Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.66 KB, 21 trang )



Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường
tại Việt Nam


Lưu Việt Hùng

Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Luật Kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: PGS.TS Phạm Hữu Nghị
Năm bảo vệ: 2009


Abstract: Làm sáng tỏ các khái niệm cơ bản về chất thải rắn thông thường. Nghiên cứu
nhu cầu điều chỉnh pháp luật, các yếu tố tác động đối với hoạt động quản lý chất thải.
Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về việc quản lý chất thải rắn: đối với các
chủ thể; việc thu gom chất thải; vận chuyển chất thải; lưu giữ chất thải; chủ thể xử lý chất
thải; và cơ quan quản lý chất thải để tìm ra những sai sót, vướng mắc, những vấn đề phát
sinh, các vi phạm pháp luật, từ đó phân tích nguyên nhân của tình trạng này. Đề xuất
phương hướng và các giải pháp hoàn thiện, cơ chế thực hiện pháp luật về quản lý chất
thải rắn thông thường nhằm mục tiêu phát triển bền vững

Keywords: Chất thải rắn; Luật kinh tế; Pháp luật Việt Nam; Quản lý chất thải


Content
1. Tính cấp thiết của đề tài

Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam qua hơn 20 năm đổi mới đã đạt được những
thành công lớn nhưng bên cạnh đó cũng còn rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết, trong đó có vấn


đề về môi trường sống. Các ngành kinh tế càng phát triển thì vấn đề về môi trường càng đặt ra
cấp bách. Môi trường là vấn đề quan trọng không chỉ với một ngành, một nghề, không chỉ đối
với một quốc gia mà là vấn đề của toàn nhân loại. Hiện tượng nhiệt độ trái đất ngày càng nóng
lên, băng ở hai đầu cực đang tan dần, lỗ thủng tầng Ozon ngày càng to ra….đang là mối lo ngại
đối với sự tồn tại của loài người. Đã qua rồi thời kỳ phát triển bằng mọi giá, mà phải gắn phát
triển với bảo vệ môi trường. Nguyên lý phát triển trong thời đại hiện nay là phát triển bền vững.
Môi trường là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng và cần thiết với mỗi con người
và mỗi quốc gia. Nó là nền tảng của sự tồn tại và phát triển bền vững của xã hội, bất cứ hoạt
động gì của con người cũng diễn ra trong môi trường và vì thế nó có những tác động nhất định
tới môi trường. Hiện nay với sự bùng nổ dân số trên toàn cầu và tốc độ công nghiệp hóa cao đã
gây ra những tổn thất to lớn cho môi trường. Theo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm
2020 nước ta trở thành nước công nghiệp vì vậy trong giai đoạn hiện nay cần phải đẩy mạnh


công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhưng cũng do vậy khi tốc độ phát triển ngày càng nhanh thì chất
thải, chất thải rắn thông thường ngày càng nhiều gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của
con người. Xuất phát từ tầm quan trong của chất thải, nhất là chất thải rắn thông thường, vấn để
quản lý khai thác nó như thế nào để chất thải trở thành nguồn tài nguyên phục vụ cho đời sống
con người là vấn đề hết sức cần thiết. Hiện nay các hoạt động quản lý chất thải rắn thông thường
còn nhiều bất cập, các quy định của pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường còn nhiều
hạn chế, chưa đầy đủ gây ra rất nhiều khó khăn cho các chủ thể trong quá trính quản lý . Vì thế
việc hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường là một nhu cầu cấp thiết trong
giai đoạn hiện nay ở Việt Nam. Chính vì các nguyên nhân trên nên tôi quyết định lựa chọn đề tài
“Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thƣờng tại Việt Nam” làm luật văn thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay đã có một số Luận án Tiến sỹ về quản lý chất thải: Nguyễn Văn Phương,
Pháp luật môi trường Việt Nam về nhập khẩu phế liệu năm 2007; Vũ Thị Duyên Thuỷ, Pháp luật
về quản lý chất thải nguy hại năm 2009. Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Hoà Bình, Điều tra, đánh
giá tình hình quản lý chất thải rắn nguy hại của Việt Nam và đề xuất một số giải pháp quản lý có
hiệu quả năm 2004. Bên cạnh đó còn có khoá luận tốt nghiệp của các sinh viên Trường Đại học

Luật Hà Nội: Phạm Thị Liễu, Đánh giá các quy định của pháp luật về quản lý chất thải năm
2008. Ngoài ra các nhà khoa học đã có những bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Có
thể kể đến một số bài viết như: Lê Kim Nguyệt, Một cơ chế phù hợp cho quản lý chất thải nguy
hại ở Việt Nam đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp tháng 11 năm 2002; TS. Nguyễn Văn
Phương, Khái niệm chất thải và quy định về xuất nhập khẩu chất thải của Cộng hoà liên bang
Đức trong cuốn “Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững” do nhà xuất bản Khoa học và Kỹ
thuật ấn hành năm 2008; TS. Nguyễn Văn Phương, Chất thải và quy định quản lý chất thải, được
đăng trên tạp chí Luật học Số 4 năm 2003; TS. Nguyễn Văn Phương, Một số vấn đề về khái niệm
chất thải, được đăng trên tạp chí Luật học Số 10 năm 2006…. nhưng những bài viết này mới chỉ
dừng lại ở việc đánh giá hay gợi mở một vài khía cạnh của pháp luật quản lý chất thải nói chung,
quản lý chất thải nguy hại nói riêng còn hầu như không đi sâu nghiên cứu vần đề về quản lý chất
thải rắn thông thường. Vì vậy với đề tài “Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thƣờng tại
Việt Nam” tôi mong muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc hoàn thiện pháp
luật về quản lý chất thải.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý chất thải rắn thông thường tại
Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải nhằm mục tiêu
phát triển bền vững.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ các khái niệm cơ bản về chất thải rắn thông thường;
nghiên cứu nhu cầu điều chỉnh pháp luật, các yếu tố tác động đối với hoạt động quản lý chất thải;
phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật để tìm ra những sai sót, vướng mắc, những vấn
đề phát sinh, các vi pham pháp luật để từ đó phân tích nguyên nhân của tình trạng này; đề xuất
phương hướng và các giải pháp hoàn thiện, cơ chế thực hiện pháp luật về quản lý chất thải rắn
thông thường.
* Phạm vi nghiên cứu


Pháp luật về quản lý chất thải là một phạm trù nghiên cứu rộng, vì vậy Luân văn không

thể nghiên cứu hoạt động quản lý của tất cả các loại chất thải hiện nay, cũng không đi sâu nghiên
cứu các lĩnh vực chuyên môn của quản lý chất thải mà chủ yếu đề cấp đến các vấn đề pháp lý
liên quan đến quản lý chất thải rắn thông thường.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các vấn đề do đề tài đặt ra, người viết luận văn sử dụng phương pháp lịch
sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp khảo sát thực tiễn và đánh giá,
phương pháp phân tích…
5. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
Các kết quả nghiên cứu của Luận văn này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về Luật học. Một số kiến nghị của đề tài có giá trị tham
khảo đối với các cơ quan xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường, pháp luật về
quản lý chất thải nói chung và pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường nói riêng.
6. Nội dung của luận văn:
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được chia làm 3
chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật quản lý chất thải rắn thông thường.
Chương 2: Thực trạng pháp luật quản lý chất thải rắn thông thường.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN THÔNG
THƢỜNG

1.1. Các khái niệm: Chất thải, chất thải rắn thông thƣờng, quản lý chất thải rắn
thông thƣờng
1.1.1. Khái niệm chất thải
Theo cách hiểu thông thường, chất thải là những chất mà con người bỏ đi, không tiếp tục
sử dụng nữa. Khi bị thải bỏ, những chất này tồn tại trong môi trường dưới những trạng thái nhất
định và có thể gây ra rất nhiều tác động bất lợi cho môi trường cũng như sức khoẻ con người.

