Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ tại nhà máy bia Đông Nam Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1004.65 KB, 78 trang )







LUẬN VĂN:

Nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ
tại nhà máy bia Đông Nam Á







LỜI MỞ ĐẦU

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là mục tiêu phấn đấu lâu dài của mỗi
doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn cùng với hiệu quả sử dụng TSLĐ luôn gắn liền
với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để đưa ra những biện pháp hữu
ích nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ, doanh nghiệp cần có sự kết hợp lý luận và
điều kiện thực tiễn tại doanh nghiệp.
Trong thời đại kinh tế thị trường, thêm nữa là việc Việt Nam vừa tham gia
vào tổ chức kinh tế thế giới WTO, một số doanh nghiệp đã có phương pháp, biện pháp
huy động và sử dụng vốn kinh doanh một cách năng động và hiệu quả. Nhưng cũng có
những doanh nghiệp không thể huy động được vốn, đôi khi còn thâm hụt vốn. Lý do là
ở công tác quản lý sử dụng vốn kém hiệu quả.
Trong tình hình chung đó, nhà máy bia Đông Nam Á đã có nhiều cố gắng
trong việc khai thác, sử dụng vốn kinh doanh và đã đạt được những thành tựu đáng kể.


Tuy nhiên, nhà máy cũng còn nhiều khó khăn trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, đặc biệt là nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ. Là một doanh nghiệp sản
xuất, TSLĐ lại càng quan trọng hơn nữa, do đó đòi hỏi nhà máy bia Đông Nam Á phải
có phương pháp quản lý và sử dụng TSLĐ một cách khoa học, hợp lý nhằm đem lại
hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp.
Hiểu được tầm quan trọng của TSLĐ trong các doanh nghiệp nói chung, trong
nhà máy bia Đông Nam Á nói riêng, em đã chọn đề tài
“ Nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ tại nhà máy bia Đông Nam Á”.
Nội dung chính của chuyên đề thực tập tốt nghiệp được trình bày trong các chương
sau:
Chương I: Cơ sở lý luận chung về TSLĐ và hiệu quả sử dụng TSLĐ trong doanh
nghiệp
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng TSLĐ tại nhà máy bia Đông Nam Á
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ tại nhà máy bia Đông Nam Á.

Chương I: Cơ sở lý luận chung về TSLĐ và hiệu quả sử dụng TSLĐ trong doanh
nghiệp
1.1 Tổng quan về TSLĐ của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm TSLĐ
TSLĐ là đối tượng lao động thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, mà đặc
điểm của chúng là luân chuyển toàn bộ giá trị ngay một lần vào chi phí kinh doanh.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần ba yếu tố: tư liệu lao
động, đối tượng lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình
kết hợp các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ. Tư liệu lao động tham
gia vào cả quá trình sản xuất, trong khi đó đối tượng lao động lại chỉ tham gia vào một
chu kỳ sản xuất, hết một chu kỳ lại có đối tượng lao động khác xuất hiện. Các đối
tượng lao động sau khi tham gia vào quá trình sản xuất, không giữ nguyên hình thái
vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ, một lần vào các sản phẩm.
Đa số các đối tượng lao động trải qua việc chế biến để thành sản phẩm, ví dụ như vỏ
cây thành giấy, lúa mạch thành bia. Hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải

có các đối tượng lao động. Biểu hiện dưới hình thái vật chất của đối tượng lao động
gọi là TSLĐ.
TSLĐ là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình
kinh doanh. Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, TSLĐ được thể hiện ở các
bộ phận tiền mặt, các chứng khoán thanh khoản cao, phải thu và dự trữ tồn kho. Giá trị
các loại TSLĐ thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của một doanh
nghiệp. Vì thế việc quản lý TSLĐ có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hoàn thành
nhiệm vụ của doanh nghiệp.
1.1.2 Phân loại TSLĐ
Tùy theo căn cứ để phân loại, TSLĐ có rất nhiều loại khác nhau.
1.1.2.1 Căn cứ vào vai trò của TSLĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh
Theo cách phân loại này, TSLĐ được phân thành:

- TSLĐ trong khâu dự trữ: bao gồm các vật tư, nguyên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ
lao động.
+ Nguyên vật liệu chính hay bán thành phẩm mua ngoài- là những loại nguyên
vật liệu khi tham gia vào sản xuất chúng tạo nên thực thể sản phẩm.
+ Nguyên vật liệu phụ- là những loại nguyên vật liệu giúp cho việc hình thành
sản phẩm bền hơn đẹp hơn.
+ Nhiên liệu- là loại dự trữ cho sản xuất có tác dụng cung cấp nhiệt lượng cho
quá trình sản xuất như củi, than đá, gaz, …
+ Phụ tùng thay thế: là các chi tiết, phụ tùng, linh kiện máy móc thiết bị dự
trữ phục vụ cho việc sửa chữa hoặc thay thế những bộ phận của máy móc thiết bị sản
xuất, phương tiện vận tải, …
+ Vật liệu đóng gói: là những vật liệu để đóng gói trong quá trình sản xuất như
bao nilông, vỏ chai, vỏ keg, …
+ Công cụ lao động nhỏ: để tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và
giữ nguyên hình thái vật chất, nhưng giá trị rất nhỏ, không đủ tiêu chuẩn để là tài sản
cố định.
- TSLĐ trong khâu sản xuất: bao gồm các sản phẩm dở dang, bán thành phẩm.

Sản phẩm dở dang, bán thành phẩm: là khối lượng sản phẩm đang trong quá
trình chế tạo, đang nằm trên dây chuyền công nghệ, đã kết thúc một vài quy trình chế
biến nhưng phải qua một số quy trình nữa mới thành thành phẩm.
- TSLĐ trong lưu thông bao gồm: các thành phẩm, hàng hóa, hàng gửi bán, tiền, các
khoản phải thu, các khoản đầu tư ngắn hạn và các khoản ký cược, ký quỹ ngắn hạn.
+ Thành phẩm: là những thành phẩm sản xuất xong nhập kho được dự trữ cho
quá trình tiêu thụ.
+ Hàng hóa: là những hàng hóa mua từ bên ngoài (đối với các đơn vị kinh
doanh thương mại).
+ Hàng gửi bán: là các hàng hóa, thành phẩm đơn vị đã xuất, gửi cho khách
hàng mà chưa được khách hàng chấp nhận.

+ Tiền: bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển và cả các
khoản tương đương tiền như vàng, bạc, đá quý, …
+ Các khoản phải thu: phát sinh trong quá trình bán hàng hoặc thanh toán nội
bộ.
+ Đầu tư ngắn hạn: thường là các khoản đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn có
tính thanh khoản cao.
+ Các khoản ký cược, ký quỹ: do khách hàng chưa có tiền mặt để trả ngay,
nên phát sinh các khoản ký cược, ký quỹ.
1.1.2.2 Căn cứ theo hình thái biểu hiện
Theo hình thái biểu hiện, TSLĐ được chia thành:
- Vật tư hàng hóa: gồm vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ lao động, sản
phẩm dở dang, bán thành phẩm, hàng hóa, thành phẩm.
- Tiền: gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, vàng, bạc, đá quý, các khoản đầu tư ngắn
hạn, khoản ký quỹ, ký cược, khoản phải thu.
1.1.2.3 Căn cứ theo nguồn vốn tài trợ
TSLĐ được tài trợ bởi vốn lưu động, nhưng vốn lưu động cũng được hình
thành từ nhiều nguồn khác nhau. Vì vậy, có thể phân loại TSLĐ thành hai loại:
- TSLĐ được tài trợ bởi vốn chủ sở hữu: tiền mua TSLĐ có từ vốn của chủ sở hữu.

