LUẬN VĂN:
Thanh toán không dùng tiền mặt tại
Chi nhánh Ngân hàng Công thương
tỉnh Nam Định, thực trạng và giải pháp
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giai đoạn 2001- 2010 là giai đoạn có tính chất quyết định chiến lược cho quá
trình phát triển mới của nền kinh tế Việt Nam trong vòng xoáy khách quan của các
chuyển động hội nhập và toàn cầu hoá.
Xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế thế giới đang mở ra cho nhân loại một cánh
cửa giao lưu đầy triển vọng. Vượt qua không gian và thời gian, những luồng dịch
chuyển hàng hoá và tiền tệ đã tạo nên sự gắn kết ngày càng bền vững giữa các quốc
gia với những trình độ kinh tế khác nhau và thể chế pháp luật riêng biệt. Trong bối
cảnh đó, nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành Ngân hàng Việt Nam nói riêng
đang tích cực vận động để chuyển mình theo kịp với dòng chảy mạnh mẽ của nền
kinh tế – tài chính thế giới. Các mối quan hệ thanh toán đan xen ngày càng phong
phú, đa dạng và phức tạp đòi hỏi tất yếu phải có các phương thức thanh toán tiện
dụng, hiện đại để đáp ứng kịp thời nhu cầu ngày càng cao của các chủ thể kinh tế.
Được xem là nấc thang phát triển tất yếu của nền kinh tế thanh toán không
dùng tiền mặt đã tồn tại, phát triển và không ngừng được đổi mới, hoàn thiện, ngày
càng chứng minh được những tiện ích của mình trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh
tế - xã hội.
Xuất phát từ thực tiễn hoạt động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói
chung và Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định nói riêng trong quá
trình đổi mới và phát triển, thanh toán không dùng tiền mặt đã gặp phải rất nhiều khó
khăn và thách thức. Thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam còn là nền kinh tế tiền mặt vì
dân chúng chưa từ bỏ thói quen sử dụng tiền mặt vốn đã ăn sâu từ bao đời nay. Thứ
hai, hệ thống pháp luật cũng chưa hoàn chỉnh , thiếu đồng bộ, thiếu chặt chẽ. Thứ ba,
cơ sở vật chất còn nghèo nàn, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào Ngân hàng gặp
nhiều bất cập, các phần mềm ứng dụng chưa sáng tạo vì thế chưa phát huy tối đa hiệu
quả các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt. Thứ tư, chất lượng đội ngũ cán bộ,
công nhân viên Ngân hàng còn hạn chế. Thứ năm, Ngân hàng thương mại Việt Nam
đang phải cạnh tranh với các Ngân hàng nước ngoài, các tổ chức kinh tế phi Ngân
hàng có trình độ và công nghệ cao hơn rất nhiều với các sản phẩm Ngân hàng đa
dạng, phong phú và hấp dẫn.
Trước những khó khăn đó, các Ngân hàng thương mại Việt Nam càng phải
nhanh chóng khẳng định sức mạnh cạnh tranh cũng như khẳng định vai trò chủ đạo
của mình trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng, góp phần xây dựng
một nền văn minh tiền tệ ổn định và vững mạnh.
Như vậy, phát triển thanh toán không dùng tiền mặt đang là một yêu cầu cấp
thiết hàng đầu trong quá trình phát triển hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của
Ngân hàng Việt Nam nói riêng, của nền kinh tế Việt Nam nói chung. Xuất phát từ
thực trạng đó, cùng với quá trình tìm hiểu, nghiên cứu về tình hình thanh toán không
dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định trong thời gian
thực tập vừa qua, em đã lựa chọn đề tài: “Thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi
nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định, thực trạng và giải pháp” để
nghiên cứu và phát triển thành khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu lý luận cơ bản về thanh toán
không dùng tiền mặt trong nền kinh tế và thực trạng hoạt động thanh toán không
dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định, từ đó đề xuất
các giải pháp nhằm mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong tương lai.
