Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

TRỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM SOÁT CHI NSNN QUA KBNN HAI BÀ TRƯNG – HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.6 KB, 87 trang )











TIỂU LUẬN:
TRỰC TRẠNG CÔNG TÁC
KIỂM SOÁT CHI NSNN QUA
KBNN HAI BÀ TRƯNG – HÀ NỘI






CHƯƠNG I: CÔNG TÁC KIỂM SOÁT CHI NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC

1.1 Tổng quan về công tác chi ngân sách nhà nước qua KBNN
1.1.1. Bản chất kinh tế và vai trò của NSNN
- Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đă được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Ngân sách nhà nước là khâu chủ đạo trong hệ thống tài chính, là điều kiện vật chất
quan trọng để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, đồng thời NSNN là công


cụ quan trọng của Nhà nước phân phối các nguồn lực tài chính quốc gia để điều chỉnh vĩ
mô đối với đời sống kinh tế - xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh quốc gia.
- Quỹ ngân sách nhà nước
Quỹ ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản tiền của Nhà nước, kể cả tiền vay, có
trên tài khoản của ngân sách nhà nước các cấp.Quỹ ngân sách nhà nước được quản lý tại
Kho bạc Nhà nước
- Bản chất kinh tế của NSNN
Là quan hệ kinh tế - tài chính giữa Nhà nước và các tác nhân của nền kinh tế trong
quá trình phân bổ, sử dụng các nguồn lực, phân phối và phân phối lại thu nhập mới sáng
tạo ra.
Xét về mặt hình thức, Ngân sách nhà nước là một bảng cân đối giữa thu nhập và chi
tiêu của Nhà nước trong một năm tài khoá. Về bản chất, Ngân sách nhà nước là tập hợp
những quan hệ kinh tế trong quá trình phân phối, gắn liền với việc hình thành và sử dụng
quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước.
- Vai trò của NSNN



NSNN là một khâu then chốt trong hệ thống Tài chính. Vai trò của NSNN được xác
định trên cơ sở chức năng và nhiệm vụ cụ thể của nó trong từng giai đoạn, đảm bảo cho
Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ, duy trì quyền lực nhà nước. Trong giai đoạn
hiện nay, NSNN đóng vai trò là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Trong quan hệ
giữa Nhà nước và Ngân sách thì Nhà nước là chủ thể thường xuyên, chủ thể quyền lực.
Nhà nước tập trung Ngân sách, coi Ngân sách là công cụ kinh tế quan trọng để giải quyết
các vấn đề kinh tế, xã hội và thị trường. Ngân sách kích thích sản xuất kinh doanh, cạnh
tranh hợp pháp, chống độc quyền thông qua các công cụ về thuế và cho ra đời các doanh
nghiệp nhà nước. NSNN cung cấp nguồn kinh phí để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các
ngành kinh tế then chốt, tạo môi trường cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế phát triển; đầu tư để chống ô nhiễm môi trường; tài trợ cho các hoạt động xã hội, chống
lạm phát.

Như vậy, vai trò của NSNN là rất quan trọng, dù trực tiếp hay gián tiếp NSNN vẫn
chiếm một vị trí chủ đạo trong điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, khắc phục những khuyết tật
mang trong mình cơ chế thị trường.
1.1.2.Chi ngân sách nhà nước và quản lý chi ngân sách nhà nước
1.1.2.1 Đặc điểm chi ngân sách nhà nước
Chi NSNN thể hiện các quan hệ Tài chính – Tiền tệ được hình thành trong quá
trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm bảo đảm các nhu cầu chi tiêu của bộ máy
nhà nước và thực hiện các chức năng chính trị, kinh tế, xã hội của Nhà nước.
Chi NSNN là sự kết hợp hài hoà giữa quá trình phân phối quỹ NSNN để hình thành
các quỹ tài chính của các cơ quan, đơn vị và quá trình sử dụng các quỹ tài chính này.
Chi NSNN là các khoản cấp phát, thanh toán từ quỹ NSNN cho các cơ quan, đơn vị
và cá nhân có tính không hoàn lại. Quy mô của chi NSNN phụ thuộc vào quy mô các
khoản thu của NSNN và những nhiệm vụ chi mà nhà nước cần phải thực hiện
Chi NSNN gắn chặt với bộ máy quản lý nhà nước và việc triển khai thực hiện những
nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội mà nhà nước phải đảm nhận.



Chi NSNN là một quá trình liên tục, gắn bó mật thiết với sự tồn tại và phát triển của
nền kinh tế và đời sống xã hội, việc xây dựng dự toán và quyết toán chi NSNN được thực
hiện theo đúng niên độ. Cuối năm ngân sách có số kết dư để chuyển sang năm sau, nếu có
thâm hụt, phải xác định rõ nguồn bù đắp và sẽ được xử lý vào năm ngân sách tiếp theo.
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước, là chủ thể duy nhất có quyền
quyết định quy mô, nội dung, cơ cấu chi NSNN; quyết định tổng dự toán và tổng quyết
toán NSNN; quyết định bổ sung, điều chỉnh chi NSNN giữa các nhiệm kì, kể cả tổng mức
chi đối với những công trình lớn, đặc biệt quan trọng của quốc gia.
Chi NSNN được phân cấp cho chính quyền địa phương quản lý và điều hành. Ở
Trung Ương do Chính Phủ trực tiếp quản lý, ở các cấp chính quyền địa phương do Uỷ
Ban Nhân Dân quản lý dưới sự giám sát của Hội Đồng Nhân Dân
Việc bố trí các khoản chi NSNN thường được xem xét đến tính hiệu quả ở tầm vĩ

mô, có tính đến lợi ích quốc gia, các vùng lãnh thổ, các khu vực, các địa phương trên cơ
sở thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và nâng cao đời sống nhân
dân đã được Quốc Hội và Hội Đồng Nhân Dân các cấp thông qua.
Các khoản chi NSNN nói chung thường không mang tính bồi hoàn trực tiếp; ngoại
trừ một số khoản chi NSNN cho vay hỗ trợ, ưu đãi thông qua tổ chức tín dụng đặc biệt
của Nhà nước mang tính đặc thù của mỗi quốc gia trong từng thời kì nhất định.
Các khoản chi NSNN gắn liền với các phạm trù kinh tế như đầu tư phát triển, lợi
nhuận, tiền lương, viện trợ và thường chịu sự tác động trực tiếp của các phạm trù giá trị
như giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tiền tệ, tín dụng
1.1.2.2 Phân loại chi ngân sách nhà nước
Phân loại chi NSNN là việc sắp xếp các khoản chi NSNN vào các nhóm, các loại chi
khác nhau theo những tiêu chí nhất định.
- Theo mục đích kinh tế - xã hội của các khoản chi:
Chi NSNN được chia thành chi tiêu dùng và chi đầu tư phát triển



