Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

(LUẬN văn THẠC sĩ) xét xử PHÚC THẨM vụ án HÌNH sự từ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

ĐỖ THỊ NHUNG

XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2021

download by :


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

ĐỖ THỊ NHUNG

XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN TẤT VIỄN



Hà Nội, năm 2021

download by :


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số
liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

TÁC GIẢ

ĐỖ THỊ NHUNG

download by :


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ

XÉT XỬ PHÚC

THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................................................... 6
1.1. Khái niệm, tính chất của xét xử phúc thẩm vụ án hình sự ......................... 6
1.2. Phân biệt xét xử phúc thẩm với giám đốc thẩm, tái thẩm........................ 14
1.3. Xét xử phúc thẩm ở một số quốc gia trên thế giới ................................... 17
Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN
HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở TỈNH ĐỒNG NAI ................. 24

2.1. Các quy định của pháp luật Việt Nam về xét xử phúc thẩm vụ án hình
sự trước khi ban hành Bộ luật TTHS năm 2015 ............................................. 24
2.2. Quy định pháp luật TTHS về xét xử phúc thẩm VAHS trong Bộ luật
TTHS năm 2015 .............................................................................................. 31
2.3. Thực tiễn xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở Đồng Nai .................... 42
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ
PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ....................................................... 52
3.1. Yêu cầu đặt ra cho việc xét xử phúc thẩm trong cải cách tư pháp .......... 52
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự .... 58
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 76

download by :


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

HĐXX:


Hội đồng xét xử

HĐXXPT:

Hội đồng xét xử phúc thẩm

KSV:

Kiểm sát viên

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

TTHS:

Tố tụng hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự


VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

download by :


HỆ THỐNG BẢNG SỐ LIỆU TRONG LUẬN VĂN
Bảng 2.1: Thống kê số lượng án hình sự giải quyết tồn ngành TAND tỉnh
Đồng Nai 2015 - 2020 .............................................................................. 42
Bảng 2.2: Thống kê số liệu thụ lý án phúc thẩm 2016 - 2020 ........................ 43
Bảng 2.3: Thống kê số liệu án giải quyết phúc thẩm Tòa án nhân dân Tỉnh
Đồng Nai giai đoạn 2016 - 2020 ............................................................. 43

download by :


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đổi mới bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng
là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc xây dựng Nhà nước

pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các định hướng và nhiệm vụ về cải
cách tư pháp được nêu rõ trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020: “Khi xét xử phải bảo đảm cho
mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan,
thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc
phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên
tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát
viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có
sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định” [5].
Các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp đã từng bước được thể
chế hóa trong Hiến pháp và các luật về tổ chức và hoạt động của các quan tư
pháp. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để chúng ta tiếp tục đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và các TAND nói riêng.
Trong tiến trình đổi mới tổ chức và hoạt động tư pháp, việc khẳng định
nguyên tắc 2 cấp xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm) là bắt nguồn từ bản chất, chức
năng của quyền tư pháp và việc tổ chức thực hiện quyền tư pháp. Trong tư
pháp hình sự, việc áp dụng các quy định của Bộ luật TTHS về phúc thẩm còn
vướng mắc cả ở nhận thức lẫn thực tiễn về phạm vi xét xử phúc thẩm VAHS,
về bổ sung, thay đổi và rút kháng cáo, kháng nghị; giải quyết vấn đề kháng
cáo quá hạn; áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam,...
Việc quy định một thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án áp dụng chung đối với tất
cả các vụ án đã làm cho hoạt động xét xử phúc thẩm trở nên quá tải, quá thời

1

download by :



hạn luật định dẫn đến sự tồn đọng án trong những năm gần đây, phần nào ảnh
hưởng đến việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Vì
vậy, việc nghiên cứu về xét xử phúc thẩm hình sự từ thực tiễn một tỉnh có số
lượng án hình sự lớn như Đồng Nai sẽ góp thêm tiếng nói vào việc tiếp tục
hồn thiện chế định phúc thẩm trong tiến trình đẩy mạnh cải cách tư pháp
theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng. Vì vậy học viên đã chọn đề tài Xét xử
phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai làm đề tài nghiên cứu
luận văn cao học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xét xử phúc thẩm trong TTHS là một vấn đề có nội dung rộng và phức
tạp của khoa học luật TTHS, được một số nhà khoa học pháp lý ở nước ta và
trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Trong sách báo pháp lý của nước ta đã có
một số cơng trình nghiên cứu về vấn đề này ở những mức độ và phạm vi khác
nhau. Cụ thể như:
Luận án tiến sĩ luật học "Thẩm quyền của Tịa án các cấp trong tố tụng
hình sự" của tác giả Nguyễn Văn Huyên năm 2002, Trường Đại học Luật Hà
Nội [13].
Luận văn thạc sĩ luật học năm 2012 của tác giả Nguyễn Thị Hồng
Phương “Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự”, Đại học Quốc gia Hà Nội [16].
Luận văn thạc sĩ luật học năm 2016 của tác giả Vũ Thị Uyên “Thẩm
quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm trong tố tụng
hình sự Việt Nam”, Học viện Khoa học xã hội [38].
Luận văn thạc sĩ luật học năm 2018 của tác giả Nguyễn Thành An
“Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn Tịa án
nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng”, Học viện khoa học xã hội. [1]
Luận văn thạc sĩ luật học năm 2018 của tác giả Trương Phạm Huyền
Châu “Thủ tục phiên tòa phúc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí

Minh”, Học viện Khoa học xã hội năm 2018 [7].
2

download by :


Bài báo: "Những vấn đề cần trao đổi từ thực tế xét xử phúc thẩm về
hình sự" của TS. Từ Văn Nhũ đăng trên Tạp chí TAND, số 3/2001.
Bài báo: "Những vấn đề tồn tại trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc
thẩm các vụ án hình sự và những kiến nghị nhằm hoàn thiện" của TS. Dương
Ngọc Ngưu đăng trên Tạp chí TAND, số 11/2000 và số 01/2001.
Cơng trình nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến phúc thẩm trong
TTHS: Bài báo: "Vai trò của Tòa án trong hệ thống các cơ quan tư pháp" của
PGS.TS Phạm Hồng Hải đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1/2001.
Bài viết: Thủ tục xét xử phúc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam, thực
trạng và phương hướng hoàn thiện, của PGS. TS. Nguyễn Tất Viễn – Bộ Tư
pháp. Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Hoàn thiện mơ hình tố tụng hình sự Việt
Nam đáp ứng u cầu cải cách tư pháp - kinh nghiệm CHLB Đức”, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và Quỹ Hợp tác quốc tế về pháp luật CHLB Đức,
ngày 09-10/6/2011 tại Hà Nội [44].
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách
tồn diện, đầy đủ và có hệ thống về xét xử phúc thẩm trong TTHS từ thực tiễn
tỉnh Đồng Nai như là một nghiên cứu chuyên biệt.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về xét xử phúc thẩm
trong TTHS, đánh giá thực tiễn việc áp dụng các quy định pháp luật về phúc
thẩm hình sự tại Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, luận văn đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về XXPT và bảo đảm áp dụng đúng các quy
định về xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
- Làm rõ khái niệm, tính chất của xét xử phúc thẩm trong TTHS.
- Khái quát quá trình phát triển của pháp luật TTHS Việt Nam về xét
xử phúc thẩm và những thay đổi qua các lần pháp điển hóa.

3

download by :


- Đánh giá thực tiễn thực hiện XXPT của TAND tỉnh Đồng Nai trong
thời gian từ năm 2016 đến năm 2020; chỉ ra những tồn tại, vướng mắc trong
thực tiễn và nguyên nhân.
- Đề để xuất một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật trong
xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu các quy định về XXPT và
thực tiễn XXPT vụ án hình sự của TAND tỉnh Đồng Nai từ năm 2016 đến
năm 2020.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu: Giai đoạn xét xử phúc thẩm.
- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2016 đến năm 2020.
- Phạm vi không gian: Địa bàn tỉnh Đồng Nai.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, về cải cách tư pháp.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong đề tài: Phương
pháp hệ thống, so sánh, phân tích - tổng hợp, thống kê, lịch sử, lơgíc - pháp lý.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những quy định của pháp luật về xét xử
VAHS nói chung và xét xử phúc thẩm VAHS tại Tòa án nhân dân tỉnh hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là tài liệu có thể được sử dụng tham khảo cho việc nghiên cứu,
học tập, giảng dạy ở các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học pháp lý. Bên cạnh đó,
Luận văn có ý nghĩa trong việc nâng cao trình độ lý luận, hiểu biết, các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự của cán bộ tư pháp nói chung và của Thẩm phán nói

4

download by :


riêng về xét xử phúc thẩm VAHS, góp phần nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét
xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Chương 2: Pháp luật về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự và thực tiễn áp
dụng ở tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử phúc thẩm các vụ
án hình sự.

5

download by :



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm, tính chất của xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm
Sự ra đời của Tòa án gắn liền với hoạt động xét xử và xét xử trở thành
đặc điểm quan trọng nhất khi nói đến Tịa án. Xét xử ln được xác định là
chức năng có tính đặc hữu, đặc quyền của Tòa án. Xét xử cũng là một thủ tục
đặc biệt nhất của tịa án tư pháp mà khơng có cơ quan nào của nhà nước có
được. Hiến pháp năm 2013 ghi nhận“Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”[26].
Quy định này khẳng định quyền tư pháp là quyền được giao cho Tịa án.
Thơng qua hoạt động xét xử, Tòa án xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của
vụ án hình sự, dân sự, hành chính, nhân danh Nhà nước đưa ra một phán
quyết phù hợp với tính chất mức độ của hành vi vi phạm pháp luật, tội phạm.
Là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, tịa án có những điểm đặc thù so với các
cơ quan khác trong hệ thống cơ quan nhà nước, khác với cơ quan lập pháp và
hành pháp ở chỗ không giải quyết các vấn đề ở tầm vĩ mơ, khơng hoạch định
chính sách kinh tế - xã hội mà có chức năng giải quyết các vấn đề cụ thể, từng
tình huống, từng sự kiện cụ thể trong đời sống xã hội, có nhiệm vụ bảo vệ
cơng lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Cách thức tổ
chức và hoạt động của tòa án cũng rất khác so với cơ quan lập pháp và hành
pháp. Thông qua việc thực hiện quyền lực tư pháp mà pháp luật tác động đến
những quan hệ xã hội, công lý và trật tự xã hội được bảo đảm. Với đặc thù đó,
về ngun tắc tịa án khơng tổ chức theo đơn vị hành chính như cơ quan hành
pháp hoặc cơ quan dân cử mà tổ chức theo cấp (thẩm quyền) xét xử. Giữa các
cấp tòa án khơng có quan hệ mệnh lệnh, hành chính mà chủ yếu là quan hệ tố