- TSLĐ được tài trợ bởi vốn đi vay: tức là TSLĐ có được từ nguồn đi vay.
1.1.2.4 Căn cứ theo khả năng chuyển hóa thành tiền của TSLĐ
Dựa vào việc nghiên cứu chu kỳ vận động của tiền mặt, người ta phân loại
TSLĐ thành các loại sau:
+ Ngân quỹ: bao gồm tiền và các khoản tương đương tiền: như vàng, bạc, đá
quý, chứng khoán thanh khoản cao. Tiền ở đây bao gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ở
ngân hàng, tiền đang chuyển. Vàng, bạc, đá quý là những tài sản đặc biệt, được sử
dụng chủ yếu để dự trữ. Chứng khoán thanh khoản cao là các loại chứng khoán ngắn
hạn dễ trao đổi.

+ Các khoản phải thu: là các khoản khách hàng tạm thời chưa trả tiền cho
doanh nghiệp. Đây là tài sản rất quan trọng của doanh nghiệp, đặc biệt với các doanh
nghiệp thương mại. Hoạt động mua bán chịu thường xuyên diễn ra giữa các bên, do đó
phát sinh tín dụng thương mại.
+ Dự trữ, tồn kho: gồm nguyên vật liệu, nhiên liệu, thành phẩm dở dang, sản
phẩm cuối cùng.
+ Đầu tư tài chính ngắn hạn: là các khoản đầu tư tài chính có thời gian dưới 1
năm.
+ TSLĐ khác.
1.1.3 Đặc điểm các loại TSLĐ
TSLĐ có ba đặc điểm chung:
+ Tham gia vào một chu kỳ kinh doanh.
+ Thay đổi hình thái vật chất ban đầu để cấu tạo thành thực thể sản phẩm.
+ Giá trị luân chuyển một lần vào giá thành sản phẩm làm ra.
Bên cạnh đó, từng loại của TSLĐ đều có những đặc điểm riêng biệt.
1.1.3.1 Tiền mặt và các chứng khoán thanh khoản cao
Tiền mặt (cash) được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của
doanh nghiệp ở ngân hàng. Tiền mặt được sử dụng để mua nguyên vật liệu, mua tài
sản cố định, trả lương, trả nợ, nộp thuế, …Lưu ý rằng, trong ngôn ngữ tiếng Việt, “tiền
mặt” không bao gồm tiền gửi ngân hàng; và việc sử dụng séc trong thanh toán của các

doanh nghiệp được gọi là “ thanh toán không dùng tiền mặt”. Vì vậy cần phải nhấn
mạnh, tiền mặt- “cash”- theo cách hiểu trong lĩnh vực tài chính- kế toán bao gồm: tiền
mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền dưới dạng séc các loại, tiền trong thanh toán, tiền trong
thẻ tín dụng và các loại tài khoản thẻ ATM.
Đối với thế giới kinh doanh, tiền mặt luôn luôn là dòng tiền đầu tiên phản ánh
tình trạng và cấu trúc tài sản trong Bảng cân đối kế toán với ý nghĩa là loại tài sản
ngắn hạn có tính thanh khoản cao. Lượng tiền mặt có sẵn trong doanh nghiệp có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng và có sự khác biệt lớn giữa lợi nhuận của hoạt động kinh

doanh và lượng tiền mặt sẵn sàng cho chi trả, thanh toán nợ. Lợi nhuận của doanh
nghiệp được tính bằng đơn vị tiền tệ, nhưng nó chỉ xuất hiện sau hoạt động kinh doanh
một thời gian. Còn lượng tiền mặt lại tính ở một thời điểm. Đã có rất nhiều trường hợp
các doanh nghiệp tính toán trên sổ sách là lãi, nhưng lại không đủ tiền mặt để thanh
toán các khoản công nợ, nên cuối cùng dẫn đến phá sản. Do đó, việc giữ tiền mặt là vô
cùng quan trọng.
* Lý do phải giữ tiền mặt:
Tiền mặt bản thân nó là loại tài sản không sinh lãi, do đó mục tiêu quan trọng
nhất trong quản lý tiền mặt là tối thiểu hóa lượng tiền mặt phải giữ mà vẫn đảm bảo
hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường. Tuy nhiên, như đã nói, việc nắm giữ tiền
mặt cũng là rất cần thiết, có thể nêu một ra một số lý do như sau:
+ Để đảm bảo giao dịch kinh doanh hàng ngày. Việc mua nguyên vật liệu, thu
tiền từ khách hàng sẽ tạo ra số dư giao dịch.
+ Bù đắp cho ngân hàng về việc ngân hàng cung cấp các khoản vay hoặc các
dịch vụ cho doanh nghiệp. Số dư tiền mặt này gọi là số dư bù đắp.
+ Đáp ứng nhu cầu dự phòng trong trường hợp biến động không lường trước
được của các luồng tiền vào và ra. Số tiền này tạo nên số dư dự phòng.
+ Hưởng lợi thế trong thương lượng mua hàng. Duy trì số dư này sẽ giúp
doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội kiếm lời.
* Trong hoạt động kinh doanh, gửi tiền mặt là cần thiết, nhưng việc giữ đủ
tiền mặt phụ vụ cho kinh doanh có những lợi thế sau:

+ Công ty có thể được hưởng chiết khấu nếu việc thanh toán tiền được thực
hiện trong một thời gian nhất định. Việc này chỉ xảy ra nếu doanh nghiệp có đủ tiền
mặt.
+ Giữ đủ tiền mặt, các chỉ số thanh toán ngắn hạn của công ty sẽ tốt, từ đó sẽ
giúp cho nhà cung cấp bán hàng cho doanh nghiệp với điều kiện thuận lợi và mức tín
dụng đưa ra là rộng rãi; đồng thời với các nhà đầu tư, doanh nghiệp cũng vì thế mà hấp
dẫn hơn.