- Theo tính chất các khoản chi:
Chi NSNN được chia thành chi cho Y tế; chi cho Giáo dục; chi Phúc lợi; chi quản lý
Nhà nước; chi đầu tư Kinh tế
- Theo chức năng của Nhà nước:
Chi NSNN được chia thành chi nghiệp vụ và chi phát triển
- Theo tính chất pháp lý:
Chi NSNN được chia thành các khoản chi theo luật định; các khoản chi đã được cam
kết; các khoản chi có thể điều chỉnh.
- Theo yếu tố các khoản chi:
Chi NSNN được chia thành chi đầu tư phát triển; chi thường xuyên và chi khác.
Trong đó:
Chi đầu tư phát triển bao gồm các khoản chi về: đầu tư, xây dựng các công trình kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn; đầu tư và hỗ trợ cho các

doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần,
liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo
quy định của pháp luật; bổ sung dự trữ của Nhà nước; đầu tư phát triển các chương trình
mục tiêu Quốc gia, dự án Nhà nước; các khoản chi đầu tư phát triển theo quy định của
pháp luật.
Chi thường xuyên bao gồm các khoản chi về: các hoạt động sự nghiệp, giáo dục, đào
tạo, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, văn học, nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và
công nghệ; các sự nghiệp xã hội khác; các hoạt động sự nghiệp về kinh tế, quốc phòng, an
ninh và trật tự an toàn xã hội; hoạt đông của các cơ quan Nhà nước; hoạt động của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Uỷ Ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn Lao động Việt
Nam, Đoàn Thanh Niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam ; trợ giá
theo chính sách của Nhà nước; phần chi thường xuyên thuộc các chương trình mục tiêu
quốc gia, dự án Nhà nước; hỗ trợ quỹ Bảo hiểm xã hội, trợ cấp cho các đối tượng chính



sách xã hội các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật; trả nợ gốc và
lãi các khoản tiền do Chính phủ vay.
1.1.2.3. Khái niệm, đối tượng, mục tiêu quản lý chi ngân sách nhà nước.
Quản lý chi NSNN là quá trình Nhà nước vận dụng các chính sách của Đảng và luật
pháp của nhà nước trong quản lý kinh tế, đồng thời sử dụng các công cụ và phương pháp
quản lý nhằm tác động đến quá trình sử dụng các nguồn vốn của NSNN để thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ do nhà nước đảm nhiệm một cách có hiệu quả nhất.
Đối tượng quản lý chi NSNN là toàn bộ các khoản chi của nhà nước đã được bố trí
trong dự toán ngân sách nhà nước và được cấp phát, thanh toán để thực hiện các nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Cơ sở để quản lý chi NSNN là cơ chế quản lý kinh tế tài chính và hệ thống Luật
pháp hiện hành.
Quản lý chi ngân sách là một phạm trù kinh tế tổng hợp; đồng thời, đó là trách
nhiệm của tất cả các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị sử dụng NSNN.

Mục tiêu cơ bản của quản lý chi NSNN là không để nguồn vốn của nhà nước bị thất
thoát, lãng phí hoặc sử dụng sai mục đích; cần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn,
giải quyết hài hoà mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa một bên là Nhà nước với một bên là
các chủ thể sử dụng vốn NSNN.
1.1.2.4. Quy trình quản lý chi ngân sách nhà nước
Quy trình quản lý chi NSNN gồm có 3 bước
- Bước 1:
Lập dự toán chi NSNN, phân bổ dự toán và thông báo dự toán chi NSNN cho các
đơn vị sử dụng ngân sách.
- Bước 2 là quá trình chấp hành ngân sách, bao gồm các công việc:



Bố trí kinh phí và cấp phát, thanh toán cho các đơn vị sử dụng ngân sách; thực hiện
việc kiểm soát mọi khoản chi của NSNN bảo đảm phải có trong dự toán ngân sách được
duyệt và phải đúng đối tượng quy định.
- Bước 3 là quyết toán chi ngân sách, bao gồm các công việc:
Tổng hợp, phân tích và đánh giá việc sử dụng các khoản chi của ngân sách, thấy
được bức tranh toàn cảnh về các hoạt động kinh tế - xã hội của nhà nước trong năm ngân
sách.
1.1.2.5. Nguyên tắc quản lý chi ngân sách nhà nước
Quản lý chi NSNN phải tuân thủ những nguyên tắc xuyên suốt trong chu trình chi
NSNN, từ khâu lập dự toán đến khâu chấp hành và quyết toán chi NSNN, cụ thể là:
- Đối với khâu lập dự toán NSNN:
Dự toán NSNN cần được xây dựng một cách khoa học, dựa trên các căn cứ khách
quan như chiến lược, kế hoạch, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước; hệ
thống các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi hiện hành; kết quả phân tích việc
chấp hành chi của các năm trước; từ đó lập nên dự toán chi NSNN cho năm tiếp theo.
Việc xây dựng dự toán phải đảm bảo đúng trình tự và thời gian như đã được quy
định.

Chất lượng dự toán phải đảm bảo tính chi tiết theo mục lục ngân sách nhà nước hiện
hành, sát với nhu cầu chi tiêu của các đơn vị sử dụng.
- Đối với khâu chấp hành chi NSNN
NSNN phải đảm bảo đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu chi tiêu của các đơn vị sử dụng
ngân sách theo dự toán đã được duyệt.
Mọi khoản chi NSNN được KBNN thanh toán trực tiếp cho chủ nợ thực sự của
Chính phủ, là người cung cấp hàng hoá, dịch vụ.
Mọi khoản chi NSNN phải được KBNN kiểm soát trước khi thanh toán, chi trả.



Phân định rạch ròi ranh giới trách nhiện của người chuẩn chi - thủ trưởng đơn vụ với
KBNN - với tư cách là kế toán của Chính phủ.
- Đối với khâu quyết toán NSNN
Cần đảm bảo phản ánh trung thực, đầy đủ, chính xác mọi khoản chi theo mục lục
NSNN.
Quyết toán NSNN phải đúng theo trình tự, thủ tục và thời gian theo Luật định.
Quyết toán NSNN cần đảm bảo đã được kiểm toán trước khi trình Quốc hội phê
chuẩn.
1.1.2.6. Điều kiện cấp phát, thanh toán các khoản chi ngân sách nhà nước.
Các khoản chi NSNN trước khi được cấp phát, thanh toán phải đảm bảo các điều
kiện sau đây:
- Đã có trong dự toán chi NSNN hàng năm. Dự toán chi NSNN của các đơn vị phải
phản ánh đầy đủ các khoản chi theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do các cơ quan có
thẩm quyền ban hành.
- Dự toán chi phải theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức. Định mức, tiêu chuẩn chi
do cơ quan chức năng có thẩm quyền ban hành chính là căn cứ quan trọng để lập dự toán
chi NSNN hàng năm và là căn cứ để KBNN kiểm soát khi cấp phát thanh toán cho đơn vị
sử dụng ngân sách. Những khoản chi chưa có tiêu chuẩn định mức được cơ quan có thẩm
quyền ban hành là căn cứ quan trọng để KBNN kiểm soát khi cấp phát thanh toán cho

đơn vị sử dụng ngân sách. Những khoản chi chưa có tiêu chuẩn định mức được cơ quan
có thẩm quyền phê duyệt, KBNN căn cứ vào dự toán được cơ quan cấp trên trực tiếp của
đơn vị sử dụng ngân sách phê duyệt làm căn cứ để kiểm soát.
- Các khoản chi phải được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách chuẩn chi. Trong
quản lý và điều hành ngân sách, chuẩn chi là sự cho phép, đồng ý chi. Thẩm quyền chuẩn
chi là của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, đồng thời là chủ tài khoản, đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.



