Tải bản đầy đủ (.pdf) (2 trang)

Đề: Phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”(Trích “Chinh phụ ngâm” Đặng Trần Côn)32716

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.77 KB, 2 trang )

Giáo án phụ đạo khối 10:
Đề: Phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của
người chinh phụ”(Trích “Chinh phụ ngâm”- Đặng Trần Côn)
Dàn bài:
MB:
- Giới thiệu sơ lược về tác giả Đặng Trần Cơn và dịch giả Đồn Thị Điểm
- Hồn cảnh ra đời của khúc ngâm và vị trí đoạn trích.
TB
1. Nỗi cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ khi chồng đi chinh chiến xa (16 câu đầu)
a. 8 câu đầu (1 – 8)
- Tả tâm trạng qua hành động: người chinh phụ đi ra đi vào, cuốn tấm rèm lên rồi lại bng
xuống nhiều lần: “Dạo hiên vắng...địi phen.”. Đó là hành động lặp đi lặp lại, khơng có mục
đích rõ ràng, thể hiện tâm trạng nặng nề, tù túng, nóng ruột.
- Tả tâm trạng qua ngoại cảnh: chim thước là vật báo tin may; đèn là vật tả nỗi cô đơn,
thường được dùng trong ca dao và thơ cổ, Vd: “Đèn thương nhớ ai /Mà đèn không tắt?”. Nó
thể hiện sự mong ngóng tin tức của người chồng, mong có người chia sẻ nỗi cơ đơn. Người
chinh phụ "ngồi rèm thưa" mà trơng ra ngồi ngóng đợi tin chồng nhưng chẳng thấy đâu.
Cuộc sống nơi "trong rèm" chính là sự bó buộc, trói buộc trong một khơng gian chật hẹp, tù
đọng. Câu thơ chuyển tiếp “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng” càng tơn thêm vẻ vắng
lặng, đơn cơi, một mình chinh phụ đối diện với bóng mình, đối diện với người bạn vơ tri vơ
giác: “Đèn có biết dường bằng chẳng biết” và đi đến kết cuc:“ Hoa đèn kia với bóng người
khá thương”...Câu hỏi tu từ ấy chính là mong muốn tha thiết của người chinh phụ là có kẻ
hiểu thấu tâm can mình.
- Trực tiếp thể hiện tâm trạng: người chinh phụ hỏi đèn nhưng rồi tự trả lời bằng 2 lần phủ
định triệt để. Đèn không thể biết được tâm trạng nàng, dù có biết cũng khơng hiểu thấu
được. Nó khẳng định một sự thực: nàng hồn tồn cơ đơn, khơng ai chia sẻ. Dường như
khơng kìm nén được, nàng đã bộc lộ bằng những câu than vãn đau đớn. Từ “bi thiết” là một
tính từ nhấn mạnh nỗi buồn đau xen trộn của nàng. Đó là tâm trạng buồn rầu tới chẳng thiết
nói năng: “Buồn rầu nói chẳng nên lời”. Câu thơ đã nêu lên quy luật tất yếu của nỗi buồn:
khi buồn tới độ cao trào, con người trở nên câm lặng trước mọi vật.
b. 8 câu tiếp (9 – 16)


Nếu như những câu trên là lời độc thoại nội tâm thì tới câu 8, ống kính lại đưa ra xa để bao
qt căn phịng. Trong lịng người thì bão tố mà cảnh vật thì tĩnh mịnh đơn cơi tới buồn bã
- Thời điểm là đêm tối về sáng, chứng tỏ người chinh phụ đã thức cả đêm dài. Nàng như
đang đếm thời gian nhưng càng chờ càng thấy dài: “Khắc giờ đằng đẵng như niên/ Mối sầu
dằng dặc tựa miền biển xa.”. Tác giả đã dùng biện pháp so sánh kết hợp với từ láy để nhấn
mạnh cảm thức về thời gian ở người chinh phụ. Tác giả so sánh với hình ảnh cụ thể để miêu
tả độ dài, độ sâu vô tận của thời gian và nỗi sầu. Từ láy “đằng đẵng” mơ tả độ nhích chậm
chạp của thời gian. Từ láy “dằng dặc” đối với từ láy “đằng đẵng” ở trên cho ta thấy thêm
một khía cạnh của tâm trạng, dường như khơng chỉ buồn chán mà cịn tù túng, bế tắc. Câu
thơ đã diễn tả đúng một quy luật của nỗi nhớ: càng nhớ thời gian càng như dài ra.
- Hành động: đốt hương, soi gương, gẩy đàn. Đó là những thú vui tao nhã nhưng nó khơng
giúp nàng xua đi nỗi buồn “Hương gượng đốt...phím loan ngại chùng”. Động từ “gượng”
xuất hiện 3 lần nhấn mạnh sự miễn cưỡng, gượng gạo, chán chường của nàng. Tâm trạng
ThuVienDeThi.com


