Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Tài liệu LUẬN VĂN:Bản chất, cơ chế hoạt động của Nhà nước tư bản hiện pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.45 KB, 12 trang )









LUẬN VĂN:

Bản chất, cơ chế hoạt động của Nhà
nước tư bản hiện đại






Lời mở đầu
Nền kinh tế ở các nước tư bản chủ nghĩa từ sau chiến tranh thế giới thứ II (1951-1971)
có nhiều biến đổi so với trước chiến tranh một trong những nhân tố quan trọng gây nên
những biến đổi đó là sự điều chỉnh kinh tế của Nhà nước. Nhờ điều chỉnh kinh tế của Nhà
nước chủ nghĩa tư bản đã vượt qua được nguy cơ sụp đổ, góp phần tạo ra mấy thập kỉ tăng
trưởng kinh tế mạnh mẽ nhất là sau chiến tranh thế giới thứ II (1951-1970). Vậy nhờ đâu mà
Nhà nước tư bản có vai trò kinh tế đó? Nó được tổ chức như thế nào và thể hiện vào đời
sống kinh tế xã hội ra sao? Những kinh nghiệm điều chỉnh kinh tế nào của Nhà nước tư bản
hiện đại có lợi ích đối với nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam? Đó là những vấn đề không chỉ quan tâm trong giới lí
luận mà cả trong chính giới hiện nay.
Giải đáp những vấn đề trên sẽ giúp chúng ta hiểu sâu thêm bản chất của chủ nghĩa tư
bản hiện đại và ở những mức độ nhất định nó cũng giúp cho công tác quản lý thực tiễn nền


kinh tế của chúng ta.
Từ lâu, đặc biệt từ những năm 30 vai trò kinh tế của Nhà nước tư bản đã được nhiều
nhà khoa học lớn của giới lí luận tư sản nghiên cứu và xây dựng thành các phái lí luận
như: phái trọng cầu, trọng tiền, trọng cung, kì vọng hợp lí, do J.Keynes, M.Friedenan,
Laffer, Thomas Sargent, William, đại diện. Về điều chỉnh kinh tế của Nhà nước tư bản
hiện đại cũng được nghiên cứu trên nhiều khía cạnh đặc biệt là trong giới lí luận Xô Viết
cũ.
ở Việt Nam, đề tài này cũng được đề cập trên những góc độ khác nhau của một số
nghiên cứu. Song đây vốn là vấn đề chỉ được giải quyết thoả đáng tương xứng với vị trí
của nó trong hệ thống lí luận về chủ nghĩa tư bản hiện đại ở nước ta.
Công trình này nhằm giới thiệu với bạn đọc một bức tranh toàn cảnh hơn, cố gắng làm
rõ bản chất, cơ chế hoạt động của Nhà nước tư bản hiện đại trên cơ sở thực tiễn hoạt động của
ba trung tâm kinh tế tư bản ngày nay là Nhật, Mỹ, Au.


A-/ Điều chỉnh kinh tế của nhà nước
ở các nước tư bản phát triển
I-/ Nhà nước điều chỉnh sự vận động của nền kinh tế là đòi hỏi khách quan trong giai
đoạn hiện đại của chủ nghĩa tư bản:
1-/ Một số tư tưởng kinh tế cơ bản về tính khách quan và vai trò điều chỉnh kinh tế
của Nhà nước tư bản hiện đại:
Do những đòi hỏi chính trị cấp bách cũng như do sự phát triển của sức sản xuất chưa
đặt ra, nên trong những trước tác phẩm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin,
người ta chỉ tìm thấy sự nhấn mạnh Nhà nước như một công cụ bóc lột giai cấp bị thống trị
song không phải vì thế mà vai trò kinh tế của Nhà nước tư bản không được đề cập đến
hoặc bị xem nhẹ trong lí luận của Maxit. Khi phân tích vai trò kinh tế của Nhà nước
F.Enggheng viết: “ xã hội đẻ ra những chức năng chung nhất định mà thiếu chúng thì
không thể được. Những người được chỉ định để thực hiện chức năng đó đã tạo ra trong
lòng xã hội một lĩnh vực phân công lao động mới đồng thời họ cũng là lợi ích đặc biệt
trong mối quan hệ với những người giao trách nhiệm cho họ và trở nên độc lập hơn trong