6

download by :


tụng; mỗi cấp tòa án độc lập theo chiều dọc. Để có thể đạt được cơng lý, việc
xét xử cần phải độc lập, khơng áp đặt mệnh lệnh hành chính. Nếu ở cấp thứ
nhất (sơ thẩm) giải quyết vụ án hình sự mà cá nhân, tổ chức khơng đồng tình
thì có quyền kháng cáo, kháng nghị và cấp thứ hai (phúc thẩm) bất luận trong
trường hợp nào cũng phải mở phiên tịa xét xử với hội đồng xét xử hồn toàn
khác, mặc dù cả 2 cấp đều xét xử vụ án về nội dung. Đây là nguyên tắc tiến
bộ, nhân văn, lần đầu tiên được đề xướng và áp dụng trong tổ chức và hoạt
động của hệ thống tòa án sau cách mạng tư sản cuối thế kỷ XVIII [24, tr. 50].
Nguyên tắc xét xử hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm được ghi nhận trong Hiến
pháp của nhiều một số quốc gia. Điều 176 Hiến Cộng hòa Ba Lan năm 1997
quy định: các vụ việc tại tòa án phải qua ít nhất 2 cấp xét xử [16]; Điều 166,
168, 169 Hiến pháp Cộng hòa Nam Phi 1996 quy định về thẩm quyền xét xử
phúc thẩm (cấp thứ hai) của tòa án cấp phúc thẩm và Tòa án cấp cao [16].
Điều 50 Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 quy định người bị kết án có
quyền được xem xét lại bản án bởi Tịa án cấp cao hơn theo trình tự do pháp
luật liên bang quy định [16]. Bộ luật Tố tụng hình sự nhiều quốc gia đều quy
định thủ tục xét xử này.
Cũng như trong tụng dân sự và tố tụng hành chính, tất cả vụ án hình sự
đều phải được xét xử lần đầu tiên tại cấp xét xử sở thẩm. Đó là thủ tục bắt
buộc, là cấp xét xử đầu tiên trong hoạt động xét xử của Tịa án khi giải quyết
vụ án hình sự. Tịa án quyết định đưa vụ án ra xét xử khi có cáo trạng truy tố
của Viện kiểm sát. Trình tự thủ tục xét xử sơ thẩm được thực hiên theo quy
định của BLTTHS. Qua đó, Tịa án xem xét đánh giá chứng cứ, đánh giá toàn
bộ vụ án, những chứng cứ buộc tội cũng như chứng cứ gỡ tội, toàn bộ các tình
tiết liên quan có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án, thông qua kết quả tranh

tụng tại phiên tòa để đưa ra bản án, quyết định cần thiết. Bản án, quyết định
sơ thẩm chỉ có hiệu lực nếu không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn
luật định. Khi bản án có hiệu lực sẽ được thi hành và Tịa án sẽ khơng xét xử

7

download by :


lại vụ án đó nữa (trừ trường hợp nếu có căn cứ có thể xét lại bản án, quyết
định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm). Với đặc trưng của hoạt động tư
pháp bản án, quyết định sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị trong thời
hạn luật định và khi đó chưa có hiệu lực thi hành. Theo quy định của pháp
luật thì tất cả các bản án, quyết định sơ thẩm đều có thể bị kháng cáo, kháng
nghị không loại trừ bất kỳ trường hợp nào, miễn là được thực hiện theo đúng
quy định. Lúc này, Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc
thẩm trên cơ sở của nguyên tắc hiến định là xét xử hai cấp. Tòa án cấp trên sẽ
trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị và được tiến hành theo trình tự, thủ
tục do BLTTHS, đó chính là thủ tục phúc thẩm.
Trong hoạt động xét xử của tòa án, để bảo đảm tính khách quan, thận
trọng, chính xác, việc xét xử lại đối với vụ án được đặt ra ngay từ thời xa xưa
cho đến thời hiện đại. Pháp luật các quốc gia trên thế giới và trong các quy
chế về các thiết chế tư pháp quốc tế. Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị năm 1966 ghi nhận một nguyên tắc rất quan trọng “Bất cứ người
nào bị kết án là phạm tội đều có quyền u cầu tồ án cấp cao hơn xem xét
lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật” (Điểm 5,
Điều 14). Tuy nhiên, với quan niệm “cơng lý cũng phải có điểm dừng” nên
đối với vụ án xét xử ở cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm mang tính bắt buộc và
trở thành nguyên tắc pháp luật, được ghi nhận trong đạo luật cơ bản (Hiến

pháp) của nhiều quốc gia. Chức năng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được giao
cho những tòa án khác nhau đảm nhiệm, tòa án đã xét xử sơ thẩm không được
phúc thẩm bản án sơ thẩm do mình đã xét xử mà phải do Tịa án khác đảm
nhận. Có hai cách để phân định thẩm quyền cho các Tòa án thực hiện chức
năng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm là: (1) Ở những nước tổ chức hệ thống Tịa
án theo tiêu chí lãnh thổ (địa giới hành chính) kết hợp với thẩm quyền như
Việt Nam đã hình thành quan niệm Tịa án cấp dưới và Tịa án cấp trên thì