3. Phạm vi nghiên cứu
Thanh toán không dùng tiền mặt bao gồm rất nhiều nội dung, phương thức
thanh toán khác nhau, nhưng khoá luận chỉ đề cập đến phương thức thanh toán không
dùng tiền mặt đang được áp dụng tại Việt Nam hiện nay, từ đó đi sâu vào phân tích
các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt được sử dụng chủ yếu ở Chi nhánh
Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định trong hai năm gần đây, năm 2003 – năm
2004.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp phân tích, so sánh. Ngoài ra,
khoá luận vận dụng phương pháp nghiên cứu logic biện chứng và diễn dịch.
5. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm có 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận chung về thanh toán không dùng tiền mặt trong nền
kinh tế.
Chương 2: Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân
hàng Công thương tỉnh Nam Định trong thời gian qua.
Chương 3: Một số giải pháp góp phần mở rộng thanh toán không dùng tiền
mặt tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định.
Do kiến thức thực tế mà bản thân thu lượm được chưa nhiều, thời gian thực
tập tại Ngân hàng còn hạn hẹp nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Tác
giả khóa luận rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của giáo viên hướng dẫn, giáo
viên trong hội đồng bảo vệ và Ban Giám đốc, cán bộ công nhân viên Chi nhánh Ngân
hàng Công thương tỉnh Nam Định để hoàn thiện hơn nữa kiến thức của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương 1
cơ sở lí luận chung về thanh toán
không dùng tiền mặt trong nền kinh tế
1.1. Khái quát chung.
1.1.1. Sự cần thiết và ý nghĩa của thanh toán không dùng tiền mặt.
Tiền tệ ra đời là sản phẩm tất yếu của cuộc sống, là nhiệm màu của quá trình
phát triển kinh tế. ở bất cứ xã hội nào còn sản xuất, lưu thông hàng hoá thì còn tồn tại
lưu thông tiền tệ như một quy luật khách quan.
Các nhà kinh tế đã định nghĩa: “tiền là bất cứ thứ gì được chấp nhận chung
trong thanh toán để đổi lấy hàng hoá, dịch vụ và thanh toán các khoản nợ”.
Từ khi xuất hiện, tiền tệ đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, từ những hình
thức đơn giản như vỏ sò, vỏ hến, cho đến những kim loại quý như vàng bạc, rồi tiền
giấy xuất hiện. Nó có chức năng là thước đo giá trị đồng thời cũng là phương tiện
thanh toán trong nền kinh tế.
Thanh toán là khâu đầu tiên cũng là khâu cuối cùng kết thúc một chu kỳ sản
xuất. Vì vậy, không có thanh toán thì quá trình sản xuất không thể tiến hành đều đặn
và liên tục được. Thanh toán được coi là tất yếu, khách quan và cần thiết phục vụ cho
quá trình sản xuất, kinh doanh, là điều kiện quan trọng để đảm bảo sự tuần hoàn vốn
một cách bình thường, liên tục trong từng đơn vị sản xuất nói riêng cũng như toàn bộ
nền kinh tế nói chung. Nếu như trong khâu thanh toán có ách tắc thì quá trình sản
xuất bị gián đoạn, các mối quan hệ kinh tế bị phá vỡ, làm ảnh hưởng đến nhịp độ
phát triển của nền kinh tế.
Ngân hàng ra đời lúc đầu hoạt động đơn giản là giữ hộ tiền, vàng cho khách
hàng, khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, dần dần
Ngân hàng phát sinh thêm một số nghiệp vụ như thanh toán cho khách hàng gửi tiền
tại Ngân hàng có nhu cầu thanh toán chi trả lẫn nhau. Khi nền sản xuất hàng hoá còn
ở trình độ thấp, việc thanh toán chỉ là thanh toán bằng tiền mặt với khối lượng nhỏ,
phạm vi hẹp. Sự vận động của vật tư hàng hoá gắn liền với sự vận động của khối
lượng tiền tệ nhất định. Lúc này thanh toán bằng tiền mặt tỏ rõ sự linh hoạt của nó,
diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của người mua và người
bán, quá trình thanh toán bằng tiền mặt không gặp một trở ngại nào. Khi nền kinh tế
sản xuất hàng hoá phát triển ở trình độ cao, nhu cầu trao đổi rộng, việc mua bán
thường xuyên diễn ra với khối lượng lớn, việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt
không còn tỏ ra là một phương thức hữu hiệu nữa. Những hạn chế của tiền mặt gây
nhiều tốn kém trong khâu vận chuyển, kiểm đếm, độ an toàn thấp, từ đó đòi hỏi phải
có hình thức thanh toán mới ưu việt hơn để thay thế và đáp ứng kịp thời nhu cầu của
nền kinh tế. Vì vậy, cùng với sự phát triển vượt bậc của hệ thống Ngân hàng, các
công cụ thanh toán được đưa ra để lựa chọn và thanh toán không dùng tiền mặt đã
phát sinh từ đó.
