Tổ chức và hoạt động thanh tra nhà nước tỉnh
Sơn La
Vũ Việt Hà
Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật; Mã số: 60 38 01
Người hướng dẫn: GS.TS Phạm Hồng Thái
Năm bảo vệ: 2012
Abstract: Nghiên cứu và phân tích kỹ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy
định về tổ chức và hoạt động của thanh tra nhà nước cấp tỉnh. Nghiên cứu và phân tích
thực trạng về tổ chức và hoạt động thanh tra nhà nước tỉnh Sơn La, đưa ra nhận xét về
những ưu điểm và hạn chế, những bất cập so với quy định hiện hành. Đưa ra quan điểm
và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra nhà nước tỉnh Sơn La
Keywords: Pháp luật Việt Nam; Thanh tra; Sơn La
Content
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Công tác thanh tra là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động quản lý hành chính
nhà nước, là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước. Thanh tra chỉ xuất hiện khi có nhà
nước và ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó có thanh tra. Thực hiện có hiệu lực và hiệu quả công
tác thanh tra sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý hành chính
nhà nước; bảo đảm trật tự, kỷ cương; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ
chức trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Tổ chức và hoạt động thanh tra Việt Nam ra đời và hoạt động từ rất sớm. Ngay sau khi
thành lập Nhà nước Việt Nam độc lập và dân chủ, ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
sắc lệnh thành lập Ban Thanh tra đặc biệt, tiền thân của các tổ chức Thanh tra Việt Nam ngày
nay.
Kể từ khi tổ chức và hoạt động thanh tra được chính thức quy định tại các văn bản quy
phạm pháp luật chuyên biệt như Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 và Luật Thanh tra năm 2004 và
hiện nay chúng ta có Luật Thanh tra 2010 công tác thanh tra đã góp phần quan trọng trong việc
phòng ngừa, phát hiện và xử lý các sai phạm trong việc quản lý đời sống kinh tế, xã hội; đã kiến
nghị xử lý và đề xuất nhiều biện pháp để chấn chỉnh công tác quản lý nhà nước; đồng thời kiến
nghị với cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm khắc phục
những khiếm khuyết, sơ hở trong công tác quản lý, góp phần phát triển kinh tế và tăng cường trật
tự, kỷ cương xã hội.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tổ chức và hoạt động thanh tra thời gian qua cũng
còn bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập như: Tổ chức thanh tra còn dàn trải, thiếu tập trung, không
thống nhất, hoạt động thanh tra còn chồng chéo, trùng lặp cả về phạm vi, đối tượng. Quyền hạn
thanh tra còn bị hạn chế, các kết luận, kiến nghị thanh tra chưa được thực thi một cách nghiêm
chỉnh và còn thiếu những biện pháp cứng rắn, chế tài đủ mạnh. Một số cán bộ thanh tra chưa đáp
ứng được yêu cầu về trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị
trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Những yếu kém, bất cập trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng, hiệu quả công tác thanh tra, làm cho công tác thanh tra chưa đáp ứng được yêu cầu
của quản lý và mong mỏi của nhân dân trong công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Cùng với việc tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội theo đường lối đổi mới của Đảng, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh
tra nhà nước nói chung và Thanh tra nhà nước tỉnh nói riêng là một yêu cầu cấp thiết được Đảng và nhà
nước quan tâm chỉ đạo. Để làm được điều đó cần phải đánh giá được một cách trung thực tình
hình thực tiễn của công tác thanh tra nhà nước cấp tỉnh trong thời gian vừa qua, cũng như những
vấn đề vướng mắc đang đặt ra về tổ chức và hoạt động của thanh tra nhà nước cấp tỉnh hiện nay
để từ đó đề ra các giải pháp thích hợp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả của hoạt động
thanh tra nhà nước cấp tỉnh trong thời gian tới.
Xuất phát từ những lý do nêu trên em đã chọn đề tài: “Tổ chức và hoạt động thanh tra
nhà nước tỉnh Sơn La” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thứ nhất, về các đề tài nghiên cứu khoa học
- “Đổi mới hệ thống tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra trong cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa – Luận cứ khoa học phục vụ sửa đổi Luật thanh tra và hoàn thiện
pháp luật về thanh tra” đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, năm 2007 do đồng chí Trần Văn
Truyền – Tổng Thanh tra Chính phủ, làm Chủ nhiệm;
- “Cơ sở xác định trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp trong công tác
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng” đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Bộ, năm 2010 do đồng chí Nguyễn Tuấn Khanh - Trưởng phòng nghiên cứu và đào tạo, Viện
khoa học Thanh tra làm chủ nhiệm.
- “Một số giải pháp nhằm hạn chế trùng lắp, chồng chéo trong hoạt động thanh tra” đề
tài khoa học cấp cơ sở, do đồng chí Lê Đức Trung, Phó trưởng phòng Quản lý Khoa học, Viện
Khoa học Thanh tra làm chủ nhiệm.
Thứ hai, sách chuyên khảo
“Kỷ yếu khoa học thanh tra” từ tập 1 đến tập 8 của Viện Khoa học thanh tra phát hành
năm 2003; cuốn “Cơ chế giám sát, kiểm toán và thanh tra ở Việt Nam” do Viện Khoa học thanh
tra phối hợp với Nhà xuất bản Tư pháp phát hành năm 2004;
Thứ ba, các bài nghiên cứu đăng trên Báo, Tạp chí
- Trịnh Xuân Thiện: “Suy nghĩ về các nguyên tắc hoạt động thanh tra”, Tạp chí Thanh
tra, số 03/2005;
- Nguyễn Ngọc Tản: “Về công tác xây dựng thể chế của ngành Thanh tra”, Tạp chí
Thanh tra, số 01/2007;
- Nguyễn Thành Vinh: “Những bất cập trong các quy định của pháp luật về thanh tra”,
Tạp chí Thanh tra, số 11/2007;
Thứ tư, về các đề tài luận án, luận văn đã bảo vệ
Luận án tiến sỹ “Tổ chức và hoạt động của các tổ chức Thanh tra ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay – thực trạng và giải pháp„ của nghiên cứu sinh Trịnh Xuân Thiện.