quan hệ đối với những người đó”.
Quan phân tích của Angghen ta có thể rút ra những tư tưởng sau:
Một là, Nhà nước sinh ra nhằm thực hiện những chức năng xã hội chung nhưng khi
tồn tại là một lực lượng chính trị mới, nó không chỉ có được lợi ích đặc biệt mà còn có tính
độc lập tương đối trong quan hệ với các lực lượng xã hội, người đã giao phó trách nhiệm
cho nó.
Hai là, nhờ tính độc lập tương đối này mà Nhà nước có khả năng tác động trở lại quá
trình sản xuất xã hội. Đây không phải là sự tác động một chiều mà là sự tác động qua lại,
một bên là lực lượng chính trị chủ động, đại diện cho xã hội và bên kia là các quá trình
kinh tế khách quan.
Nhà nước sinh ra nhằm thực hiện những chức năng xã hội chung, thì một trong
những chức năng là làm “một nhạc trưởng” đứng ra điều hành phối hợp không phải một
khâu, một quá trình sản xuất đơn lẻ mà là cả quá trình sản xuất xã hội. Nhà nước muốn tác


động vào sự vận động của nền kinh tế một cách có hiệu quả, đặc biệt khi các điều kiện tái
sản xuất xã hội đang xấu đi thì Chính phủ phải hoạch định các chính sách của mình nhằm
vào giải quyết các mục tiêu kinh tế, xã hội dài hạn mà đối tượng thuộc về phía cung trên
thị trường. Nếu Nhà nước chỉ tác động vào một vài nhân tố có tính cục bộ nhất thời thì
không mang lại hiệu quả mong muốn. Do vậy muốn cho nền kinh tế phát triển ổn định
phải tác động vào các nhân tố mang lại hiệu quả lâu dài mà phần lớn nhân tố đó thuộc về
yếu tố cung. Có ba yếu tố cơ bản tạo ra sự tăng trưởng ổn định lâu dài: lao động, nguồn
vốn và tiến bộ khoa học - kỹ thuật.
Theo các trường phái lí thuyết sau Keynes về việc Nhà nước phải can thiệp sâu vào
quá trình vận động của nền kinh tế. Song M.Friedina cho rằng “Sự vận động của nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa có mối quan hệ tương hỗ với sự vận động của khối lượng tiền tệ trong lưu
thông Các biến số kinh tế vĩ mô như tổng sản lượng, công ăn việc làm và giá cả, chủ yếu
chịu ảnh hưởng của việc điều chỉnh khối lượng tiền tệ trong lưu thông của Nhà nước, tức là
nó ảnh hưởng tới chính sách chủ yếu trong mô hình điều chỉnh kinh tế của Nhà nước”.
Theo lí thuyết kỳ vọng hợp lí thì các chính sách kinh tế được nhiều Nhà nước hoạch

định và thực hiện trong thời kỳ trước đây đều dựa hoàn toàn vào một hướng lí thuyết như:
trọng cung, trọng cầu, trọng tiền đều rất cực đoan không phù hợp với sự vận động của nền
kinh tế do đó nó bị thất bại. Các chủ thể kinh tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường luôn
gặp rủi ro biến động họ cần Nhà nước ngoài mục tiêu thông tin cho các chủ thể kinh tế của
mình cũng cần phải nắm được ý kiến của các nhà kinh doanh và nguyện vọng kinh tế của
nhân dân để đề ra các quyết sách kịp thời. Điều chỉnh kinh tế bằng Nhà nước hiện nay là
phục hồi và tôn trọng các nguyên tắc tự điều tiết của thị trường, xu hướng hiện nay Nhà
nước trực tiếp vào giải quyết các vấn đề thực tiễn nhờ đó mà thúc đẩy sự chín muồi các
chức năng kinh tế của Nhà nước.
2-/ Những nguyên nhân cơ bản thúc đẩy sự chín muồi các chức năng kinh tế vĩ mô:
Một là, nguyên lí khoa học và kinh nghiệm sản xuất được vật hoá trên tư liệu lao động,
đối tượng lao động, nó làm cho bộ phận năng động nhất của lực lượng sản xuất là công cụ
và người lao động thay đổi về chất lượng. Sự nghiệp to lớn này vượt khả năng của một nhà
tư bản thậm chí một tập đoàn tư bản vì phát triển khoa học - kỹ thuật và đào tạo đội ngũ cán
bộ có tri thức, kỹ thuật cao xã hội phải đầu tư rất lớn chỉ có Nhà nước - người nắm trong tay


