Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

(LUẬN văn THẠC sĩ) bảo đảm QUYỀN bào CHỮA của bị cáo tại PHIÊN tòa sơ THẨM HÌNH sự từ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN hòa, TỈNH ĐỒNG NAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

PHAN THỊ THU HƯƠNG

BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TẠI
PHIÊN TỊA SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2021

download by :


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

PHAN THỊ THU HƯƠNG

BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TẠI
PHIÊN TỊA SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS NGUYỄN VĂN HIỂN

Hà Nội, năm 2021

1

download by :


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan luận văn là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Những tài
liệu, số liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, chính xác. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ cơng trình nào
khác. Tơi xin chịu trách nhiệm về những lời cam đoan trên.
Người cam đoan

Phan Thị Thu Hương

download by :


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TẠI PHIÊN
TỊA SƠ THẨM HÌNH SỰ ...................................................................................... 9
1.1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tòa
sơ thẩm hình sự ........................................................................................................... 9
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền bào chữa của bị

cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự .............................................................................. 21
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ
CÁO TẠI PHIÊN TỊA SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH
PHỐ BIÊN HỊA,TỈNH ĐỒNG NAI..................................................................... 32
2.1. Khái qt tình hình xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Biên
Hòa tỉnh Đồng Nai .................................................................................................... 32
2.2. Kết quả đạt đượctrong bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm giai đoạn 2016 – 2020 trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai ................................................................................................................... 34
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong bảo đảm qùn bào chữa của bị cáo tại phiên
tịa hình sự sơ thẩm trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và nguyên
nhân ........................................................................................................................... 41
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO
CHỮA CỦA BỊ CÁOTẠI PHIÊN TỊA SƠ THẨM HÌNH SỰ ......................... 50
3.1. Yêu cầu áp dụng đúng các quy định pháp luật tố tụng hình sự về đảm bảo
quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự ......................................... 50
3.2. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự ........ 58
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 75

download by :


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự


BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
HĐXX:

Hội đồng xét xử

LTTHS:

Luật tố tụng hình sự

NTHTT:

Người tiến hành tố tụng

QBC:

Quyền bào chữa

TTHS:

Tố tụng hình sự

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

download by :


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trên đường đổi mới toàn diện với mọi lĩnh vực của
đời sống, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, thực hiện mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Yêu cầu đặt ra đối với pháp
luật trước hết là phải có những quy định chặt chẽ về việc bảo vệ quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, trong đó có quyền bào chữa.
QBC của bị cáo là một trong những quyền quan trọng của quyền công
dân khi tham gia tố tụng hình sự với tư cách là bị can, bị cáo. Bảo đảm QBC
của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm hình sự là đảm bảo nguyên tắc pháp chế
XHCN - một nguyên tắc hiến định được thể chế trong các bản Hiến pháp của
nước ta. Đồng thời là một nguyên tắc đặc thù của LTTHS được quy định tại
Điều 16 BLTTHS năm 2015 với nội dung: "Người bị buộc tội có quyền tự
bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.Cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thơng báo, giải thích và bảo đảm cho
người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền
và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này". Cùng với sự phát
triển của pháp luật TTHS, QBC ngày càng được tôn trọng và mở rộng hơn,
đồng thời tạo những điều kiện tốt nhất để bị cáo thực hiện quyền này. Điều đó
thể hiện bản chất dân chủ của pháp luật nước ta.
Bảo đảm QBC của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự có ý nghĩa quan
trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, hạn chế tình
trạng oan sai, giúp CQTHTT giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp

luật, "khắc phục những biểu hiện hữu khuynh trong đấu tranh chống tội phạm,
đồng thời chống tình trạng bắt và giam giữ oan sai, xét xử không công minh,
vi phạm quyền dân chủ của công dân". Đặc biệt nghiên cứu đề tài gắn với địa
bàn như thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai là địa phương có số vụ án hình

1

download by :


sự sơ thẩm thuộc nhóm cao nhất cả nước (so với các đơn vị hành chính cấp
quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh) có ý nghĩa to lớn trong việc đảm bảo pháp
chế XHCN, đảm bảo quyền công dân.
Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa hình sự sơ thẩm là
một trong những chế định quan trọng và phức tạp, vừa mang tính lí luận, vừa
mang tính thực tiễn cao. Từ trước đến nay, vấn đề này đã được nhiều tác giả
quan tâm, nghiên cứu song xung quanh khái niệm, nội dung, vai trò… của
việc bảo đảm quyền này còn nhiều ý kiến khác nhau, đặc biệt là việc nghiên
cứu vấn đề lý luận liên quan đến nội dung này gắn với địa bàn như thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai là đề tài mới và cần thiết. Do vậy, tác giả chọn đề
tài: “Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự từ
thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” làm luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
- Đề tài khoa học, luận án tiến sĩ và luận văn thạc sỹ luật học:
+ Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Bảo đảm quyền con người trong
tố tụng hình sự Việt Nam, chủ nhiệm đề tài PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc, Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009. Đề tài phát triển lý luận về
quyền con người và bảo đảm quyền con người trong hoạt động TTHS như:
bảo đảm quyền con người của các chủ thể tham gia hoạt động TTHS: người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người bào