- Các khoản chi phải có đủ hồ sơ, chứng từ hợp lệ. Mỗi khoản chi đều phải lập theo mẫu
chứng từ quy định và được cấp trên có thẩm quyền phê duyệt.
1.2. Kiểm soát chi NSNN qua hệ thống KBNN
1.2.1.Kiểm soát chi NSNN
Kiểm soát chi NSNN là quá trình những cơ quan có thẩm quyền thực hiện thẩm
định, kiểm tra, kiểm soát các khoản chi NSNN theo các chính sách, chế độ, định mức chi
tiêu do Nhà nước quy định và trên cơ sở những nguyên tắc, hình thức và phương pháp
quản lý tài chính trong từng giai đoạn. Vì vậy, kiểm soát chi NSNN được đặt ra đối với
mọi quốc gia, dù đó là quốc gia phát triển hay đang phát triển.
Kiểm soát chi NSNN là việc kiểm tra, kiểm soát các khoản chi NSNN diễn ra theo
các khâu của quy trình NSNN, từ lập dự toán, chấp hành dự toán được duyệt đến quyết
toán NSNN nhằm đảm bảo mỗi khoản chi NSNN đều được dự toán từ trước, được thực
hiện đúng theo dự toán được duyệt, đúng theo tiêu chuẩn định mức, tiêu chuẩn được
duyệt và đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội.
Trong những năm vừa qua, nhờ việc thực hiện hiểu quả những đổi mới trong đường
lối, nền kinh tế đã có những biến chuyển thuận lợi tạo ra nguồn thu nhập ngày càng tăng
cho NSNN,óp phần giải quyết nhiều vấn đề cấp bách trong phát triển kinh tế và cải thiện
đời sống nhân dân. Nguồn thu NSNN ngày càng tăng kể cả ở khu vực quốc doanh và
ngoài quốc doanh. Mỗi năm nguồn thu cho NSNN đều có xu hướng tăng lên. Tuy vậy, sự
mất cân đối trong thu – chi NSNN chưa bao giờ được khắc phục mà còn có xu hướng gia

tăng. Điều này do nhiều nguyên nhân nhưng cơ bản là do cơ chế kiểm soát chi NSNN của
ta còn lỏng lẻo, nhiều bất hợp lý, gây nên tình trạng sử dụng NSNN lãng phí, thất thoát
nhiều.
Tiến trình gia nhập WTO có tác động mạnh mẽ đến việc đổi mới chính sách chi
NSNN. Cho dù việc đổi mới chính sách chi NSNN là yêu cầu luôn được đặt ra trước mắt
nhưng tiến trình này đã thúc đẩy quá trình đổi mới diễn ra nhanh và mạnh hơn, bước đầu
tạo nên những chuyển động tích cực và yêu cầu kiểm soát chi NSNN cũng đòi hỏi phải có
một cơ chế hoàn chỉnh phù hợp với sự phát triển chung.



1.2.2. Kiểm soát chi NSNN qua hệ thống KBNN
1.2.2.1 Sự cần thiết của việc kiểm soát chi NSNN qua KBNN
Kiểm soát chi NSNN qua hệ thống KBNN là việc KBNN thông qua các công cụ
nghiệp vụ của mình thực hiện kiểm tra, kiểm soát các khoản chi NSNN qua hệ thống
KBNN, đảm bảo các khoản chi đó được thực hiện đúng luật, đúng nguyên tắc cấp phát,
thanh toán và có đủ các điều kiện chi theo quy định của pháp luật.
Đối với nước ta hiện nay, kiểm soát chi NSNN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bới
những lý do sau đây:
- Từ yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý
tài chính nói chung và cơ chế quản lý NSNN nói riêng, đòi hỏi mọi khoản chi của NSNN
phải đảm bảo tính tiết kiệm và có hiệu quả. Điều này là một tất yếu khách quan, bởi vì
nguồn lực của ngân sách nhà nước bao giờ cũng có hạn, nó là nguồn lực của đất nước,
trong đó chủ yếu là tiền của và công sức lao động của nhân dân đóng góp, do đó không
thể chi tiêu một cách lãng phí. Vì vậy, kiểm soát chặt chẽ các khoản chi NSNN thực sự
trở thành mối quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước, các cấp lãnh đạo, các ngành của
toàn xã hội. Thực hiện tốt công tác này sẽ có ý nghĩa to lớn trong việc thực hành tiết
kiệm, tập trung mọi nguồn lực tài chính để phát triển kinh tế - xã hội, chống các hiện
tượng tiêu cực, chi tiêu lãng phí, góp phần lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, ổn định
tiền tệ, kiềm chế lạm phát; đồng thời, góp phần nâng cao trách nhiệm và phát huy được

vai trò của các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị có liên quan đến công tác quản lý và
sử dụng NSNN. Đặc biệt, theo Luật NSNN quy định, hệ thống KBNN chịu trách nhiệm
chính trong việc kiểm soát thanh toán, chi trả trực tiếp từng khoản chi NSNN cho các đối
tượng sử dụng đúng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đã được Nhà nước giao, góp
phần lập lại kỷ cương, kỷ luật tài chính.
- Từ những hạn chế của bản thân cơ chế quản lý chi NSNN: cơ chế quản lý, cấp phát
thanh toán NSNN tuy đã được thường xuyên sửa đổi và từng bước hoàn thiện, nhưng
cũng chỉ có thể quy định được những vấn đề chung nhất, mang tính nguyên tắc. Vì thế, nó
không thể bao quát được hết tất cả những hiện tượng nẩy sinh trong quá trình thực hiện



chi NSNN. Cũng chính từ đó, cơ quan Tài chính và KBNN thiếu cơ sở pháp lý cụ thể cần
thiết để thực hiện kiểm tra, kiểm soát từng khoản chi NSNN. Như vậy, cấp phát chi
NSNN đối với cơ quan Tài chính chỉ mang tính chất phân bổ ngân sách, còn đối với
KBNN thực chất chỉ là xuất quỹ NSNN. Việc chi trả trực tiếp trên thực tế là chưa thực
hiện được đến từng đơn vị sử dụng kinh phí, chưa phát huy hết vai trò kiểm ra, kiểm soát
các khoản chi NSNN. Mặt khác, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động kinh
tế xã hội, công tác chi NSNN cũng ngày càng đa dạng và phức tạp hơn. Điều này cũng
làm cho cơ chế quản lý chi NSNN nhiều khi không theo kịp với các biến động và phát
triển của hoạt động chi NSNN; trong đó, một số nhân tố quan trọng như hệ thống tiêu
chuẩn định mức chi tiêu còn xa rời thực tế, thiếu đồng bộ, thiếu căn cứ để có thể thẩm
định; chưa có một cơ chế quản lý chi phù hợp và chặt chẽ đối với một số lĩnh vực, đặc
biệt là trong lĩnh vực chi đầu tư xây dựng cơ bản, một lĩnh vực phức tạp, không chỉ tốn
nhiều tiền mà còn liên quan đến yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, tạo môi trường tham
nhũng cho những kẻ thoái hoá biến chất. Mặt khác, công tác kế toán, quyết toán cũng
chưa được thực hiện một cách nghiêm tức; từ đó, một số không ít đơn vị và cá nhân đã lợi
dụng, khai thác những kẽ hở của cơ chế quản lý đó để tham ô, trục lợi, gây lãng phí tài
sản và công quỹ của Nhà nước.
Từ thực tế trên, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc kiểm tra giám sát