Chất thải, CTRTT là vấn đề quan trọng trong cuộc sống ngày nay vì vậy cho nên chúng ta cần
phải nghiên cứu và tìm hiểu, có như vậy mới biết cách để quản lý, phân loại, và tận dụng, đồng
thời cũng từ đó xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể khi không tuân thủ quy trình xả, thải
theo quy định của pháp luật.
Dưới giác độ ngữ nghĩa, chất thải được hiểu là những “chất” không còn sử dụng được
nữa bị con người “thải” ra trong các hoạt động khác nhau. Chất thải được sản sinh trong các hoạt
động khác nhau của con người thì được gọi với những thuật ngữ khác nhau như: Chất thải rắn
phát sinh trong sinh hoạt thì gọi là rác thải; Chất thải phát sinh sau khi sử dụng nguyên liệu trong
quá trình sản xuất thì gọi là phế liệu; Chất thải phát sinh sau quá trình sử dụng nước thì gọi là
nước thải…
Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học định nghĩa “Chất thải là rác thải và những đồ
vật bị bỏ đi nói chung”. Theo cách hiểu của khái niệm này, chất thải bao gồm rác là những thứ


vụn vặt bị vất bỏ vương vãi, làm bẩn và đồ vật không có giá trị, không có tác dụng nên không
giữ lại
Khái niệm chất thải cũng được sử dụng trong pháp luật quốc tế về môi trường, được đề cập
tại Công ước Basel. Điều 2 khoản 1 Công ước Basel
Khái niệm chất thải còn được đề cập trong pháp luật của khối liên kết chính trị - kinh tế.
Liên minh Châu Âu (EU). Điều 1 Nghị định 259/93 của EU về vận chuyển chất thải ngày
1/2/1993 có hiệu lực từ ngày 6/5/1994 và Điều 3 khoản 1 Luật khuyến khích kinh tế tuần hoàn và
đảm bảo xử lý các chất thải phù hợp với môi trường ngày 27/9/1994 được sửa đổi bổ sung ngày
25/8/1998 của CHLB Đức.
Cả hai định nghĩa trên đều có một điểm chung là “vật chất được xác định là chất thải khi
nó nằm trong Phụ lục I của Luật”. Như vậy, cả hai luật này đều quan tâm đến việc đưa vật chất
nào và không đưa vật chất nào vào trong Phụ lục của mình. Giả sử có những vật chất chưa được
đưa vào Phụ lục nhưng nó lại có nguy cơ gây ảnh hưởng đến môi trường khi chủ sở hữu thải bỏ
thì sẽ được xác định như thế nào, đây là hạn chế mà các nhà làm luật cần phải bổ sung. Hơn nữa,
điều này sẽ khó khi áp dụng vào Việt Nam bởi chung ta chưa đảm bảo được yếu tố về mặt kỹ
thuật, công nghệ khi xác định các dạng vật chất nằm trong danh mục chất thải thuộc sở hữu của

các chủ thể khác nhau. Pháp luật Việt Nam có quy định khác so với hai văn bản pháp luật trên,
pháp luật Việt Nam đã liệt kê cụ thể các dạng vật chất phát sinh trong các hoạt động của con
người và tồn tại dưới các dang khác nhau: Khí, lỏng, rắn…
Điều 2 khoản 2 Luật bảo vệ môi trường (BVMT) 1993 và Điều 3 khoản 10 Luật BVMT
2005 đều đưa ra định nghĩa về chất thải rắn.
Từ các định nghĩa và dựa vào các tiêu chí khác nhau ta có thể phân loại chất thải thành
các nhóm loại khác nhau:
+ Dựa vào dạng tồn tại của chất thải, chất thải tồn tại dưới dạng rắn (chất thải rắn), lỏng
(chất thải lỏng), khí (khí thải), nhiệt lượng, tiếng ồn…
+ Phụ thuộc vào sự độc hại của chất thải, chất thải bao gồm chất thải độc hại nguy hiểm
và chất thải thông thường.
+ Phụ thuộc vào nguồn sản sinh chất thải, chất thải được chia thành chất thải sinh hoạt,
chất thải công nghiệp, chất thải y tế…
+ Phụ thuộc vào chu trình sản sinh ra chất thải, chất thải bao gồm nguyên liệu thứ phẩm,
phế liệu, vật liệu thứ phẩm, sản phẩm, đồ vật hư hỏng hoặc quá hạn sử dụng
1.1.2. Khái niệm chất thải rắn thông thƣờng
Thuật ngữ CTRTT được sử dụng nhiều trên thực tế và tại một số văn bản quy phạm pháp
luật. Chương VIII, mục 3 Luật BVMT 2005 và Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 09 tháng 4
năm 2007 của Chính phủ Về quản lý chất thải rắn có nhiều điều, khoản đề cập đến đến thuật ngữ
CTRTT, nhưng chưa có văn bản nào trực tiếp định nghĩa CTRTT. Vậy CTRTT là gì? Theo tôi,
để nhận biết CTRTT cần dựa vào những dấu hiệu đặc trưng sau:
Trước hết CTRTT phải là chất thải rắn;
Thứ hai, CTRTT không phải là chất nguy thải nguy hại.
Từ các phân tích trên, ở Việt Nam thuật ngữ CTRTT được định nghĩa như sau: Chất thải
rắn thông thường là một dạng vật chất ở thể rắn, không phải là thể lỏng, thể khí, không phải là
chất thải nguy hại và được thải ra từ các hoạt động khác nhau của con người.
Như vậy, một vật chất được coi là CTRTT khi:


Là vật chất không phải là thể lỏng, thể khí;

Là chất được thải ra từ các hoạt động khác nhau của con người như: Sinh hoạt, tiêu dùng,
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ…;
Là chất không phải là chất thải rắn nguy hại.
Phân loại CTRTT:
Theo Điều 77 Luật BVMT 2005, CTRTT được phân thành hai nhóm chính:
+ Chất thải có thể dùng để tái chế, tái sử dụng;
+ Chất thải phải tiêu huỷ hoặc chôn lấp
1.1.3. Khái niệm quản lý chất thải rắn thông thƣờng
Theo Từ điển Tiếng Việt, quản lý được hiểu là việc tổ chức và điều khiển các hoạt động
theo những yêu cầu nhất định. Trong cuộc sống hàng ngày, con người không chỉ tiêu thụ và sử
dụng một số lượng lớn các nguyên liệu, sản phẩm từ thiên nhiên, từ sản xuất để tồn tại và phát
triển đồng thời cũng vứt, thải lại cho thiên nhiên và môi trường sống các phế thải, rác thải. Nền
kinh tế - xã hội càng phát triển, dân số tại các vùng đô thị, trung tâm công nghiệp càng tăng
nhanh thì phế thải và rác thải càng nhiều và ảnh hưởng trực tiếp trở lại đời sống của con người,
làm cho môi trường bị ô nhiễm, con người mắc bệnh tật, giảm sức khoẻ cộng đồng, đất đai bị
biến thành bãi rác, làm mất cảnh quan tại các khu đô thị.
Đã từ lâu, ở các nước phát triển, nhà nước và cộng đồng đã đưa ra các biện pháp xử lý rác
thải, đưa vào quy hoạch phát triển kinh tế xã hội; xây dựng hệ thống cống ngầm thoát nước, quy
định những nơi chôn rác sinh hoạt, những quy chế, phương pháp thu gom, phân loại, tái chế và
quản lý rác.
Để quản lý hiệu quả loại các loại chất thải (bao gồm cả CTRTT), trên thế giới hiện có ba
phương thức quản lý, với ba cách tiếp cận không giống nhau. Đó là phương thức quản lý cuối
đường ống sản xuất, phương thức quản lý dọc theo đường ống sản xuất và phương thức quản lý
nhấn mạnh vào khâu tiêu dung.
Ở nước ta, theo thống kê hàng năm có: Hơn 15 triệu tấn rác, trong đó rác sinh hoạt đô thị
và nông thôn vào khoảng 12,8 triệu tấn, rác công nghiệp khoảng 2,7 triệu tấn; rác y tế 2,1 vạn
tấn, các chất độc hại trong công nghiệp là 13 vạn tấn, trong nông nghiệp là 4,5 vạn tấn. Như vậy,
tại Việt Nam nếu chúng ta thực hiện được việc quản lý, thu gom, phân loại và tái chế số lượng
chất thải khổng lồ này thì sẽ góp phần không nhỏ làm tăng ngân sách nhà nước và tăng lượng sản
phẩm xã hội. Nhưng để làm được việc này một mặt chúng ta cần xây dựng cơ chế quản lý chất