chữa, người làm chứng, người bị hại. Cơ chế bảo đảm quyền con người trong
TTHS và các thành tố của cơ chế; mối quan hệ giữa cải cách tư pháp và mở
rộng quyền con người, tăng cường bảo đảm quyền con người trong TTHS.
+ Luận án tiến sỹ luật học: Bảo đảm quyền con người của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, của TS Lại Văn Trình, Đại
học Luật TP.HCM năm 2011. Luận án nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận về
quyền con người và bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị

2

download by :


cáo trong TTHS; làm rõ những điểm chung và những đòi hỏi đặc thù trong
bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai
đoạn TTHS khác nhau. Luận án cũng đưa ra một số giải pháp và kiến nghị
nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam và tăng cường
bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong hoạt
động TTHS.
+Luận án tiến sỹ luật học: Bảo đảm quyền có người bào chữa của
người bị buộc tội – so sánh giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ,
của TS Lương Thị Mỹ Quỳnh, Đại họcLuật TP.HCM năm 2011. Luận án
nghiên cứu làm sáng tỏ nội dung những quy định hiện hành của pháp luật
quốc tế, của luật TTHS Việt Nam, Đức và Mỹ về bảo đảm quyền có NBC
trong sự so sánh để thấy được những điểm tương đồng và khác biệt, lý giải sự
tương đồng và khác biệt đó, đồng thời phân tích và chỉ ra những ưu điểm và
hạn chế của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về bảo đảm quyền có NBC.
Trên cơ sở nghiên cứu nền tảng lý luận và pháp luật hiện hành cũng như thực
tiễn áp dụng pháp luật của Đức và Mỹ về bảo đảm quyền có NBC, luận án đã
đề xuất những giải pháp để hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành nhằm

nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền này trong TTHS.
+ Luận án tiến sĩ luật học: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Nguyễn Hữu Thế Trạch
– Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2014. Luận án đã phân
tích, đánh giá được sự tác động của lý thuyết về QBC của bị can, bị cáo nói
chung và bị can, bị cáo là người chưa thành niên nói riêng đến chất lượng của
quy định pháp luật về quyền này, xác định, phân tích được các yếu tố tạo nên
tính chất đặc thù của bị can, bị cáo là người chưa thành niên như chủ thể đặc
biệt tham gia tố tụng. Trên cơ sở phân tích và đánh giá được thực trạng quy
định pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là người chưa thành niên luận án

3

download by :


đưa ra được các kiến nghị nâng cao hiệu quả nhằm đảm bảo thực thi quyền
này.
+ Luận án tiến sĩ luật học: “Chức năng bào chữa trong Luật tố tụng
hình sự Việt Nam” của tác giả Cao Thị Ngọc Hà – Học viện KHXH năm
2020. Luận án
- Các bài viết có liên quan:
+ Bài viết: Chức năng bào chữa, buộc tội và xét xử trong các mơ hình
tố tụng hình sự trên thế giới của tác giả TS Cao Thị Ngọc Hà và Th.S Cao Thị
Huyền Nga đăng trên tạp chí nghề luật tháng 9 năm 2020. Bài viết là sự tổng
hợp, đánh giá về chức năng bào chữa, buộc tội và xét xử của một số mơ hình
tố tụng trên thế giới như mơ hình tố tụng thẩm vấn, mơ hình tố tụng tranh
tụng... Từ đó rút ra được những ưu điểm nhược điểm của các mơ hình tố tụng
đó để xây dựng một mơ hình tố tụng phù hợp ở Việt Nam.
+ Bài viết: Bất cập trong quy định của BLTTHS năm 2015 về việc bảo

đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm của tác giả
Văn Linh – Tòa án quân sự khu vực 2 đăng trên tạp chí Tịa án nhân dân điện
tử ngày 04 tháng 03 năm 2020. Trong bài viết tác giả chỉ đề cập những hạn
chế cơ bản liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Mặc dù
phạm vi hẹp hơn nhưng cũng có thể thấy quy định hiện nay còn khá nhiều hạn
chế cần được khắc phục. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số hướng khắc
phục nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này.
+ Bài viết: “Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo - Một trong
những nguyên tắc quan trọng góp phần bảo đảm quyền con người trong tố
tụng hình sự” của tiến sĩ Nguyễn Bá Ngừng. Cơng trình này tập hợp có hệ
thống các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học về những vấn đề chung
về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự,
bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đáp ứng yêu cầu