chi tiêu để phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hiện tượng tiêu cực của các đơn vị sử
dụng kinh phí NSNN cấp; đồng thời phát hiện những kẽ hở trong cơ chế quản lý để từ đó
có những giải pháp và kiến nghị nhằm sửa đổi bổ sung kịp thời những cơ chế, chính sách
hiện hành, tạo nên một cơ chế quản lý và kiểm soát chi NSNN ngày càng chặt chẽ và
hoàn thiện hơn.
- Từ ý thức của các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN: Một thực tế khá phổ biến là các
đơn vị sử dụng kinh phí được NSNN cấp thường có chung một tư tưởng là tìm mọi cách
sử dụng hết số kinh phí được cấp mà không quan tâm đến việc chấp hành đúng mục đích,
đối tượng và dự toán đã được duyệt. Các đơn vị này thường lập hồ sơ, chứng từ thanh
toán khống, sai chế độ quy định, không có trong dự toán chi NSNN đã được phê duyệt,
không đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu, thiếu các hồ sơ, chứng từ pháp lý có



liên quan Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có một tổ chức thứ ba có thẩm quyền, độc
lập và khách quan, có kỹ năng nghề nghiệp, có vị trí pháp lý và uy tín cao để thực hiện
việc kiểm tra, kiểm soát và đưa ra ý kiến nhận xét, kết luận chính xác đối với các khoản
chi của đơn vị bảo đảm có trong dự toán được duyệt; đúng chế độ, định mức, tiêu chuẩn
được duyệt; có đủ hồ sơ, chứng từ thanh toán theo đúng quy định …; có giải pháp chấn
chỉnh và xử lý kịp thời các gian lận, sai sót, ngăn chặn các sai phạm và lãng phí có thể
xảy ra trong việc sử dụng ngân sách nhà nước của các cơ quan, đơn vị, bảo đảm mọi
khoản chi của NSNN được tiết kiệm và có hiệu quả.
- Xuất phát từ tính đặc thù của các khoản chi NSNN: các khoản chi của NSNN đều
mang tính chất không hoàn trả trực tiếp. Tính chất cấp phát trực tiếp không hoàn lại của
các khoản chi NSNN là một ưu thế vô cùng to lớn đối với các đơn vị sử dụng NSNN.
Trách nhiệm của họ là phải chứng minh được việc sử dụng của các khoản kinh phí bằng
các kết quả công việc cụ thể đã được Nhà nước giao. Tuy nhiên, việc dùng những chỉ tiêu
định tính và định lượng để đánh giá và đo lường kết quả công việc trong nhiều trường
hợp là thiếu chính xác và gặp không ít những khó khăn. Vì vậy, cần phải có một cơ quan
chức năng có thẩm quyền để thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát các khoản chi của NSNN,

bảo đảm tương xứng giữa khoản tiền Nhà nước đã chi ra với kết quả công việc mà các
đơn vị sử dụng NSNN thực hiện.
- Từ yêu cầu mở cửa và hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới: theo kinh
nghiệm quản lý NSNN của các nước và những khuyến nghị của tổ chức tài chính quốc
tế; việc kiểm tra, kiểm soát các khoản chi NSNN chỉ thực hiện có hiệu quả trong điều
kiện thực hiện cơ chế chi trả trực tiếp từ cơ quan quản lý quỹ NSNN đến từng đối tượng
sử dụng ngân sách, kiên quyết không chuyển kinh phí của NSNN qua các cơ quan quản lý
tài chính nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí của nhà nước.
Vì những yêu cầu cấp thiết được đặt ra như trên, việc kiểm soát chi NSNN qua
KBNN cần phải diễn ra và nên được quan tâm đúng mức để quá trình ấy thực hiện được
một cách triệt để những mục tiêu đề ra.



1.2.2.2 Yêu cầu đối với công tác kiểm soát chi NSNN qua KBNN
Công tác kiểm soát chi NSNN đối với cơ quan quản lý tài chính nhà nước nói chung
và trực tiếp là cơ quan Tài chính và KBNN nói riêng cần phải đáp ứng được một số nhu
cầu sau đây:
- Chính sách và cơ chế kiểm soát chi NSNN cần làm cho các hoạt động của tài chính
nhà nước đạt hiệu quả cao, có tác động kích thích các hoạt động kinh tế xã hội, không để
cho quỹ NSNN bị cắt khúc, phân tán, gây căng thẳng giả tạo trong quá trình điều hành
NSNN. Do đó, chính sách và cơ chế kiểm soát chi NSNN phải quy định rõ ràng điều kiện
và trình tự cấp phát và thanh toán theo hướng: khi cấp phát kinh phí, cơ quan tài chính
phải căn cứ dự toán NSNN năm đã được duyệt và khả năng ngân sách từng quý, đồng
thời xem xét bố trí mức chi hàng quý cho từng đơn vị sử dụng ngân sách thực hiện. Trên
phương diện thanh toán, phải bảo đảm mọi khoản chi của NSNN được chi trả trực tiếp
cho các đơn vị, đối tượng thực sự là chủ nợ của quốc gia trên cơ sở dự toán được duyệt.
Trong quá trình sử dụng NSNN phải được thủ trưởng đơn vị chuẩn chi, phù hợp với chính
sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu của Nhà nước quy định.
- Công tác quản lý và kiểm soát chi NSNN là một quy trình phức tạp, bao gồm nhiều

khâu, nhiều giai đoạn bao gồm lập dự toán ngân sách, phân bổ ngân sách và thông báo
kinh phí, cấp phát thanh toán cho các đơn vị sử dụng ngân sách, kế toán và quyết toán
NSNN; đồng thời nó liên quan đến tất cả các Bộ, ngành, địa phương. Do đó, kiểm soát
chi NSNN cần phải được tiến hành một cách thận trọng, thực hiện dần từng bước, sau
mỗi bước cần đánh giá, rút kinh nghiệm để cải tiến quy trình, thủ tục kiểm soát chi cho
phù hợp với tình hình thực tế; có như vậy, công tác kiểm soát chi NSNN mới có tác dụng
trong việc bảo đảm tăng cường kỷ cương, kỷ luật tài chính. Mặt khác, công tác kiểm soát
chi NSNN cần phải tôn trọng những thực tế khách quan, không nên quá máy móc, khắt
khe, gây ra những ách tắc, phiền hà cho các đơn vị sử dụng kinh phí từ nguồn NSNN.
- Tổ chức bộ máy kiểm soát chi NSNN phải gọn nhẹ theo hướng cải cách hành
chính, thu gọn các đầu mối quản lý, đơn giản hoá quy trình và thủ tục hành chính sao cho
đạt hiệu quả chính xác cao nhưng không gây phiền hà, tốn nhiều thời gian và kinh phí;