8

download by :


thường là luật quy định Tòa án cấp trên phúc thẩm bản án sơ thẩm của cấp
dưới nếu có kháng cáo, kháng nghị; (2) Những nước tổ chức hệ thống Tịa án
theo tiêu chí thẩm quyền thì hình thành những Tịa án chỉ có chức năng xét xử
sơ thẩm hoặc tịa án chỉ có chức năng xét xử phúc thẩm với tên gọi “tòa sơ
thẩm” hoặc tòa “phúc thẩm” nên khơng tồn tại quan niệm “tịa án cấp trên”,
“tịa án cấp dưới”, xóa bỏ được quan hệ hành chính giữa các tịa án do đó tạo
điều kiện để bảo đảm nguyên tắc độc lập trong tổ chức và hoạt động của tòa
án. Như vậy, nguyên tắc xét xử hai cấp (sơ thẩm và phúc thẩm) thể hiện
những chức năng xét xử cụ thể và những chức năng này do những tòa án khác
nhau đảm nhiệm.
Để đưa ra khái niệm xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, trước hết cần làm
rõ làm rõ từng khái niệm thành phần. Ở đây có hai khái niệm thành phần cần
làm rõ là khái niệm xét xử phúc thẩm và khái niệm vụ án hình sự.
Khái niệm phúc thẩm và xét xử phúc thẩm có nhiều cách hiểu khác
nhau. Theo từ điển Hán - Việt thì khơng có khái niệm phúc thẩm ngun
nghĩa, mà phúc thẩm được ghép lại bởi hai từ “phúc” và “thẩm” với hai nghĩa
khác nhau, trong đó từ “phúc” có nghĩa là “lật lại” hoặc “xét kỹ”, còn từ

“thẩm” mang nghĩa “xử đoán”. Như vậy theo từ điển Hán - Việt thì muốn
hiểu thế nào là phúc thẩm thì phải ghép nghĩa của hai từ “phúc” và từ “thẩm”
với nghĩa nêu trên [2]. Khác với từ điển Hán - Việt, từ điển Tiếng Việt đã nêu
khái niệm về phúc thẩm, theo đó phúc thẩm có nghĩa là Tịa án cấp trên xét xử
lại một vụ án mà có chống án do Tòa án cấp dưới đã xét xử sơ thẩm [46]. Từ
điển Luật học giải thích phúc thẩm là “xét lại vụ án, quyết định đã được tòa
án cấp dưới xét xử sơ thẩm nhưng chưa có hiệu lực pháp luật mà bị kháng
cáo hoặc kháng nghị” [6, tr.626].
Do các vụ việc có tính chất đặc thù khác nhau nên pháp luật quy định
các thủ tục tố tụng khác nhau tương ứng, bao gồm thủ tục tố tụng hình sự, thủ
tục tố tụng dân sự, thủ tục tố tụng hành chính, trong đó thủ tục tố tụng hình sự

9

download by :


được quy định áp dụng cho việc giải quyết các vụ án hình sự như khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Theo Từ điển luật học thì vụ án hình
sự là “Vụ việc phạm pháp có dấu hiệu là tội phạm đã được quy định trong Bộ
luật hình sự đã được cơ quan điều tra ra lệnh khởi tố về hình sự để tiến hành
điều tra, truy tố, xét xử theo các trình tự, thủ tục đã được quy định ở Bộ luật
hình sự tố tụng.” [6, tr.570]. Như vậy, khi có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan
có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự để tiến hành điều tra, truy
tố, xét xử theo các quy định của Bộ luật TTHS.
Theo quy định tại Điều 330 BLTTHS năm 2015 thì xét xử phúc thẩm
vụ án hình sự được hiểu là việc “Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét lại vụ án
hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án
đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị”[25].
Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn tố tụng

khác nhau, như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, các giai đoạn tố tụng này có
mối liên hệ mật thiết với nhau. Tuy nhiên, mỗi giai đoạn đều có tính độc lập
tương đối của nó, xét xử phúc thẩm là một giai đoạn tố tụng, nên cũng
không ngoại lệ. Giai đoạn xét xử phúc thẩm được tiến hành sau giai đoạn xét
xử sơ thẩm, trước xét xử sơ thẩm cịn có các giai đoạn điều tra, truy tố.
Những giai đoạn này là tiền đề cho giai đoạn xét xử phúc thẩm, còn giai
đoạn xét xử phúc thẩm lại kiểm tra, đánh giá tính đúng đắn của các giai đoạn
trước. Thông qua xét xử phúc thẩm, có thể kịp thời phát hiện những sai lầm,
thiếu sót của giai đoạn trước, từ đó kịp thời khắc phục, đảm bảo q trình tố
tụng thơng suốt, tiến hành theo đúng trình tự luật định, bảo vệ quyền con
người, quyền cơng dân.
Với những phân tích nêu trên, theo tác giả tác giả thì Xét xử phúc thẩm
vụ án hình sự là một giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, trong
đó Tịa án cấp trên trực tiếp xét xử lại bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị
kháng cáo hoặc kháng nghị theo đúng trình tự, thủ tục luật định, kiểm tra tính