+ Doanh nghiệp có thể tận dụng được những cơ hội thuận lợi trong kinh doanh
do chủ động trong hoạt động thanh toán.
+ Một số trường hợp xảy ra: đình công, hỏa hoạn, chiến dịch marketing của
đối thủ cạnh tranh, các khó khăn sẽ được giải quyết khi doanh nghiệp có đủ tiền mặt.
1.1.3.2 Dự trữ, tồn kho
Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động để phục vụ cho quá trình sản
xuất kinh doanh, việc tồn tại vật tư hàng hóa dự trữ, tồn kho là rất cần thiết cho quá
trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Hàng tồn kho có 3 loại:
+ Nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh
+ Sản phẩm dở dang
+ Thành phẩm
Hàng tồn kho gồm 3 loại như trên, nhưng thông thường, trong quản trị vấn đề được đề
cập đến là nguyên vật liệu dự trữ cho sản xuất kinh doanh. Đối với doanh nghiệp
thương mại thì dự trữ nguyên vật liệu chính là dự trữ hàng hóa để bán.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp không thể sản xuất đến đâu
mua hàng đến đó, mà cần phải mua nguyên vật liệu dự trữ. Nguyên vật liệu dự trữ
không trực tiếp tạo ra lợi nhuận, nhưng lại có vai trò rất lớn để cho quá trình sản xuất-
kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra liên tục. Do đó, nếu dự trữ quá lớn sẽ tốn
kém chi phí, ứ đọng vốn, còn nếu dự trữ quá ít sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh
doanh bị gián đoạn gây ra hàng loạt các hậu quả tiếp theo. Nếu nhu cầu tiêu thụ hàng
hóa nhiều, thì hàng tồn kho nhiều sẽ làm cho quá trình sản xuất, bán hàng hiệu quả và
nhanh hơn, đó là một thuận lợi so với đối thủ cạnh tranh. Còn nếu hàng tồn kho nhiều

mà hàng hóa không bán được do nhiều yếu tố thì việc lưu giữ nhiều hàng tồn kho sẽ
gây nhiều bất lợi cho doanh nghiệp.
Chính sách tồn kho rất quan trọng khiến các nhà quản lý sản xuất, quản lý
marketing và quản lý tài chính phải làm việc cùng nhau để đạt được sự thống nhất. Có
nhiều quan điểm khách nhau về chính sách tồn kho, để có sự cân bằng các mục tiêu

khác nhau như: giảm chi phí sản xuất, giảm chi phí tồn kho và tăng khả năng đáp ứng
nhu cầu cho khách hàng.
* Lý do của việc giữ hàng tồn kho:
+ Việc giữ vật liệu thô là do một số nhà cung cấp sản xuất và vận chuyển một
vài vật liệu thô theo lô; lượng đặt mua vật liệu thô lớn làm tồn kho nhiều hơn nhưng có
thể được khấu trừ theo số lượng mua, giảm chi phí mua hàng.
+ Việc giữ sản phẩm dở dang là do khâu quản lý không thể kết hợp hai giai
đoạn sản xuất lại; đồng thời do sản xuất và vận chuyển các lô hàng lớn khiến cho cho
tồn kho nhiều hơn nhưng có thể giảm chi phí sản xuất, chi phí vận chuyển nguyên vật
liệu.
+ Việc giữ thành phẩm là để chuẩn bị lượng hàng trước khi giao hàng; năng
lực sản xuất có hạn; sản xuất có thể để trưng bày cho khách hàng.


* Bản chất của tồn kho:
Hai vấn đề quan trọng trong mọi hoạch định hàng tồn kho là cần đặt hàng bao nhiêu
cho từng loại nguyên vật liệu; khi nào cần tiến hành đặt hàng lại.
1.1.3.3 Các khoản phải thu
Để thành công trong kinh doanh, các doanh nghiệp có thể sử dụng chiến lược
về chất lượng sản phẩm, về quảng cáo, về giá cả, dịch vụ giao hàng, các dịch vụ chăm
sóc khách hàng …. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, việc mua bán chịu là
không thể thiếu. Tín dụng thương mại làm cho doanh nghiệp đứng vững trên thị
trường và trở nên giàu có, nhưng cũng có thể đem đến những rủi ro cho doanh nghiệp.
Tín dụng thương mại vừa làm cho doanh nghiệp có những khoản phải trả bên tài sản,

đồng thời có những khoản phải thu bên nguồn vốn.
Khoản phải thu là số tiền mà khách hàng nợ doanh nghiệp do mua chịu hàng
hóa hoặc dịch vụ. Có thể nói hầu hết các công ty đều phát sinh khoản phải thu, nhưng
với mức độ khác nhau, từ mức không đáng kể đến mức không thể kiểm soát nổi. Kiểm

soát khoản phải thu liên quan đến việc đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro. Nếu không
bán chịu hàng hóa sẽ mất đi cơ hội bán hàng, do đó mất đi lợi nhuận. Nhưng nếu bán
chịu hàng hóa nhiều thì chi phí cho khoản phải thu tăng, có nguy cơ phát sinh các
khoản nợ khó đòi, do đó rủi ro không thu hồi được nợ gia tăng. Vì thế, doanh nghiệp
cần có chính sách bán chịu phù hợp.
Khoản phải thu của doanh nghiệp phát sinh nhiều hay ít phụ thuộc vào các yếu
tố như tình hình nền kinh tế, chất lượng sản phẩm, chính sách bán chịu của doanh
nghiệp. Các khoản phải thu tạo ra cả chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp, nhưng cũng
mang lại lợi ích vì chính sách tín dụng thương mại sẽ làm tăng doanh số bán hàng.
1.1.4 Vai trò của TSLĐ
TSLĐ có vai trò quan trọng trong doanh nghiệp nói chung, trong hệ thống tài
sản nói riêng. TSLĐ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản. Tiền mặt, chứng
khoán thanh khoản cao giúp cho hoạt động luân chuyển tiền của doanh nghiệp được
thông suốt, đặc biệt đóng vai trò quan trọng để nâng cao khả năng thanh toán cho
doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp có được vị thế tốt với ngân hàng và với đối tác.
Dự trữ, tồn kho cũng đóng góp vai trò to lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Nguyên vật liệu đầu vào quyết định nhiều tới chất lượng sản phẩm.
Việc dự trữ cũng giúp cho quá trình sản xuất được liên tục, doanh nghiệp hoạt động
đều đặn, không bị gián đoạn. Và các khoản phải thu cũng chiếm một phần không nhỏ
trong tổng tài sản của doanh nghiệp. TSLĐ là những tài sản ngắn hạn, tuy nhiên lại rất
quan trọng, nó ảnh hưởng tới sự tồn tại của doanh nghiệp. Có nhiều yếu tố quyết định
tới thất bại của doanh nghiệp, nhưng cũng phải thấy rằng sự bất lực của một số công ty
trong việc hoạch định và kiểm soát một cách chặt chẽ các loại TSLĐ và các khoản nợ
ngắn hạn hầu như là nguyên nhân dẫn đến thất bại cuối cùng của họ.
1.2 Hiệu quả sử dụng TSLĐ trong doanh nghiệp

1.2.1 Khái niệm về hiệu quả sử dụng TSLĐ
Có nhiều quan điểm về hiệu quả sử dụng TSLĐ, ở đây chúng ta đề cập khái
niệm này trên quan điểm nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ- tức là làm thế nào để chi
phí bỏ ra một lượng tài sản thấp nhất, mà thu được về lợi nhuận lớn nhất.