thải trong đó có CTRTT, một mặt đưa ra những biện pháp nhằm phát huy tinh thần hợp tác của
nhân dân.
Khái niệm về quản lý chất thải được định nghĩa đầu tiên tại Thông tư số 1590/TTLT-
BKHCN&MT ngày 17 tháng 10 năm 1997 của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường hướng
dẫn thi hành Chỉ thị số 199/TTg ngày 3 tháng 4 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ về các biện
pháp cấp bách trong quản lý chất thải rắn ở các đô thị và khu công nghiệp.
Ngoài ra trong một số văn bản khác như: Nghị định 175/NĐ-CP ngày 18/10/1994 về
hướng dẫn thi hành Luật BVMT 1993; Quyết định số 152/1999/QĐ-TTg về việc phê duyệt chiến
lược quản lý chất thải rắn tại các đô thị và khu công nghiệp Việt Nam đến 2020; Chỉ thị số
23/2005/CT- TTg ngày 21 tháng 6 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh công tác
quản lý chất thải rắn tại các khu đô thị và công nghiệp; Nghị định 80/2006/NĐ-CP ngày
9/8/2006 về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BVMT cũng đưa


ra các định nghĩa về quản lý chất thải rắn; Điều 3 Khoản 12 Luật BVMT 2005 nêu ra định nghĩa
về quản lý chất thải
Sau khi đã tìm hiểu các định nghĩa khác nhau về quản lý chất thải, ta có thể đưa ra định
nghĩa phù hợp về quản lý CTRTT như sau:
Quản lý chất thải rắn thông thường là một quá trình thực hiện liên tục các hoạt động
phân loại, thu gom, vận chuyển, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy chất thải rắn
thông thường.
Qua khái niệm này ta thấy quản lý CTRTT hịên nay ở nước ta được thể hiện ở các khía
cạnh sau:
* Chủ thể thực hiện quản lý CTRTT;
* Quản lý CTRTT có mục đích của nó;
* Nội dung của quản lý CTRTT.
Từ khái niệm trên ta thấy quản lý CTRTT có nhiều điểm khác so với hoạt động quản lý
chất thải nguy hại bởi:
* Hoạt động quản lý chất thải nguy hại cần phải có nguồn đầu tư, tập trung nguồn lực,
khoa học kỹ thuật và nguồn tài chính lớn để xử lý, loại bỏ hoàn toàn các đặc tính nguy hại của

chất thải nguy hại như: Dễ cháy, dễ nổ, dễ lây nhiễm… để biến nó thành CTRTT.
* Quản lý CTNH từ các khâu phân loại, thu gom, bảo quản, vận chuyển, xử lý, tiêu huỷ đều đòi
hỏi nghiêm ngặt về công nghệ và kỹ thuật. CTNH phải được xử lý tuỳ theo tính chất và thành phần của
từng loại CTNH.
* Đối với quản lý chất thải nguy hại đòi hỏi các chủ thể phải có một trình độ chuyên môn
nhất định để nhận biết, kiểm soát và xử lý.
1.2. Quan niệm và vai trò của pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thƣờng
1.2.1. Quan niệm pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thƣờng
So với các lĩnh vực pháp luật khác, pháp luật môi trường là một lĩnh vực khá mới mẻ
trong hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới. Các nhà luật học Australia, một trong
những quốc gia tiên phong trong bảo vệ môi trường bằng pháp luật đã đánh giá rằng, không dễ
dàng định nghĩa chính xác phạm vi của Luật môi trường như chúng ta có thể làm với Luật hợp
đồng hay luật về các vi phạm ngoài hợp đồng
Khái niệm "quản lý chất thải" được hiểu là tổng thể các hoạt động gồm phân loại, thu
gom, vận chuyển, tái sử dụng, xử lý, tiêu huỷ, thải loại chất thải
Tại Điều 3 Khoản 2 Luật BVMT 2005 và Điều 3 Khoản 1 Nghị định số 59/2007/NĐ-CP
đưa ra định nghĩa về hoạt động quản lý chất thải rắn
Dựa vào các định nghĩa nêu trên ta có thể đưa ra định nghĩa về pháp luật về quản lý chất
thải rắn thông thường như sau:
Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường là một hệ thống các quy phạm pháp
luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể phát sinh chất thải rắn thông thường với cơ quan
quản lý nhà nước và với nhau để thực hiện liện tục các hoạt động phân loại, thu gom, vận
chuyển, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy chất thải rắn thông thường nhằm bảo vệ,
tái tạo môi trường và bảo đảm nâng cao sức khỏe cộng đồng.

1.2.2. Vai trò của pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thƣờng


Thực tế đã chứng minh, pháp luật với tư cách là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội,
luôn có tác động và ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới các quan hệ xã hội

- Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường có vai trò quan trọng khi đặt ra những
quy định cho các chủ thể phát thải chất thải, quy định các loại phí giúp cho các chủ thể có quyền
dễ thực hiện trong việc thu lệ phí đối với các chủ thể xả, thải chất thải; quy định rõ cách thức thu
gom, phân loại, giảm thiểu, tái chế, xử lý …chất thải.
- Pháp luật về quản lý CTRTT không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại ngày nay, nó góp
phần không nhỏ trong việc làm trong sạch môi trường, phòng ngừa, khắc phục ô nhiễm môi
trường, sự cố môi trường.
- Pháp luật về quản lý CTRTT được quy định sẽ dần dần góp phần nâng cao ý thức bảo
vệ môi trường của người dân để đảm bảo cho họ được hưởng quyền sống trong môi trường
không ô nhiễm.
- Góp phần nâng cao nhận thức của toàn dân theo hướng có lợi cho việc bảo vệ môi
trường.
1.3. Các yếu tố tác động tới pháp luật quản lý chất thải rắn thông thƣờng
Thứ nhất, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước;
Thứ hai, ý thức của người dân;
Thứ ba lợi ích kinh tế của doanh nghiệp;
Thứ tư, trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ.



CHƢƠNG 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN THÔNG THƢỜNG

2.1. Các quy định đối với chủ thể phát sinh chất thải rắn thông thƣờng
Để đưa ra những quy định áp dụng đối với chủ thể phát sinh CTRTT là điều không dễ.
Bởi các chủ thể này không chỉ đơn thuần là các chủ doanh nghiệp, các khu công nghiệp, mà còn
cả những người dân; người dân lại được chia ra theo khu vực như: Thành thị, nông thôn, miền
núi, hải đảo, vùng cao…
Chủ nguồn thải bao gồm: các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có hoạt động phát sinh chất
thải rắn (Khoản 11 Điều 3 Nghị định số 59/2007/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý chất thải rắn)