đồng thời, cần phân định rõ vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan quản lý
ngân sách, quản lý tài chính nhà nước, đặc biệt là thủ trưởng cơ quan trực tiếp sử dụng
kinh phí, thông tin, báo cáo và quyết toán chi NSNN để tránh sự trùng lặp, chồng chéo
trong quá trình thực hiện. Mặt khác, tạo điều kiện để thực hiện cơ chế kiểm tra, giám sát
lẫn nhau giữa các cơ quan, đơn vị có liên quan trong quá trình kiểm soát chi NSNN.
- Kiểm soát chi NSNN cần được thực hiện đồng bộ, nhất quán và thống nhất với quy
trình quản lý NSNN từ khâu lập dự toán, chấp hành ngân sách đến khâu quyết toán
NSNN. Đồng thời, phải có sự phối hợp thống nhất với việc thực hiện các chính sách, cơ
chế quản lý tài chính khác như chính sách thuế, phí và lệ phí, chính sách khuyến khích
đầu tư, cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu, các đơn vị thực hiện
cơ chế khoán chi
1.2.2.3. Nội dung kiểm soát chi NSNN qua KBNN
Kiểm soát chi NSNN qua KBNN là việc KBNN tiến hành thẩm định, kiểm tra, kiểm
soát các khoản chi NSNN phù hợp với chính sách, chế độ, định mức chi tiêu do nhà nước
quy định theo những nguyên tắc, hình thức và phương pháp quản lý tài chính trong quá

trình cấp phát và thanh toán các khoản chi của NSNN
Nội dung kiểm soát chi NSNN của KBNN bao gồm:
- Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ chi NSNN.
- Kiểm tra tính hợp lệ về con dấu và chữ ký của thủ trưởng và kế toán của đơn vị sử
dụng NSNN.
- Kiểm tra các điều kiện chi theo chế độ quy định, bao gồm:
+ Các khoản chi phải có trong dự toán NSNN được giao, trừ trường hợp: dự toán
ngân sách và phân bổ dự toán ngân sách chưa được cơ quan có thẩm quyền quyết định, cơ
quan tài chính và KBNN tạm cấp kinh phí cho các nhiệm vụ chi: chi lương và các khoản
có tính chất tiền lương; chi nghiệp vụ phí và công tác phí; một số khoản chi cần thiết khác
để bảo đảm hoạt động của bộ máy, trừ các khoản mua sắm trang thiết bị, sửa chữa; chi
cho các dự án chuyển tiếp thuộc các chương trình quốc gia; chi bổ sung, cân đối cho ngân



sách cấp dưới. Mức tạm cấp hàng tháng tối đa không được vượt quá mức chi bình quân
một tháng của năm trước.
+ Các khoản chi phải đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi NSNN do cơ quan có
thẩm quyền quy định.
+ Các khoản chi phải đảm bảo là đã được Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc
người được uỷ quyền quyết định chi.
- Trường hợp sử dụng vốn, kinh phí NSNN để đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm
trang thiết bị, phương tiện làm việc và các công việc khác phải qua khâu đấu thầu hoặc
thẩm định giá; phải tổ chức đấu thầu hoặc thẩm định giá theo quy định của pháp luật.
- Đối với các khoản chi có tính chất thường xuyên sẽ được chia đều trong năm để
chi, các khoản có tính chất thời vụ hoặc chỉ phát sinh vào một số thời điểm như đầu tư
xây dựng cơ bản, mua sắm, sửa chữa lớn và các khoản chi có tính chất không thường
xuyên khác phải thực hiện theo dự toán quý được đơn vị dự toán cấp I giao cùng dự toán
năm.
- Trong quá trình thực hiện kiểm soát chi NSNN, nếu phát hiện thấy các vi phạm về

chính sách, chế độ quản lý tài chính, KBNN có quyền từ chối thanh toán.
1.2.2.4. Vai trò của hệ thống KBNN trong quản lý chi NSNN
Kiểm soát chi NSNN là trách nhiệm của các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị có
liên quan đến việc quản lý và sử dụng NSNN; trong đó hệ thống KBNN giữ vai trò đặc biệt
quan trọng. Luật NSNN đã quy định mọi khoản chi của NSNN chỉ được thực hiện khi có đủ
điều kiện quy định, đồng thời theo nguyên tắc thanh toán trực tiếp cho đơn vị sử dụng ngân
sách và các tổ chức được NSNN hỗ trợ thường xuyên phải mở tài khoản tại KBNN, chịu sự
kiểm tra của cơ quan tài chính và KBNN trong quá trình thanh toán và sử dụng kinh phí.
Như vậy, KBNN chính là “ trạm canh gác và kiểm soát cuối cùng “ được Nhà nước
giao nhiệm vụ kiểm soát trước khi đồng vốn của Nhà nước ra khỏi quỹ NSNN.
Thực hiện nhiệm vụ nói trên, KBNN chủ động bố trí vốn để chi trả đầy đủ và kịp
thời cho các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách theo lệnh của cơ quan tài chính, hoặc theo



yêu cầu rút dự toán ngân sách của đơn vị sử dụng ngân sách trên cơ sở dự toán ngân sách
đã được duyệt, đồng thời thông báo và phân phối dự toán ngân sách cho các cơ quan, đơn
vị. Để thực hiện việc cấp phát, thanh toán kinh phí một cách kịp thời, KBNN còn thường
xuyên phải cải tiến quy trình cấp phát, thanh toán như mở rộng hình thức thanh toán liên
Kho bạc trong nội bộ hệ thống, cải tiến chế độ kế toán, ứng dụng tin học vào quản lý các
nghiệp vụ Từng bước thực hiện cấp phát, thanh toán trực tiếp cho đơn vị sử dụng ngân
sách hoặc người cung cấp hàng hoá dịch vụ theo tính chất của từng khoản chi NSNN.
Trên cở sở đó, KBNN thực hiện kiểm tra và hạch toán các khoản chi của NSNN
theo đúng chương, loại, khoản, hạng, mục, tiểu mục của mục lục NSNN; đồng thời, cung
cấp đầy đủ và chính xác các thông tin cần thiết, phục vụ các công tác chỉ đạo và điều
hành của cơ quan tài chính và chính quyền các cấp. Ngoài ra, KBNN còn phối hợp chặt
chẽ với cơ quan tài chính trong việc bố trí, sắp xếp các nhu cầu chi tiêu, bảo đảm thu chi
ngân sách nhà nước luôn được cân đối, việc điều hành quỹ NSNN được bảo đảm thuận
lợi.
Khi nhận được lệnh trả tiền của cơ quan tài chính hay đơn vị sử dụng kinh phí ngân

sách cấp, nhiệm vụ của KBNN là trả tiền ngay cho đơn vị được hưởng. Tuy nhiên,
KBNN không chỉ có nhiệm vụ xuất nhập công quỹ, mà còn có trách nhiệm quản lý quỹ
NSNN. Với nhiệm vụ này của mình, KBNN chiụ trách nhiện về tính hợp pháp, hợp lệ của
việc xuất tiền. Vì vậy, KBNN phải kiểm tra việc sử dụng kinh phí NSNN cấp cho các đơn
vị, tổ chức kinh tế, bảo đảm đúng mục đích, đúng chế độ định mức chi tiêu của Nhà nước.
Công việc kiểm tra đó được KBNN thực hiện thông qua việc xem xét hồ sơ, tài liệu chi
NSNN trên các phương diện như dự toán ngân sách được duyệt, thẩm quyền chuẩn chi,
chế độ, định mức chi tiêu của nhà nước. Trong quá trình kiểm tra, nếu phát hiện thấy cơ
quan, đơn vị, tổ chức kinh tế sử dụng kinh phí được ngân sách nhà nước cấp không đúng
mục đích, không đúng chế độ, chính sách của nhà nước, KBNN từ chối cấp phát thanh
toán. Như vậy, trong quá trình quản lý và điều hành ngân sách nhà nước, KBNN không
thụ động thực hiện theo các lệnh của cơ quan tài chính, hoặc đơn vị sử dụng ngân sách
một cách đơn thuần. KBNN hoạt động có tính chất độc lập tương đối, theo cơ chế tác
động trở lại đối với các cơ quan, đơn vị này. Thông qua đó, KBNN có thể đảm bảo tính