Phương thức thanh toán không dùng tiền mặt ra đời và nhanh chóng phát triển,
chiếm ưu thế trên thị trường vì nó đã khắc phục được những nhược điểm của thanh
toán bằng tiền mặt.
Thanh toán không dùng tiền mặt là quá trình thanh toán không có sự xuất
hiện của tiền mặt mà chỉ là tiền ghi sổ, nghĩa là dựa trên số tiền tại tài khoản tiền
gửi tại Ngân hàng. Việc thanh toán được tiến hành bằng cách chích chuyển từ tài
khoản này sang tài khoản khác hoặc thanh toán bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò
trung gian của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Phương thức thanh toán không dùng tiền mặt nhanh chóng được chấp nhận và
sử dụng rộng rãi, phổ biến trên thế giới. Phương thức này có ý nghĩa rất quan trọng
trong quá trình lưu thông hàng hoá, góp phần làm cho quá trình thanh toán trở nên an
toàn, thuận tiện, nhanh chóng, chính xác, giúp tăng nhanh vòng quay của vốn; đồng
thời làm giảm chi phí lưu thông do không phải vận chuyển tiền mặt từ nơi này đến
nơi khác. Chính vì thế thanh toán không dùng tiền mặt trở thành một bộ phận không
thể tách rời của hệ thống tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân. Thanh toán không dùng
tiền mặt đã chiếm giữ vai trò quan trọng không chỉ đối với một ngành kinh tế mà còn
đối với sự phát triển của cả quốc gia và sự ổn định, hưng thịnh của cả xã hội loài
người.
1.1.2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị
trường.
Hiện nay, thanh toán không dùng tiền mặt đã trở thành một mắt xích quan
trọng không thể thiếu trong dây chuyền hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Đó là nấc thang phát triển tất yếu của hoạt động thanh toán. Hoạt động thanh toán
không dùng tiền mặt với những phương tiện thanh toán như Séc, Uỷ nhiệm chi, uỷ
nhiệm thu, thẻ thanh toán, thư tín dụng… có vai trò quan trọng và mang lại nhiều lợi
ích kinh tế – xã hội đối với sự phát triển của các Ngân hàng thương mại, của khách
hàng trong nền kinh tế.
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế.
Hiệu quả hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt mang tính vĩ mô có ý
nghĩa kinh tế – xã hội cao. Trước hết, thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện
cho các tổ chức tín dụng khai thác tốt chức năng trung tâm thanh toán của nền kinh
tế, thực hiện quá trình chu chuyển tiền tệ, khai thác và sử dụng tốt các nguồn vốn.
Nhờ đó các khối tiền bất động trở nên sống động hơn, di chuyển từ nơi này đến nơi
khác để phục vụ sản xuất, kinh doanh.
Thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện cho quá trình sản xuất, kinh
doanh được tiến hành trôi chảy, nhịp nhàng, thúc đẩy nguồn vốn luân chuyển nhanh
chóng, góp phần đẩy nhanh tốc độ sản xuất, luân chuyển hàng hoá. Đồng thời sử
dụng thanh toán không dùng tiền mặt sẽ làm giảm bớt khối lượng tiền mặt trong lưu
thông, hạn chế lạm phát, giảm bớt chi phí in ấn, phát hành, lưu thông tiền tệ, ổn định
giá trị đồng tiền. Thanh toán không dùng tiền mặt còn giúp đơn giản trong thanh
toán, tạo tâm lý thoải mái, yên tâm và độ tin cậy cao cho khách hàng.
1.1.2.2. Đối với Ngân hàng.
Thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước thực
hiện nhiệm vụ điều hoà, lưu thông tiền tệ, kiểm soát các giao dịch thanh toán giữa
các Ngân hàng, nắm được khối lượng chu chuyển tiền tệ, từ đó nâng cao hiệu quả
thực thi chính sách tiền tệ quốc gia.