4

download by :


cải cách tư pháp, một số vấn đề bảo vệ quyền con người trong TTHS Việt
Nam…
+ Bài viết “Hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền
bào chữa của bị can, bị cáo chưa thành niên” của ThS.Nguyễn Hải Ninh
đăng trên Tạp chí Luật học số 11 năm 2009, trang 4. Bài viết là sự tổng hợp,
đánh giá một số quy định của pháp luật về QBC của bị can, bị cáo chưa thành
niên còn bất cập. Từ đó kiến nghị hồn thiện nhằm khơng ngừng bảo đảm
qùn này trên thực tế.
+ Báo cáo của PGS. TS. LS. Phạm Hồng Hải về “Quyền tự bào chữa
trong tố tụng hình sự ở Việt Nam và việc thực hiện trong thực tiễn” tại Hội
thảo Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam (Liên đồn Luật sư Việt

Nam và Chương trình phát triển Liên hợp quốc tổ chức tại TP Hồ Chí Minh
vào tháng 12/2010). Báo cáo đã tổng kết về QBC được thực hiện trong thực
tiễn thông qua các số liệu cụ thể từ đó rút ra những bất cập về việc thực thi
quyền này trên thực tế.
Như vậy có thể thấy có nhiều cơng trình khác nhau liên quan đến bảo
đảm QBC của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự. Tuy nhiên nội dung của luận
văn có cách tiếp cạnh, phân tích và nghiên cứu theo hướng khác so với các luận
văn nói trên, khơng nặng về phân tích và bình luận lý thuyết đơn thuần mà luận
văn chủ yếu dựa trên cơ sở thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự nói chung
và bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự gắn với một
địa bàn cụ thể là thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai – một nơi có số vụ án hình
sự sơ thẩm đưa ra xét xử thuộc nhóm cao nhất cả nước ở cấp quận, huyện, thành
phố thuộc tỉnh. Ngoài ra bản thân tác giả đã công tác nhiều năm trong ngành Toà
án nên từ thực tiễn hoạt động xét xử đã phát hiện những vấn đề bất cập trong
việc áp dụng bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự
nên tác giảđặt ra mục tiêu nghiên cứu những bất cập đó.

5

download by :


3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận về bảo đảm
QBCcủa bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự,những quy định của pháp luật về
QBC của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm và đánh giá thực trạng bảo đảm quyền
bào chữa của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Biên
Hịa, tỉnh Đồng Nai. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm
áp dụng đúng QBC của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự trong thực tiễn.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu đề tài nêu trên, tác giả xây dựng nhiệm
vụ nghiên cứu của đề tài như sau:
Thứ nhất, tác giả phân tích những vấn đề lý luận về bảo đảm QBC của
bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự, quy định của pháp luật về bảo đảm QBC
của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự.
Thứ hai, phân tích và đánh giá được thực trạng bảo đảm QBC của bị
cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự gắn với địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai.
Thứ ba, tác giả đưa ra được một số giải pháp nhằm áp dụng đúng các
quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm QBC của bị cáo tại phiên
tịa sơ thẩm hình sự.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu khoa học của đề tài là những vấn đề lý luận và
những quy định của pháp luật về bảo đảm QBC của bị cáo tại phiên tịa sơ
thẩm hình sự
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn số liệu tại
thành phố Biên Hịa, tỉnh Đồng Nai từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm áp

6

download by :


dụng đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm QBC của bị
cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự nói chung.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt thời gian: Luận văn chủ yếu được viết trên cơ sở phân tích, đánh
giá quy định pháp luật TTHS về QBC của bị cáo từ năm 2016 đến năm 2020.

Về mặt không gian: Địa bàn lấy số liệu thực tế khảo sát về bảo đảm QBC
của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự là thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Về số liệu khảo sát: Luận văn sẽ phân tích dựa trên các số liệu về các
vụ án hình sự sơ thẩm từ năm 2016 đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng như những quan điểm
vềbảo đảm QBC nói chung và bảo đảm QBC của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm
hình sự nói riêng trong chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 làm phương
pháp luận nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp đan xen nhiều phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: Phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh; phương
pháp thống kê; phương pháp kết hợp đan xen lý luận và thực tiễn.
Đồng thời, luận văn còn sử dụng một số phương pháp của các ngành
khoa học khác như: phương pháp thống kê xã hội, phương pháp lôgic học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đây là cơng trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống, tồn diện,
chun sâu về vấn đề bảo đảm QBC của bị cáo trong TTHS và các biện pháp

7

download by :


bảo đảm QBC của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn với những phân tích sâu sắc các vấn đề lý luận về lý luận như
khái niệm, vai trò, ý nghĩa cũng như những khảo sát, phân tích, đánh giá thực
tiễn áp dụng các quy định pháp luật TTHS về bảo đảm QBC của bị cáo tại
phiên tịa sơ thẩm hình sự sẽ đóng góp khơng nhỏ cho các nhà lập pháp tiếp
tục khơng ngừng định hướng hồn thiện Bộ luật TTHS 2015 và những kiến
nghị cụ thể hoàn thiện các quy định cụ thể của Bộ luật TTHS 2015 liên quan
đến bảo đảm QBC bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự.
Kết quả nghiên cứu của luận văn cịn có giá trị tham khảo đối với việc
giảng dạy và học tập, nghiên cứu về chính sách hình sự, những quy định của
pháp luật TTHS về bảo đảm QBC tại các cơ sở đào tạo luật ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận
văn gồm 03 chương sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền bào chữa của bị
cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự
Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
Chương 3. Các yêu cầu và giải pháp áp dụng đúng các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tòa
sơ thẩm hình sự.