chặt chẽ trong quá trình sử dụng công quỹ nhà nước, đặc biệt trong khâu mua sắm, xây
dựng, sửa chữa Chính vì vậy, việc này không những đã hạn chế được tình trạng lãng
phí, thất thoát, tiêu cực, mà còn đảm bảo cho việc sử dụng kinh phí NSNN đúng mục
đích, hợp pháp, tiết kiệm, có hiệu quả; đồng thời, tham gia kiểm soát chặt chẽ việc sử
dụng tiền mặt trong thanh toán, góp phần chống tiêu cực, đề cao kỷ cương, kỷ luật quản
lý tài chính - tiền tệ.
Thông qua công tác cấp phát, thanh toán các khoản chi của NSNN, KBNN còn tiến
hành tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình chi NSNN qua KBNN theo từng địa bàn,
từng cấp ngân sách và khoản chi chủ yếu. Từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá về những
kết quả đã đạt được, những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân; từ đó cùng các cơ quan hữu
quan phối hợp nghiên cứu nhằm cải tiến và hoàn thiện cơ chế cấp phát, thanh toán và
kiểm soát chi NSNN qua KBNN
1.2.2.5. Phân loại kiểm soát chi NSNN

Có thể phân loại kiểm soát chi NSNN thành kiểm soát trước, kiểm soát trong và
kiểm soát sau khi nghiệp vụ chi NSNN được thực hiện.
Theo phạm vi không gian có kiểm soát từ bên trong và kiểm soát từ bên ngoài.
Ngoài ra còn có kiểm soát tuân thủ và kiểm soát hiệu quả.
1.2.2.6. Các công cụ kiểm soát chi NSNN qua hệ thống KBNN
- Công cụ kế toán nhà nước bao gồm kế toán KBNN, kế toán NSNN và kế toán các
đơn vị sử dụng NSNN
- Công cụ mục lục NSNN
- Công cụ hệ thống định mức phân bổ ngân sách
- Công cụ dự toán chi ngân sách, thực chất đó là kế hoặch chi ngân sách của một
năm hoặc có thể chia ra hàng quý, hàng tháng.
- Công cụ hợp đồng mua sắm tài sản công



- Công cụ thanh toán, kiểm soát chi NSNN của KBNN gắn liền với việc thanh toán
cho các đơn vị sử dụng ngân sách.
- Công cụ tin học.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác kiểm soát chi NSNN tại hệ thống KBNN
1.3.1. Nhân tố chủ quan
* Chức năng, nhiệm vụ của KBNN:
Việc kiểm soát chi NSNN qua KBNN đòi hỏi KBNN phải có một vị thế, vai trò nhất
định để đảm trách nhiệm vụ này. Vì vậy, việc quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của
KBNN tại một văn bản pháp lý cao như Pháp lệnh hay Luật của Quốc hội sẽ khẳng định
vị trí, vai trò của KBNN; cùng với đó, nâng cao hiệu quả của công tác kiểm soát chi
NSNN qua KBNN
* Đội ngũ cán bộ đảm nhiệm công tác kiểm soát chi của KBNN:
Cán bộ thực hiện công tác kiểm soát chi của KBNN là những người trực tiếp thực
hiện việc kiểm soát chi NSNN; vì vậy, cán bộ KBNN phải đảm bảo: “ vừa hồng, vừa
chuyên “ để đảm đương nhiệm vụ kiểm soát chi một cách chặt chẽ, hiệu quả; đồng thời,

cũng không phát sinh các hiện tượng cửa quyền, sách nhiễu trong quá trình kiểm soát chi.
1.3.2. Nhân tố khách quan
* Luật NSNN
Đối với những nước có Luật ngân sách thì Luật này luôn quy định vai trò và trách
nhiệm của KBNN trong các nhiệm vụ quản lý quỹ NSNN, kiểm soát thu – chi và kế toán
NSNN. Luật NSNN là yếu tố pháp lý, tạo nền tảng cho việc phát triển các nghiệp vụ kiểm
soát chi NSNN.
* Chiến lược tài chính
Chiến lược tài chính giai đoạn 2001 – 2010 đã xác định tám nhóm giải pháp chính,
trong nhóm giải pháp thứ tám đã nhấn mạnh: Đẩy mạnh cải cách quản lý tài chính công
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính công, tăng cường chất lượng,



hiệu quả chấp hành, sử dụng NSNN, tăng cường sự gắn kết giữa chi NSNN với việc thực
hiện các mục tiêu chính trị - văn hoá – kinh tế - xã hội, cải thiện số lượng và chất lượng
các dịch vụ công cộng. Hiện đại hoá công nghệ tài chính, công nghệ kiểm soát chi tại
KBNN, áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ trong quản lý tài chính – NSNN phù hợp
với tiến trình hội nhập.
* Dự toán NSNN:
Dự toán NSNN là một trong những căn cứ quan trọng nhất để KBNN thực hiện
nhiệm vụ kiểm soát chi NSNN. Vì vậy, dự toán NSNN phải đảm bảo kịp thời, chính xác
về nội dung chi, mức chi phải phù hợp thực tế; phải đầy đủ, bao quát hết các nhu cầu chi
tiêu của đơn vị trong năm ngân sách và phải chi tiết, dự toán NSNN càng chi tiết thì việc
kiểm soát chi của KBNN càng thuận lợi và chặt chẽ. Dự toán NSNN làm căn cứ cho
KBNN kiểm tra, kiểm soát quá trình chi tiêu của đơn vị.
* Chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi NSNN:
Hệ thống chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi NSNN là căn cứ quan trọng trong việc
xây dựng, phân bổ và kiểm soát chi NSNN. Vì vậy, nó phải đảm bảo tính chính xác, phù
hợp với tình hình thực tế; tính thống nhất giữa các ngành, các địa phương, đơn vị thụ

hưởng NSNN và tính đầy đủ, bao quát tất cả các nội dung chi phát sinh trong thực tế.
* Các chính sách, chế độ tài chính:
Các chính sách, chế độ tài chính - kế toán liên quan đến kiểm soát chi NSNN như:
Kế toán nhà nước, Mục lục NSNN, Định mức phân bổ NSNN, Định mức chi NSNN, Dự
toán chi NSNN, Hợp đồng mua sắm tài sản công, Công cụ thanh toán, Kế toán NSNN
* Ý thức chấp hành của các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN
Cần nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành Luật của các đơn vị sử dụng kinh phí
NSNN, để họ thấy rõ kiểm soát chi là trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đơn vị và
cá nhân liên quan đến quỹ NSNN chứ không phải đó chỉ là công việc riêng của ngành Tài
chính, KBNN. Các ngành, các cấp cần nhận thấy vai trò của mình trong quá trình quản lý



