cần thiết. Tuy là Tòa chuyên trách, nhưng cần dành cho nó những quyền lực
đặc biệt, quyền lực này là sự kết hợp giữa đặc thù của quyền lực hành chính, của cơ quan tiến
hành tố tụng và sự linh động mang tính thỏa thuận cao của cơ chế trọng tài. Thứ ba, tiêu chuẩn
của thẩm phán phải là người đủ trình độ, kinh nghiệm về công nghệ Viễn thông và pháp luật
chuyên ngành cũng như thông thạo trình tự tố tụng dân sự.
- Thành lập Hội đồng giải quyết cạnh tranh quốc gia, là cơ quan giải quyết độc lập được
Quốc hội cấp tài chính, trong đó có bộ phận chuyên phụ trách (và duy nhất tại Việt Nam) giải
quyết tranh chấp kết nối với nhân lực và trình tự, thủ tục đặc biệt. Để làm được việc này, cần lên
kế hoạch, chương trình để sửa đổi, bổ sung Luật Cạnh tranh và Luật Ngân sách nhà nước. Bên
cạnh đó, có chính sách khuyến khích các Công ty luật, Trung tâm trọng tài thương mại đủ điều
kiện về nhân lực, trình độ và trình tự giải quyết hợp lý, tham gia cung cấp dịch vụ giải quyết
tranh chấp kết nối Viễn thông với tư cách như bên trung gian hòa giải.
3.2. Những kiến nghị khác: Tuyên truyền Pháp luật; Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ; Tăng cường hỗ trợ cơ sở vật chất, thiết bị chuyên dụng phục vụ hoạt động giải quyết
tranh chấp kết nối Viễn thông.
KẾT LUẬN
Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông được xây dựng nhằm điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp kết nối giữa các doanh nghiệp
Viễn thông. Tuỳ vào thực tiễn phát triển của ngành Viễn thông qua các thời kỳ, mức độ hội nhập

quốc tế, cũng như nhận thức của chúng ta mà những quy định pháp lý liên quan đến trình tự, thủ
tục giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông trong những giai đoạn khác nhau cần có sự sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
Trong Luận văn này, trên cơ sở khái quát mạng Viễn thông Việt Nam, người thực hiện đã
nghiên cứu những vấn đề lý luận cở bản về kết nối và tranh chấp kết nối Viễn thông, về quá trình
hình thành, phát triển của tranh chấp, về bản chất, đặc điểm của tranh chấp; Đã xem xét thực tiễn
tranh chấp thông qua vụ việc điển hình VNPT-VIETEL, làm rõ những phương án pháp lý có thể
vận dụng, giải quyết các tranh chấp kết nối Viễn thông theo quy định hiện hành tại Việt Nam.
Cùng với sự tiếp thu kinh nghiệm giải quyết tranh chấp của một số nước trên thế giới, Luận văn
đã tập trung phân tích và rút ra nhận xét về một số điểm bất cập của hệ thống pháp luật hiện tại
trong quá trình vận dụng giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông.
Từ đó, Luận văn bước đầu đã đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện từng bước hệ
thống quy định pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp kết nối Viễn thông tại Việt
Nam, bao gồm: Những kiến nghị mang tính tạm thời, trước mắt nhằm giải quyết đòi hỏi cấp thiết
hiện tại. Bên cạnh những kiến nghị đó, Luận văn cũng đề cập đến những giải pháp có tính lâu dài
phù hợp với thực tiễn Việt Nam và yêu cầu hội nhập. Ngoài ra, một số kiến nghị mang tính bổ
xung cần thiết như những kiến nghị liên quan đến đào tạo đội ngũ cán bộ giải quyết tranh chấp,
việc trang bị cơ sở vật chất.v.v
Với sự giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn, sự nỗ lực, cố gắng của người viết hy vọng rằng,
những kiến nghị trên đây của Luận văn sẽ góp phần từng bước hoàn thiện pháp luật về giải quyết
tranh chấp kết nối Viễn thông. Tuy nhiên, do giới hạn về nhận thức và thời gian thực hiện, sự
khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn tài liệu, Luận văn không tránh khỏi những hạn chế về nội
dung và hình thức, người viết rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu của các thầy, cô giáo
cũng như bạn đọc để rút kinh nghiệm cho bản thân trong quá trình nghiên cứu khoa học, đồng
thời bổ sung, hoàn chỉnh hơn nữa những vấn đề đã đặt ra trong Luận văn./.


×