Tính hiệu quả được đặt lên hàng đầu đối với mỗi doanh nghiệp. Nếu hoạt động
không hiệu quả, doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại được. Chỉ khi hoạt động sản xuất
kinh doanh đạt hiệu quả, thì doanh nghiệp mới trang trải được chi phí đã bỏ ra, đóng
các khoản phí, thuế theo nghĩa vụ, và quan trọng nhất là tạo ra lợi nhuận, duy trì hoạt
động và phát triển doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế là kết quả tổng hợp của một loạt các
chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của các yếu tố bộ phận có liên quan. Trong đó, hiệu quả sử
dụng TSLĐ gắn liền với lợi ích của doanh nghiệp cũng như hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Do đó các doanh nghiệp phải luôn tìm cách nâng cao hiệu
quả sử dụng TSLĐ.
Hiệu quả sử dụng TSLĐ có vai trò quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả sử
dụng vốn của doanh nghiệp, bởi khác với tài sản cố định, TSLĐ cần các biện pháp linh
hoạt, kịp thời phù hợp với từng thời điểm thì mới đem lại hiệu quả cao nhất. Hiệu quả
sử dụng TSLĐ là một trong những căn cứ để đánh giá năng lực sản xuất, chính sách
dự trữ, tiêu thụ sản phẩm, và nó còn ảnh hưởng lớn tới kết quả kinh doanh cuối cùng
của doanh nghiệp.
Mục tiêu lâu dài của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận. Để làm được điều
đó, thì doanh nghiệp cần phải quản lý sử dụng TSLĐ một cách hiệu quả nhất. Bởi việc
quản lý TSLĐ không những đảm bảo cho việc sử dụng TSLĐ hợp lý, tiết kiệm mà còn
có ý nghĩa đối với việc hạ thấp chi phí sản xuất, thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm và thu
tiền bán hàng, từ đó tăng doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Có thể hiểu tóm tắt, hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp là một phạm
trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác và quản lý TSLĐ của doanh nghiệp, đảm bảo
lợi nhuận tối đa với số lượng TSLĐ sử dụng ở mức chi phí thấp nhất.
1.2.2 Ý nghĩa của việc phân tích hiệu quả sử dụng TSLĐ
Để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải có một lượng

tài sản nhất định và nguồn tài trợ tương ứng, không có tài sản sẽ không thể có hoạt
động sản xuất được. Nhưng việc sử dụng tài sản như thế nào cho có hiệu quả nhất mới
là nhân tố quyết định sự tồn tại, tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp. Do đó,
việc sử dụng, quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản nói chung, TSLĐ nói riêng

trở thành nội dung rất quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Quan
niệm về tính hiệu quả của việc sử dụng TSLĐ nên được hiểu theo hai khía cạnh:
+ Thứ nhất, với số tài sản doanh nghiệp có thì có thể sản xuất thêm một số
lượng sản phẩm với chất lượng tốt, giá thành hạ để tăng thêm lợi nhuận cho doanh
nghiệp.
+ Thứ hai, đầu tư thêm tài sản một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản
xuất để tăng doanh thu với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng doanh thu phải lớn hơn tốc độ
tăng tài sản.
Hai khía cạnh này chính là yêu cầu, mục tiêu cần đạt được trong việc quản lý tài sản
nói chung, TSLĐ nói riêng.
Trước đây, trong nền kinh tế bao cấp, mọi nhu cầu về vốn, tài sản phục vụ cho
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều được Nhà nước cấp phát hoặc cấp tín dụng
ưu đãi, vì thế các doanh nghiệp không đặt nặng vấn đề sử dụng tài sản cho hiệu quả.
Ngay cả trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn tồn
tại thực trạng đó, và nhìn chung ngay đối với các doanh nghiệp phải tự tìm nguồn vốn
cho hoạt động của mình thì hiệu quả sử dụng tài sản nói chung, TSLĐ nói riêng không
cao. Lý do chủ yếu ở sự chậm học hỏi, chưa nắm bắt được xu thế chung của các doanh
nghiệp và cả một số bất cập trong việc quản lý, sử dụng tài sản, TSLĐ.
Lợi ích kinh doanh, cạnh tranh trên thị trường ngày càng đòi hỏi các doanh
nghiệp phải sử dụng một cách hợp lý tài sản của mình, đặc biệt là TSLĐ, sao cho
TSLĐ được thu hồi sau mỗi chu kỳ sản xuất. Việc tăng tốc độ luân chuyển TSLĐ cho
phép rút ngắn thời gian chu chuyển của vốn, nhờ đó, vốn được thu hồi nhanh hơn, từ
đó có thể giảm bớt được số TSLĐ mà vẫn hoàn thành được số lượng sản phẩm định
mức và có thể lớn hơn. Vì thế nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ có ý nghĩa quan trọng
trong việc giảm chi phí sản xuất, chi phí lưu thông và hạ giá thành sản phẩm.

Hơn nữa, một trong những mục tiêu của doanh nghiệp đó là bảo toàn được
TSLĐ. Do TSLĐ chuyển toàn bộ một lần giá trị vào sản phẩm và hình thái TSLĐ
thường xuyên biến đổi, vì vậy việc bảo toàn TSLĐ chỉ xét trên phương diện giá trị.
Bảo toàn TSLĐ thực chất là làm sao cho số vốn cuối kỳ đủ mua một lượng vật tư,

hàng hóa bằng với đầu kỳ khi giá cả hàng hóa tăng lên, thể hiện ở khả năng mua sắm
vật tư cho khâu dự trữ và TSLĐ định mức nói chung. Bên cạnh đó, việc tăng cường
quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ còn giúp cho doanh nghiệp luôn có trình
độ sản xuất kinh doanh phát triển, trang thiết bị được cải tiến. Từ đó sẽ nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt, khi sử dụng
hiệu quả TSLĐ, nhất là sử dụng tiết kiệm TSLĐ trong hoạt động sản xuất thì sẽ giảm
bớt nhu cầu vay vốn, giảm chi phí lãi vay cho doanh nghiệp.
Từ những điều trên, ta thấy việc phân tích hiệu quả sử dụng TSLĐ là hết sức
quan trọng. Hoạt động này cần được tiến hành định kỳ ở doanh nghiệp để từ đó có
nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ, đưa doanh nghiệp tiến tới thành công.
1.2.3 Một số phương pháp quản lý TSLĐ
1.2.3.1 Quản lý tiền mặt, chứng khoán thanh khoản cao
Quản lý tiền mặt đề cập đến việc quản lý tiền giấy và tiền gửi ngân hàng và
các loại tài sản có tính lỏng cao. Sự quản lý này liên quan chặt chẽ đến việc quản lý
các loại tài sản gắn liền với tiền mặt như các loại chứng khoán có khả năng thanh
khoản cao. Chứng khoán thanh khoản cao cũng gần giống như tiền mặt, nó được coi là
“bước đệm” cho tiền mặt. Khi doanh nghiệp dư tiền mặt thì có thể đầu tư vào chứng
khoán có độ thanh khoản cao, và khi cần thiết có thể bán đi một cách dễ dàng với chi
phí thấp để tài trợ cho nhu cầu về tiền mặt. Chứng khoán thanh khoản cao có hiệu suất
sinh lời, đó là lợi thế so với tiền mặt- tiền mặt không thể sinh lãi nếu cứ để trong két.
Vì thế, nhà quản trị tài chính cần biết cân bằng giữa tiền mặt và chứng khoán thanh
khoản cao ở mức hợp lý và có lợi cho doanh nghiệp nhất.
Sơ đồ luân chuyển tiền mặt:






Các chứng khoán thanh
khoản cao
Đầu tư
tạm thời
bằng cách
mua
chứng
khoán có
tính thanh
khoản
cao

Bán những
chứng
khoán có
tính thanh
khoản cao
để bổ sung
cho tiền
mặt








Tro
Trong kinh doanh, doanh nghiệp cần một lượng tiền mặt và phải dùng nó để
trả cho các hóa đơn thường ngày, cho các khoản đột xuất. Khi lượng tiền mặt hết,
doanh nghiệp sẽ bán các chứng khoán có độ thanh khoản cao để có lượng tiền mặt cần
thiết. Chi phí cho việc giữ tiền mặt chính là chi phí cơ hội, là lãi suất mà doanh nghiệp
bị mất nếu đem gửi ngân hàng. Chi phí đặt hàng là chi phí cho việc bán các chứng
khoán. Tùy theo đặc điểm từng doanh nghiệp, các nhà quản lý tài chính có thể đưa ra
các quyết định giữ tiền mặt khác nhau. Áp dụng mô hình EOQ ( Economic Odering
Quantity), ta có lượng dự trữ tiền mặt tối ưu M* ( người ta gọi đây là mô hình
Baumol):
M*=
*
2*
n b
M C
i

Trong đó: M
n
: là tổng mức tiền mặt giải ngân hàng năm
C
b
: là chi phí cho một lần bán chứng khoán thanh khoản
Theo mô hình này, nếu lãi suất càng cao thì người ta càng giữ ít tiền mặt và ngược lại,
nếu chi phí cho việc bán chứng khoán càng cao thì họ lại càng giữ nhiều tiền mặt hơn.
Mô hình Baumol sẽ đem lại hiệu quả tốt nếu doanh nghiệp thực hiện dự trữ
một cách đều đặn. Tuy nhiên, thực tế lượng tiền mặt có ở các doanh nghiệp thường
xuyên không ổn định và cũng khó dự đoán trước được. Do đó các nhà quản lý kinh tế
đã nghĩ ra một mô hình mới thực tế hơn, nó xét đến khả năng lượng tiền vào ra của
ngân quỹ. Mô hình này có tên là Merton Miller & Daniel Orr. Theo mô hình này, mức

Dòng thu tiền
mặt
Tiền
mặt
Dòng chi
tiền mặt


dự trữ tiền mặt dự kiến sẽ dao động trong một khoảng- gọi là khoảng dao động của
lượng tiền mặt. Khoảng dao động này phụ thuộc vào một số yếu tố sau:
+ Mức dao động của thu chi ngân quỹ hàng ngày lớn hay nhỏ. Sự dao động
của thu chi ngân quỹ thực tế càng khác biệt so với mức bình quân thì khoảng dao động
tiền mặt của doanh nghiệp càng cao.
+ Chi phí cố định của việc mua bán chứng khoán. Nếu chi phí cho việc mua
bán chứng khoán cao, doanh nghiệp sẽ có xu hướng giữ tiền mặt nhiều hơn, và khoảng
dao động của tiền mặt vì thế cũng lớn.
+ Lãi suất càng cao, các doanh nghiệp sẽ giữ lại ít tiền, dành nhiều tiền hơn
cho việc đầu tư sinh lời và khoảng dao động tiền mặt sẽ giảm xuống.
Công thức tính khoảng dao động tiền mặt:
d= 3 (
3
4
*
*
b b
C V
i
)
1/3


Trong đó: d: là khoảng cách của giới hạn trên và giới hạn dưới của lượng tiền mặt dự trữ
C
b
: là chi phí mỗi lần giao dịch mua bán chứng khoán
V
b
là phương sai của thu chi ngân quỹ, i: lãi suất
Mức tiền mặt theo thiết kế được xác định:
Mức tiền mặt theo thiết kế= Mức tiền mặt giới hạn dưới + Khoảng dao động tiền mặt/3
Ta có thể khái quát lượng tiền mặt dự trữ qua đồ thị sau:
Lượng tiền mặt (đơn vị)


Giới hạn trên
Mức tiền mặt theo thiết kế
Giới hạn dưới


Thời gian
Theo mô hình, doanh nghiệp sẽ xác định mức giới hạn trên và giới hạn dưới
của tiền mặt, khi lượng tiền mặt vượt qua các giới hạn đó- doanh nghiệp bắt đầu tiến
hành mua hoặc bán chứng khoán thanh khoản cao để cân đối mức tiền mặt dự kiến.
Khi lượng tiền mặt tăng trên giới hạn trên thì doanh nghiệp sẽ chuyển tiền
sang chứng khoán thanh khoản cao, số tiền dùng mua là số tiền vượt quá mức giới hạn
trên. Khi lượng tiền mặt giảm xuống dưới giới hạn dưới, thì doanh nghiệp cần phải
bán chứng khoán một lượng sao cho số tiền thu về giúp dự trữ tiền mặt của doanh
nghiệp ở mức giới hạn dưới.
Với mô hình này, rất nhiều doanh nghiệp đã áp dụng. Tiền mặt thường được
lấy là mức tiền mặt tối thiểu, còn phương sai của thu chi ngân quỹ được xác định dựa
vào thực tế quý trước đó.

Dựa vào mô hình này, nếu dòng tiền vào ra dự đoán được, thì doanh nghiệp sẽ
chỉ cần một lượng ít tiền mặt, còn lại sẽ đầu tư vào chứng khoán, kiếm lợi nhuận cho
doanh nghiệp. Mức tiền mặt luôn được duy trì như thiết kế ban đầu thì doanh nghiệp
sẽ tối thiểu hóa được chi phí giao dịch và chi phí do lãi suất. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp doanh nghiệp cần lượng tiền mặt lớn trong thời gian ngắn, thì việc bán
chứng khoán có tính thanh khoản cao sẽ không có lợi bằng việc đi vay. Do đó doanh
nghiệp cần cân nhắc lợi ích giữa việc giữ tiền mặt, mua bán chứng khoán hay có khi là
cả đi vay để đem lại lợi ích tốt nhất cho chính doanh nghiệp mình.
1.2.3.2 Quản lý dự trữ, tồn kho
Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, dự trữ là yếu tố quyết định cho
việc sản xuất ổn định hay không. Do vậy việc quản lý dự trữ, tồn kho đặc biệt quan
trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ. Quản lý hàng tồn kho đòi hỏi phải
có sự kết hợp chặt chẽ giữa các bộ phận như bộ phận bán hàng, marketing, tài chính,
sản xuất. Mục tiêu của quản lý hàng tồn kho là đảm bảo lượng hàng tồn kho cần thiết
để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường với chi phí thấp nhất. Nếu các
doanh nghiệp có mức tồn kho quá lớn, sẽ làm phát sinh thêm các chi phí như: chi phí