Luận văn thạc sỹ “Nâng cao hiệu quả hoạt động của thanh tra chuyên ngành” của học
viên Nguyễn Thị Kim Ngọc; “Vai trò của thanh tra Nhà nước trong quản lý việc thực hiện dự án
ở nước ta hiện nay” của học viên Nguyễn Thanh Hải; “Đổi mới tổ chức và hoạt động của thanh
tra chuyên ngành giáo dục” của học viên Bùi Ngọc Âu….
Trên cơ sở kết quả các nghiên cứu trước đây và các quy định của pháp luật hiện hành, em
cho rằng việc chọn nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần làm phong phú và sâu sắc thêm những
luận cứ khoa học, cũng như cơ sở thực tiễn cho việc đổi mới tổ chức, hoạt động Thanh tra nhà
nước tỉnh mà nhu cầu khách quan cuộc sống đang đặt ra.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu với mục đích nhằm đảm bảo công tác thanh tra nhà nước cấp tỉnh nói
chung và Thanh tra nhà nước tỉnh Sơn La nói riêng có được một cơ sở lý luận vững chắc để
chuẩn hóa về tổ chức bộ máy và hoạt động thanh tra nhà nước cấp tỉnh. Phân tích thực trạng về
tổ chức và hoạt động của thanh tra nhà nước tỉnh Sơn La nhằm tìm ra những ưu điểm và hạn chế,
từ đó kiến nghị phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra hành
chính. Qua đó kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về thanh tra và các
văn bản hướng dẫn có liên quan để phù hợp với tình hình thực tế.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật nói chung và công tác thanh tra nói riêng.
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và một số phương pháp khác để làm sáng tỏ
bản chất của vấn đề.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của các tổ chức thanh tra nhà nước nói chung là vấn
đề rất rộng, phức tạp, có tầm bao quát lớn. Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu các vấn đề:
- Nghiên cứu và phân tích kỹ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về tổ
chức và hoạt động của thanh tra nhà nước cấp tỉnh.
- Nghiên cứu và phân tích thực trạng về tổ chức và hoạt động thanh tra nhà nước tỉnh Sơn
La, đưa ra nhận xét về những ưu điểm và hạn chế, những bất cập so với quy định hiện hành trên
cơ sở đó đề xuất các giải pháp phù hợp.
6. Tính mới của đề tài
Qua quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã xây dựng một cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn
cho việc kiện toàn và nâng cao tổ chức và hoạt động thanh tra nhà nước cấp tỉnh dựa trên sự
nghiên cứu và phân tích thực trạng về tổ chức và hoạt động thanh tra nhà nước tỉnh Sơn La.
Phát hiện những vấn đề khó khăn, vướng mắc, chồng chéo của hoạt động thanh tra nhà
nước cấp tỉnh, từ đó đề ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả công tác thanh tra.
Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật về thanh tra nhằm phù hợp với yêu
cầu thực tiễn, hình thành một mô hình thanh tra nhà nước cấp tỉnh đảm bảo về các mặt: Hoàn
thiện về bộ máy, hoạt động có hiệu quả, đảm bảo tốt về nguồn nhân lực và có thể nhân rộng sang
các tỉnh thành khác của cả nước.
7. Kết cấu đề tài
Gồm phần mở đầu, 3 chương, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THANH TRA NHÀ NƢỚC
1.1. Quan niệm về thanh tra
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm
1.1.1.1. Khái niệm
Khoản 1 Điều 3 Luật Thanh tra 2010 quy định: “Thanh tra Nhà nước là hoạt động xem
xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá
nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành”
1.1.1.2. Đặc điểm của thanh tra
Thứ nhất, thanh tra luôn gắn với quản lý nhà nước
Với tư cách là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, thanh tra gắn liền với hoạt
động quản lý nhà nước. Lênin đã viết: “Quản lý đồng thời phải có thanh tra, quản lý và thanh
tra là một chứ không phải là hai”. Như vậy, quản lý nhà nước và thanh tra có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Trong mối quan hệ này, quản lý nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động
của thanh tra. Tuy nhiên, xét về mặt cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh tra chỉ là phương
tiện, công cụ để quản lý nhà nước.
Thứ hai, thanh tra mang tính quyền lực nhà nước
Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra gắn bó chặt chẽ với tính quyền uy –
phục tùng, một đặc tính quan trọng của quản lý nhà nước. Tính quyền lực nhà nước của hoạt
động thanh tra được thể hiện ở những mặt: Ra các quyết định bắt buộc thực hiện đối với đối
tượng thanh tra về những vấn đề đã bị thanh; trong quá trình thanh tra, trực tiếp áp dụng các biện
pháp cưỡng chế nhà nước khi cần thiết; Yêu cầu cấp có thẩm quyền giải quyết đề nghị của thanh
tra; yêu cầu truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những người vi phạm pháp luật…
Thứ ba, thanh tra có tính khách quan
Tính khách quan của hoạt động thanh tra được biểu hiện ở chỗ mọi hoạt động thanh tra
đều dựa trên cơ sở pháp luật và phải tuân theo pháp luật. Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân
nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động thanh tra. Mọi nhận định, đánh giá trong quá
trình thanh tra và đưa ra kết luận thanh tra phải dựa trên chứng cứ có thật, sự kiện thực tế, không
bình luận chủ quan. Tính khách quan đảm bảo hoạt động thanh tra được minh bạch, khách quan,
công bằng.
Thứ tư, thanh tra có tính độc lập tương đối
Khác với hoạt động kiểm tra thường do bản thân các cơ quan quản lý nhà nước tự tiến
hành, hoạt động thanh tra thường được tiến hành bởi một cơ quan chuyên trách có nhiệm vụ,
quyền hạn do pháp luật quy định. Luật Thanh tra 2010 đã tập trung tăng cường các nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan thanh tra cũng như người đứng đầu các cơ quan này: Các cơ quan
thanh tra có quyền chủ động tiến hành thanh tra theo kế hoạch đã được phê duyệt; Thủ trưởng cơ
quan thanh tra tự quyết định thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật và chịu trách
nhiệm về quyết định của mình….