tiềm lực kinh tế lớn của xã hội lại được giải phóng khỏi mục tiêu lợi nhuận trước mắt để
hoạt động cho mục tiêu chung của toàn bộ giai cấp tư sản và sự bảo tồn và phát triển chủ
nghĩa tư bản vì thế Nhà nước tăng cường đầu tư vào các ngành kinh tế giữ vị trí then chốt
quyết định sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Hai là: Sự ra đời của công nghiệp mới có kỹ thuật hiện đại và nhu cầu cải tạo các
ngành truyền thống đòi hỏi quy mô tích luỹ tư bản lớn. Quá trình phân công lao động đã
vượt phạm vi lãnh thổ của một quốc gia, xã hội hoá và quốc tế hoá đời sống kinh tế làm
nảy sinh nhiều mối quan hệ kinh tế, xã hội và chính trị vượt khỏi tầm điều chỉnh của tư bản
tư nhân đòi hỏi Nhà nước phải đứng ra giải quyết, ví dụ việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái
giữa các đồng tiền, điều chỉnh dòng đầu tư tư bản, điều chỉnh các quan hệ thương mại,
Thực hiện những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội này đã làm nảy sinh thêm những chức
năng kinh tế mới của Nhà nước tư bản hiện đại.
Ba là, sự phát triển mạnh mẽ của cải cách khoa học-kỹ thuật làm thay đổi căn bản cơ

cấu kinh tế quốc dân, sự biến đổi đó thể hiện một cách toàn diện ở các mặt: cơ cấu ngành
kinh tế, cơ cấu đầu tư, đặt ra nhu cầu điều chỉnh trên quy mô tổng thể vượt sức của tập
đoàn tư bản tài chính nên Nhà nước phải can thiệp vào sự vận động của nền kinh tế, sự can
thiệp ở đây không thể là can thiệp bên ngoài quá trình sản xuất mà Nhà nước phải tác
động vào tất cả các yếu tố, các khâu và cùng biến mình thành nhân tố chủ động trong cơ
chế vận động của tái sản xuất.
Sở dĩ Nhà nước tư bản có khả năng điều chỉnh được sự vận động của nền kinh tế là
do tính xã hội và tính độc lập tương đối vốn có của nó. Vai trò của Nhà nước được thể hiện
ở toàn bộ nền kinh tế quốc dân, sự vạch đường hướng phát triển và điều chỉnh sự vận động
của nền kinh tế theo định hướng đó, sự hoạt động điều chỉnh kinh tế của Nhà nước tư bản
thành một trong những điều kiện cơ bản, quan trọng để nền sản xuất phát triển.
II-/ Điều chỉnh kinh tế của Nhà nước ở các nước tư bản phát triển:
Nền kinh tế của các nước tư bản phát triển (trừ Mỹ) sau chiến tranh thế giới thứ hai
đều bị tàn phá nặng nề. Nhiệm vụ phục hồi kinh tế sau chiến tranh là nhiệm vụ cực kì khó
khăn đòi hỏi phải có sự tập trung nguồn lực cao độ mà không một tập đoàn tư bản nào có
thể gánh vác được chỉ có Nhà nước người đại diện không chỉ cho toàn bộ giai cấp tư sản


mà cho xã hội mới có thể đứng ra điều chỉnh, tổ chức, phục hồi lại nền kinh tế của đất
nước. Để hoàn thành nhiệm vụ này các giải pháp, chính sách của Nhà nước dài hạn như:
kế hoạch hoá, chương trình hoá nền kinh tế,
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời với tiềm lực kinh tế
chính trị quân sự hùng mạnh có ảnh hưởng lớn đến các nước đang phát triển. Nó tạo ra
một đối thủ nặng cân của chủ nghĩa tư bản, vấn đề này vượt ra khỏi một quốc gia tư bản,
đòi hỏi các Nhà nước tư bản phải liên kết với nhau để thực hiện được nhiệm vụ đó, đòi hỏi
phải tăng cường vai trò của Nhà nước đặc biệt trong nền kinh tế đẩy mạnh nghiên cứu và
ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất. Trong báo cáo kinh tế của tổng thống Mỹ 1963
đã vạch ra ba nhiệm vụ chiến lược là: 1) Đẩy mạnh tiến bộ kỹ thuật; phát triển nghiên cứu
khoa học; 2) Tăng chỉ tiêu giáo dục; 3) Đào tạo nhân tài kỹ thuật trên phạm vi cả nước.
Ví dụ: Nhà nước tư bản hiện đại ngày càng can thiệp sâu vào hoạt động của các công