quỹ chi NSNN từ khâu lập dự toán, phân bổ dự toán, thông báo hạn mức kinh phí cấp
phát thanh toán, kế toán và quyết toán các khoản chi NSNN.
Ngoài ra, việc kiểm soát chi NSNN qua KBNN muốn đạt kết quả cao cũng cần đòi
hỏi tới một số điều kiện khác như hiện đại hoá công nghệ KBNN, hoàn thiện hệ thống kế
toán và quyết toán NSNN, hiện đại hoá công nghệ thanh toán của KBNN và cả của nền
kinh tế
1.4. Kinh nghiệm kiểm soát chi NSNN của một số nước.
1.4.1. Tình hình chung về chi NSNN
Mỗi quốc gia đều có một hệ thống Ngân sách được tổ chức phù hợp với hệ thống hành
chính của nó, nghĩa là mỗi cấp chính quyền là một cấp Ngân sách, tự lập xét duyệt và tự
quản lý ngân sách của mình. Tuy nhiên, ở các nước, Ngân sách Trung ương luôn đóng vai
trò chủ đạo, khi cần thiết có thể trợ cấp cho Ngân sách địa phương. Chi Ngân sách nhà
nước ở mỗi nước đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội ở nước đó nói chung và nội
dung chi NSNN rất phong phú, đa dạng, các khoản chi đều có ảnh hưởng rộng lớn.
Người ta có thể có nhiều cách để phân loại các khoản chi, chẳng hạn nếu căn cứ vào
mục tiêu kinh tế xã hội thì chi NSNN chia thành: Chi cho sản xuất vật chất và chi cho sản
xuất phi vật chất. Nếu căn cứ vào mục tiêu kinh tế - xã hội thì chi NSNN được chia thành:

chi đầu tư phát triển và chi tiêu dùng thường xuyên; còn căn cứ vào các lĩnh vực hoạt
động thì Ngân sách được chia thành: chi cho Y tế , chi cho Giáo dục Căn cứ vào chức
năng quản lý nhà nước thì chi Ngân sách được chia thành chi nghiệp vụ và chi phát triển.
Ở mỗi nước đều áp dụng một hệ thống phân loại chi NSNN riêng và được quy định
trong Luật Ngân sách Nhà nước. Đặc điểm của hệ thống này là chúng đều được hình
thành trên cơ sở kết hợp nhiều phương thức phân loại khác nhau. Chi NSNN được phân
vào nhiều lĩnh vực nhằm phát triển kinh tế xã hội, nhưng họ thực hiện chính sách chi tiêu
thắt chặt, chi tiêu có chọn lọc, tập trung chủ yếu vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế vĩ
mô, hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.



Chi tiêu của NSNN luôn gắn chặt với vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước. Trong
cơ chế thị trường, vai trò của Nhà nước luôn gắn chặt với vai trò quản lý, điều tiết của
Nhà nước. Vai trò của Nhà nước là phải chú ý đến công ăn việc làm, tăng phúc lợi xã hội,
mở rộng và hiện đại hoá kết cấu hạ tầng, tạo môi trường cho các thành phần kinh tế phát
triển. Đó chính là định hướng cho cơ cấu chi tiêu cho Ngân sách nhà nước. Ở Indonesia
có một cơ quan Chính phủ phụ trách vấn đề kế hoạch hoá gia đình với ngân sách chi hàng
năm từ 200 – 250 triệu dollar, cũng ở đây, ngân sách dành cho quỹ bảo vệ môi trường
chiếm 10% tổng chi phí cho phát triển. Các nước ASEAN có biện pháp giải quyết vấn đề
nghèo khổ là: chi NSNN cho xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn, Indonesia đã dành
16% quỹ phát triển cho chương trình này; ở Hàn Quốc có chương trình bán cổ phần một
số doanh nghiệp quốc doanh theo giá ưu đãi, được mua chịu, trả dần cho những người
nghèo.
Bội chi Ngân sách luôn là căn bệnh trầm kha của bất kỳ ngân sách nước nào và đó
cũng là thách thức lớn đối với mỗi chính phủ. Nghiên cứu nội dung thu – chi và tình hình
thâm hụt NSNN ở các nước cho thấy một nguyên tắc luôn được quán triệt là họ phân biệt
rạch ròi về thu thường xuyên ( từ thuế và các khoản khác không mang tính hoàn trả trực
tiếp ) với chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển, sau đó họ cân đối giữa thu thường
xuyên và chi thường xuyên, phần còn lại sẽ được so với dự toán chi đầu tư và xác định số

bội chi NSNN. Như vậy, toàn bộ số thâm hụt ngân sách được thể hiện ở nhu cầu chi đầu
tư và do đó có hai biện pháp để bù đắp bội chi NSNN là phát hành thêm tiền và đi vay.
Việc phát hành thêm tiền để bù đắp bội chi NSNN là biện pháp được nhiều Chính
phủ sử dụng. Tuy nhiên, nó chỉ là nhất thời, nếu kéo dài sẽ gây hậu quả xấu rất lớn đối
với nền kinh tế, làm giảm giá trị đồng tiền. Biện pháp đi vay để bù đắp bội chi NSNN
xem ra có vẻ ưu việt hơn, bởi lẽ nó cân đối hài hoà nền kinh tế. Vay bao nhiều và xác
định được khả năng trả nợ vay, có thể vay trong nước ( thông qua chính sách về huy động
vốn trong nước ) hoặc đi vay nước ngoài. Cần lưu ý rằng vay để bù đắp bội chi NSNN
phải được sử dụng cho mục đích đầu tư phát triển, tuyệt đối không sử dụng vốn vay để
thoả mãn nhu cầu tiêu dùng. Đầu tư phát triển được phân thành: đầu tư hình thành cơ sở



sản xuất kinh doanh lớn của nhà nước và đầu tư kết cấu hạ tầng. Mỗi mục đích đầu tư nhà
nước đều có chính sách đảm bảo cân đối được ngân sách.
1.4.2. Kiểm soát chi NSNN ở một số nước
Ở các nước, nhất là các nước tư bản phát triển họ có một cơ chế khá hoàn chỉnh về
kiểm soát chi NSNN. Chi NSNN được chính quyền Trung ương và chính quyền Địa
phương thực hiện theo Luật định. Chi của ngân sách địa phương chủ yếu là chi cho bộ
máy quản lý địa phương ( 10 – 20% tổng số chi ngân sách địa phương ), ngoài ra các
khoản chi khác của ngân sách địa phương cũng khá lớn, chẳng hạn chi cho Giáo dục và
học nghề ở Mỹ, Anh chiếm tới 40%, ở Nhật chiếm 33%, ở Đức và Pháp chiếm 30% tổng
số ngân sách địa phương của các nước này. Ngân sách ở địa phương của nhiều nước còn
đỡ đầu về tài chính cho đa số các trường tư; ở Mỹ và Đức ngân sách các bang đã trang
trải khoảng 40% số chi cho các trường đại học . Chi cho giao thông địa phương, chi cho
đường xá, cầu cống và các chương trình thuộc công ích của địa phương; khoản chi này ở
Mỹ, Nhật, Pháp và Đức chiếm khoảng ¼ tổng số chi của ngân sách địa phương.
Ngoài ra, chi của ngân sách địa phương các nước này có một số các khoản chi khác
như chi xây dựng nhà ở, sửa chữa quỹ nhà, an ninh, cứu hoả, bảo vệ môi trường và tất
cả đều được quy định trong Luật. Chi của ngân sách địa phương nhiều hay ít là phụ thuộc