1.1.2. Vai trò của thanh tra
Thứ nhất, thanh tra là một trong những chức năng thiết yếu của hoạt động quản lý hành
chính nhà nước
Thứ hai, thanh tra là phương thức bảo đảm pháp chế, kỷ luật trong quản lý nhà nước
Thứ ba, thanh tra là phương thức bảo đảm việc thực hiện các quyền, tự do công dân
Thứ tư, thanh tra là một biện pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi vi
phạm pháp luật
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra nhà nƣớc
Luật thanh tra 2010 vẫn quy định rõ về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra nhà nước
như sau:
- Thực hiện và giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước về công
tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng;
- Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
thuộc quyền quản lý của các cơ quan nhà nước cùng cấp.
- Thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố
cáo.
- Thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng,
chống tham nhũng.
1.2. Tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nƣớc
1.2.1. Tổ chức của cơ quan thanh tra nhà nước
Theo Luật Thanh tra năm 2010, cơ quan thanh tra nhà nước bao gồm: Thanh tra Chính
phủ; Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ (gọi chung là Thanh tra bộ); Thanh tra tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (gọi chung là Thanh tra tỉnh); Thanh tra sở; Thanh tra huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Thanh tra huyện).
1.2.2. Hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nước
Hoạt động thanh tra là cách thức thể hiện vị trí, vai trò và chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan thanh tra nhà nước. Hoạt động thanh tra theo quy định của pháp luật bao gồm: xây dựng
chương trình, kế hoạch thanh tra; quyết định việc thanh tra; tiến hành thanh tra trên thực tế; báo
cáo kết quả thanh tra; kết luận thanh tra và xử lý kết luận thanh tra….
Hoạt động thanh tra được các cơ quan thanh tra nhà nước tiến hành trên cơ sở hoạt động
thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nước được thể hiện thông qua chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan thanh tra theo quy định của pháp luật.
1.2.2.1. Về chức năng
Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh, thanh tra huyện có chức năng quản lý nhà
nước về công tác thanh tra và thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi cả nước hoặc trong
phạm vi quản lý của uỷ ban nhân dân cùng cấp.
Thanh tra bộ, Thanh tra sở có chức năng thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi quản
lý nhà nước của cơ quan mình và quản lý công tác thanh tra đối với cơ quan thuộc quyền quản lý
trực tiếp của thủ trưởng cơ quan mình.
1.2.2.2. Về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra nhà nước
Thứ nhất, nhiệm vụ, quyền hạn về công tác thanh tra.
- Thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra:
+ Về công tác: Phải xây dựng chương trình kế hoạch thanh tra, hướng dẫn các cấp, các
ngành và chỉ đạo các tổ chức thanh tra cấp dưới thực hiện.
+ Về tổ chức: Xây dựng trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm
quyền các quy định về hệ thống tổ chức và chính sách, chế độ quản lý về tổ chức cán bộ. Quản lý
cán bộ theo thẩm quyền và việc tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ.
+ Về nhiệm vụ: Nghiên cứu lý luận công tác thanh tra, xây dựng và hướng dẫn việc thực
hiện các quy trình biểu mẫu, phương pháp tiến hành thanh tra, tổng kết kinh nghiệm hoạt động
thanh tra trong nước, nghiên cứu tham khảo kinh nghiệm thanh tra nước ngoài.
+ Tuyên truyền, hướng dẫn việc thực hiện pháp luật về thanh tra:
+ Kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các
quy định phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước.
- Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức và cá
nhân. Tổ chức thanh tra nào cũng có nhiệm vụ này nhưng nội dung, đối tượng, phạm vi lại khác
nhau.
Thứ hai, nhiệm vụ, quyền hạn về giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình thanh tra việc chấp hành pháp
luật về khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước; Tuyên truyền phổ biến pháp luật về khiếu
nại; Tổng kết kinh nghiệm về công tác giải quyết khiếu nại…
Cơ quan thanh tra nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong vấn đề tham mưu giúp
thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp trong việc giải quyết khiếu nại.
Thứ ba, nhiệm vụ, quyền hạn về phòng, chống tham nhũng
Các cơ quan thanh tra nhà nước đã tham mưu cho các cấp, các ngành triển khai và hoàn
thành việc kê khai minh bạch tài sản theo đúng quy định. Phối hợp với Ban chỉ đạo phòng, chống
tham nhũng, tham mưu cho cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp ban hành các kế hoạch thực hiện
chiến lược phòng chống tham nhũng và Chỉ thị về tăng cường công tác tự kiểm tra, phòng ngừa
sai phạm trong hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước; phối hợp với các ngành chức
năng tiến hành thanh tra việc thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng; tổng hợp báo cáo
định kỳ, đột xuất kết quả công tác phòng, chống tham nhũng đảm bảo thời gian, nội dung theo
yêu cầu.
1.3. Mối quan hệ giữa tổ chức thanh tra với các cơ quan, tổ chức khác
1.3.1. Quan hệ giữa tổ chức thanh tra với thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp
1.3.2. Quan hệ giữa các tổ chức thanh tra trong hệ thống thanh tra nhà nước
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
THANH TRA NHÀ NƢỚC TỈNH SƠN LA
2.1. Những yếu tố tác động đến tổ chức và hoạt động thanh tra nhà nƣớc tỉnh Sơn
La
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý: Sơn La là một tỉnh miền núi Tây Bắc Việt nam, có diện tích tự nhiên
14.125 km
2
chiếm 4,27% tổng diện tích cả nước, đứng thứ 3 trong số 64 tỉnh thành phố trong cả
nước. Sơn La có 11 đơn vị hành chính (01 thành phố, 10 huyện) với 12 dân tộc.