ty tư bản tư nhân, thông qua hình thức tài trợ, cho vay, mua cổ phần; đơn đặt hàng của Nhà
nước và quốc hữu hoá. Nhờ tăng cường quốc hữu hoá mà khu vực kinh tế Nhà nước thuộc
các nước phát triển tăng đáng kể. Từ 50-70 các xí nghiệp Nhà nước chiếm tỷ trọng đáng kể
không kể khu vực sản xuất hàng quân sự các xí nghiệp ở Mỹ chiếm 13%, Nhật Bản 22%,
Hệ thống điều chỉnh kinh tế của Nhà nước tư bản hiện đại đã được hình thành có khả
năng can thiệp vào mọi lĩnh vực đời sống, nó có thể hoàn thành tất cả nhiệm vụ ngắn hạn
và dài hạn, từ đó điều chỉnh kinh tế của Nhà nước trở thành một bộ phận cấu thành hữu cơ.
Trong toàn bộ cơ chế tái sản xuất song nó không xoá bỏ được các điều kiện mà trong đó
các quy luật vốn có của chủ nghĩa tư bản hoạt động tức là sự can thiệp của Nhà nước vào
kinh tế vẫn chịu sự ức chế của các quy luật kinh tế tư bản chủ nghĩa.
B-/ Hệ thống điều chỉnh kinh tế của Nhà nước
ở các nước tư bản phát triển
Sự thích ứng của chủ nghĩa tư bản hiện đại với mức sản xuất phát triển cao của xã hội
được thực hiện qua hoạt động của hệ thống điều chỉnh kinh tế của Nhà nước. Hệ thống này
được hình thành trên cơ sở kết hợp của cơ chế Nhà nước với cơ chế thị trường và cơ chế
độc quyền tư nhân. Hệ thống điều chỉnh kinh tế được giới thiệu ở đây như một tổng thể
của những thiết chế và thể chế kinh tế của Nhà nước đó là Bộ máy kinh tế của Nhà nước


được tổ chức chặt chẽ với hệ thống chính sách, công cụ có khả năng thực hiện chức năng
điều chỉnh đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế xã hội.
1-/ Nhiệm vụ của hệ thống điều chỉnh kinh tế Nhà nước ở các nước tư bản phát
triển:
Điều chỉnh sự vận động của quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa Nhà nước phải sử
dụng các nguồn lực hoạt động của mình như ngân khố tài nguyên thông qua hệ thống tín
dụng, ngân hàng, tài chính.
Điều tiết chính là việc Nhà nước áp đặt những quy chế của mình nhằm hướng dẫn,
hạn chế, thay đổi hành vi kinh tế của các chủ thể sản xuất kinh doanh phù hợp với những
hoạt động chung trong vận động tổng thể của nền kinh tế theo những mục tiêu của Nhà
nước đã vạch ra.

Từ sau chiến tranh thế giới thứ II (1950-1971) Nhà nước tư bản hiện đại không chỉ là người
thúc đẩy và điều tiết sự vận động của nền kinh tế mà còn là một chủ sở hữu lớn, tính các hình thức
sở hữu Nhà nước đưa vào hoạt động thì sở hữu Nhà nước trong các nước tư bản phát triển chiếm
khoảng 15 đến 34% tổng số vốn đầu tư sản xuất kinh doanh của nền sản xuất do đó việc quản lí
của Nhà nước đối với khu vực này cũng là một công cụ được Nhà nước vận dụng để điều tiết nền
kinh tế.
Qua những phân tích nhiệm vụ điều chỉnh kinh tế của Nhà nước ở trên ta thấy, kết
cấu của hệ thống điều chỉnh kinh tế của Nhà nước tư bản đặc quyền hiện đại là một hệ
thống điều tiết, thiết chế tổ chức thuộc bộ máy Nhà nước cùng với nó là hệ thống các công
cụ giải pháp kinh tế được thể chế hoá thành các chính sách kinh tế của Nhà nước.
2-/ Bộ máy điều chỉnh kinh tế của Nhà nước ở các nước tư bản phát triển:
Hoạt động điều chỉnh của Nhà nước thông qua một hệ thống tổ chức Nhà nước
những tổ chức này được chia làm hai loại.
Một là, cơ quan hành pháp của Chính phủ: làm chức năng hành chính và điều chỉnh
kinh tế ở tầm tổng thể.