Thanh toán không dùng tiền mặt là một trong những dịch vụ chính của các
Ngân hàng thương mại dựa trên cơ sở các quan hệ kinh tế – thương mại của khách
hàng, gắn liền với quá trình khai thác và sử dụng vốn của các tổ chức tín dụng.
Thông qua việc cung cấp dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt cho khách hàng và
nền kinh tế, các Ngân hàng thương mại sẽ tăng thu nhập từ việc thu phí dịch vụ, từ đó
tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại nâng cao khả năng tài chính, khả năng
cạnh tranh và tạo sự phát triển bền vững.
Mở rộng và phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt mang lại hiệu
quả kinh tế lớn cho các Ngân hàng thương mại, nhờ việc khai thác và sử dụng linh
hoạt nguồn vốn tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế và cá nhân. Ngân hàng sẽ
tập trung được nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Ngoài ra thanh toán không
dùng tiền mặt còn giúp Ngân hàng tiết kiệm chi phí kiểm đếm, bảo quản tiền mặt.
Thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán, Ngân hàng thương mại sẽ kiểm soát
được tình hình biến động số dư tài khoản của khách hàng, đánh giá được khả năng tài
chính, uy tín của khách hàng, từ đó sẽ đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng.
Đây cũng là những thông tin có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động tín dụng trong
quá trình tìm hiểu khách hàng, thẩm định và xét duyệt cho vay.
Thanh toán không dùng tiền mặt giúp điều hoà khối lượng tiền mặt trong lưu
thông. Do cơ chế thanh toán là một bộ phận của cơ chế lưu thông tiền tệ, nên thanh
toán không dùng tiền mặt gắn bó chặt chẽ với cơ chế điều hoà tiền mặt, làm tiết giảm
lượng tiền mặt trong lưu thông, góp phần giải quyết tình trạng thiếu tiền mặt trong
ngân quỹ, làm cho hoạt động Ngân hàng được thông suốt, hoàn thiện chức năng
trung gian thanh toán của Ngân hàng thương mại.
Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt hiệu quả sẽ thúc đẩy quá trình phát
triển công nghệ Ngân hàng hiện đại, kích thích các dịch vụ Ngân hàng khác cùng
phát triển. Với hàng loạt sản phẩm, dịch vụ mang nhiều tiện ích như: dịch vụ thẻ,
dịch vụ chuyển tiền điện tử, thanh toán trực tuyến… sẽ thu hút, hấp dẫn khách hàng
quan hệ với Ngân hàng.
Sự có mặt của nhiều tổ chức như các Ngân hàng nước ngoài, các tổ chức phi
Ngân hàng (như bảo hiểm, bưu điện…) với các dịch vụ Ngân hàng an toàn, nhanh
chóng, thuận tiện đã đòi hỏi các Ngân hàng thương mại Việt Nam phải nâng cao khả
năng cạnh tranh cũng như hình ảnh Ngân hàng mình.
Vì thế để thu hút khách hàng đến sử dụng dịch vụ tại Ngân hàng thì các Ngân
hàng thương mại phải không ngừng cải tiến các dịch vụ thanh toán của mình, ngày
càng nâng cao hơn nữa hiệu quả của các dịch vụ đặc biệt là thanh toán không dùng
tiền mặt, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như vị thế của Ngân hàng mình
trên thị trường.
1.1.2.3. Đối với khách hàng.
Khai thác và sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt mang lại lợi ích
kinh tế lớn cho khách hàng, nhờ việc tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn, tiết kiệm
được các chi phí phát sinh; góp phần giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm,
nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt đảm bảo tiện lợi, nhanh chóng, an
toàn và bảo mật cho khách hàng khi sử dụng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi
mức độ ứng dụng công nghệ thông tin của các Ngân hàng thương mại trong hoạt
động thanh toán ngày càng cao, chỉ bằng một lệnh của một chủ tài khoản, một giao
dịch có thể được thực hiện ngay không kể không gian và địa điểm giao dịch nhờ công
nghệ mạng, công nghệ chuyển tiền điện tử, công nghệ online
Sự đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng trong lĩnh vực thanh toán đã
và đang được các Ngân hàng thương mại cung cấp, tạo điều kiện cho khách hàng có
nhiều sự lựa chọn trong việc sử dụng dịch vụ sao cho có lợi nhất.