- Về tài nguyên thiên nhiên: Sơn La là một trong những tỉnh có diện tích rừng và đất có
khả năng phát triển lâm nghiệp khá lớn (chiếm 73% diện tích tự nhiên), đất đai phù hợp với
nhiều loại cây, có điều kiện xây dựng hệ thống rừng phòng hộ và tạo các vùng rừng kinh tế hàng
hoá có giá trị cao.
2.1.2. Về tình hình kinh tế - xã hội
Trong những năm gần đây, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, quá trình triển khai thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh còn chịu tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố
bất lợi như: khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, tình trạng suy giảm kinh tế
trong nước, thiên tai, dịch bệnh Nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cấp ủy
Đảng, chính quyền, sự cố gắng nỗ lực phấn đấu của nhân dân các dân tộc, chiến sỹ các lực lượng
vũ trang, các cấp, các ngành trong tỉnh, cùng với sự giúp đỡ kịp thời, có hiệu qủa của Trung
ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương và các tỉnh bạn, tỉnh Sơn La đã
khắc phục khó khăn, vươn lên đạt được những kết quả quan trọng.
2.1.3. Sự tác động của nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường đã đem đến những thuận lợi và bước phát triển mạnh mẽ cho nền
kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những mặt trái nhất định, cụ thể:
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường đã làm phát sinh nhiều mối quan hệ phức tạp, đan xen
lẫn nhau mà hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách hiện hành chưa điều chỉnh hết.
Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường song song với việc phát triển mạnh mẽ về mặt kinh
tế, đó là sự gia tăng những hành vi vi phạm pháp luật như tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế, sản
xuất hàng giả, hàng kém chất lượng…
Thứ ba, nền kinh tế thị trường chỉ có thể xây dựng thành công và phát triển vững chắc
nếu có bộ máy nhà nước trong sạch, gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả cao.
2.2. Thực trạng tổ chức thanh tra nhà nƣớc tỉnh Sơn La
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển
Ban Thanh tra tỉnh Sơn La (tiền thân của cơ quan Thanh tra tỉnh Sơn La ngày nay) được
thành lập năm 1963, ngay sau khi Khu Tây Bắc chia tách tỉnh.
- Giai đoạn (1963 - 1965) có tên gọi là Ban thanh tra tỉnh Sơn La.
- Giai đoạn (Từ giữa năm 1965 - tháng 10/1970) Ban Thanh tra tỉnh Sơn La giải thể.
- Giai đoạn (11/1970 -1984) có tên gọi là Ủy ban Thanh tra tỉnh Sơn La.
- Giai đoạn (1984 – 4/1990) với tên gọi Uỷ ban Thanh tra nhà nước tỉnh Sơn La.
- Giai đoạn (từ 4/1990 đến nay) với tên gọi là Thanh tra tỉnh Sơn La.
2.2.2. Về cơ cấu tổ chức
Hiện nay, Thanh tra tỉnh Sơn La được sắp xếp gồm 06 phòng theo Quyết định số
35/2009/QĐ-UBND ngày 21 tháng 09 năm 2009 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La về việc quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Thanh tra tỉnh Sơn La. Gồm:
a. Phòng theo dõi công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo (Phòng nghiệp vụ I):
b. Phòng Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo khối ngành kinh tế tổng hợp và phụ
trách địa bàn (Phòng nghiệp vụ II):
c. Phòng Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo khối ngành kinh tế và phụ trách địa bàn
(Phòng nghiệp vụ III):
d. Phòng Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo khối nội chính văn xã và phụ trách địa
bàn (Phòng nghiệp vụ IV):
đ. Phòng nghiệp vụ, phòng, chống tham nhũng (Phòng nghiệp vụ V):
e. Văn phòng tổng hợp:
2.2.3. Cơ cấu về nhân sự
2.2.3.1. Lãnh đạo Thanh tra tỉnh
Thanh tra tỉnh Sơn La có Chánh Thanh tra và 03 Phó Chánh Thanh tra.
Chánh Thanh tra tỉnh là người đứng đầu cơ quan Thanh tra tỉnh, do Chủ tịch ủy ban nhân
dân cùng cấp bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Tổng Thanh tra Chính
phủ.
Các Phó Chánh Thanh tra tỉnh cùng với Chánh Thanh tra chịu trách nhiệm về toàn bộ
công việc và hoạt động của Thanh tra tỉnh, đồng thời chịu trách nhiệm trực tiếp về những công
việc được phân công.
2.2.3.2. Cán bộ, công chức và Thanh tra viên
Biên chế của Thanh tra tỉnh Sơn La tính đến ngày 31/12/2011, tổng số 40 cán bộ, công
chức.
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ do pháp luật quy định, cán bộ, công chức được phân
bổ vào các phòng như sau:
Văn phòng tổng hợp: 08 cán bộ, công chức.
Phòng nghiệp vụ I: 05 cán bộ, công chức.
Phòng nghiệp vụ II: 06 cán bộ, công chức.
Phòng nghiệp vụ III: 06 cán bộ, công chức.
Phòng nghiệp vụ IV: 07 cán bộ, công chức.
Phòng nghiệp vụ V: 04 cán bộ, công chức.
2.2.4. Nhận xét chung
Qua tìm hiểu về tổ chức thanh tra nhà nước tỉnh Sơn La có thể rút ra một số nhận xét như
sau:
a. Về ưu điểm
Việc sắp xếp, tổ chức bộ máy và nhân sự các phòng của Thanh tra tỉnh hiện nay nhìn
chung phù hợp với quy định của pháp luật. Với mô hình cơ cấu tổ chức này, các phòng chuyên
môn nghiệp vụ được thành lập đã bao quát hết các lĩnh vực, các mặt công tác của Thanh tra tỉnh.