Hai là, cơ quan điều tiết kinh tế do luật định: chúng chuyên kiểm tra, uốn nắn, Để
hiểu rõ hơn các hình thức tổ chức, chức năng và mối quan hệ giữa chúng ta xem khái quát
từng nhóm trong thực tiễn ở một số nước tư bản.
Các cơ quan quản lý kinh tế truyền thống của Chính phủ:
Tham gia vào hoạt động điều chỉnh kinh tế của bộ máy Nhà nước dưới quyền chỉ đạo của
tổng thống hoặc thủ tướng là các bộ trưởng và hệ thống tổ chức của họ. Các nhân viên làm việc
trong các bộ là các công chức chuyên nghiệp và các cơ quan chức năng cấp dưới được lựa chọn
có chức năng nghiệp vụ cao.
Hệ thống các bộ trong kết cấu Nhà nước được tổ chức theo chức năng ngành thực tế
như Bộ nông nghiệp, Bộ công nghiệp, bộ phận này điều chỉnh kinh tế thuộc phạm vi
đảm trách. Đối với các khu vực sản xuất kinh doanh thuộc sở hữu Nhà nước dưới bộ đảm
nhiệm chức năng điều hành sản xuất. Để đảm bảo có một cơ cấu tổ chức thích hợp và có
hiệu quả, Nhà nước tư bản còn tổ chức ra bộ máy điều tiết kinh tế theo luật định.

Các cơ quan điều tiết kinh tế theo luật định:
Là hệ thống tổ chức hành pháp mang nặng tính giám sát, kiểm soát, của các chủ thể
sản xuất kinh doanh, cơ quan này được quốc hội trao quyền lực nhất định dựa vào các đạo
luật do đó các cơ quan này chịu sự hướng dẫn của Chính phủ thông qua bộ trưởng. Nhờ sự
quản lí của Quốc hội và Chính phủ nên hoạt động của các cơ quan này có tính tự chủ lớn
hơn các cơ quan hành pháp chung soạn thảo ra các văn quy chế mới để bổ sung hoặc uốn
nắn các quy chế hiện hành, thanh tra, kiểm tra các hoạt động kinh tế sai lệch của chủ thể
sản xuất kinh doanh hỗ trợ chúng hoạt động sản xuất, luật định còn lập ra các cơ quan điều
tiết để hỗ trợ Chính phủ trong các khâu then chốt như vạch kế hoạch, những cơ quan này
được thành lập với nhiệm kỳ ngắn. Những quyết định của nó đòi hỏi phải phê duyệt thông
qua Chính phủ.
Mô hình kết cấu bộ máy điều chỉnh kinh tế của Nhà nước Mỹ và Nhật:
Tại Mỹ số nhân viên trong bộ máy hành pháp liên bang từ 2,9 triệu người 1959 tăng
lên 2,7 triệu người năm 1979, ở địa phương tăng từ 6,1-12,9 triệu.
ở Nhật cũng tương tự. Theo thống kê 1-7/1970 số nhân viên làm việc trong 6 bộ: Tài
chính, thương mại quốc tế, công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, giao thông vận tải và cục


lập kế hoạch kinh tế là 255.261 người. Số người này được phân chia và hoạt động theo
nguyên tắc đã trình bày ở trên.
3-/ Hệ thống các phương tiện và các công cụ điều chỉnh kinh tế của Nhà nước ở các
nước tư bản phát triển:
a. Khu vực sản xuất thuộc sở hữu của Nhà nước: là đối tượng điều chỉnh kinh tế có
vai trò thúc đẩy sự vận động của nền kinh tế vì mục đích duy trì phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa, Nhà nước có thể thu hẹp hoặc mở rộng khu vực sản xuất của mình để nâng
đỡ và hỗ trợ kinh doanh tư nhân.
b. Tài chính Nhà nước: là phương tiện cơ bản nằm trong tay Nhà nước 30-40% thu nhập
quốc dân nắm trong tay nên nó điều chỉnh kinh tế thông qua các chức năng tạo nguồn thu cho
ngân sách, phân phối lại thu nhập quốc dân thông qua thuế và tài trợ Nhà nước, Nhà nước tư
bản phát triển đã đảo ngược nguyên tắc: chi luôn vượt thu, chi không phụ thuộc vào thu mà