Như vậy, thanh toán không dùng tiền mặt không đơn thuần là việc chi trả tiền,
mà hàm nghĩa rộng hơn là chuyển tải luồng vốn trong nền kinh tế từ nơi này đến nơi
khác, hỗ trợ trực tiếp cho thị trường liên Ngân hàng và thị trường tài chính phát triển.
Trong xu thế quốc tế hoá hiện nay, khi mag thương mại quốc tế ngày càng phát triển
và mở rộng thì thanh toán không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia nữa mà
tiến tới thanh toán đa phương.
ở Việt Nam, sự phát triển của công nghệ điện tử, tin học trong công tác thanh
toán không dùng tiền mặt sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế quốc gia hoà nhập vào nền
kinh tế thế giới và khu vực. Nhưng không phải vì thế mà phủ nhận chỗ đứng của
thanh toán bằng tiền mặt mà phải có sự kết hợp khéo léo, sáng tạo, vận dụng những
tiện ích của cả thanh toán sử dụng tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt trong
từng trường hợp cụ thể. Từ đó phát triển kinh tế nước nhà ngày càng ổn định, bền
vững và hưng thịnh hơn.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động thanh toán không dùng tiền
mặt ở Việt Nam.
Chức năng thanh toán của tiền tệ đang phát triển với nhiều mô thức phong
phú, đa dạng và ngày càng chiếm giữ vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh tế –
xã hội ở mỗi quốc gia. Sự nhanh chóng, thuận tiện, an toàn và hiệu quả trong thanh
toán sẽ đảm bảo cho các dòng vốn được tập trung và phân phối nhanh, đáp ứng có
hiệu quả cho sự phát triển của nền kinh tế.
Đã đến lúc Việt Nam điều hành chính sách tiền tệ phải thông qua “màn hình
thanh toán quốc gia” với những số liệu được phản ánh tập trung, đầy đủ, nhanh
chóng và thường xuyên nhất về mọi hoạt động của nền kinh tế – xã hội. Để làm được
điều đó, Việt Nam phải đẩy nhanh, đẩy mạnh quá trình phát triển thanh toán không
dùng tiền mặt với những ứng dụng công nghệ thanh toán hiện đại, thích ứng với yêu
cầu mới trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế đã trở thành xu thế tất yếu.
Đứng trước xu thế phát triển đó đòi hỏi ngành Ngân hàng phải luôn luôn đổi
mới các sản phẩm dịch vụ truyền thống, ứng dụng công nghệ tiên tiến, phát triển các
sản phẩm dịch vụ hiện đạt nhằm đáp ứng mọi nhu cầu thanh toán của toàn xã hội.
Chính vì vậy, việc củng cố, nâng cao chất lượng thanh toán không dùng tiền
mặt; hiểu và nắm được những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán không
dùng tiền mặt là yêu cầu cần thiết đối với các chủ thể tham gia vào quá trình thanh
toán.
Sau đây là một số nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán không
dùng tiền mặt tại Việt Nam:
1.1.3.1. Môi trường kinh tế vĩ mô.
Mỗi hệ thống thanh toán ra đời là phù hợp với một nền kinh tế nhất định. Khi
nền kinh tế phát triển cao tất yếu đòi hỏi hệ thống thanh toán phát triển tương ứng và
nó quyết định nhu cầu của người dân đối với thanh toán.
Trong xu thế hội nhập và mở cửa nền kinh tế quốc gia hiện nay đã khiến cho
bất cứ sự biến đổi nào về kinh tế – tài chính của mỗi nước đều ảnh hưởng đến nền
kinh tế của toàn thế giới và ngược lại, từ đó tác động đến hệ thống thanh toán của
mỗi quốc gia. Nếu hệ thống kinh tế – tài chính thế giới ổn định sẽ tạo điều kiện phát
triển nền kinh tế trong nước, các thành tự khoa học, kĩ thuật hiện đại được ứng dụng
sáng tạo và chọn lọc sẽ giúp cho chất lượng thanh toán được nâng cao; còn nếu như
nền kinh tế thế giới bị khủng hoảng, chất lượng thanh toán không dùng tiền mặt
không được đảm bảo, kưo theo hàng loạt những rủi ro, ảnh hưởng đến sự phát triển
của mỗi quốc gia.