Việc tổ chức cán bộ, sắp xếp bộ máy đã kết hợp hài hòa giữa con người với nhiệm vụ cụ
thể và công việc chuyên môn mà Thanh tra tỉnh phải thực hiện.
b. Về hạn chế
Thứ nhất, do biên chế của Thanh tra tỉnh có hạn nên một số phòng nghiệp vụ phải thực
hiện nhiệm vụ như một cơ quan Thanh tra cấp tỉnh thu nhỏ (như phòng nghiệp vụ II, III, IV). Với
khối lượng công việc rất lớn, đòi hỏi mỗi phòng phải có một đội ngũ cán bộ, công chức thông
thạo nhiều lĩnh vực, tuy nhiên trên thực tế chất lượng, cũng như con người đôi khi chưa đáp ứng
được các đòi hỏi của công việc.
Thứ hai, các Phó Chánh Thanh tra giúp việc cho Chánh Thanh tra hiện nay nếu phân
công phụ trách một vài phòng nghiệp vụ thì không thể nắm hết tình hình của tất cả các lĩnh vực
trên địa bàn toàn tỉnh.
Thứ ba, hiện nay biên chế Thanh tra tỉnh ít, phụ thuộc vào biên chế chung của toàn tỉnh
và số lượng thanh tra viên hạn chế nên rất khó hoàn thành khối lượng lớn công việc mà thanh tra
tỉnh phải đảm nhiệm. Việc tuyển dụng, bổ nhiệm thanh tra viên hiện nay chủ yếu chỉ căn cứ vào
các quy định về văn bằng, chứng chỉ, ít chú ý đến những đòi hỏi năng lực về thực tiễn để xây
dựng, củng cố đội ngũ cán bộ thanh tra đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; công tác đào tạo, bồi
dưỡng cho đội ngũ cán bộ, thanh tra viên chưa được chú trọng đúng mức.
2.3. Thực trạng về hoạt động thanh tra nhà nƣớc tỉnh Sơn La
2.3.1. Về công tác thanh tra
2.3.1.1. Trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thanh tra
Hàng năm thanh tra tỉnh đã chủ động xây dựng kế hoạch thanh tra trình Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh phê duyệt và tổ chức thực hiện kế hoạch đó; Yêu cầu cơ quan chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện báo cáo về công tác thanh tra; tổng
hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra; Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận,
kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Thanh tra tỉnh.
2.3.1.2. Về hoạt động thanh tra kinh tế - xã hội
Căn cứ vào chương trình, kế hoạch đã được phê duyệt và theo sự chỉ đạo của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân tỉnh, hàng năm Thanh tra tỉnh đã tiến hành nhiều cuộc thanh tra tập trung vào
các lĩnh vực: quản lý đầu tư xây dựng; quản lý tài chính ngân sách; thanh tra việc thực hiện
chính sách xã hội; thanh tra lĩnh vực quản lý, sử dụng tài nguyên; thanh tra chuyên đề cổ phần
hoá doanh nghiệp Nhà nước; thực hiện chính sách đền bù giải phóng mặt bằng, chính sách di
dân tái định cư Thuỷ điện Sơn La; thanh tra trách nhiệm thi hành công vụ của Chủ tịch UBND
một số huyện… Qua thanh tra, đã phát hiện, xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xử lý nhiều sai phạm, thu hồi tiền, tài sản cho Nhà nước và tập thể, cá nhân;
đồng thời kiến nghị với cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung nhiều cơ chế, chính sách, pháp luật
nhằm khắc phục những khuyết điểm, sơ hở trong công tác quản lý, góp phần phát triển kinh tế
và tăng cường trật tự, kỷ cương xã hội.
Nhận xét tổng quát:
- Về ưu điểm:
Nhìn chung thanh tra tỉnh đã chủ động nỗ lực, cố gắng, tổ chức triển khai chương trình
công tác thanh tra đã được phê duyệt, thực hiện có kết quả các cuộc thanh tra kinh tế - xã hội,
giải quyết kịp thời nhiều vụ việc đột xuất do cấp trên giao.
Kết quả công tác thanh tra đạt được tương đối toàn diện trên các lĩnh vực, tập trung vào
những lĩnh vực nổi cộm, dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.
Công tác xử lý sau thanh tra tiếp tục được quan tâm, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận
thức của đối tượng được thanh tra trong thực hiện các kết luận thanh tra;
- Về hạn chế:
Thứ nhất, thấy rõ sự phụ thuộc quá lớn của thanh tra nhà nước tỉnh Sơn La vào cơ quan
quản lý nhà nước cùng cấp cả về về tổ chức, nhân sự, kinh phí, trong việc xây dựng chương
trình, kế hoạch thanh tra, trong quá trình tiến hành thanh tra cũng như giai đoạn kết thúc, kết luận
và kiến nghị xử lý.
Thứ hai, thời hạn các cuộc thanh tra thường kéo dài, vi phạm thời gian theo quy định của
pháp luật, không đáp ứng được yêu cầu khẩn trương, kịp thời của công tác quản lý nhà nước.
Thứ ba, việc xây dựng báo cáo kết quả thanh tra và ban hành kết luận thanh tra:
Thứ tư, các Kết luận thanh tra, mặc dù Luật quy định thuộc quyền hạn của người ra quyết
định thanh tra, nhưng trên thực tế vẫn phải chờ xin ý kiến của cấp trên vì thường liên quan đến
trách nhiệm quản lý của các cán bộ chủ chốt.
Thứ năm, thanh tra tỉnh chưa chủ động trong việc tiến hành thanh tra.
Thứ sáu, hoạt động thanh tra vẫn còn sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa Thanh
tra Bộ, Thanh tra tỉnh với Thanh tra sở, ngành.
Những bất cập trong hoạt động thanh tra nhà nước tỉnh hiện nay do nhiều nguyên nhân,
tập trung vào một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Đội ngũ làm công tác thanh tra chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và trình độ,
năng lực, bản lĩnh, trong đó vẫn còn một bộ phận suy giảm, tha hóa phẩm chất đạo đức.
- Hệ thống các văn bản pháp luật về thanh tra còn chưa thực sự hoàn chỉnh, nhiều điểm
còn bộc lộ bất hợp lý, lỗi thời, không phù hợp với tình hình và yêu cầu của thực tiễn.