8

download by :


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TẠI PHIÊN TỊA
SƠ THẨM HÌNH SỰ

1.1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo
tại phiên tịa sơ thẩm hình sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩabảo đảm quyền bào chữa của bị
cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự
1.1.1.1. Khái niệm bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ
thẩm hình sự
- Khái niệm quyền bào chữa, quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa
sơ thẩm hình sự
Trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và công cuộc
cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, vấn đề bảo đảm quyền con người,
trong đó có quyền bào chữa là một trong những nội dung quan trọng, được đặt
lên hàng đầu. Bởi vì mục tiêu của cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng
nhà nước pháp quyền là phải hướng tới việc bảo vệ một cách hữu hiệu các
quyền và tự do của con người và của công dân. Việc bảo đảm quyền bào chữa
góp phần quan trọng trong bảo đảm quyền con người.
Theo từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa thì “Bào chữa
là dùng lời lẽ, chứng cớ để bênh vực một việc”.
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thơng
báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện
đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của
Bộ luật này”[20, tr 3]. Theo quy định này thì BLTTHS Việt Nam ghi nhận
quyền bào chữa đối với người bị buộc tội. Đây là lần đầu tiên, BLTTHS sử

9

download by :


dụng thuật ngữ “người bị buộc tội”. Thuật ngữ này thường chỉ được sử dụng
trong các văn bản nghiên cứu khoa học pháp lý trước đây. Trong đó, tại Điểm

đ, Khoản 1, Điều 4 BLTTHS năm 2015 thì “Người bị buộc tội gồm người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Theo đó, quyền bào chữa được xác
định là quyền không chỉ dành cho bị can, bị cáo mà cịn có người bị bắt,
người bị tạm giữ - những người chưa có quyết định khởi tố bị can hay quyết
định đưa vụ án ra xét xử. Tuy vậy, họ vẫn được quy định quyền bào chữa vì
lúc này họ cũng đã bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế của pháp luật, quyền
lợi của họ cũng đã bị hạn chế, ảnh hưởng nhất định nên cần phải được pháp
luật cho phép thực hiện những hoạt động nhất định nhằm bảo vệ quyền lợi
trước các cơ quan có thẩm quyền. Nội dung quyền bào chữa bao gồm quyền
tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa. Quy định như trên đã ghi
nhận quyền bào chữa của đầy đủ các đối tượng có khả năng bị hạn chế quyền,
lợi ích; đối mặt với sự nghi ngờ, khả năng bị buộc tội bởi các cơ quan pháp
luật Nhà nước.
Như vậy có thể đưa ra khái niệm quyền bào chữa như sau: “Quyền bào
chữa trong tố tụng hình sự là tổng hợp các hành vi tố tụng của người bị buộc
tội được pháp luật quy định cho họ nhằm đưa ra các chứng cứ để bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước các cơ quan tiến hành tố tụng trong
các quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự”.
Ngồi ra, theo quy định của BLTTHS năm 2015, người bị buộc tội bao
gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Trong đó, “bị cáo là người
hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử” (Khoản 1, Điều 61
BLTTHS năm 2015). Đối với người này, Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử
tại phiên tòa sơ thẩm sau khi đã thụ lý và nghiên cứu hồ sơ vụ án từ Viện
kiểm sát. Khi tham gia tố tụng với tư cách bị cáo, người đó sẽ có được những
quyền nhất định để có thể góp phần làm rõ vụ án, đồng thời có thể tự bảo vệ