Theo Khoản 1 Điều 66 Luật BVMT 2005 quy định: “Tổ chức, cá nhân có hoạt động làm
phát sinh chất thải có trách nhiệm giảm thiểu, tái chế, tái sử dụng để hạn chế đến mức thấp nhất
lượng chất thải phải tiêu huỷ, thải bỏ
Chủ nguồn thải phải chịu các trách nhiệm sau:
Thứ nhất: Chủ nguồn thải phải chịu trách nhiệm giảm thiểu lượng chất thải phát sinh vào
môi trường;
Thứ hai: Chủ nguồn thải có trách nhiệm phân loại CTRTT tại nguồn;
Thứ ba: Chủ nguồn thải có trách nhiệm nộp phí vệ sinh và phí bảo vệ môi trường.
2.2. Các quy định về thu gom chất thải rắn thông thƣờng
Nhu cầu về một môi trường sạch đẹp càng cao hơn khi trình độ kinh tế - xã hội, dân trí
phát triển ngày một cao. Những năm gần đây, thu nhập của người dân có những thay đổi theo


hướng tích cực, nhưng môi trường sống vẫn đang bị xuống cấp. Trong thời gian tới, nạn ô nhiễm
môi trường vẫn cứ nặng nề thì chính sách kiểm soát môi trường sẽ phải có những thay đổi đáng
kể.
Theo Điều 3 Khoản 5 Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2007 của
Chính Phủ về quản lý chất thải rắn thì: Thu gom chất thải rắn là hoạt động tập hợp, phân loại,
đóng gói và lưu giữ tạm thời chất thải rắn tại nhiều điểm thu gom tới địa điểm hoặc cơ sở được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
Trách nhiệm của chủ thể thu gom CTRTT được quy định tại Điều 26 Nghị định
59/2007/NĐ-CP.
Trong quá trình thực hiện quy định của pháp luật đối với chủ thể thu gom chất thải trong
đó có CTRTT trên thực tế còn nhiều vấn đề câp bách cần phải đưa ra giải pháp hoàn thiện.
Thực tế hiện nay chủ thể thu gom chất thải thường thu gom lẫn các loại chất thải với nhau
cả CTRTT và chất thải nguy hại.
2.3. Các quy định về vận chuyển chất thải rắn thông thƣờng
Tại Khoản 7 Điều 3 Nghị định số 59/2007/NĐ-CP về quản lý chất thải rắn định nghĩa:
“Vận chuyển chất thải rắn là quá trình chuyên chở chất thải rắn từ nơi phát sinh, thu gom, lưu
giữ, trung chuyển đến nơi xử lý, tái chế, tái sử dụng hoặc bãi chôn lấp cuối cùng”.

Đây là hoạt động được quan tâm rất lớn bởi hoạt động này đóng vai trò quan trong trong
hoạt động quản lý chất thải. Từ nơi phát sinh, chất thải qua thu gom đến được nơi xử lý hoặc tái
chế phải qua hoạt động vận chuyển. Hoạt động này nếu được thực hiện tốt sẽ làm giảm đáng kể
sự ứ đọng chất thải tại nơi thu gom.
Cũng giống như việc thu gom, vận chuyển CTRTT cùng được thực hiện do các công ty
dịch vụ, hợp tác xã dịch vụ hay các hộ gia đình thông qua hợp đồng thực hiện dịch vụ.
Hợp đồng dịch vụ vận chuyển chất thải rắn được quy định tại Khoản 1 Điều 37 Nghị định
59: Hợp đồng dịch vụ quản lý chất thải rắn bao gồm các dạng sau:
+ Hợp đồng dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn;
+ Hợp đồng dịch vụ thu gom, vận chuyển chất thải rắn.
Theo quy định của pháp luật về vận chuyển chất thải thì chủ thể vận chuyển chất thải
phải thực hiện các nghĩa vụ.
+ Không được làm rò rỉ, rơi vãi chất thải, gây phát tán bụi, mùi;
+ Chủ thể vận chuyển chất thải có trách nhiệm vận chuyển chất thải từ nơi thu gom đến
lưu giữ hay xử lý chất thải.
2.4. Các quy định về lƣu giữ chất thải rắn thông thƣờng
Lưu giữ chất thải là giai đoạn trung gian trước khi đưa chất thải đi xử lý và tiêu huỷ. Tại
Tại Khoản 6 Điều 3 Nghị định số 59/2007/NĐ-CP về quản lý chất thải rắn định nghĩa: “Lưu giữ
chất thải rắn là việc giữ chất thải rắn trong một khoảng thời gian nhất định ở nơi được cơ quan có
thẩm quyền chấp thuận trước khi vận chuyển đến cơ sở xử lý”
Tại Nghị định 59/2007/NĐ-CP có đưa ra các quy định đối với chủ thể này. Khoản 3,
Điều 24 Nghị định 59/2007/NĐ-CP quy định: “Trên các trục phố chính, các khu thương mại, các
công viên, quảng trường, các điểm tập trung dân cư, các đầu mối giao thông và các khu vực công
cộng khác phải bố trí các phương tiện lưu giữ chất thải rắn”. Điều này là rất cần thiết bởi nó vừa
tạo điều kiện cho chủ thể phát sinh, chủ thể thu gom, vận chuyển vừa tạo điều kiện cho chủ thể
lưu giữ CTRTT.


Khoản 4 Điều 24 NĐ: “Dung tích các thùng lưu giữ chất thải bên trong công trình phải
được bảo đảm kích cỡ phù hợp với thời gian lưu giữ. Các thùng lưu giữ tại các khu vực công

cộng phải phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật và bảo đảm tính mỹ quan”. Và Khoản 5: “Thời gian
lưu giữ chất thải rắn không được quá 02 ngày”.
2.5. Các quy định về xử lý chất thải rắn thông thƣờng
Xử lý chất thải rắn là một bài toán hóc búa đối với các nhà nghiên cứu bởi đây là giai
đoạn cuối của quá trình quản lý chất thải, là giai đoạn đảm bảo cho chất thải được đưa vào môi
trường mà không gây ảnh hưởng đến môi trường và sức khoẻ của con người.
Xử lý chất thải, bao gồm các hoạt động tái sử dụng, tái chế, tiêu huỷ. Xử lý, tiêu huỷ chất
thải là khâu rất quan trọng có tính quyết định đối với việc tạo lập một hệ thống quản lý chất thải
hiệu quả, để giảm thiểu các rủi ro đối với môi trường và sức khoẻ con người
Tại Khoản 9 Điều 3 Nghị định số 59/2007/NĐ-CP đưa ra định nghĩa về xử lý chất thải
rắn như sau: “Xử lý chất thải rắn là quá trình sử dụng các giải pháp công nghệ, kỹ thuật làm
giảm, loại bỏ, tiêu hủy các thành phần có hại hoặc không có ích trong chất thải rắn; thu hồi, tái
chế, tái sử dụng lại các thành phần có ích trong chất thải rắn”.
Từ thực trạng quy định của pháp luật đối với hoạt động xử lý chất CTRTT ta thấy các
chủ thể xử lý CTRTT phải có trách nhiệm lựa chọn công nghệ và chu trình xử lý sao cho phù
hợp với từng loại chất thải đã được phân loại.
Khi thực hiện việc xử lý CTRTT cần tuân thủ các giai đoạn quá trình xử lý. Xử lý chất
thải hiện nay thường được áp dụng các công nghệ: Phân loại và xử lý cơ học; công nghệ thiêu đốt;
công nghệ xử lý hoá lý; trich ly; chưng cất; kết tủa- trung hoà; ô xy hoá khử; công nghệ chôn lấp hợp
vệ sinh.
2.6. Các quy định về cơ quan quản lý nhà nƣớc trong hoạt động quản lý chất thải
rắn thông thƣờng
Quản lý CTRTT là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động bảo vệ môi
trường. Vì vậy, có thể hiểu trách nhiệm quản lý CTRTT nói riêng nằm trong trách nhiệm BVMT
nói chung của các cá nhân, tổ chức. Điều 29 Hiến pháp 1992 quy định: Mọi cơ quan nhà nước,
đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội; mọi công dân đều phải có trách nhiệm BVMT.
Theo quy định của pháp luật hiện hành mọi hoạt động liên quan đến quản lý chất thải đều
chịu sự quản lý nhà nước về BVMT thống nhất từ trung ương đến địa phương.
Theo Nghị định số 80/2006/NĐ-CP về hướng dẫn Luật BVMT 2005 có đưa ra quy định
về trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước trong hoạt động quản lý chất thải rắn nguy hại

trong đó quy định cụ thể trách nhiệm cho hai cơ quan là Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Tại Nghị định 59/2007/NĐ-CP về quản lý chất thải rắn đưa ra những quy định đối với cơ
quan quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý chất thải rắn nói chung, chất thải rắn nguy hại
nói riêng.
Khoản 1, Khoản 2 Điều Nghị định 59/2007/NĐ-CP đã quy định trách nhiệm của chính
quyền trong việc thu gom, vận chuyển chất thải rắn
Điều 28 Nghị định số 59/2007/NĐ-CP: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có trách
nhiệm tổ chức hoạt động quản lý chất thải rắn trên địa bàn địa phương; công bố, công khai quy
hoạch quản lý chất thải rắn; tổ chức thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
thu gom, vận chuyển chất thải rắn.
Như vậy, từ quy định trong các văn bản nêu trên ta thấy các văn bản đều đưa ra những
qui định về cơ quan nhà nước trong quản lý chất thải rắn nói chung, chất thải rắn nguy hại nói


riêng còn quy định về quản lý CTRTT hầu như không có. Vì vậy, điều này thường gây ra nhiều
khó khăn cho các cơ quan quản lý. Do thiếu những chế tài xử lý nên các vi phạm trong lĩnh vực
này ngày càng ra tăng.


CHƢƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN
THÔNG THƢỜNG

3.1. Cơ sở để đƣa kiến nghị về việc hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải rắn thông
thƣờng
Quản lý CTRTT là một quá trình, vì thế cho nên không thể tách rời bất cứ một giai đoạn
nào của quá trình đó, từ phân loại, giảm thiểu, thu gom đến xử lý đều phải tuân thủ những qui
định của pháp luật.
Quá trình quản lý CTRTT ở nước ta hiện nay còn rất nhiều vấn đề bất cập cần được xem

xét và đưa tới hoàn thiện. Ta thấy trong quá trình thực hiện quản lý CTRTT còn gặp phải những
hạn chế vì vậy muốn nâng cao hiệu quả của quá trình này cần phải dưa trên những cơ sở sau:
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải rắn thông thƣờng dựa trên quan điểm
của Đảng và Nhà nƣớc về bảo vệ môi trƣờng
Bảo vệ môi trường là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện
môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do con người và
thiên nhiên gây ra cho môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
Theo chúng tôi quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác BVMT được thể hiện như sau:
* Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại;
* Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát
triển bền vững.
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải rắn thông thƣờng dựa trên cơ sở các
điều kiện về kinh tế - xã hội Việt Nam
Tăng trưởng kinh tế có thể gây ô nhiễm môi trường đó là điều không thể tránh khỏi ở bất
kỳ quốc gia nào. Vì vậy, bài toán đặt ra cho những người có trọng trách là, chúng ta phải làm gì
và làm thế nào để có chính sách đặc biệt vừa phát triển kinh tế vừa bảo vệ môi trường và phát
triển bền vững. Công nghiệp hóa, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức về bảo vệ môi
trường
Do vậy, pháp luật về quản lý CTRTT phải phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế, xã hội
Việt Nam.
* Về kinh tế;
* Về mặt xã hội.
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải rắn thông thƣờng cần căn cứ vào thực
trạng pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật quản lý chất thải rắn thông thƣờng ở Việt
Nam
Cơ bản đến nay, hệ thống chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường đã tương đối đầy đủ
và đồng bộ, tạo ra hành lang pháp lý cần thiết cho công tác quản lý nhà nước về BVMT trong


giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.

Đặc biệt, nhiều văn bản, nhiều quy định cụ thể về quản lý CTRTT được ban hành đã xác định rõ
trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan cũng như chức năng nhiệm vụ của các cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền. Các văn bản này đã trở thành một trong những công cụ pháp lý
hữu hiệu góp phần nâng cao hiệu quả của công tác quản lý chất thải trên phạm vi cả nước.
Hiện tại hệ thống pháp luật liên quan đến chất thải nói chung và CTRTT nói riêng tại
Việt Nam còn chưa đồng bộ và không đầy đủ. Việt Nam đã ban hành khoảng 300 văn bản pháp
luật BVMT. Riêng trong lĩnh vực quản lý chất thải còn thiếu nhiều văn bản nên gây khó khăn
cho công tác quản lý. Hầu hết các văn bản hiện hành chỉ đề cập quản lý chất thải rắn, chất thải
nguy hại, chất thải y tế …còn các chất thải khác như chất thải sinh hoạt, chất thải lỏng, chất thải
công nghiệp, chất thải phóng xạ …chưa được quan tâm thích đáng.
Thực hiên pháp luật nhất là pháp luật về quản lý CTRTT trong thời gian qua còn gặp phải
những hạn chế sau:
+ Đối với việc phân loại CTRTT tại nguồn đây là một trách nhiệm của Chủ nguồn thải
nhưng lại có sự mâu thuẫn giữa Luật BVMT 2005 và Nghị định 59/2007/NĐ-CP. Hai văn bản
này không thống nhất về cách thức phân loại CTRTT cụ thể tại khoản 1 Điều 77 Luật BVMT
2005 và khoản 1 Điều 20 Nghị định số 59/2007/NĐ-CP;
+ Đối với việc thu phí vệ sinh và phí BVMT. Văn bản pháp luật không xác định rõ chủ
thể phải nộp hai loại phí trên;
+ Chế tài xử phạt còn quá nhẹ, chỉ là giải pháp tạm thời có tính chất cảnh cáo.
Xuất phát từ thực tế ban hành pháp luật và việc áp dụng pháp luật hiện nay đòi hỏi đặt ra
cho việc hoàn thiện pháp luật về quản lý CTRTT cần:
+ Xác định pháp luật về quản lý CTRTT là một bộ phận của pháp luật về quản lý chất
thải trong hệ thống các chế định của pháp luật BVMT;
+ Coi trọng tính hiệu quản của quá trình thực hiện nhiêm vụ kiểm soát các hoạt động
quản lý CTRTT;
+ Coi trong các biện pháp phòng ngừa nguy cơ gây tác động xấu đến môi trường từ các
hành vi phát thải CTRTT, đồng thời đề cao các biện pháp chế tài áp dụng cho các hành vi vi
phạm
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải rắn thông thƣờng dựa trên cơ sở tiếp
thu kinh nghiệm của các quốc gia khác

Việt Nam - quốc gia với nền kinh tế đang phát triển rất cần được sự quan tâm giúp đỡ của
các quốc gia khác trên thế giới và chúng ta cũng đang được sự quan tâm thực sự từ các quốc gia
có nền kinh tế phát triển đặc biệt là sự giúp đỡ trong hoạt động BVMT.
Môi trường trái đất đang đứng trước nguy cơ ô nhiễm nghiêm trọng. Để giảm bớt nguy
cơ đó mỗi quốc gia đã và đang tự xác định cho mình các phương thức BVMT trong đó có hoạt
động quản lý chất thải. Chúng ta có thể tìm hiểu hoạt động quản lý chất thải ở một vài quốc gia
để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.Có thể tìm hiểu công tác bảo vệ môi trường tại Thuỵ
Điển, Singapore; Thái Lan
Từ phương thức BVMT và quản lý chất thải ở một vài quốc gia nêu trên ta có thể rút ra
kinh nghiệm để vận dụng thích hợp vào quá trình hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về
quản lý CTRTT nói riêng ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc hoàn thiện pháp luật về quản lý CTRTT ở
Việt Nam cần chú ý những vấn đề sau:


+ Không thể áp dụng toàn bộ các công đoạn trong hoạt động quản lý chất thải ở một hay
một vài quốc gia khác bởi nền kinh tế Việt nam không thể đáp ứng đủ các yêu cầu đặt ra. Vì vậy,
chúng ta nên tiếp thu nhưng có chọn lọc những kinh nghiệp từ các quốc gia trên thế giới;
+ Tiếp thu các kinh nghiệm để hoàn thiện pháp luật về quản lý CTRTT phải xuất phát từ
các yếu tố xã hội và môi trường cũng như trình độ nắm bắt khoa học kỹ thuật tiên tiến ở Việt
Nam;
+ Từ kinh nghiệm quốc tế, việc hoàn thiện pháp luật về quản lý CTRTT ở Việt Nam cần
phải được sự quan tâm hơn nữa của Đảng, Nhà nước và các cấp có thẩm quyền như quan tâm
đến việc đầu tư cho hoạt động xử lý chất thải trong đó có CTRTT, đầu tư phương tiện để đáp
ứng như cầu thu gom và vận chuyển chất thải.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thƣờng
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn
thông thƣờng
Từ những bất cập đã trình bày trên chúng tôi đưa ra các giải pháp nhằm mục đích hoàn
thiện pháp luật về thu gom, vận chuyển và xử lý CTRTT như sau.
Thứ nhất: Hoàn thiện quy định của pháp luật về quản lý chất thải và đặc biệt đó là quản

lý CTRTT.
Khi mà ý thức của người dân chưa cao thì vấn đề quản lý chất thải được qui định trong
các văn bản pháp luật là một biện pháp hữu hiệu giúp các cơ quan Nhà nước có thể kiểm soát
chất thải một cách chặt chẽ và quy củ hơn.
Cần điều chỉnh lại và xem xét định nghĩa về chất thải nói chung được quy định tại Khoản
10 Điều 3 Luật BVMT 2005 và cần sửa đổi như sau: Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí
được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hay các hoạt động khác được chủ sở
hữu và cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định.
Thứ hai: Đầu tư, áp dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại trong hoạt động thu gom, vận
chuyển, xử lý CTRTT.
Để nâng cao công tác thu gom, vận chuyển, xử lý, tiêu huỷ CTRTT cần phải thực hiện
các công việc như:
+ Từng bước hiện đại hoá công nghệ kỹ thuật tuy nhiên cần phải xem xét khía cạnh công
nghệ kỹ thuật đó có phù hợp với kinh tế của nước ta hay không;
+ Cần sự quan tâm của các cấp có thẩm quyền trong đầu tư nghiên cứu để trong tương lai
cần tự sản xuất các thiết bị hiện đại trong các giai đoạn của quá trình quản lý CTRTT như:
Phương tiện phân loại, thu gom, vận chuyển và xử lý;
+ Cần cải tiến, nâng cấp các phương tiện hiện có để tăng năng xuất, hiệu quả cho các
thiết bị để đáp ứng nhu cầu về quản lý chất thải hiện nay;
+ Cần tăng nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho việc đầu tư xây dựng các khu tập
trung chất thải chuyên dụng, cũng như đầu tư xây dưng các khu xử lý chất thải tập trung, hiện
đại, đủ tiêu chuẩn;
+ Nhà nước cần thực hiện các chính sách kinh tế xã hội hỗ trợ cho các đơn vị xử lý
CTRTT để phát triển sản xuất phân compost, vừa giảm được diện tích băi chôn rác, vừa có thêm
lượng phân, không phải là phân hoá học phục vụ nông nghiệp;


Thứ ba: Tăng nặng hình thức xử lý hành chính đối với hành vi vi phạm. Trách nhiệm hành
chính được qui định trong NĐ số 81/2006/NĐ-CP ngày 09/08/2006 thì mức xử phạt hành chính
chưa cao nhất là đối với hành vi vi phạm pháp luật về quản lý chất thải là 70 triệu

Đây là mức phạt thấp so với chi phí để khắc phục tình trạng ô nhiễm
theo chúng tôi cần:
+ Tăng mức xử phạt hành chính cao hơn cụ thể: Phạt tiền đến 500.000.000đ theo Điểm đ
Khoản 2 Điều 14 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2008.
+ Tăng thẩm quyền xử phạt của cơ quan địa phương. Cụ thể Uỷ ban Nhân dân cấp xã,
phường, thị trấn: Tăng từ 500.000đ theo Nghị định số 81/2006/NĐ-CP lên 2.000.000 theo khoản
2 Điều 28 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2008.
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong
việc quản lý chất thải rắn thông thƣờng
Quyền và nghĩa vụ luôn đi cùng nhau. Theo quy định của pháp luật thì không ai được
hưởng quyền mà không phải thực hiên nghĩa vụ và cũng không có ai chỉ phải thực hiện nghĩa vụ
mà không được hưởng quyền.
Tuy nhiên, việc quy định quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể trong hoạt động quản lý
CTRTT còn nhiều bất cập do các nguyên nhân:
+ Quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong việc quản lý CTRTT không được quy định cụ thể
trong các văn bản pháp luật hiện hành;
+ Thực tế các quy định về quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể quản lý chất thải hầu hết
được quy định tại các văn bản dưới luật và không thống nhất, còn nhiều khe hở vì vậy tính pháp
chế của nó không cao;
+ Thiếu sự can thiệp của Nhà nước với những quy định cấm, bắt buộc do vậy không thể
đảm bảo được lợi ích kinh tế của các chủ thể với lợi ích môi trường.
Từ một số nguyên nhân nêu trên ta có thể đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện về
việc quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong việc quản lý CTRTT.
* Đối với Chủ nguồn thải CTRTT cần quy định một cách cụ thể hơn các nghĩa vụ mà chủ
thể này phải chịu
Bên cạnh đó có chế độ khen thưởng kịp thời khi họ phát hiện ra các hành vi vi pham. Cụ
thể:
+ Thực thi quyết định của cơ quan có thẩm quyền khi xác địch một vật chất thuộc sở hữu
của mình không còn giá trị sử dụng và có nguy cơ gây ảnh hưởng đến môi trường. Tuy nhiên,
khi thực hiện hoạt động này cũng nên quy định rõ trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tránh

việc lợi dụng, lạm dụng quyền lực mà mình được thực hiện.
+ Thành lập đội giám sát việc thực hiện quy định của pháp luật về quản lý CTRTT tại
từng thôn, ấp, bản, tổ dân phố, khu dân cư. Nhưng với giải pháp này lại cần có thù lao trả cho
thành viên đội giám sát. Vấn đề này cần được thương lượng trực tiếp thông qua hoạt động của tổ
chức này với chủ trương kết hợp hài hoà lợi ích BVMT với lợi ích cá nhân.
* Đối với chủ thể phân loại, thu gom, vận chuyển CTRTT. Ngoài quy định các nghĩa vụ
phải được quy định một cách chặt chẽ hơn đồng thời khi quy định nghĩa vụ cũng phải xét đến
khía cạnh sự thiếu thốn của các phương tiện để họ thực hiện được nhiệm vụ của mình
+ Đối với chủ thể phân loại CTRTT cần: Hướng dẫn, tổ chức và thực hiện hoạt động
phân loại CTRTT tại nguồn; quy định trách nhiệm và quyền lợi của các chủ nguồn thải khi thực


hiện phân loại CTRTT tại nguồn; quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước khi
triển khai chương trình phân loại chất thải tại nguồn.
+ Đối với chủ thể thu gom, vận chuyển cần: Khuyến khích thành lập các HTX, doanh
nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước hoạt
động trong lĩnh vực thu gom, vận chuyển và xử lý CTRTT
* Đối với chủ thể tái chế, xử lý CTRTT. Đối với loại chủ thể này tại Nghị định
59/2007/NĐ-CP đã quy dịnh một cách khá đầy đủ trong Chương V. Tuy nhiên, đây chỉ là quy
định đối với chủ thể xử lý chất thải rắn nói chung cho nên cần phải có những quy định cụ thể đối
với chủ thể xử lý CTRTT Cụ thể:
+ Ban hành Quy chế quản lý hoạt động kinh doanh phế liệu của các cơ sở, đồng thời quy
định rõ trách nhiệm của Uỷ ban Nhân dân địa phương trong việc quản lý các cơ sở tái chế
CTRTT;
+ Khuyến khích tái chế, tái sử dụng CTRTT bằng việc quy định chính sách ưu đã về thuế,
về công nghệ nếu chủ thể tái chế, tái sử dụng CTRTT thực hiện hoạt động kinh doanh.
3.2.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực pháp
luật quản lý chất thải rắn thông thƣờng
Vấn đề giải quyết tranh chấp về môi trường đã được quy định tại Luật BVMT năm 1993.
Cũng giống như các tranh chấp khác, tranh chấp môi trường thường phát sinh từ các hành vi vi