lưu kho, chi phí bảo quản, … Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng không thể sử dụng số
vốn này cho hoạt động kinh doanh khác và làm tăng cơ hội cho số vốn này.
Để tối thiểu hóa chi phí tồn kho, dự trữ, doanh nghiệp cần phải xác định lượng
hàng hóa, vật tư tối ưu cho mỗi lần đặt hàng, đồng thời cũng phải có các biện pháp
quản lý nguyên vật liệu hữu hiệu để không bị mất mát, hư hỏng.
Có nhiều cách để xác định mức dự trữ tối ưu. Nhìn chung, quản lý dự trữ, tồn
kho có hai phương pháp phổ biến và hiệu quả nhất:
1.2.3.2.1 Quản lý dự trữ theo phương pháp cổ điển hay mô hình đặt hàng hiệu quả
nhất- EOQ ( Economic Odering Quantity)
Giả thuyết của mô hình là những lần cung cấp hàng hóa bằng nhau.
Khi doanh nghiệp tiến hành dự trữ hàng hóa sẽ kéo theo hàng loạt các chi phí như chi
phí bốc xếp hàng, chi phí bảo quản, chi phí đặt hàng, chi phí bảo hiểm Nhìn chung
có thể tóm lại thành hai loại chi phí chính:

+ Chi phí lưu kho (chi phí tồn trữ) Đây là loại chi phí liên quan đến việc tồn
trữ hàng hóa, bao gồm:
 Chi phí hoạt động như chi phí bốc xếp hàng hóa, chi phí bảo
hiểm hàng hóa, chi phí giảm giá trị hàng hóa,
 Chi phí tài chính gồm chi phí sử dụng vốn như trả tiền lãi vay,
chi phí về thuế, khấu hao.
Gọi Q là số lượng mỗi lần cung ứng hàng hóa, thì Q/2 là dự trữ trung bình.
Gọi C
1
là chi phí lưu kho đơn vị hàng hóa thì:
Tổng chi phí lưu kho của doanh nghiệp = C
1
*Q/2
Nếu lượng hàng mỗi lần tăng lên thì chi phí lưu kho sẽ tăng.
+ Chi phí đặt hàng (chi phí hợp đồng)
Chi phí đặt hàng bao gồm chi phí quản lý các giao dịch, và chi phí vận chuyển hàng
hóa.

Nếu gọi D là toàn bộ lượng hàng cần sử dụng trong một đơn vị thời gian (năm, quý,
tháng) thì số lượng lần cung ứng hàng hóa là
D
Q
. Gọi C
2
là chi phí mỗi lần đặt hàng
thì:
Tổng chi phí đặt hàng = C
2
*
D

Q

Tổng chi phí đặt hàng tăng lên nếu số lượng mỗi lần cung ứng giảm.
Gọi TC là tổng chi phí tồn trữ hàng hóa, ta có:
TC= C
1
*
2
Q
+ C
2
*
D
Q

-> Q
*
=
2
1
2
DC
C

Vậy khối lượng hàng cung ứng mỗi lần là Q
*

thì tổng chi phí dự trữ là thấp nhất.
Khi xác định mức tồn kho dự trữ, doanh nghiệp nên xem xét sự ảnh hưởng của
các nhân tố. Tùy từng loại tồn kho mà các nhân tố ảnh hưởng khác nhau.

Đối với nguyên vật liệu, nhiên liệu thì phụ thuộc vào: khả năng sẵn sàng cung
ứng của thị trường, chu kỳ giao hàng theo hợp đồng của doanh nghiệp và người bán,
quy mô sản xuất và nhu cầu dữ trữ của doanh nghiệp, thời gian vận chuyển từ nơi cung
ứng tới doanh nghiệp, giá cả nguyên vật liệu.
Tồn kho, dự trữ loại bán thành phẩm, sản phẩm dở dang thì phụ thuộc vào: đặc điểm,
yêu cầu trong việc sản xuất sản phẩm; độ dài thời gian chu kỳ sản xuất, trình độ tổ
chức sản xuất.
Tồn kho, dự trữ loại thành phẩm thì phụ thuộc vào: sự phối hợp giữa các khâu
sản xuất, hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với khách hàng, khả năng xâm nhập và mở rộng
thị trường của doanh nghiệp.
* Điểm đặt hàng mới:
Ta đã xác định được lượng hàng cần đặt mỗi lần để chi phí dự trữ là thấp nhất,
và giờ cần xác định thời điểm đặt hàng. Về mặt lý thuyết, khi nào lượng hàng trong

kho hết thì mới nhập hàng mới về. Tuy nhiên, nếu làm như vậy sẽ tạo ra sự ngưng trệ
trong sản xuất. Vì vậy cần xác định điểm đặt hàng sao cho hợp lý, tránh xảy ra tình
trạng trì hoãn sản xuất vì thiếu nguyên vật liệu, cũng không nên đặt hàng quá sớm làm
tăng chi phí dự trữ.
Thời điểm đặt hàng mới được xác định bằng số lượng nguyên vật liệu sử dụng
mỗi ngày nhân với độ dài thời gian giao hàng.
* Lượng dự trữ an toàn:
Do nguyên vật liệu sử dụng mỗi ngày không phải là số cố định mà chúng biến
động không ngừng, đặc biệt là với doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ. Để đảm
bảo cho việc liên tục của sản xuất, cần có một lượng hàng tồn kho dự trữ an toàn.
Lượng dự trữ an toàn là lượng hàng hóa dự trữ thêm vào lượng dự trữ tại thời
điểm đặt hàng. Lượng dự trữ an toàn không phải là một con số cố định, nó phụ thuộc
vào từng doanh nghiệp, từng loại hình sản xuất kinh doanh cũng như từng thời điểm cụ
thể.
1.2.3.2.2 Phương pháp cung cấp đúng lúc hay dự trữ bằng 0.
Theo phương pháp này, các doanh nghiệp trong một số ngành nghề có liên

quan chặt chẽ với nhau hình thành nên những mối quan hệ, khi có một đơn đặt hàng
nào đó họ sẽ tiến hành “hút” những loại hàng hóa và sản phẩm dở dang của các đơn
hàng khác mà họ không cần phải dự trữ. Phương pháp này làm giảm thiểu chi phí ở
mức thấp nhất cho dự trữ. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ sử dụng cho việc dự trữ
một số loại nào đó của doanh nghiệp và đặc biệt cần phải có sự kết hợp chặt chẽ với
đơn vị cung cấp các nguồn hàng. Ưu việt của phương pháp này chính là chi phí dự trữ
không đáng kể, nó đã được hãng Toyota của Nhật Bản áp dụng vào những năm ba
mươi của thế kỉ 20, nhưng dù sao phương pháp này vẫn không được áp dụng một cách
phổ biến do yêu cầu đòi hỏi phải có sự liên kết của nhiều doanh nghiệp khác nhau.
1.2.3.3 Quản lý các khoản phải thu
Quản trị khoản phải thu tốt tức là hạn chế ở mức tối thiểu lượng TSLĐ bị
chiếm dụng; từ đó làm giảm số ngày của chu kỳ thu tiền bình quân; thúc đẩy vòng tuần
hoàn của TSLĐ; giảm chi phí quản lý nợ, chi phí thu hồi nợ, …Các khoản phải thu