10

download by :



mình trước các cơ quan THTT.
Một trong những qùn đó là: quyền bào chữa, được bị cáo thực hiện
thông qua hai hình thức, đó là tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Quyền này của bị cáo được thực hiện kể từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét
xử cho đến khi bản án, quyết định của Tịa án về hành vi phạm tội của bị cáo
có hiệu lực pháp luật. Trong q trình đó, việc thực hiện quyền bào chữa tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm là hoạt động có ý nghĩa then chốt trong việc bảo vệ
quyền lợi của bị cáo cũng như góp phần quan trọng trong việc quyết định bị
cáo có tội hay khơng có tội. Bởi lẽ, tại phiên tịa xét xử sơ thẩm, Tịa án sẽ
tiến hành xem xét tồn bộ những tài liệu, chứng cứ nhằm làm rõ bản chất của
vụ án, xác định bị cáo có phải là người phạm tội hay khơng. Khi đó, việc bị
cáo thực hiện qùn bào chữa của mình khơng chỉ bảo vệ qùn và lợi ích
hợp pháp của họ mà cịn có ý nghĩa quyết định đối với tồn bộ q trình thực
hiện qùn bào chữa trong q trình TTHS, góp phần xác định bị cáo có tội
hay khơng có tội hoặc mức độ trách nhiệm hình sự mà họ phải chịu theo quy
định của pháp luật. Chính vì vậy, việc thực hiện quyền bào chữa của bị cáo tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có thể xem như là hoạt động quan
trọng nhất trong việc bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội trong quá trình
TTHS.
Việc thực hiện quyền bào chữa của bị cáo trong trường hợp này được
tiến hành thông qua các hành vi nhất định tại phiên tòa sơ thẩm. Bị cáo hoặc
người được nhờ bào chữa sẽ tiến hành những hoạt động theo quy định của
pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi của bị cáo trước sự buộc tội của VKS. Theo
đó, họ sẽ chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc giảm nhẹ TNHS của bị cáo
so với cáo trạng của VKS. Đồng thời, bị cáo hoặc người bào chữa có thể đưa
ra những chứng cứ, tài liệu, đồ vật góp phần làm sáng tỏ bản chất của vụ án.

11


download by :


Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm như sau: Quyền bào
chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự là tổng hợp các hành vi tố tụng
của bị cáo được pháp luật quy định cho họ nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của họ đồng thời góp phần làm rõ bản chất vụ án hình sự trong quá
trình xét xử tại phiên tòa sơ thẩm.
- Khái niệm bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm
hình sự
Trước tiên, cần tìm hiểu khái niệm về bảo đảm trong Tiếng Việt. Theo
GS.TS Hoàng Phê trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của NXB Tiếng Việt thì:
Bảo đảm là làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ
những gì cần thiết, sự bảo đảm thực hiện hoặc giữ được.
Từ điển Luật học diễn giải: Nhà nước có trách nhiệm: “bảo đảm cho
các qùn cơng dân đã được ghi nhận trong các đạo luật phải được thực thi,
phải tạo điều kiện cho công dân được hưởng các quyền đó”.
Như vậy: Bảo đảm có thể hiểu một cách đơn giản nhất đó là: Trách nhiệm
của một chủ thể có thẩm qùn phải làm cho qùn và lợi ích của chủ thể bên
kia chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết để
có thể thực hiện được.
Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình
tố tụng mà ở đó Tịa án có thẩm qùn tiến hành xem xét các chứng cứ tại tòa,
ra bản án và các quyết định theo quy định của pháp luật. Đây chính là cấp xét
xử đầu tiên mà tất cả chứng cứ thu thập được trong giai đoạn điều tra cùng
với các chứng cứ mới được xem xét một cách trực tiếp, khách quan và tồn
diện. Tại phiên tịa hình sự sơ thẩm bị cáo thực hiện quyền của mình tại phiên
tịa như tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa, trình bày quan điểm gỡ tội
cho mình… Tồn bộ quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đều phải tuân thủ
các nguyên tắc được quy định trong tố tụng hình sự.


12

download by :


Với tư cách là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, nguyên tắc
đảm bảo quyền bào chữa trong tố tụng hình sự chi phối, tác động đến tồn bộ
hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Bảo đảm pháp lý
quyền con người nói chung và bảo đảm quyền bào chữa của bị can tại phiên
tịa hình sự sơ thẩm nói riêng có nghĩa là từ những quy định đã có của pháp
luật về việc bảo vệ và bảo hộ quyền con người, Nhà nước làm cho những quy
định pháp luật đó trở thành hiện thực, bảo đảm quyền, lợi ích thực tế của con
người được hưởng quyền, mà cụ thể ở đây là bị cáo.
Điều 16 Bộ luật TTHS quy định: Cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng có trách nhiệm thơng báo, giải thích và bảo đảm cho người bị
buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích
hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này. Tức là: Tại phiên tòa, dù là bị
cáo hay bị hại cũng như những người có liên quan có tư cách khác nhau đều
được những người tiến hành tố tụng là HĐXX, KSV bảo vệ, giúp cho họ có
thể thực hiện được qùn bào chữa của mình như có thể tự bào chữa, nhờ
người khác bào chữa…
Tuy nhiên, để bảo đảm cho qùn bào chữa của bị cáo tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm thì phải có nghĩa vụ tương ứng của các chủ thể mà cụ thể là
Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên để tạo điều kiện cho bị cáo sử dụng qùn bào
chữa của mình. Những người này có nghĩa vụ thực hiện hoặc không thực hiện
cho bị cáo sử dụng quyền bào chữa của mình, hoặc tạo ra các điều kiện tốt
nhất hay cản trở quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.
Như vậy: Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự của TAND là việc pháp luật ghi nhận quyềntự bào chữa, nhờ

người khác bào chữa của bị cáo đồng thời thông qua hoạt động của những
người tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm tuân thủ các quy định của pháp
luật về quyền bào chữa của bị cáo và tạo ra các điều kiện cần thiết, tốt nhất