10

download by :


có căn, hợp pháp và áp dụng pháp luật thống nhất của bản án, quyết định sơ
thẩm nêu trên nhằm kịp thời khắc phục sai lầm, thiếu sót của Tịa án cấp
dưới, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền con người, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
1.1.2. Tính chất của xét xử phúc thẩm
Trong khoa học tố tụng hình sự cho đến nay vẫn có nhiều ý kiến khác
nhau, chủ yếu xoay quanh vấn đề xác định phúc thẩm có phải là một cấp xét
xử hay chỉ là một thủ tục tố tụng không phải là cấp xét xử. Ý kiến thứ nhất
cho rằng, xét xử phúc thẩm là một cấp xét xử sau xét xử sơ thẩm. Khi xét xử

phúc thẩm, Tòa án trên một cấp - cấp phúc thẩm có nhiệm vụ kiểm tra hoạt
động xét xử sơ thẩm. Bên cạnh đó, Tịa án phúc thẩm cịn xét xử cả về nội
dung vụ án [47, tr.144]. Do đó, có thể nói tính chất của phúc thẩm cần phải
được hiểu là “xét xử lại” các vụ án mà bản án hoặc quyết định chưa có hiệu
lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị chứ không thể hiểu chỉ là “xét lại” vụ
án. Ý kiến thứ hai cho rằng, phúc thẩm chỉ là một thủ tục tố tụng, trong đó
Tịa án cấp trên (tòa cấp phúc thẩm) trực tiếp xét lại các bản án hoặc quyết
định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục
luật định mà không phải là một cấp xét xử. Với cách hiểu này thì tính chất của
phúc thẩm khơng phải là “xét xử lại” mà chỉ là “xét lại” các vụ án [39,tr. 216].
Vấn đề này được thể hiện ngay trong Điều 204 BLTTHS năm 1988 về tính
chất của xét xử phúc thẩm, theo đó Điều luật này quy định “Phúc thẩm là
việc Toà án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án hoặc quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị” [23]. Trong hai ý
kiến nói trên, ý kiến thứ hai khơng hợp lý, vì nếu chỉ coi phúc thẩm là “xét
lại” bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật thì phúc thẩm không phải là
một cấp xét xử, như vậy thì thực hiện nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp
xét xử” như thế nào? Nếu phúc thẩm chỉ là xét lại mà không phải là cấp xét
xử thứ hai sau xét xử sơ thẩm thì rõ ràng mâu thuẫn với nguyên tắc “hai cấp

11

download by :


xét xử”. Cịn ý kiến thứ nhất có căn cứ hơn khi phúc thẩm được coi là cấp xét
xử, cần phải được hiểu theo nghĩa phúc thẩm là “xét xử lại”. Cách hiểu như
vậy vừa phù hợp với quy định trong các văn bản hiện hành, vừa phù hợp với
thực tiễn xét xử. Về vấn đề này, PGS.TS. Trần Văn Độ đã có cách tiếp cận
hợp lý khi ơng cho rằng “khái niệm cấp xét xử không phải là khái niệm tố

tụng đơn thuần. Cấp xét xử là hình thức tổ chức tố tụng thể hiện quan điểm
của Nhà nước về xét xử các vụ án nhằm bảo đảm tính chính xác, khách quan
trong phán quyết của Tồ án, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của cơng dân.
Vì vậy, các quốc gia đều áp dụng nguyên tắc vụ án có thể được tổ chức xét xử
nhiều lần và tổ chức hệ thống Toà án để thực hiện nguyên tắc đó trong thực
tế. Cấp xét xử khơng đơn thuần chỉ là thủ tục tố tụng; nó cịn liên quan nhiều
đến cách tổ chức tố tụng, tổ chức Toà án để thực hiện việc xét xử lại vụ án.
Hiện nay, trong pháp luật quốc tế cũng như các quốc gia đều thực hiện
nguyên tắc hai cấp xét xử” [10].
Xét về mặt pháp lý thì phúc thẩm là một cấp xét xử, hoàn toàn phù hợp
với nguyên tắc “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” được ghi
nhận trong Điều 103 Hiến pháp 2013 và Điều 27 BLTTHS năm 2015. Khi đã
thừa nhận nguyên tắc xét xử ở hai cấp thì chính là cơ sở để thừa nhận chế
định phúc thẩm và tính chất “xét xử lại” của nó, tức là thừa nhận phúc thẩm là
cấp xét xử thứ hai. Hơn nữa, thực tiễn cho thấy khi có bản án, quyết định
chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị thì Tồ án cấp trên khi
xét xử phúc thẩm đã tiến hành đầy đủ các trình tự, thủ tục mà Bộ luật Tố tụng
hình sự quy định chứ khơng chỉ xét lại, điều này có nghĩa là Tòa án phúc
thẩm là Tòa án cấp cao hơn, với địa vị pháp lý của mình sẽ kịp thời sửa chữa
những sai lầm, thiếu sót nếu có của bản án, quyết định sơ thẩm. Như vậy, tính
chất của phúc thẩm phải được hiểu là “xét xử lại” theo đúng tinh thần của
Điều 330 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 “Xét xử phúc thẩm là việc Tòa
án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản

12

download by :


án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng

cáo hoặc kháng nghị” [25].
Về đối tượng của xét xử phúc thẩm, sau khi Tòa án cấp sơ thẩm xét xử
và ban hành bản án, quyết định sơ thẩm, thì bản án, quyết định sơ thẩm này
chưa có hiệu lực thi hành ngay. Khi bản án, quyết định đó bị kháng cáo,
kháng nghị trong thời hạn luật định thì sẽ được xem xét xét xử lại ở Tòa án
cấp trên theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự. Khi xác định đối tượng của xét
xử phúc thẩm trong khoa học luật TTHS vẫn còn những ý kiến khác nhau.
Ý kiến thứ nhất cho rằng đối tượng của xét xử phúc thẩm chính là bản
án, quyết định sơ thẩm. Đây là những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật bị kháng cáo kháng nghị. Ý kiến này lần đầu tiên được xuất
phát từ Điều 204 BLTTHS năm 1988 và một số Bộ luật Tố tụng hình sự của
một số nước như Nhật Bản, Australia…Tuy nhiên, hiện nay có nhiều nhà
khoa học pháp lý không đồng ý với ý kiến này. Tác giả luận văn cũng không
đồng ý với ý kiến này vì khi xét xử bất kỳ một vụ án nào cũng đều nhằm xác
định sự thật của vụ án một cách khách quan và đầy đủ. Không chỉ tòa án phúc
thẩm mà tất cả các cấp xét xử đều phải xem xét, đánh giá chứng cứ của toàn
bộ vụ án đã được thu thập ở các giai đoạn trước đó cũng như những chứng cứ
được đưa ra xem xét trực tiếp tại phiên tòa. Trong các chứng cứ đó, có bản án,
quyết định của Tịa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo kháng nghị. Nói cách khác,
chứng cứ nêu trong bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị chỉ là một trong những chứng cứ có giá trị cần phải
xem xét tại phiên Tòa bên cạnh các chứng cứ khác. Do đó, nếu coi đối tượng
của xét xử phúc thẩm chỉ là các bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị thì là thiếu sót, khơng đảm bảo được mục đích của xét xử là nhằm
làm rõ sự thật khách quan của vụ án một cách toàn diện, nhằm xét xử đúng
đắn vụ án hình sự.

13

download by :



Ý kiến thứ hai lại cho rằng, những vụ án mà có bản án, quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị là đối tượng của xét
xử phúc thẩm. Ý kiến này có điểm khác so với ý kiến thứ nhất, là xác định
“những vụ án” mà bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị là đối
tượng xét xử sơ thẩm chứ không chỉ “những bản án, quyết định sơ thẩm’.
Quan điểm này phù hợp với tính chất của xét xử phúc thẩm, thực tiễn xét xử
cũng như các quy định của pháp luật hiện hành. Các quốc gia trên cũng xác
định đối tượng của phúc thẩm là những vụ án hình sự mà bản án, quyết định
sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
Như đã phân tích ở trên, thì xác định đối tượng của phúc thẩm để đảm
bảo tính khách quan, tồn diện và đầy đủ của xét xử nói chung và xét xử phúc
thẩm nói riêng thì có thể khẳng định đối tượng của xét xử phúc thẩm không
thể chỉ là bản án, quyết định sơ thẩm mà phải là và bắt buộc là những vụ án
mà bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo,
kháng nghị trong thời hạn luật định.
1.2. Phân biệt xét xử phúc thẩm với giám đốc thẩm, tái thẩm
Phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm có nhiều điểm khác nhau. Tuy
nhiên, để phân biệt giữa phúc thẩm với giám đốc thẩm, tái thẩm chủ yếu xem
xét ở các yếu tố cơ bản như tính chất của xét xử, đối tượng, thẩm quyền,
phạm vi xét xử phúc thẩm và trình tự, thủ tục tố tụng. Sự khác nhau thể hiện ở
một số nội dung sau:
Thứ nhất, về tính chất: tính chất của xét xử phúc thẩm khác tính chất
của giám đốc thẩm, tái thẩm. Để phân biệt giữa phúc thẩm và giám đốc thẩm,
tái thẩm thì đây là căn cứ quan trọng nhất. Một khi xác định được sự khác
nhau về tính chất, là phân biệt được phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm.
Như đã phân tích ở trên, tính chất của xét xử phúc thẩm chính là là “việc Tòa
án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án….”, điều này được hiểu phúc thẩm chính
là một cấp xét xử, hay phúc thẩm là “cấp xét xử thứ hai”, Tòa án phúc thẩm