của nàng khơng chỉ chán chường mà cịn mang nỗi sợ: sợ chia lìa đơi lứa. Hai từ “kinh”,
“sợ” xuất hiện trong một dịng thơ như một cơn sóng dữ ào lên rồi lênh láng trong lòng
người chinh phụ.
2. Niềm khao khát hạnh phúc (8 câu cuối 17 – 28)
- Lúc tâm trạng chán chường, người chinh phụ bắt gặp ngọn gió đơng, trong nàng l lên
một nguồn hi vọng. Nàng van nài cả gió đơng để gửi thương nhớ tới nơi chồng “Lịng này
gửi gió đơng...non n”. Câu hỏi ở đầu cùng việc sử dụng nhiều từ trang trọng: “có tiện”,
“nghìn vàng”, “xin” thể hiện sự nhún mình, sự năn nỉ ngọn gió. Nhưng đó là mong ước phi
thực tế, hi vọng loé lên rồi vụt tắt ngay. Chỉ có nỗi nhớ là hiện thực “Non Yên...đường lên
bằng trời.”. Nỗi nhớ được cụ thể hố bằng hình ảnh độc đáo: “đường lên bằng trời”. Tác giả
còn dùng từ láy “thăm thẳm” chỉ độ sâu để miêu tả nỗi nhớ. Nó cho thấy nỗi nhớ sâu sắc,
kéo dài đến mức đã lặn vào tâm hồn người chinh phụ. 4 câu thơ là sự hi vọng nhưng thất
vọng nhanh chóng, người chinh phụ cố tìm cách liên lạc với người chinh phu song bất lực và
cuối cùng đọng lại chỉ là nỗi nhớ nhung, đau xót.

- Hình ảnh gợi ra khơng gian mênh mông, vô tận của chiến địa. “Non Yên” chính là hình ảnh
tượng trưng cho nơi chiến trận, nó chẳng rõ là đâu, lại xa xơi, bất trắc. Đó cịn là khơng gian
buồn bã, lạnh lẽo bao trùm “Cảnh buồn người thiết tha lịng...Sâu tường kêu vẳng, chng
chùa nện khơi.” Cái lạnh như ăn mòn mọi thứ. Qua biện pháp ẩn dụ cùng việc sử dụng các
động từ mạnh, ta cảm thấy từ “giọt sương”, “tiếng trùng” đến “mưa phun” cũng như ẩn tàng
một sức mạnh ghê gớm. Ở đây, thiên nhiên và con người đã soi chiếu vào nhau, cùng mang
chung nỗi sầu. Đúng như Nguyễn Du đã nói: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn
cảnh có vui đâu bao giờ.” Từ “thiết tha” được đảo lên trước từ “lòng” để nhấn mạnh tâm
trạng người chinh phụ. Giờ đây, nỗi buồn đã chuyển thành nỗi đau trong lịng người chinh
phụ.
- Lối thơ vắt dịng: “Ngồi rèm thước chẳng mách tin...Đèn có biết dường bằng chẳng
biết.”; “Nghìn vàng xin gửi tới non Yên...Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu.”; . Hình thức
này làm những câu thơ có sự liên kết với nhau đồng thời góp phần diễn tả nỗi buồn triền
miên, kéo dài lê thê không dứt.
-> Đoạn trích chỉ 28 câu nhưng diễn tả đầy đủ những cung bậc tâm trạng của người chinh
phụ khi chồng đi chinh chiến xa: tù túng, cô đơn, buồn rầu, chán chường, khát khao, mong
chờ, thất vọng,….
-> Giá trị nhân đạo: đồng cảm với khao khát hạnh phúc lứa đôi, gián tiếp lên án chiến tranh
phi nghĩa.
KB:
Với nghệ thuật miêu tả tâm trạng đặc sắc, đoạn trich diễn tả thành công tình cảnh lẻ loi của
người chinh phụ cũng như tồn bộ tác phẩm Chinh phụ ngâm là tiếng kêu thương của người
phụ nữ chờ chồng, nhớ thương người chồng chinh chiến phương xa

ThuVienDeThi.com



×