13

download by :


để bị cáo thực hiện quyền bào chữa của bị cáo một cách đầy đủ, hiệu quả
nhất và không bị xâm phạm trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Từ những phân tích trên cho thấy rằng, bảo đảm quyền bào chữa của bị
cáo trong phiên tòa hình sự sơ thẩm có nhiều nội dung, cách thức thực hiện
khác nhau, quyền này của bị cáo có được thực thi trên thực tế hay không
không phụ thuộc vào duy nhất một cá nhân nào mà trách nhiệm thuộc về
nhiều chủ thể với những hoạt động khác nhau dựa trên những điều kiện bảo
đảm khác nhau. Việc nghiên cứu nội dung của bảo đảm quyền bào chữa của
bị cáo tại phiên tịa hình sự sơ thẩm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
1.1.1.2. Đặc điểm của bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên
tòa sơ thẩm hình sự
- Cơ sở của việc quy định QBC của bị cáo bắt nguồn từ việc bảo đảm thực
hiện quyền con người. Qua các thời kỳ phát triển QBC của bị cáo đã ngày
càng được mở rộng và trở thành một trong những nguyên tắc hiến định quan
trọng, một nguyên tắc cơ bản không thể thiếu được trong TTHS. Chính vì vậy,
việc bảo đảm QBC của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự là tn thủ nguyên
tắc của TTHS.Đây chính là bảo đảm cần thiết để bị cáo khi tham gia phiên tịa
hình sự sơ thẩm có thể chống lại việc buộc tội đối với mình một cách chủ
động. Bởi vì bị cáo là người bị cơ quan có thẩm quyền buộc tội nên họ tham
gia phiên tịa sơ thẩm một cách thụ động. Do đó, bảo đảm QBC giúp họ có thể
đưa ra những lý lẽ, chứng cứ bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ tội cho mình.

- Chủ thể thực hiện việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên
tòa sơ thẩm hình sự là Tịa án và Viện kiểm sát mà trực tiếp là Hội đồng xét
xử sơ thẩm và Kiểm sát viên tham gia phiên tịa sơ thẩm hình sự. Tất cả
những nội dung liên quan đến quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ
thẩm hình sự như: Trình bày ý kiến có lợi cho mình, đưa ra các chứng cứ, đồ
vật, tài liệu có liên quan đến vụ án, tiến hành tranh tụng tại phiên tòa... Mặc

14

download by :


dù vậy, tất cả những nội dung liên quan đến quyền bào chữa của bị cáo chỉ
thực sự được bảo đảm khi các chủ thể tiến hành tố tụng là Thẩm phán, Hội
thẩm, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa hình sự sơ thẩm thực sự tuân thủ các
nguyên tắc, quy định của BLTTHS và tạo điều kiện để bị cáo thực hiện các
quyền ấy.
-Bảo đảm QBC của bị cáo góp phần giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác
định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm trong q trình xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự khơng để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo đảm kết
quả xét xử là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo một cách thực chất, có hiệu quả sẽ
làm giảm tình trạng oan, sai trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Bởi
vì, sự thật khách quan, chân lý thực sự của vụ án hình sự sơ thẩm chỉ được
làm sáng tỏ khi có sự tranh luận công bằng giữa các bên về những quan điểm
khác nhau. Bị cáo thực hiện QBC của mình ln luôn đưa ra những quan
điểm phản biện lại sự buộc tội của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trên cơ sở
tranh luận công bằng của của bên buộc tội và bên bị cáo (tự bào chữa hoặc
nhờ người bào chữa), HĐXX với tư cách là cơ quan tài phán – nhân danh Nhà
nước mới có đủ điều kiện để xác định sự thật khách quan của vụ án, ra phán

quyết về hành vi của bị cáo.
1.1.1.3. Ý nghĩa của bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa
sơ thẩm hình sự
Là một trong những ngun tắc Hiến định trong TTHS, việc bảo đảm
quyền bào chữa nói chung, bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm nói riêng có vai trị vơ cùng quan trọng trong quá trình giải
quyết VAHS. Bởi lẽ, giai đoạn xét xử vụ án khác với các giai đoạn tố tụng
trước đó vì trong giai đoạn này, bị cáo sẽ được xác định một cách chắc chắn
là có tội hay khơng cùng với mức hình phạt mà người đó phải chịu tương ứng