14

download by :


có nhiệm vụ xét xử lại vụ án về nội dung, kiêm tra tính có căn cứ và hợp pháp
của bản án, quyết định cấp sơ thẩm. Như vậy, bản chất của phúc thẩm chính
là “xét xử lại”. Tuy nhiên, giám đốc thẩm và tái thẩm lại chỉ là “xét lại bản án,
quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật…”(Điều 370, 397 BLTTHS
năm 2015), đây chỉ được coi là thủ tục đặc biệt, nhằm “xét lại”, kiểm tra lại
tính có căn cứ và hợp pháp của các bản án, quyết định đã có hiệu lực bị kháng
nghị. Căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành, giám đốc thẩm là xét lại
bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị
vì có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án Giám đốc
thẩm, tái thẩm cũng không phải là một cấp xét xử giống như phúc thẩm. Đây
chính là điểm khác biệt cơ bản nhất giữa phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái
thẩm.
Thứ hai, xét về đối tượng của xét xử phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái
thẩm: theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, tại Điều 330 BLTTS năm
2015 thì đối tượng của xét xử phúc thẩm là các vụ án mà bản án, quyết định
chưa có hiệu lực bị kháng cáo (hoặc kháng nghị), còn đối tượng của giám đốc
thẩm, tái thẩm là những vụ án mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp
luật. Cụ thể là giám đốc thẩm xem xét lại bản án, quyết định của Tịa án đã có
hiệu lực pháp luật do có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, còn tái thẩm xem
xét lại bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật do phát hiện
tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định mà Tịa án
khơng biết được lúc ra bản án, quyết định.
Thứ ba, xét về chủ thể kháng cáo, kháng nghị: đối với xét xử phúc
thẩm, chủ thể kháng cáo là những người tham gia tố tụng theo quy định tại

Điều 331 BLTTHS năm 2015 và chủ thể kháng nghị là Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp hoặc Viện kiểm sát cùng cấp. Cịn đối với giám đốc thẩm, tái thẩm
chỉ có kháng nghị, cụ thể như:

15

download by :


Đối với giám đốc thẩm thì chủ thể có quyền kháng nghị là Chánh án
TAND tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Chánh án Tòa án
quân sự trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương; Chánh án
Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.
Đối với Tái thẩm thì chủ thể có quyền kháng nghị là Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương;
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.
Thứ tư, về thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm:
Đối với Tòa án phúc thẩm có một số quyền hạn sau đây: Hội đồng xét
xử phúc thẩm có quyền khơng chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ
nguyên bản án sơ thẩm; Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ
thẩm; Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại
hoặc xét xử lại; Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm và
đình chỉ vụ án; HĐXX phúc thẩm có quyền đình chỉ xét xử phúc thẩm.
Đối với giám đốc thẩm có quyền hạn sau đây: Khơng chấp nhận kháng
nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị;
Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết
định đúng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm bị
hủy, sửa không đúng pháp luật; Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật để điều tra lại hoặc xét xử lại; Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật và đình chỉ vụ án; Sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; Đình

chỉ xét xử giám đốc thẩm. (Điều 388 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) [25].
Đối với thẩm quyền của Hội đồng tái thẩm: Không chấp nhận kháng
nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị;
Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp để điều tra lại hoặc xét xử lại;
Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án; Đình chỉ
xét xử tái thẩm. (Điều 402 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) [25].

16

download by :


Như vậy sự khác nhau về thẩm quyền phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm chủ yếu khác nhau về quyền hạn sửa bản án hoặc quyết định của Tòa án
cấp dưới. Hội đồng giám đốc thẩm có quyền hủy bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại. Cịn hội
đồng tái thẩm có thẩm quyền hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
để xét xử sơ thẩm lại. Hội đồng giám đốc thẩm có quyền giữ nguyên bản án
của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa cịn hội đồng tái thẩm thì khơng có
thẩm quyền này.
Thứ năm, về thủ tục xét xử: phúc thẩm là phiên tòa xét xử, được thực
hiện theo đúng trình tự, thủ tục và các nguyên tắc xét xử như nguyên tắc xét
xử trực tiếp, bằng lời nói, liên tục; nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm…Như vậy, phúc thẩm có thể được hiểu là phiên tòa xét xử đúng
nghĩa. Tuy nhiên, giám đốc thẩm và tái thẩm không được thực hiện như vậy,
mà được tiến hành tương tự như phiên họp để xem xét, kiểm tra tính có căn
cứ và hợp pháp của bản án hoặc quyết định trên cơ sở hồ sơ, tài liệu được
cung cấp sẵn. Khi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm cũng không bắt buộc triệu
tập bị cáo hoặc những người tham gia tố tụng khác. Do đó, đây là những điểm
khác biệt về thủ tục xét xử giữa phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm.

1.3. Xét xử phúc thẩm ở một số quốc gia trên thế giới
Trong số các quốc gia, Luận văn tập trung tìm hiểu về xét xử phúc
thẩm trong thủ tục TTHS của CHND Trung Hoa, CHLB Đức và Liên bang
Nga. Đây là những nước mà hệ thống tư pháp hình sự có những điểm tương
đồng với Việt Nam. Mơ hình TTHS của CHND Trung Hoa có nhiều điểm
giống Việt Nam. Pháp luật TTHS Liên bang Nga có ảnh hưởng khá rõ đến
q trình pháp điển hóa pháp luật TTHS của Việt Nam. Cịn CHLB Đức theo
mơ hình tố tụng thẩm vấn, cũng có những điểm tương đồng với Việt Nam.