được quản lý một cách năng động để đảm bảo rằng chính sách về các khoản phải thu
của doanh nghiệp đạt hiệu quả. Để quản lý khoản phải thu, trước hết phải nghiên cứu
về tín dụng thương mại.
1.2.3.3.1 Chính sách tín dụng thương mại
Một số điểm cơ bản về chính sách tín dụng thương mại:
+ Tín dụng thương mại tác động đến doanh thu bán hàng. Nếu tín dụng thương
mại cho phép khách hàng trả tiền chậm, sẽ có nhiều người mua hàng hơn, doanh thu
tăng, nhưng tiền vào doanh nghiệp bị chậm, do đó doanh nghiệp sẽ quy định giá cao
hơn.
+ Tín dụng thương mại làm giảm chi phí tồn kho của hàng hóa do bán được
nhiều hàng.
+ Tín dụng thương mại làm cho tài sản cố định được sử dụng có hiệu quả hơn,
hạn chế được sự hao mòn vô hình.
+ Tuy nhiên, khi cấp tín dụng cho khách hàng, có thể sẽ làm tăng chi phí trong
hoạt động của doanh nghiệp.
+ Ngay cả chi phí đòi nợ, chi phí trả cho nguồn tài trợ để bù đắp thiếu hụt về

ngân quỹ cũng tăng. Khi thời hạn cấp tín dụng càng dài, chi phí càng lớn.
Rủi ro cũng tăng lên khi doanh nghiệp cấp tín dụng thương mại cho khách hàng càng
dài.
Với những đặc điểm nêu trên của tín dụng thương mại, doanh nghiệp cần phải
so sánh giữa thu nhập và chi phí tăng thêm, để đưa ra quyết định về tín dụng thương
mại cho khách hàng. Muốn vậy, cần phải đi sâu vào việc phân tích tín dụng thương
mại.
1.2.3.3.2 Phân tích tín dụng thương mại
* Phân tích khả năng tín dụng của khách hàng
Để có thể thực hiện việc cấp tín dụng cho khách hàng, thì việc đầu tiên và
quan trọng nhất là phải phân tích khả năng tín dụng của khách hàng. Đầu tiên, doanh
nghiệp phải xây dựng tiêu chuẩn tín dụng hợp lý, sau đó đi đánh giá phẩm chất tín

dụng của khách hàng, nếu thấy khả năng tín cụng của khách hàng phù hợp với tiêu
chuẩn tối thiểu của doanh nghiệp thì tín dụng thương mại được cấp. Doanh nghiệp cần
phải đưa ra tiêu chuẩn tín dụng thích hợp, nếu tiêu chuẩn quá cao thì khách hàng và lợi
nhuận sẽ giảm đi, ngược lại, nếu tiêu chuẩn thấp quá, có thể làm tăng doanh thu nhưng
rủi ro sẽ tăng lên.
Một số tiêu chuẩn để phân tích khả năng tín dụng của khách hàng:
+ Phẩm chất, tư cách tín dụng: Tiêu chuẩn này dựa vào việc trả nợ của khách
hàng trong quá khứ với doanh nghiệp và với cả các đối tác khác, từ đó nhận định được
khả năng trả nợ trong tương lai của khách hàng.
+ Năng lực trả nợ: dựa vào chỉ tiêu khả năng thanh toán nợ, và bảng dự trữ
ngân quỹ của doanh nghiệp.
+ Vốn của khách hàng: để đánh giá năng lực tài chính dài hạn của khách hàng.
+ Thế chấp: để đảm bảo cho khoản nợ.
+ Điều kiện kinh tế: tức là nói đến khả năng phát triển của khách hàng.
* Phân tích đánh giá khoản tín dụng được đề nghị
Việc phân tích đánh giá khoản tín dụng được đề nghị cũng dựa vào việc tính NPV của
luồng tiền. Nếu NPV> 0 tức là doanh nghiệp có lợi, do đó sẽ chấp nhận khoản tín dụng

cho khách hàng. NPV< 0, doanh nghiệp không nên cấp tín dụng cho khách hàng. NPV
= 0 cần cân nhắc thêm nhiều yếu tố khác.
* Theo dõi khoản phải thu:
Để quản lý được khoản phải thu, thì nhà quản trị phải biết cách theo dõi
chúng. Có một số chỉ tiêu, phương pháp sau:
+ Kỳ thu tiền bình quân:
Kỳ thu tiền bình quân= Các khoản phải thu/ Doanh thu tiêu thụ bình quân 1 ngày
Từ đây ta thấy, nếu kỳ thu tiền bình quân tăng, trong khi doanh số và lợi nhuận không
tăng thì tức là vốn bị ứ đọng ở khâu thanh toán.

+ Sắp xếp tuổi của các khoản phải thu: nhà quản lý phải sắp xếp các khoản
phải thu theo tuổi, để từ đó có kế hoạch đòi nợ khi đến hạn.
+ Xác định số dư khoản phải thu: Khoản phải thu sẽ không chịu ảnh hưởng
của các yếu tố thay đổi theo mùa vụ của doanh số bán. Theo phương pháp này, doanh
nghiệp sẽ thấy được tổng số nợ của khách hàng với doanh nghiệp, từ đó có các chính
sách quản lý hợp lý.
* Có hai phương pháp quản lý khoản phải thu:
+ Phương pháp kỳ thu tiền bình quân đo lường thời gian trung bình mà khách
hàng trả tiền.
Kỳ thu tiền bình quân có thể đem so sánh với bình quân của ngành, kỳ hạn tín
dụng của doanh nghiệp để biết được mức độ, khả năng trả nợ của khách hàng.
+ Phương pháp đến hạn chia các khoản phải thu của doanh nghiệp theo thời
gian đáo hạn, và chỉ ra tỷ lệ các khoản phải thu đến hạn trong tổng quy mô.
Cả hai phương pháp kỳ thu tiền bình quân và đến hạn đều có thể không chính xác nếu
doanh số có tính mùa vụ hay doanh nghiệp đang tăng trưởng nhanh.

* Bên cạnh đó, để quản lý một cách hiệu quả các khoản phải thu, doanh
nghiệp cũng cần thực hiện các hoạt động sau:
+ Mở sổ theo dõi các khoản phải thu, thường xuyên đôn đốc để thu nợ đúng
hạn.

+ Có biện pháp phòng ngừa rủi ro cho những khoản nợ xấu.
+ Trích lập quỹ dự phòng cho khoản phải thu khó đòi vào chi phí sản xuất
kinh doanh.
+ Cần có những điều khoản rõ ràng, chặt chẽ trong hợp đồng về thời hạn trả
nợ.
+ Phân loại các loại nợ, và tìm nguyên nhân từng khoản nợ để có biện pháp xử
lý.