15

download by :


với tội phạm mà họ đã thực hiện. Điều 13 BLTTHS quy định: “Người bị buộc
tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực
pháp luật”[20, tr 5].Bên cạnh đó, những sai lầm dù là nhỏ nhất trong quá
trình điều tra, truy tố nếu khơng được phát hiện, làm rõ trong q trình xét xử
sẽ dẫn tới những hậu quả kết tội oan sai, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp
của bị cáo. Chính vì vậy, bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ
thẩm có một số ý nghĩa sau đây:
- Thứ nhất: Ý nghĩa về chính trị - xã hội:
Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc
cải cách tư pháp hướng tới một nền tư pháp hiện đại, minh bạch trong đó tơn
trọng và bảo vệ các quyền con người.
Quyền con người là một trong những quyền thiêng liêng và cao quý
nhất được pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế ghi nhận. Do đó, bảo đảm

quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa hình sự sơ thẩm là sự thể hiện trách
nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tố tụng và các chủ thể khác đối với
các quyền của bị cáo nói chung và quyền con người của bị cáo nói riêng. Bảo
đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa hình sự sơ thẩm nhằm hướng tới
mục đích của hoạt động TTHS mà Đảng và Nhà nước ta trong cơng cuộc cải
cách tư pháp đã đề ra đó là xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật,
không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân.
Trong quan hệ pháp luật hình sự nói chung và trong hoạt động xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự nói riêng, quan hệ giữa bị cáo và các chủ thể đại
diện cho qùn lực nhà nước tại phiên tịa hình sự sơ thẩm là quan hệ bất bình
đẳng. Sự yếu thế thuộc về bị cáo, do đó quyền của họ dễ bị xâm phạm nếu

16

download by :


khơng được Nhà nước bảo đảm. Chính vì vậy, bảo đảm quyền bào chữa của
bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động tố
tụng hình sự phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước đã đề ra.
- Thứ hai: Ý nghĩa về mặt pháp lý:
Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự góp phần giải quyết đúng đắn q trình chứng minh vụ án hình
sự, khơng bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
Hiến pháp khẳng định: Khơng ai bị coi là có tội cho đến khi có quyết
định của Tịa án có hiệu lực pháp luật. Chính vì vậy, tại phiên tịa hình sự sơ
thẩm, các bị cáo chưa bị coi là tội phạm, bản thân họ có quyền đưa ra bằng
chứng, lời nói biện hộ cho hành động của mình, chứng minh hành vi của mình
có tội hay khơng có tội. Hoạt động này chính là việc bị cáo tự bào chữa cho

mình tại phiên tòa. Việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo góp phần cùng
với các cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra bản chất xác thực của vụ án để hội
đồng xét xử sơ thẩm có căn cứ chứng minh là bị cáo có tội hay khơng có tội
từ đó góp phần giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
- Thứ ba: Ý nghĩa về mặt đạo đức
Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự góp phần bảo đảm tính dân chủ, minh bạch và nhân đạo trong
hoạt động tố tụng hình sự.
Tại phiên tịa sơ thẩm vụ án hình sự, bị cáo có thể bị tun có tội hoặc
khơng có tội. Đây là quyết định tố tụng ảnh hưởng trực tiếp đến địa vị pháp lý
của bản thân bị cáo. Do đó, pháp luật quy định bị cáo có các điều kiện pháp lý
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình liên quan đến vụ án, khơng bị
hạn chế về thời gian trình bày ý kiến của mình về vụ án. Việc trình bày của bị
cáo được thực hiện công khai trước hội đồng xét xử. Bị cáo có quyền đưa ra
những chứng cứ và đưa ra yêu cầu tranh luận tại phiên tòa. Những chứng cứ

17

download by :


hay sự tranh luận, bào chữa của bị cáo đều được hội đồng xét xử xem xét và
đánh giá khách quan, khơng thiên lệch. Từ đó bảo đảm qùn bào chữa của bị
cáo trong giai đoạn này sẽ giúp bị cáo có cơ hội trình bày, phân tích để bảo vệ
những qùn và lợi ích hợp pháp của mình nhằm loại bỏ hoặc giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự trên cơ sở tiến hành những hoạt động mà pháp luật quy định,
thể hiện tính nhân đạo trong chính sách pháp luật của nước ta khi tôn trọng
danh dự, nhân phẩm của con người.
1.1.2. Nội dung bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ
thẩm hình sự