phụ thuộc vào yêu cầu điều chỉnh kinh tế xã hội, điều đó cho thấy Nhà nước tư bản sử dụng tài
chính không đơn lẻ mà kết hợp các công cụ khác như tiền tệ - tín dụng, lãi suất,
c. Tiền tệ tín dụng: tiền tệ tín dụng và hệ thống ngân hàng là hệ thần kinh của nền
kinh tế: ta biết rằng quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế có mối quan hệ tương
hỗ với sự vận động của nền kinh tế theo định hướng mình, Nhà nước có thể chủ động điều
chỉnh khối lượng tiền lưu động thông qua công cụ phát hành và thay đổi tỷ suất.
d. Các công cụ hành pháp: Nhà nước ra các văn bản hành chính để tổ chức hướng
dẫn thi hành các đạo luật kinh tế như: luật đầu tư, khi cần thiết Nhà nước ra sắc lệnh đình
chỉ sản xuất hay lưu thông một số mặt hàng nào đó. Đặc trưng của hệ thống công cụ này là
áp đặt, cưỡng bức buộc các chủ thể kinh tế phải thi hành.
e. Các công cụ kỹ thuật: hệ thống công cụ máy móc thu thập thông tin kinh tế, phân
tích các tình huống, xử lí các thông tin truyền tin kinh tế. Nhờ hệ thống công cụ này mà
hiệu lực của Nhà nước được nâng cao.
Toàn bộ công cụ điều chỉnh kinh tế của Nhà nước trên đã tạo thành một kết cấu hữu
cơ trong hệ thống điều chỉnh kinh tế. Song bộ máy và công cụ điều chỉnh kinh tế chỉ phản
ánh mặt thiết chế tổ chức trong hệ thống điều chỉnh kinh tế. Để hoàn thiện hơn hệ thống
này chúng ta cần nghiên cứu nó dưới hình thái thể chế hoá thành đường lối, chính sách.


4-/ Hệ thống chính sách kinh tế của Nhà nước tư bản hiện đại:
Chính sách kinh tế là hình thức thể chế hoá các công cụ kinh tế theo những mục tiêu
kinh tế, chính trị xã hội nhất định của Nhà nước, chính sách tiền tệ của Nhà nước là việc
Nhà nước vận dụng tổng hợp các công cụ kinh tế như lãi suất, phát hành thuế và các công
cụ hành chính như ra văn bản hướng dẫn, ra sắc lệnh thi hành, Nhiệm vụ điều chỉnh kinh
tế Nhà nước tư sản là tác động vào sự vận động của toàn bộ nền kinh tế vào quá trình tái
sản xuất xã hội. Do đó chính sách kinh tế mà nó sử dụng là một hệ thống bao gồm các
chính sách được vận dụng ở tất cả các lĩnh vực cụ thể.