- Quyền hạn và hiệu lực thanh tra còn hạn chế.
- Hoạt động thanh tra dựa trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất của quyền lực nhà nước từ
Trung ương đến địa phương nhưng do sự phân tán của nền hành chính nên các tổ chức thanh tra
nhà nước ở các cấp, các ngành gần như lệ thuộc hoàn toàn vào cơ quan quản lý nhà nước cùng
cấp, trong khi sự chỉ đạo của cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên có phần trở thành hình thức,
kém hiệu quả.
2.3.2. Về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
* Về tình hình khiếu nại, tố cáo:
Hàng năm, các cơ quan Thanh tra nhà nước tỉnh Sơn La đã tiếp nhận và giải quyết một số
lượng lớn đơn khiếu nại, tố cáo do các cơ quan, tổ chức, cá nhân gửi đến. Nhiều vụ việc phức
tạp, tồn đọng lâu ngày đã được giải quyết dứt điểm.
Tuy nhiên, những năm gần đây công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn còn nhiều hạn
chế, bất cập. Nhiều nơi số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo gia tăng, thậm chí có nơi tình hình
khiếu nại, tố cáo diễn biến hết sức phức tạp, nảy sinh nhiều vụ việc khiếu nại đông người. Nội
dung khiếu nại liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đó các khiếu nại liên quan đến tranh chấp đất
đai, đền bù giải phóng mặt bằng là lĩnh vực có những vụ việc với nhiều nội dung phức tạp.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do:
- Về phía cơ quan nhà nước
+ Công tác thanh tra, kiểm tra chưa được tiến hành thường xuyên nên không kịp thời phát
hiện được các hành vi vi phạm.
+ Một số nơi chính quyền cơ sở chưa quan tâm đúng mức tới công tác giải quyết KNTC.
+ Thiếu biện pháp hữu hiệu để kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nghiêm túc các quy định
giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo đã có hiệu lực pháp luật, dẫn đến một số quyết định
giải quyết không được thực hiện nghiêm túc.
+ Công tác hoà giải các mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân và giải quyết khiếu
kiện ngay tại cơ sở còn yếu.
- Về trách nhiệm của các tổ chức thanh tra
+ Việc tham mưu giúp Thủ trưởng cùng cấp trong việc tổ chức tiếp công dân và giải
quyết KNTC còn thiếu kịp thời, việc phân loại, xử lý đơn thư còn lúng túng, chưa xác định đúng
thẩm quyền giải quyết.
+ Việc phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc tổ chức tuyên truyền giáo dục, phổ
biến, pháp luật về KNTC tới sâu rộng các tầng lớp nhân dân còn chưa thường xuyên.
- Về phía người khiếu nại, tố cáo
+ Nhận thức pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hạn chế, sự am hiểu về chế độ
chính sách của Nhà nước chưa đầy đủ,
+ Không ít trường hợp công dân lợi dụng quyền KNTC để khiếu nại, tố cáo sai sự thật,
hoặc KNTC vì mâu thuẫn cá nhân, viết đơn nặc danh, mạo danh người khác, lấy danh nghĩa là
tập thể, không ghi tên và địa chỉ rõ ràng. Vẫn còn tình trạng đơn KNTC có cùng một nội dung, in
sao gửi nhiều nơi, nhiều cấp.
- Về chính sách, pháp luật
+ Chính sách, pháp luật trong một số lĩnh vực chưa đầy đủ.
+ Cơ chế giải quyết khiếu nại hiện nay còn phức tạp, thời hiệu khiếu nại, thời hạn giải
quyết khiếu nại không phù hợp với thực tiễn, không ít quyết định giải quyết khiếu nại thiếu
khách quan.
+ Chính sách, pháp luật về đất đai thường xuyên thay đổi.
+ Cơ chế, chính sách, pháp luật trong lĩnh vực thu hồi, đền bù, giải phóng mặt bằng có
nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tế, chưa đảm bảo được cuộc sống ổn định của người nông
dân có đất bị thu hồi.
* Việc thực hiện các quy định về tổ chức tiếp công dân
2.3.3. Về hoạt động phòng, chống tham nhũng
Hoạt động phòng, chống tham nhũng của cơ quan thanh tra nhà nước tỉnh Sơn La
trong thời gian vừa qua đã đạt được một số thành tựu: Thanh tra tỉnh đã hướng việc xây dựng
chương trình, kế hoạch thanh tra vào những lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm, dễ nảy sinh tiêu
cực tham nhũng. Vì vậy, qua thanh tra đã phát hiện và xử lý nhiều vụ việc tiêu cực, tham
nhũng, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng nói chung.
Hạn chế: Theo quy định của pháp luật cơ quan thanh tra không được quyền áp dụng một
số biện pháp đặc biệt: Điều tra bí mật, trinh sát… trong khi đó, chủ thể tham nhũng lại là người
có chức vụ, quyền hạn và có nhiều thủ đoạn tham ô, hối lộ tinh vi cho nên rất khó khăn trong
việc phát hiện và làm rõ các hành vi tham nhũng. Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan có thẩm
quyền trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng còn hạn chế.
Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA NHÀ NƢỚC TỈNH SƠN LA
3.1. Quan điểm đổi mới
Quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh tra nhà nước tỉnh Sơn La cần bám sát
những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo, xác định rõ lộ trình, bước đi thích hợp với những định
hướng cơ bản sau đây:
3.1.1. Dựa trên quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân
3.1.2. Đặt trong tổng thể quá trình cải cách hành chính và hiện đại hóa nền hành
chính
3.1.3. Phải có những bước đi và giải pháp thích hợp theo quan điểm của Đảng đã đề
ra
3.1.4. Đáp ứng nhu cầu mở cửa, hội nhập quốc tế
3.2. Một số giải pháp cụ thể
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về thanh tra
Thứ nhất, cần phải tăng thẩm quyền cho cơ quan thanh tra nhà nước cấp tỉnh theo hướng
tăng cường tính độc lập, tuân theo pháp luật trong hoạt động thanh tra hiện nay.