Sự phát triển ổn định các nhân tố vĩ mô như: tăng trưởng kinh tế, lạm phát,
thất nghiệp giả là điều kiện thuận lợi phát huy các chức năng thanh toán của Ngân
hàng, đặc biệt là chức năng thanh toán không dùng tiền mặt.
Kinh tế tăng trưởng đồng nghĩa với các ngành công – nông nghiệp, xuất nhập
khẩu và dịch vụ phát triển, việc làm và thu nhập của người dân cũng tăng lên. Sản
xuất hàng hoá phát triển mạnh nhu cầu trao đổi hàng hoá diễn ra thường xuyên hơn,
đòi hỏi và thúc đẩy quá trình thanh toán phải phát triển kịp thời, thích ứng theo sự
phát triển của nền kinh tế, tạo cơ sở mở rộng và hoàn thiện thanh toán không dùng
tiền mặt ngày càng hiện đại hơn.
1.1.3.2. Môi trường pháp luật.
Thanh toán không dùng tiền mặt là một hành vi kinh tế, do đó nó phải được
điều chỉnh bằng pháp luật của nhà nước. Pháp luật càng ổn định càng tạo điều kiện
thuận lợi cho thanh toán không dùng tiền mặt phát triển và mở rộng. Cũng như mọi
hoạt động khác, để sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt cần phải có những quy
tăc, quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia nhằm đảm bảo công
bằng, hợp lý, tránh tranh chấp xảy ra. Vì vậy, thanh toán không dùng tiền mặt phải
tuân thủ nghiêm ngặt các văn bản pháp quy mà các cơ quan có thẩm quyền ban hành,
thế nhưng không phải vì thế mà các thủ tục quy định lại quá cứng nhắc, dập khuôn,
gây ách tắc về vốn cũng như thời gian, công sức của khách hàng. Cần thiết phải xây
dựng những văn bản pháp quy linh hoạt, thuận tiện, dễ hiểu, dễ áp dụng trong điều
kiện cụ thể. Mặt khác, sự ổn định chính trị – xã hội ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển, ổn định của nền kinh tế. Đất nước có thể chế chính trị ổn định, chế độ pháp luật
công khai rõ rằng sẽ tạo điều kiện lớn cho sản xuất, lưu thông hàng hoá. Từ đó ảnh
hưởng đến nhu cầu thanh toán chu chuyển vốn trong nền kinh tế, đảm bảo an toàn
trong hệ thống thanh toán, giúp ta phát triển và mở rông thanh toán không dùng tiền
mặt ngày càng hiện đại hơn.
1.1.3.3. Trình độ công nghệ.
Thanh toán không dùng tiền mặt gắn liền với công nghệ Ngân hàng hiện đại.
Chính sự phát triển của cách mạng thông tin đã làm thay đổi nhanh chóng các nghiệp
vụ Ngân hàng nói chung và thanh toán qua Ngân hàng nói riêng. Khi công nghệ ngày
càng phát triển và hoàn thiện sẽ xuất hiện thêm nhiều thể thức thanh toán không dùng
tiền mặt mới hoàn thiện hơn và hiệu quả hơn. Tuy nhiên những công nghệ mới này
luôn đòi hỏi chi phí đầu tư ban đầu và chi phí vận hành lớn, do đó phải cân nhắc
trước khi đưa các thể thức mới vào sử dụng.
Sự phát triển của khoa học, kĩ thuật và mức độ ứng dụng khoa học, kĩ thuật
cao cho phép Ngân hàng phát triển mạng lưới thanh toán dịch vụ khác nhau để khách
hàng lựa chọn đặc biệt với công cụ thẻ thanh toán luôn đòi hỏi những công nghệ hiện
đại. Công nghệ làm cho các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trở nên an
toàn, thuận tiện, hấp dẫn hơn. Ngày nay, công nghệ thông tin và viễn thông với
những bước phát triển mạnh mẽ đang làm cho hệ thống thanh toán trở thành hệ thông
phi tiền tệ tức là hệ thống tiền điện tử, gợi mở cho Ngân hàng những giải pháp nâng
cao chất lượng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt và sẽ làm xuất hiện thêm
nhiều công cụ thanh toán trong tương lai.