phạm pháp luật hoặc vi phạm quyền và lợi ích của người khác gây ảnh hưởng đến trật tự pháp
luật. Vì vậy, cơ chế giải quyết tranh chấp chưa hình thành một cách rõ ràng và cơ quan tòa án
cũng chưa thực sự tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp môi trường. Song do đòi hỏi của
thực tế đời sống, hoạt động giải quyết tranh chấp đã được áp dụng ở một số địa phương, thông
qua những cơ chế khác của pháp luật
Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp môi trường. Đây là điều cầu làm ngay bởi
các tranh chấp môi trường hiện nay thường chưa được giải quyết một cách triệt để bởi sự xung
đột pháp luật giữa trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự. Cụ thể:
Ban hành văn bản riêng về giải quyết tranh chấp môi trường, trong đó có giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực pháp luật quản lý CTRTT bởi hiện tại theo quy định tại khoản 3 Điều 129
Luật BVMT 2005 thì việc giải quyết tranh chấp về môi trường được thực hiện theo quy định của
pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự ngoài hợp đồng và các quy định khác của pháp luật có
liên quan
3.3. Các giải pháp hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp luật về quản lý chất thải rắn
thông thƣờng
3.3.1. Hoàn thiện sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền trong việc
hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thƣờng
Sự phối hợp của các cơ quan, cấp hành chính trong hoạt động quản lý và thực thi công vụ
là một nhu cầu tất yếu khách quan. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
việc hoàn thiện pháp luật nhất là pháp luật về quản lý CTRTT càng quan trong hơn vì không có
bất cứ cơ quan, cấp hành chính nào thực hiện được chức năng quản lý, hoàn thành được nhiệm
vụ của mình một cách biệt lập.
Đối với vấn đề phối hợp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc hoàn thiện
pháp luật về quản lý CTRTT cần xác định trách nhiệm và phân công hợp lý nhiệm vụ quản lý
chất thải nói riêng và bảo vệ môi trường nói chung giữa các ngành, các cấp. Rà soát, làm rõ chức


năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhằm khắc phục triệt để tình trạng trùng lặp, chồng
chéo, ôm đồm về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong cùng hệ thống. Trên cơ sở đó, sắp
xếp lại về tổ chức bộ máy cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng loại cơ quan này nhằm

thực hiện Nghị định số 81/2007/NĐ-CP ngày 23 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ “Quy định tổ
chức, bộ phận chuyên môn về bảo vệ môi trường tại cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nhà
nước". Cụ thể:
- Tăng cường hệ thống thanh tra môi trường cả về nhân lực và trình độ chuyên môn, tổ
chức đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ cũng như pháp luật để đội ngũ cán bộ thanh tra môi
trường có đủ năng lực, trình độ thực thi hiệu quả công tác kiểm soát việc thực hiện các quy định
pháp luật về quản lý chất thải;
- Kiện toàn tổ chức và tạo điều kiện để Cảnh sát Môi trường các cấp hoạt động có hiệu
quả.
3.3.2. Tăng cƣờng cơ sở vật chất, kinh tế, kỹ thuật để quản lý chất thải rắn thông
thƣờng
Muốn hoàn thiện bất kỳ lĩnh vực pháp luật nào cũng cần đến sự quan tâm của toàn Đảng,
toàn dân. Không chỉ tạo điều kiện về mặt vật chất mà còn tạo điều kiện để nhân dân tham gia
đóng góp ý kiến của mình. Với một nền kinh tế đang phát triển như nước ta hiện nay thì việc áp
dụng công nghệ, phương tiện kỹ thuật hiên đại cho việc hoàn thiện pháp luật là khó. Vì thế, muốn
áp dụng các công nghệ kỹ thuật hiện đại vào hoàn thiện pháp luật thì một mặt cần phát huy nội lực và
một mặt cần kêu gọi sự ủng hộ, giúp đỡ cả về nhân lực và vật lực của của các quốc gia hiện đại trên thế
giới
+ Tăng cường đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho việc nghiên cứu, triển khai ban hành các
văn bản pháp luật về quản lý CTRTT. Cần phân định rõ phạm vi đầu tư và phân cấp giữa đầu tư
trung ương và đầu tư địa phương để đầu tư thực sự có hiệu quả.
+ Tổ chức các buổi hội thảo, trao đổi, học tập kinh nghiệm của các quốc gia và tổ chức có
uy tín trên thế giới trong lĩnh vực hoàn thịên BVMT và pháp luật quản lý CTRTT để từ đó rút
kinh nghiệp áp dụng vào Việt Nam.
3.3.3. Các biện pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục pháp luật cho cộng đồng dân

Các biện pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục cho cộng đồng dân cư gồm:
Trước hết: Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp; kiện toàn,
củng cố và ổn định bộ máy cán bộ làm công tác bảo vệ môi trường từ tỉnh đến cơ sở để nâng cao
hiệu lực và hiệu quả trong công tác bảo vệ môi trường của địa phương.

Thứ hai: Tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục tạo sự chuyển biến về
nhận thức và hành động của cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp nhân dân về công tác bảo vệ môi trường trong đó có hoạt động quản lý
CTRTT
Thứ ba: Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường; tăng đầu tư và sử dụng đúng
mục đích, hiệu quả các nguồn chi cho công tác bảo vệ môi trường của địa phương


Thứ tư: Cần phối hợp một cách có hiệu quả với Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm đẩy mạnh
hơn quá trình đưa giáo dục môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân.
Thứ năm: Thường xuyên tổ chức các cuộc thi, các GameShow về công tác bảo vệ môi
trường trong cộng đồng dân cư, trong trường học. Nhằm tạo thói quen bảo vệ môi trường cho
mọi người.

KẾT LUẬN
Từ việc nghiên cứu tình hình chất thải rắn thông thường, thực tiễn quản lý và thực trạng
pháp luật về chất thải rắn thông thường, chúng tôi rút ra những kết luận chủ yếu sau:
Một là, chất thải rắn thông thường là một dạng vật chất ở thể rắn, không phải là thể lỏng,
thể khí, không phải là chất thải nguy hại và được thải ra từ các hoạt động khác nhau của con
người. Chất thải rắn thông thường là nguồn nguyên liệu quan trọng cho sản xuất kinh doanh
nhưng nếu ta không biết cách quản lý thì sẽ gây ảnh hưởng rất xấu đền môi trường và sức khoẻ
của con người.
Hai là, quản lý CTRTT là một đòi hỏi tất yếu của mọi quốc gia trong tiến trình phát triển
gắn với bảo vệ môi trường theo quan điểm phát triển bền vững. Đây là tổng hợp những hoạt
động mà các cơ quan nhà nước và các tổ chức, cá nhân thực hiện để phòng ngừa, giảm thiểu
những tác động xấu của CTRTT, đảm bảo sự an toàn cho môi trường và sức khoẻ cộng đồng.
Hoạt động này có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó, quản lý chất thải
rắn thông thường bằng pháp luật là vấn đề đã được chú trọng ở Việt Nam.
Ba là, quản lý chất thải rắn thông thường hiện nay chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố
khác nhau như: Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; ý thức của người dân; trình độ

khoa học, kỹ thuật; lợi ích kinh tế của doanh nghiệp.
Bốn là, xây dựng và hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải rắn thông thường là một đòi
hỏi bức thiết của Việt Nam hiện nay nhằm tăng cường hiệu quả của công tác quản lý chất thải
nói chung và quản lý chất thải rắn thông thường nói riêng bằng pháp luật. Hoạt động này cần
thực hiện trên cơ sở đảm bảo phát triển bền vững; đảm bảo sự đồng bộ của hệ thống pháp luật
môi trường; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và quan hệ hợp tác quốc tế trong bảo vệ
môi trường. Việc quản lý chất thải rắn thông thường được điều chỉnh bằng Luật BVMT 2005,
Nghị định số 59/2007/NĐ-CP và một số văn bản khác. Các văn bản này bước đầu đã tạo ra cơ sở
pháp lý cho hoạt động quản lý chất thải nói chung và chất thải rắn thông thường nói riêng, tuy
nhiên còn những bất cập cần được hoàn thiện:
+ Hoàn thiện về các hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn thông thường ;
hoàn thiện về quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quản lý chất thải rắn thông thường ;
hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực pháp luật quản lý chất thải rắn thông
thường.
+ Hoàn thiện về cơ chế quản lý chất thải rắn thông thường.