Thứ hai, nên giao quyền phê duyệt kế hoạch, chương trình thanh tra hàng năm cho Chánh
thanh tra cấp tỉnh sau khi đã báo cáo thống nhất định hướng với Chủ tịch UBND cấp tỉnh.
Thứ ba, nên quy định tăng thêm thời gian xây dựng báo cáo kết quả thanh tra và thời gian
kết luận thanh tra.
Thứ tư, cần phải tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan thanh tra nhà nước với các cơ
quan có có chức năng kiểm tra, giám sát, điều tra khác:
3.2.2. Kiện toàn tổ chức Thanh tra nhà nước tỉnh một cách hợp lý phù hợp với yêu cầu
cải hành chính nhà nước và thực tế ở địa phương
Thứ nhất, gộp 02 Phòng: Phòng Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo khối ngành kinh tế
tổng hợp và phụ trách địa bàn (Phòng nghiệp vụ II) với Phòng Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo khối ngành kinh tế và phụ trách địa bàn (Phòng nghiệp vụ III) và đổi tên thành Phòng Thanh
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo khối kinh tế và phụ trách địa bàn.
Thứ hai, thành lập thêm Phòng Đôn đốc xử lý sau thanh tra và giải quyết khiếu nại, tốc
cáo
Thứ ba, Thanh tra tỉnh cần phối hợp với Sở Nội vụ xây dựng đề án thành lập Trung tâm
thông tin, tư liệu Thanh tra tỉnh Sơn La.
3.2.3. Đổi mới việc tuyển dụng, sử dụng và phát triển đội ngũ cán bộ, thanh tra viên
vững vàng trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ
Để đáp ứng các yêu cầu của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, Thanh tra viên cần
phải:
Thứ nhất, tăng cường số cán bộ làm công tác thanh tra cả về số lượng và chất lượng.
Thứ hai, thường xuyên có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thanh tra dưới nhiều hình
thức khác nhau.
Thứ ba, tăng cường kiểm tra giám sát cán bộ làm thanh tra và các đoàn thanh tra, xử lý
nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật của các cán bộ thanh tra trong quá trình thực thi
công vụ.
3.2.4. Đổi mới hoạt động thanh tra
Tập trung mạnh vào việc thực hiện chức năng giám sát hành chính, thanh tra, kiểm tra
trách nhiệm của Giám đốc Sở, Chủ tịch UBND các huyện trong việc thực hiện pháp luật về
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.
Tiến hành thanh tra cần có trọng tâm, trọng điểm, nhanh gọn, chính xác, tập trung vào
những vấn đề nổi cộm, bức xúc được dư luận xã hội quan tâm.
Trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo cần tăng cường đối thoại với nhân dân, lắng
nghe các kiến nghị, phản ánh của công dân.
Cần tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện kết luận, kiến nghị sau
thanh tra.
3.2.5. Ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào hoạt động thanh tra
Trong tiến trình đổi mới hoạt động Thanh tra nhà nước tỉnh Sơn La không thể không đề
cập tới vấn đề ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào hoạt động thanh tra.
KẾT LUẬN
Để đáp ứng các yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, vấn đề được đặt lên hàng
đầu là phải cải cách nền hành chính Nhà nước. Cải cách nền hành chính Nhà nước trước hết là
quản trị tốt nền hành chính, làm cho nền hành chính có năng lực, hiệu lực, hiệu quả, nhằm tác
động trực tiếp vào các quá trình xã hội. Trong sự tác động này, hoạt động thanh tra giữ vai trò
hết sức quan trọng. Do đó, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước
nói chung và thanh tra nhà nước tỉnh Sơn La nói riêng là một đòi hỏi khách quan.
Với đề tài “Tổ chức và hoạt động thanh tra nhà nước tỉnh Sơn La” tác giả đã giải
quyết cơ bản mục đích, yêu cầu đặt ra của đề tài, hình thành cơ sở lý luận cho việc đổi mới tổ
chức và hoạt động thanh tra nhà nước tỉnh Sơn La.
Qua việc khảo sát, phân tích, đánh giá tình hình thực trạng về tổ chức và hoạt động thanh
tra nhà nước tỉnh Sơn La, có thể thấy bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn tồn tại
những hạn chế, bất cập: cơ cấu tổ chức chưa hợp lý; số lượng thanh tra viên còn mỏng, trình độ
chuyên môn còn hạn chế; sự can thiệp quá sâu của thủ trưởng cơ quan quản lý vào tổ chức và
hoạt động của cơ quan thanh tra đã làm giảm tính chủ động, tính độc lập cần thiết của cơ quan
thanh tra. Trong khi đó, pháp luật còn thiếu các quy định bảo đảm tính độc lập cho hoạt động
thanh tra, nhất là hoạt động tác nghiệp của đoàn thanh tra, thanh tra viên. Xuất phát từ thực tiễn
nêu trên, tác giả đã đề xuất một số giải giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra
nhà nước tỉnh Sơn La:
Thứ nhất, kiện toàn tổ chức Thanh tra nhà nước tỉnh một cách hợp lý phù hợp với yêu
cầu cải hành chính nhà nước và thực tế ở địa phương;
Thứ hai, đổi mới việc tuyển dụng, sử dụng và phát triển đội ngũ cán bộ, thanh tra viên
vững vàng trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ;
Thứ ba, giải pháp về nâng cao hoạt động thanh tra;
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về thanh tra;
Thứ năm, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào hoạt động thanh tra;
Việc đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra nhà nước tỉnh Sơn La phải gắn liền với việc
đổi mới tổ chức và hoạt động của toàn ngành thanh tra cũng như phải đặt trong tổng thể quá trình
cải cách hành chính đang được thực hiện tại tỉnh Sơn La trên cơ sở học tập, kế thừa những yếu tố
hợp lý, những kinh nghiệm hay về mô hình tổ chức và hoạt động thanh tra của một số tỉnh trong
cả nước.