1.1.3.4. Chất lượng nguồn nhân lực.
Để thực hiện được quá trình thanh toán tất yếu phải có sự xuất hiện của con
người bao gồm: đội ngũ cán bộ công nhân viên, khách hàng, các chủ thể khác có liên
quan.
Thanh toán không dùng tiền mặt đòi hỏi đội ngũ cán bộ công nhân viên trực
tiếp thực hiện quá trình thanh toán cho khách hàng phải là những người có trình độ,
năng lực chuyên môn sâu, phẩm chất đạo đức tốt, thái độ phục vụ nhiệt tình cởi mở.
Có như vậy mới tạo hình ảnh đẹp về Ngân hàng, củng cố niềm tin của khách hàng,
tạo tâm lý yên tâm khi sử dụng các dịch vụ Ngân hàng của khách hàng, từ đó thu hút
được khối lượng khách hàng ớn tham gia voà quá trình thanh toán qua Ngân hàng.
Cán bộ công nhân viên Ngân hàng chính là cầu nối quan trọng giữa các bên tham gia
thanh toán qua Ngân hàng.
Như vậy các nhân tố ảnh hưởng đến thanh toán không dùng tiền mặt trong nền
kinh tế càng phản ánh rõ nét vai trò đặc biệt quan trọng của thanh toán không dùng
tiền mặt đối với các chủ thể tham gia vào quá trình thanh toán. Ngoài những nhân tố
kể trên còn có rất nhiều nhân tố khác ảnh hưởng đên thanh toán không dùng tiền mặt
như tâm lý, thói quen tiêu dùng, trình độ dân trí, thu nhập của người dân, mức độ
cạnh tranh giữa các Ngân hàng… Hệ thống Ngân hàng – hệ thống huyết mạch của
nền kinh tế với những vai trò, chức năng của mình đã, đang và sẽ đẩy nhanh, đẩy
mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong toàn hệ thống Ngân hàng, củng
cố nguồn lực cạnh tranh, vị thế và thương hiệu của mình để cùng với các ban ngành,
các cấp lãnh đạo và toàn thể nhân dân Việt Nam cùng nhau xây dựng một nền văn
minh tiền tệ, làm trong sạch đồng tiền và nâng cao vị thế của đồng tiên Việt Nam trên
trường quốc tế.
1.2. Khái quát về cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam.
1.2.1. Cơ sở pháp lý của thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam.
Để hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng hoàn thiện hơn,
chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không ngừng nghiên cứu và ban hành
các văn bản có tính pháp lý, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động thanh toán nói
chung và các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng. Hệ thống các văn
bản pháp luật đó bao gồm:
- Luật Ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín dụng ban hành 2003, trong
đó có đề cập đến vấn đề thanh toán qua Ngân hàng;
- Quyết định 371/ QĐ- NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành
ngày 19/10/1999 về quy chế phát hành và thanh toán thẻ Ngân hàng;
- Nghị định 64/ 2001/NĐ- CP của Chính phủ ban hành ngày 20/09/2001 về
hoạt động thanh toán qua tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán;
- Quyết định 226/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban
hành ngày 26/03/2002 về việc ban hành quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán;
- Quyết định 235/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban
hành ngày 01/04/2002 về việc chấm dứt phát hành ngân phiếu thanh toán;
- Quyết định 1092/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban
hành ngày 08/10/2002 quy định thủ tục thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán;
- Nghị định 159/2003/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 10/12/2003 về
cung ứng và sử dụng Séc có hiệu lực thi hành ngày 01/04/2004.
Theo các văn bản pháp luật này thì hiện nay có năm hình thức thanh toán
không dùng tiền mặt được sử dụng để thanh toán giữa các tổ chức kinh tế, cá nhân
trong nền kinh tế, đó là:
+ Séc thanh toán: Séc chuyển khoản, Séc được bảo chi, Séc được bảo lãnh,
+ Uỷ nhiệm thu – nhờ thu,
+ Uỷ nhiệm chi – lệnh chi,
+ Thẻ thanh toán,
+ Thư tín dụng nội địa.