Kết luận

Như vậy sau chiến tranh thế giới thứ II (1951-1970) Nhà nước tư bản chủ nghĩa có những
chính sách điều chỉnh kinh tế rất phong phú chính sự điều chỉnh này giúp cho chủ nghĩa tư bản
phát triển nhanh mạnh lực lượng sản xuất, ổn định tương đối về tình hình chính trị. Phát triển
nhanh và ổn định về kinh tế.
Ưu điểm chủ yếu của hệ thống điều chỉnh kinh tế của Nhà nước tư bản là ở chỗ, nó
cho phép quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ở mức độ nhất định đã thích ứng được với sự
phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất.
Hệ thống điều chỉnh có tính phức tạp, tinh vi hoạt động nhanh nhạy. Trọng tâm của nó là
cơ chế Nhà nước tư bản hoàn thiện bằng cách dung nạp những nhân tố tích cực của cơ chế thị
trường mang lại hiệu quả cao trong thực tiễn.
Tuy nhiên dù bộ máy hoạt động có tinh sảo đến mấy thì việc điều chỉnh kinh tế của
Nhà nước cũng chỉ phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất và quá
trình quốc tế hoá đời sống kinh tế. Nó không thể xoá bỏ được những mâu thuẫn vốn có của
chủ nghĩa tư bản. Sự điều chỉnh này bị hạn chế bởi các mâu thuẫn thuộc bản chất của chủ
nghĩa tư bản.
Sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình tái sản xuất xã hội ở các nước tư bản sau
chiến tranh thế giới thứ II là một yếu tố quyết định sự tăng trưởng kinh tế cùng với nó là sự
tích luỹ tập chung tư bản. Mạng lưới phân công lao động quốc tế của chúng chưa rộng và
mạnh đến mức vượt khỏi sự điều tiết của Nhà nước quốc gia. Nhưng chính sự tăng cường
vai trò điều tiết của Nhà nước đã thúc đẩy nhanh khuynh hướng quốc tế hoá kinh tế.
Tất cả các chính sách điều chỉnh kinh tế của Nhà nước đều hướng vào mục tiêu cơ bản là
đảm bảo cho chủ nghĩa tư bản tồn tại và phát triển, cụ thể là:
Một là, hạn chế và khắc phục tình trạng quan liêu ăn sâu vào đời sống kinh tế.
Hai là, nới lỏng điều chỉnh kinh tế bằng cách giảm bớt các hình thức tài trợ và các
giải pháp hành chính cứng rắn để khơi dậy các lực lượng thị trường.
Ba là, tiến hành tư nhân hoá các doanh nghiệp Nhà nước.


Bốn là, xác định thứ tự ưu tiên trong chính sách kinh tế và chủ động phối hợp chính
sách kinh tế giữa các nước.

* Những kinh nghiệm có tính giải pháp luận như sau:
Một là, để có được một hệ thống điều chỉnh kinh tế có năng lực và hoạt động điều
chỉnh kinh tế của Nhà nước ta có hiệu quả chúng ta phải xây dựng một hệ thống lý luận
theo nguyên tắc không giáo điều, không quá cỡ, không phủ định sạch trơn những thành
quả khoa học trong hệ thống lý luận kinh tế tư sản. Tức là phải rút tỉa được những hạt nhân
khoa học hợp lý trong kho tàng lý luận kinh tế.
Hai là, cần phải thể chế hoá các giải pháp kinh tế của Nhà nước bảo đảm cho hoạt
động điều chỉnh kinh tế của Nhà nước ta đều được tiến hành dưới dạng luật định hoặc các
văn bản dưới luật. Đồng bộ hoá và hệ thống hoá các chính sách kinh tế của Nhà nước vào
các mục tiêu kinh tế của Nhà nước vào các mục tiêu kinh tế nhất định để tạo ra mô hình
điều chỉnh kinh tế phù hợp có hiệu quả trong thực tiễn.
Ba là, Nhà nước cần xây dựng một hệ thống tài chính, tiền tệ, tín dụng đồng bộ với
cơ chế vay mượn tinh vi nhưng dễ dàng và hoạt động có hiệu quả. Thiết lập thị trường
chứng khoán và các trung tâm kinh tế.
* Các giải pháp cụ thể:
Đối với chính sách thuế về chiến lược cần phải giảm thuế để kích thích sản xuất và
qua phát triển sản xuất để tăng thu ngân sách, còn tăng thuế chỉ là giải pháp sách lược có
tính tình thế nhất thời.
Về lãi suất tín dụng, tuy đây là giải pháp chống lạm phát nhanh và kích thích đầu tư
hữu hiệu song để nền kinh tế phát triển ổn định chính sách lãi suất phải được thực hiện
theo hướng ổn định.
Về điều chỉnh các quan hệ kinh tế đối ngoại, ngoài việc thực hiện chiến lược mở rộng
kinh tế nên áp dụng các giải pháp tiếp thị để chiếm lĩnh thị trường quốc tế hơn là sử dụng
các giải pháp tài trợ.
Tóm lại: điều chỉnh kinh tế của Nhà nước tư bản hiện đại là một vấn đề lý luận và
thực tiễn vô cùng phong phú và phức tạp trong đó có nhiều vấn đề còn cần phải tiếp tục
nghiên cứu kỹ hơn nữa.

×