vào nhu cầu kinh tế xã hội và khả năng tài chính của ngân sách địa phương. Ở các nước,
tỷ trọng này chiếm khá lớn, từ 14 – 20% GDP. Ngân sách trung ương giữ vài trò chủ đạo,
tập trung các nguồn thu có tính chất quốc gia để giải quyết các nhu cầu chi quan trọng
trên phạm vi quốc gia. Ngân sách trung ương gắn liền với chức năng và nhiệm vụ chính
quyền Trung ương. Các khoản chi của ngân sách trung ương đều phục vụ cho các mục
tiêu quốc gia và chủ yếu là các khoản chi nhằm mục tiêu phát triển kinh tế và quản lý xã
hội.
Một vấn đề nữa là quan hệ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương
trong lĩnh vực kiểm soát chi NSNN. Ở các nước này, ngân sách địa phương được quyền
tự chủ, tự quyết định các khoản chi thuộc phạm vi ngân sách địa phương trên cơ sở cân
đối với nguồn thu của ngân sách địa phương. Trong khi đó, các chương trình trọng điểm



phục vụ cho quốc kế dân sinh đều do ngân sách trung ương đài thọ. Ngân sách trung ương
hỗ trợ ngân sách địa phương theo một cơ chế kiểm soát hoàn hảo. Ngân sách địa phương
có quyền vay ngân sách trung ương khi cần thiết.
Ta có thể tìm hiểu cơ chế kiểm soát chi ngân sách của một số nước .
* Kiểm soát chi NSNN ở Pháp:
Việc tăng hay giảm mức chi NSNN có ảnh hưởng đến nền kinh tế rất rõ nét nên
quyết định về mức chi cần được xem xét và thực hiện một cách thận trọng, thông qua
nhiều bước
Tuỳ thuộc vào chính sách kinh tế của Chính phủ, Bộ tài chính sẽ giới hạn chi cho
từng Bộ chuyên ngành theo những chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật, nếu không đạt được sự nhất
trí giữa các Bộ thì Thủ tướng Chính phủ sẽ là người ra quyết định. Việc bù đắp bội chi
NSNN được áp dụng bằng các biện pháp như
- Vay của Ngân hàng trung ương.
- Phát hành tín phiếu Kho bạc nhà nước.
Việc vay nợ của Nhà nước cũng là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính,
được Quốc hội thông qua, từ đó, Chính phủ có thể tổng hợp được mức vay trong năm.

Trong quá trình thực hiện Chính phủ có thể tổ chức vay vốn làm nhiều lần.
Về ngân sách địa phương ở Pháp, nội dung chi được chia làm hai phần là chi thường
xuyên và chi đầu tư phát triển. Chi thường xuyên bao gồm các khoản chi như: trả lương
cho công chức, viên chức nhằm duy trì bộ máy quản lý; chi trả các dịch vụ bảo trì tài sản;
chi trả lãi tiền vay Chi đầu tư chủ yếu gồm các khoản chi như: mua đất làm đường, mua
sắm tài sản cố định Tất cả các khoản chi đều được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của
đại diện nhà nước tại địa phương, do Chính phủ bổ nhiệm. Kế toán Kho bạc được bố trí
bên cạnh tất cả các Bộ trưởng, Tỉnh trưởng các cơ quan hành chính, ngoại giao trong và
ngoài nước. Kế toán Kho bạc chỉ được phép chi khi có lệnh của người chuẩn chi và có
quyền kiểm tra tài chính đối với các lệnh chi.
* Kiểm soát chi NSNN ở Đức



Trên cơ sở Luật ngân sách, chi NSNN phải tuân theo các nguyên tắc chính như:
- NSNN phải cân đối, thu – chi phải cân bằng.
- NSNN phải toàn diện, không được bù trừ giữa thu và chi, mọi khoản thu – chi phải
được ghi đầy đủ vào ngân sách
- Mọi khoản thu phải dùng để bù đắp các khoản chi.
- Thu – chi phải được chuyên môn hoá theo mục đích, tạo điều kiện cho việc kiểm
tra và giám sát của Quốc hội
- Chi phải đảm bảo tính kinh tế và tiết kiệm.
- Tính chính xác và trung thực trong thu – chi.
- Tính công khai ( ngoại trừ những khoản chi thuộc bí mật quốc gia nhưng phải được
Quốc hội chuẩn y và có cơ quan giám sát )
Như vậy, với những nguyên tắc nhất định, mỗi bang ở Đức đều có hiến pháp riêng
của mình và những điều khoản quy định chung quy định về ngân sách liên bang, theo đó,
việc kiểm soát chi NSNN diễn ra thường xuyên và liên tục.
* Kiểm soát chi NSNN ở Malaysia
Malaysia là nhà nước liên bang, hệ thống ngân sách được tổ chức trên cơ sở thể chế

hành chính, gồm 3 cấp:
- Ngân sách liên bang.
- Ngân sách bang.
- Ngân sách của chính quyền địa phương dưới bang.
Ngân sách liên bang có hai loại chi: chi nghiệp vụ và chi phát triển. Hai khoản chi
này được gắn liền với chức năng của nhà nước liên bang. Chi nghiệp vụ bao gồm các
khoản chi: trả lương công nhân viên chức ở các cơ quan Chính phủ; trả nợ trong và ngoài
nước; cung cấp dịch vụ, trợ giá và trợ cấp Chi phát triển bao gồm các khoản chi: phát
triển kinh tế - xã hội; cho thương nghiệp và công nghiệp; phát triển anh ninh, quản lý
hành chính và các khoản chi đặc biệt khác.



Ngân sách bang có nhiệm vụ cân đối thu – chi ở địa phương, nếu thu ngân sách các
bang không đủ bù đắp chi thì ngân sách liên bang sẽ hỗ trợ nhưng phải đáp ứng được
những điều kiện nhất định
Khác với ở Pháp, khi có bội chi NSNN thì Chính phủ Malaysia đi vay dân hoặc vay
nước ngoài mà không bao giờ vay của Ngân hàng trung ương.
Qua việc nghiên cứu cơ chế kiểm soát chi ở một số nước, ta thấy có một số điểm
đáng lưu ý như sau:
- Về cơ sở pháp lý: chi NSNN luôn tuân theo quy định của Luật và gắn liền với các
hoạt động kinh tế - xã hội. Các hoạt động kế toán và kiểm toán đóng vai trò quan trọng trong
kiểm soát ngân sách và kiểm soát chi ngân sách nói riêng. Mỗi nước đều có một hệ thống pháp
luật có tính khả thi và khá hoàn chỉnh.
- Về hoạt đông kiểm soát chi NSNN, ngoài việc đổi mới và tăng cường hoạt động
của hệ thống các cơ quan tài chính, môi trường pháp lý còn được bảo đảm bằng hệ thống
Luật như:
+ Luật ngân sách.
+ Luật kế toán và kiểm toán.
+ Luật chính quyền địa phương

- Về chính sách quản lý chi NSNN: đa số các nước đều thực hiện chính sách thắt
chặt chi tiêu, dù rằng phân loại chi tiêu theo tiêu thức nào cũng phải đảm bảo nguyên tắc
hiệu quả và tiết kiệm. Chi NSNN là một hoạt động quyền lực thể hiện ở sự kiểm tra, giám
sát tất cả các hoạt động chi tiêu của nhà nước.

×