Qùn bào chữa là một trong những quyền được Hiến pháp năm 2013
quy định nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội đồng
thời góp phần giải quyết vụ án được khách quan, đúng đắn, tránh oan sai, bỏ
lọt tội phạm, làm oan người vơ tội. Trong đó, đối với bị cáo, người đã được
Tòa án quyết định đưa ra xét xử thì việc thực hiện quyền bào chữa của họ tại
phiên tịa sơ thẩm có vai trị quyết định trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ cũng như xác định sự thật khách quan của vụ án. Do đó, bảo đảm
quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự bao gồm các nội
dung sau:
Thứ nhất, bảo đảm quyền bào chữa nói chung, quyền bào chữa của bị
cáo tại phiên tịa sơ thẩm hình sự nói riêng là một chế định pháp lý quan
trọng, không thể thiếu được trong tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự là một lĩnh
vực đặc biệt, đặc thù, bao gồm tổng thể hoạt động của các chủ thể tiến hành tố
tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án hình sự một cách chính xác, khách quan,
cơng bằng, góp phần vào cơng cuộc đấu tranh phịng chống và phịng ngừa tội
phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân, trong đó có qùn và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội nói
chung, bị cáo nói riêng. Theo quy định của BLTTHS, một người chỉ bị coi là

18

download by :


có tội khi có bản án kết tội của TA đối với họ có hiệu lực pháp luật. Mặc dù bị
cáo là người đang bị các cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh hành vi phạm
tội để buộc tội nhưng bị cáo vẫn chưa phải là người có tội. Do đó, việc quy
định quyền bào chữa dành cho bị cáo là một tất yếu khách quan nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, hạn chế tối đa việc xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của con người trong tố tụng hình sự nói chung, xét xử

vụ án nói riêng. Bên cạnh đó, để xác định được sự thật khách quan của vụ án,
Tòa án – nhân danh nhà nước với tư cách là cơ quan xét xử, đưa ra phán xét
cuối cùng về bị cáo và vụ án, cần thiết phải xem xét, đánh giá các chứng cứ,
tài liệu từ nhiều khía cạnh khác nhau nhằm đảm bảo quyết định đối với bị cáo
được chính xác, khách quan, tồn diện. Việc xác định sự thật khách quan của
vụ án hình sự sơ thẩm sẽ khơng thể thực hiện được hồn chỉnh nếu chỉ nghe ý
kiến từ một phía buộc tội bởi ý kiến ấy có thể sẽ mang ý chí chủ quan của
người tiến hành tố tụng nên dễ bị phiến diện. Do đó, việc bảo đảm cho các
quyền bào chữa tồn tại song song cùng sự buộc tội của chủ thể có thẩm quyền
sẽ tạo ra sự cân bằng giữa hai bên buộc tội và gỡ tội. Đồng thời, việc thực
hiện quyền bào chữa của bị cáo cũng khơng có nghĩa là những người bào
chữa được mời, thuê hay chỉ định phải bằng mọi giá để gỡ tội cho bị cáo mà
phải căn cứ trên các quy định của pháp luật nhằm làm rõ những tình tiết có lợi
cho bị cáo, đảm bảo qùn lợi chính đáng cho bị cáo. Chính vì vậy, việc đảm
bảo thực hiện quyền bào chữa cho bị cáo tại phiên tịa hình sự sơ thẩm là một
u cầu tất yếu không chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi cho bị cáo mà cịn góp phần
giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án hình sự.
Thứ hai, Nhà nước tạo điều kiện để bị cáo thực hiện QBC của họ (họ có
thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa). Trong những trường hợp bị
cáo phạm tội mà tội họ phạm mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù,
tù chung thân hoặc tử hình hay trong trường hợp người bị buộc tội có nhược

19

download by :


điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi nếu bị cáo hay người thân thích
của bị cáo khơng mời người bào chữa thì Tịa án phải chỉ định người bào chữa
cho bị cáo.

Thứ ba, Nhà nước tôn trọng quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa của bị cáo.BLTTHS năm 2015 quy định về quyền của người bị buộc
tội là quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật và yêu cầu người bào chữa, có
quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật để chứng minh cho người bị
buộc tội. Đồng thời, BLTTHS năm 2015 cũng quy định một số quyền để
người bị buộc tội thực hiện việc gỡ tội cho mình như: “Bị can được quyền đề
nghị giám định, định giá tài sản; quyền được đọc, ghi chép bản sao hoặc tài
liệu liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan
đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra nếu có yêu cầu… Bị cáo cũng
được quyền đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị triệu tập người làm
chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám
định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; người tham
gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tịa;
đề nghị chủ tọa phiên tịa hỏi hoặc tự mình hỏi những người tham gia phiên
tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa; xem biên bản phiên tòa,
yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tịa…”. Các quy định
có liên quan đến quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm hình sự đều
được Hội đồng xét xử tơn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh.
Thứ tư, pháp luật TTHS của nước ta khơng chỉ quy định cho bị cáo có
QBC mà cịn giao cho VKS, TA trong q trình xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự có nhiệm vụ tôn trọng và bảo đảm cho bị cáo thực hiện QBC của họ.
Xuất phát từ quyền con người được ghi nhận trong pháp luật. QBC của
bị cáo là một trong những qùn của cơng dân, do đó qùn này phải được
tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Mặt khác, để bảo đảm việc xác định sự thật

20

download by :



×