References
I. Văn kiện của Đảng (xếp theo thứ tự tên văn bản)
1. Nghị quyết số 48/2005/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020.
II. Văn bản pháp luật (xếp theo thứ tự tên văn bản)
2. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam năm 1945
3. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam năm 1959
4. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam năm 1980
5. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001)
6. Luật Thanh tra năm 2004
7. Luật Thanh tra năm 2010
8. Luật khiếu nại, tố cáo 1998, sửa đổi, bổ sung 2005
9. Luật phòng, chống tham nhũng 2005
10. Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09 tháng 02 năm 2012 của Chính phủ quy định
về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra
chuyên ngành
11. Nghị định số 97/2011/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2011 của Chính phủ quy định
về thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra
12. Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2011 của Chính phủ quy định
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra
13. Pháp lệnh thanh tra năm 1990
14. Quyết định số 1131/2008/QĐ-TTCP ngày 18 tháng 6 năm 2008 của Thanh tra Chính
phủ về ban hành mẫu văn bản trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
15. Quyết định số 35/2009/QĐ-UBND ngày 21 tháng 09 năm 2009 của Uỷ ban nhân
dân tỉnh Sơn La về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức
của Thanh tra tỉnh Sơn La
16. Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh
17. Thông tư liên tịch số 475/2009/TTLT-TTCP-BNV về việc hướng dẫn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
18. Thông tư số 1680/2009/TT-TTCP ngày 17/07/2009 của Thanh tra Chính phủ về danh
mục các vị trí công tác thanh tra phải chuyển đổi trong cơ quan Thanh tra nhà nước
III. Sách, báo, từ điển tham khảo (xếp theo thứ tự tên văn bản và tên tác giả)
19. Báo cáo số 184/BC-UBND ngày 19 tháng 10 năm 2009 của Uỷ ban nhân dân tỉnh
Sơn La về tổng kết việc thi hành Luật Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực hành chính từ
ngày 01/01/2005 đến 30/6/2009.
20. Báo cáo số 242/BC-UBND ngày 12 tháng 11 năm 2010 của Uỷ ban nhân dân tỉnh
Sơn La về kết quả công tác phòng, chống tham nhũng năm 2010; phương hướng,
nhiệm vụ năm 2011.
21. Bùi Nguyên Suý - Vụ trưởng Vụ Tiếp dân và Xử lý đơn (2004), “Phẩm chất và
trình độ cần phải có của người cán bộ thanh tra trong giai đoạn công nghiệp hóa,
hiện đại hoá”, Tạp chí Thanh tra, số 12/2004.
22. Kiều Kông – Nguyên Phó Chánh Thanh tra tỉnh Bình Dương (2006), “Lại bàn về
mối quan hệ giữa Báo cáo kết quả thanh tra và Kết luận thanh tra”, Tạp chí Thanh
tra, số 10/2006.
23. Nhà xuất bản Khoa học xã hội (1994), Từ điển pháp luật Anh – Việt, Hà Nội.
24. Nhà xuất bản Khoa học xã hội (1994), Từ điển tiếng Việt, Hà Nội, tr 882
25. Nhà xuất bản pháp lý (1986), Thuật ngữ pháp lý phổ thông, Hà Nội.
26. Nhà xuất bản Sự thật (1959), Sửa đổi lề lối làm việc, Hà Nội.
27. Nhà xuất bản Tiến bộ Matxcơva, V.I Lênin (1978), Lênin toàn tập, tập 31, tr.34.
28. Nhà xuất bản chính trị Berlin, V.I Lênin (1971), Lênin toàn tập, tr.25, tr.352.
29. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật (2011), Giáo trình Thanh tra và giải quyết khiếu
nại hành chính, Khoa Nhà nước và pháp luật - Học viện hành chính.
30. Nhà xuất bản công an nhân dân (2010), Giáo trình Thanh tra và giải quyết khiếu nại,
tố cáo, Trường Đại học luật Hà Nội.
31. Nguyễn Đình Bính - Vụ Pháp chế Thanh tra Chính phủ (2007), “Một số vấn đề hoàn
thiện hệ thống pháp luật về thanh tra”, Tạp chí Thanh tra số, số 01/2007.
32. TS. Phạm Tuấn Khải (1998), "Những vấn đề pháp lý cơ bản của việc đổi mới tổ
chức và hoạt động của Thanh tra nhà nước Việt Nam", Nxb Công an nhân dân 1998.
33. Thanh tra Chính phủ, Viện Khoa học thanh tra (2007), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác thanh tra”, Thông tin khoa học thanh tra và chống tham nhũng, số 10 tháng
1/2007.
34. Thanh tra Chính phủ, Viện Khoa học thanh tra (2009), “Thực trạng thanh tra kinh tế
- xã hội của Thanh tra Chính phủ trong thời gian qua”, Thông tin khoa học thanh tra
và chống tham nhũng, số 36 tháng 7/2009
35. Thanh tra tỉnh (2006), Báo cáo kết quả công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố
cáo năm 2006;phương hướng, nhiệm vụ năm 2007
36. Thanh tra tỉnh (2007), Báo cáo kết quả công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố
cáo năm 2007;phương hướng, nhiệm vụ năm 2008
37. Thanh tra tỉnh (2008), Báo cáo kết quả công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố
cáo năm 2008;phương hướng, nhiệm vụ năm 2009
38. Thanh tra tỉnh (2009), Báo cáo kết quả công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố
cáo năm 2009;phương hướng, nhiệm vụ năm 2010
39. Thanh tra tỉnh (2010), Báo cáo kết quả công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố
cáo năm 2010; phương hướng, nhiệm vụ năm 2011
40. Thanh tra tỉnh (2011), Báo cáo kết quả công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố
cáo năm 2011; phương hướng, nhiệm vụ năm 2012
41. Viện ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng Việt
42. Việt Nam Sử lược - Trần Trọng Kim
43. Vũ Văn Chiến (2008), “Hoạt động thanh tra hành chính - Thực trạng và giải pháp”,
Tạp chí Thanh tra, số 03,04/2008.