References
CÁC VĂN BẢN, NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG
1. Đảng Cộng sản Việt Nam(2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chớnh trị Quốc gia, Hà Nội, tr 301


CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƢỚC
2. Chớnh phủ (2007), Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 9/4/2007 về quản lý
chất thải rắn, Hà Nội
3. Chớnh phủ (2007), Nghị định số 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007 về phớ
bảo vệ mụi trường đối với chất thải rắn, Hà Nội
4. Chớnh phủ (2008), Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 về hướng

dẫn Luật bảo vệ mụi trường 2005, Hà Nội
5. Quốc hội (1993), Luật bảo vệ mụi trường, Hà Nội
6. Quốc hội (2005), Luật bảo vệ mụi trường, Hà Nội
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC
7. Quỳnh Anh (2008), Xử lý rỏc thải bằng cụng nghệ vi sinh: Giải phỏp tối ưu
cho mụi trường, Hà Nội mới số thỏng 3/2008
8. Bộ Tài nguyờn và Mụi trường (2006), Bỏo cỏo hiện trạng mụi trường toàn
quốc năm 2005 - Phần tổng quan
9. Bộ Tài nguyờn và Mụi trường (2005), Bỏo cỏo diễn biến mụi trường Việt
Nam năm 2004 – Chất thải rắn
10. C.Mỏc, Ph.Ăng-ghen toàn tập, Tập 20, Nxb Chớnh trị Quốc gia, Hà Nội,
1994
11. Đức Trường, Quản lý chất thải và chất lượng mụi trường, Hà Nội mới
11/6/2008
12. Dương Thị Thơ, Tụ Kim Oanh(2003), Bỏo cỏo nghiờn cứu tổng quan, Nõng
cao vai trũ và sự tham gia của cộng đồng trong bảo vệ mụi trường thụng
qua tăng cường cụng tỏc phổ biến thụng tin mụi trường cho cộng đồng, Hà
Nội mới 12/2003
13. Khỏnh Khoa (2009), Tỷ lệ thu gom chất thải rắn đạt 80%, Hà Nội mới
7/2009
14. Nguyễn Văn Phương (2007), Phỏp luật mụi trường về hoạt động nhập
khẩu phế liệu ở Việt Nam, Luận ỏn tiến sĩ Luật học


15. Nguyễn Văn Phương (2006), Một số vấn đề về khỏi niệm chất thải, tạp chớ
Luật học số 10/2006
16. Nguyễn Văn Phương(2003), Chất thải và quy định về quản lý chất thải, Tạp
chớ Luật học số 4/2003
17. Số liệu quan trắc của CEETIA
18. Sở Tài nguyờn và Mụi trường thành phố Hải Phũng, Phũng Tài nguyờn và

Mụi trường (2004), Bỏo cỏo về cụng tỏc quản lý chất thải rắn tại thành phố
Hải Phũng 2004
19. Thiờn Tõm (2009), Cần phải hoàn thiện văn bản phỏp luật BVMT, Tạp chớ
Cụng nghiệp 3/2009
20. Tổng cục Thống kờ(2008), Dõn số và mật độ dõn số năm 2008 phõn theo
địa phương
21. Tổng cục Thống kờ(2008), Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong
độ tuổi ở khu vực thành thị năm 2008 phõn theo vựng
22. TS. Phạm Sỹ Liờm(2007), Quản lý chất thải rắn ở Việt Nam, Túm lược
tham luận tại Hội nghị xõy dựng Chõu Á lần thứ 4 tổ chức tại Đài Bắc từ 26-
28/6/2007
23. TS. Nguyễn Danh Sơn (2007), Sử dụng chất thải trong quỏ trỡnh phỏt triển
kinh tế ở Việt Nam, Hội nghị Mụi trường toàn quốc 2005, Tài liệu Hội nghị
24. Vũ Thị Duyờn Thuỷ (2009), Phỏp luật về quản lý chất thải nguy hại, Luận
ỏn Tiến sỹ Luật học
CÁC TÀI LIỆU TỪ TRANG WEBSITE
25. Chất thải nguy hại trộn lẫn rỏc thường- Hiểm hoạ, Người lao động 9/2008;

26. Chất thải rắn ở đụ thị: SOS(2006), Hà nội mới 2/2006;
8 2 06.htm


27. Chiến lược quản lý chất thải rắn của Thuỵ Điển;
/>_dien_tu/MagazineName.2004-06-01.4343/2006/2006_00023/MItem.2006-
12-07.5833/MArticle.2006-12-18.2303
28. Cụng nghệ thụng tin giỏm sỏt xe chở chất thải, Vietnamnet 8/2009;
/>chat-thai/
29. Đỗ Minh (2008), “Bội thực” vỡ nguồn chất thải ở Hà Nội;

30. Hải Chõu(2008), Nhiều nơi thưởng cho dõn bắt ụtụ đổ trộm phế thải;

/>thai-1-55153.html
31. Hạn chế sử dụng tỳi nylon, Muộn cũn hơn khụng;

32. Huỳnh Hải, Long An đỡnh chỉ hoạt động 10 doanh nghiệp vi phạm mụi
trường; />doanh-nghiep-vi-pham-moi-truong.htm
33. Kiờn Cường (2008), 75% chất thải vệ sinh đổ bậy ra mụi trường Sài Gũn;
/>gon-1-44724.html
34. Mức độ thực hiện cỏc cụng nghệ than thiện mụi trường ở Việt Nam cũn
thấp;
/>hema=PORTAL&pers_id=408481&item_id=439194&p_details=1
35. Nhà mỏy xử lý chất thải rắn Hải Phũng hoạt động;



36. Nhõn dõn Quận 6 tớch cực tham gia ngày hội tỏi chế chất thải lần 2/2009;
/>news_id=3658
37. Những bài học quản lý đụ thị ở Singapore; http://thuvien-
ebook.com/forums/archive/index.php/t-8325.html
38. Phõn loại và thu gom chất thải rắn tại nguồn ở Biờn Hoà , VietNam.Net
ngày 04/7/2009
39. Phan Vừ Thu Phong (2008), Biến rỏc thải thành tiền, Nhõn dõn 6/2008;

40. Quản lý chất thải nguy hại trong sản xuất cụng nghiệp, Bỏo Vĩnh Phỳc
6/2009;
/>06&cn_id=346717
41. Sản xuất sạch hơn giảm được từ 20% - 30% lượng chất thải, Người lao
động 8/2004;
42. Thiờn Chương (2008), Xử lý rỏc là bài toỏn khú ởTPHCM:

43. TP HCM: Vận chuyển chất thải nguy hại bằng đường riờng , Việt bỏo ngày

24/6/2007; />van-chuyen-chat-thai-nguy-hai/20709849/125/
44. TP HCM: Vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt từ 17 gỡơ đến 19giờ, Sài Gũn
giải phúng ngày 11/2007;
/>6917&idParent=00000000000000002369&idCap=1
45. Từ hụm nay(21/7/2008): Phỏt hiện đổ bậy phế thải sẽ được thưởng, An
ninh thủ đụ 7/2008;


/>thai_se_duoc_thuong-1-46131.html
46. Việt bỏo (2005), Quản lý chất thải rắn đụ thị, bài toỏn nan giải;
/>giai/20386815/197/
47. Việt bỏo, Nhà mỏy xử lý chất thải
/>BD_ch%E1%BA%A5t_th%E1%BA%A3i/
48. Vinh Giang (2008), Biến chất thải thành tiền;

49. Xử lý chất thải rắn đụ thị theo cụng nghệ Seraphin;
/>_dien_tu/MagazineName.2004




×