17

download by :


1.3.1. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Bộ luật TTHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa hiện hành quy định nếu
bị cáo, tư tố viên (trong các vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại) hoặc
người đại diện theo pháp luật của họ khơng nhất trí với bản án hoặc quyết
định của Toà án xét xử sơ thẩm ở bất kỳ cấp nào thì họ có quyền kháng cáo
bằng văn bản hoặc lời nói lên tồ án cấp trên trực tiếp. Bị cáo không thể bị
tước bỏ quyền kháng cáo vì bất kỳ lý do gì. Nếu Viện kiểm sát nhân dân địa
phương ở bất kỳ cấp nào cho rằng có lỗi rõ ràng trong bản án hoặc quyết định
sơ thẩm của Tồ án cùng cấp thì phải kháng nghị lên Toà án nhân dân cấp
trên trực tiếp. Khi có kháng cáo hoặc kháng nghị, Tồ án cấp phúc thẩm phải
tiến hành xem xét tồn diện các tình tiết và áp dụng pháp luật trong bản án sơ
thẩm và không được giới hạn phạm vi kháng cáo, kháng nghị. Sau khi xét xử
vụ án có kháng cáo, kháng nghị bản án sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm phải,
dựa trên những tình huống khác nhau, giải quyết theo một trong những cách
sau:
Thứ nhất, nếu phán quyết ban đầu là đúng trong việc quyết định các

tình tiết và áp dụng pháp luật và phù hợp với hình phạt, Tồ án phải huỷ
kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm;
Thứ hai, nếu phán quyết ban đầu không có sai sót trong việc quyết định
các tình tiết nhưng áp dụng pháp luật có sai lầm hoặc hình phạt khơng phù
hợp, Tồ án phải sửa đổi bản án.
Thứ ba, nếu những tình tiết trong phán quyết ban đầu khơng rõ ràng
hoặc chứng cứ khơng đầy đủ, Tồ án có thể sửa đổi bản án sau khi điều tra rõ
sự việc, hoặc có thể huỷ bản án ban đầu và trả vụ án cho Toà án đã xét xử ban
đầu xét xử lại.
Thứ tư, nếu Toà án cấp phúc thẩm phát hiện thấy trong khi xét xử vụ
án Toà án cấp sơ thẩm vi phạm nguyên tắc xét xử công khai; vi phạm chế
định về thay đổi thẩm phán, hội thẩm, tước bỏ của các bên đương sự quyền

18

download by :


hợp pháp của họ được quy định trong luật hoặc hạn chế những quyền này mà
có thể ảnh hưởng đến tính khách quan của việc xét xử; những vi phạm tố tụng
khác theo luật có thể ảnh hưởng đến tính khách quan của việc xét xử.
Để bảo đảm nguyên tắc khơng làm xấu đi tình trạng của bị cáo ở giai
đoạn xét xử phúc thẩm, khi xét xử những vụ án có kháng cáo của bị cáo hoặc
của người đại diện hợp pháp, người bào chữa hoặc họ hàng thân thích, Tồ án
cấp phúc thẩm khơng được tăng hình phạt đối với bị cáo.
1.3.2. Cộng hòa Liên bang Đức
Bộ luật TTHS Cộng hòa Liên bang Đức quy định quyền kháng cáo và
kháng nghị phúc thẩm tương đối cụ thể trong Chương riêng về phúc thẩm.
Theo đó, nếu việc kháng án về tình tiết vụ án và việc áp dụng pháp luật được
đưa ra đúng thời hạn, Tòa án thụ lý vụ án sau khi hết thời hiệu đưa ra các căn

cứ sẽ chuyển hồ sơ vụ án đó tới Cơ quan cơng tố khơng phân biệt căn cứ có
được đưa ra hay khơng. Nếu việc kháng án về tình tiết vụ án và việc áp dụng
pháp luật được đưa ra bởi chính Cơ quan cơng tố thì kháng án đó sẽ được
tống đạt tới bị cáo về các tài liệu liên quan tới việc đưa ra kháng nghị và căn
cứ kháng nghị. Cơ quan công tố sẽ chuyển hồ sơ vụ án tới Cơ quan cơng tố tại
nơi Tịa án phúc xét xử phúc thẩm kháng cáo kháng nghị. Sau đó sẽ chuyển
vụ án tới thẩm phán chủ tọa phiên xét xử trong thời hạn một tuần. Tòa án xét
xử phúc thẩm sẽ quyết định về việc có chấp nhận hay khơng chấp nhận kháng
án về tình tiết vụ án và việc áp dụng pháp luật. Quyết định của Tòa án không
thể bị khiếu nại. Quyết định chấp nhận kháng án về tình tiết vụ án và việc áp
dụng pháp luật không cần phải đưa ra lý do. Bản án sẽ được Tòa án xem xét
lại chỉ trong phạm vi có khiếu nại. Khi xét xử theo trình tự phúc thẩm, nếu
thấy việc kháng án về tình tiết vụ án và việc áp dụng pháp luật có đầy đủ căn
cứ chứng minh thì Tịa án xét xử phúc thẩm kháng án sẽ đưa ra quyết định
của mình đối với vụ án và sẽ hủy bỏ bản án trước đó. Nếu Tòa án sơ thẩm xét

19

download by :


×