1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng TSLĐ trong doanh nghiệp
TSLĐ của doanh nghiệp luôn vận động không ngừng và tồn tại ở nhiều hình
thái khác nhau. Trong quá trình vận động đó, TSLĐ chịu nhiều tác động của các nhân
tố khác nhau, có thể chia các nhân tố ảnh hưởng đến TSLĐ thành hai loại: khách quan
và chủ quan.
1.3.1 Nhân tố khách quan
1.3.1.1 Thực trạng nền kinh tế nói chung
Thực trạng của nền kinh tế có tác động lớn tới hiệu quả sử dụng TSLĐ. Khi
nền kinh tế tăng trưởng chậm, hoạt động mua bán trên thị trường sẽ ở mức thấp, điều
này ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Lợi nhuận
vì thế giảm sút, và lẽ đương nhiên, hiệu quả sử dụng TSLĐ sẽ giảm. Ngược lại, nếu
nền kinh tế phát triển, tiêu thụ tăng vọt, TSLĐ nói riêng, tài sản nói chung sẽ được sử
dụng một cách hiệu quả nhất.
1.3.1.2 Chính sách vĩ mô của Nhà nước
Tùy từng mục tiêu phát triển của từng quốc gia, cũng như tùy từng thời điểm -
giai đoạn của nền kinh tế, Nhà nước sẽ có những chính sách khuyến khích hay thắt
chặt trong việc quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh. Các chính sách về thuế, hệ
thống pháp luật, các chế độ khác có liên quan sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sử
dụng TSLĐ của doanh nghiệp. Ví dụ, trong giai đoạn khủng hoảng chung hiện nay,
Nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách, chương trình hỗ trợ sản xuất, vì thế các doanh
nghiệp sẽ cố gắng tận dụng cơ hội này thoát ra khỏi khủng hoảng, tiêu dùng được
khuyến khích, sản xuất sẽ gia tăng, và khi đó TSLĐ sẽ có xu hướng được sử dụng

nhiều, hiệu quả cao.
1.3.1.3 Rủi ro
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tất cả các doanh nghiệp đều gặp rất
nhiều rủi ro, đó có thể là những điều không may xảy ra trong quá trình sản xuất kinh
doanh, và cả những rủi ro do thiên tai: động đất, lũ lụt … gây ra. Như đợt mưa lớn gây
ngập úng trong năm 2008 vừa qua tại thủ đô Hà Nội, rất nhiều doanh nghiệp đã bị thiệt

hại hàng tỷ đồng, hàng loạt các TSLĐ hiện có của doanh nghiệp bị hư hỏng nặng.
Hiệu quả sử dụng của TSLĐ vì thế bị giảm sút nghiêm trọng.
1.3.1.4 Trình độ phát triển khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ tác động đến mọi mặt của đời sống, trong đó có cả
TSLĐ. Sự phát triển của khoa học công nghệ làm cho TSLĐ mất dần giá trị, vì thế nếu
doanh nghiệp không bắt kịp với nhịp phát triển của khoa học công nghệ, thì hàng hóa
sẽ có tính cạnh tranh thấp, từ đó làm giảm hiệu quả sử dụng TSLĐ.
1.3.2 Nhân tố chủ quan
Bên cạnh những nhân tố khách quan, có rất nhiều các nhân tố chủ quan tác
động đến hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp. Một số nhân tố chính phải kể đến
là:
1.3.2.1 Trình độ nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực, mà cụ thể là tay nghề, kinh nghiệm, kiến thức của đội ngũ
cán bộ công nhân viên trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu
nguồn nhân lực của doanh nghiệp có trình độ thấp, sẽ không thể có đầy đủ khả năng để
sử dụng một cách hiệu quả TSLĐ, do đó hiệu quả sử dụng chúng sẽ thấp. Ngược lại,
nếu nguồn nhân lực có trình độ cao, TSLĐ sẽ được sử dụng hợp lý nhất, đem lại lợi
ích cao nhất cho doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp cần có những chính sách đào
tạo, bổ sung kiến thức cho toàn bộ cán bộ công nhân viên một cách thường xuyên.
1.3.2.2 Khả năng quản lý doanh nghiệp
Một doanh nghiệp muốn hoạt động cần có sự quản lý, dẫn dắt của đội ngũ Ban
giám đốc, của Hội đồng quản trị. Do đó, nếu sự quản lý, điều hành không tốt, hoạt
động sản xuất kinh doanh cũng sẽ không tốt, sẽ xảy ra nhiều yếu kém trong doanh

nghiệp như: hàng hóa, vật tư, nguyên vật liệu đầu vào kém chất lượng do không được
kiểm tra kỹ lưỡng, thất thoát vật tư, hàng hóa … từ đó hiệu quả sử dụng TSLĐ sẽ rất
thấp.
1.3.2.3 Vấn đề xác định kế hoạch sử dụng TSLĐ

Kế hoạch sử dụng TSLĐ cần được cụ thể về khối lượng và từng loại cụ thể.
Nếu xác định thừa lượng TSLĐ cần dùng, sẽ dẫn đến tình trạng dư thừa, lãng phí.
Ngược lại, nếu thiếu TSLĐ, hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ bị ngưng trệ. Do đó
khâu xác định kế hoạch là rất quan trọng, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sử dụng TSLĐ.
1.3.2.4 Phương án đầu tư
Phương án đầu tư là nhân tố ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sử dụng TSLĐ. Nếu
doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất hàng hóa chất lượng cao, mẫu mã đẹp, phù hợp với
nhu cầu của khách hàng, thì việc tiêu thụ sẽ nhanh chóng, nên TSLĐ quay vòng
nhanh, hiệu quả sử dụng sẽ cao.
1.3.2.5 Ngành nghề kinh doanh
Tùy vào từng ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, hiệu quả sử dụng
TSLĐ sẽ khác nhau. Ví dụ doanh nghiệp may mặc, TSLĐ sử dụng có tiền mặt, dự trữ
có nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, sản phẩm hoàn thành và các khoản phải thu đều
với số lượng lớn- trong khi các doanh nghiệp dịch vụ gần như không có dự trữ, các
khoản phải thu thì rất ít do đặc thù ngành dịch vụ thường là trả tiền ngay khi cung cấp
dịch vụ. Do TSLĐ khác nhau như vậy sẽ dẫn đến hiệu quả sử dụng cũng khác nhau.
1.3.2.6 Cơ cấu TSLĐ trong tổng tài sản
Tùy từng doanh nghiệp sẽ có cơ cấu tài sản khác nhau. Nếu TSLĐ chiếm tỷ lệ
quá cao so với bình quân chung của ngành, thì doanh nghiệp sẽ thừa TSLĐ, dẫn đến
việc sử dụng không hiệu quả. Ngược lại, nếu không chú trọng đúng mức TSLĐ, thì
việc thiếu TSLĐ sẽ làm cho doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Do đó doanh
nghiệp cần có một cơ cấu tài sản hợp lý để sử dụng TSLĐ hiệu quả nhất.
Đó là những nhân tố chính tác động tới hiệu quả sử dụng TSLĐ. Các doanh
nghiệp cần có những biện pháp, chính sách để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực, tăng
cường những ảnh hưởng tích cực, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ.


1.4 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TSLĐ trong doanh nghiệp
1.4.1 Chỉ tiêu về khả năng hoạt động của TSLĐ

×