1.2.2. Những quy định chung trong thanh toán không dùng tiền mặt.
Thanh toán không dùng tiền mặt phản ánh mối quan hệ kinh tế, pháp lý trong
giao nhận và thanh toán tiền, hàng hoá, dịch vụ nên trong quá trình thực hiện thanh
toán, các bên tham gia phải tuân thủ những quy định mang tính nguyên tắc sau:
Thứ nhất, các chủ thể tham gia thanh toán (kể cả pháp nhân và cá nhân) đều
phải mở tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và được quyền
lựa chọn tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán để mở tài khoản. Khi tiến hành thanh
toán phải thực hiện thanh toán thông qua tài khoản đã mở theo đúng chế độ quy định
và phải trả phí thanh toán thưo quy định của Ngân hàng và tổ chức làm dịch vụ thanh
toán. Trường hợp đồng tiền thanh toán bằng ngoại tệ thì phải tuân thủ quy chế quản
lý ngoại hối của nhà nước.
Thứ hai, số tiền thanh toán giữa người chi trả và người thụ hưởng phải dựa
trên cơ sở số lượng hàng hoá, dịch vụ đã giao giữa người mua và người bán. Người
phải chuẩn bị đầy đủ những phương tiện thanh toán (số dư trên tài khoản tiền gửi
thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc hạn mức thấu chi nếu có) để
đáp ứng yêu cầu thanh toán đầy đủ, kịp thời khi xuất hiện yêu cầu thanh toán.
Nếu người mua chậm trễ thanh toán hoặc vi phạm chế độ thanh toán thì phải
chịu phạt theo quy định của pháp luật hiện hành.
Thứ ba, người bán hay cung ứng dịch vụ là người được hưởng số tiền do
người chi trả chuyển vào tài khoản của mình nên phải có trách nhiệm giao hàng hay
cung cấp dịch vụ kịp thời và đúng với lượng giá trị mà người mua đã thanh toán,
đồng thời phải kiểm soát kỹ càng các chứng từ phát sinh trong quá trình thanh toán.
Thứ tư, là trung gian thanh toán giữa người mua và người bán, các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán phải thực hiện đúng vai trò trung gian thanh toán:
- Chỉ trích tiền từ tài khoản của người chi trả chuyển vào tài khoản của người
thụ hưởng khi có lệnh của người chi trả (thể hiện trên các chứng từ thanh toán).
Trường hợp không cần có lệnh của người chi trả (không cần có chữ ký của chủ tài
khoản trên chứng từ) chỉ áp dụng đối với một số hình thức thanh toán như uỷ nhiệm
chi hay lệnh của Toà án kinh tế.
- Các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phải có trách nhiệm hướng dẫn,
giúp đỡ khách hàng mở tài khoản, sử dụng các công cụ thanh toán phù hợp với đặc
điểm sản xuất, kinh doanh, phương thức giao nhận, vận chuyển hàng hoá; cung cấp
đầy đủ các chứng từ sử dụng trong quá trình thanh toán cho khách hàng.
- Tổ chức hoạch toán, chuyển chứng từ thanh toán một cách nhanh chóng,
chính xác, an toàn tài sản. Nếu để chậm trễ hay hoạch toán thiếu chính xác gây thiệt
hại cho khách hàng trong quá trình thanh toán thì phải chịu phạt để bồi thường cho
khách hàng theo chế tài chung.
1.2.3. Nội dung cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt.
1.2.3.1. Các phương thức thanh toán vốn giữa các Ngân hàng.
Thanh toán giữa các Ngân hàng là nghiệp vụ thanh toán qua lại giữa các Ngân
hàng nhằm tiếp tục hoàn thành quá trình thanh toán giữa các xí nghiệp, tổ chức kinh
tế, các cá nhân với nhau mà họ không cùng mở tài khoản tại một Ngân hàng hoặc
thanh toán vốn trong nội bộ hệ thống Ngân hàng.
Khi thực hiện nghiệp vụ thanh toán giữa các Ngân hàng, các Ngân hàng liên
quan không những phải tiếp tục hoàn thành quá trình thanh toán tiền cho các khách
hàng mà còn phải tiến hành thanh toán vốn với nhau một cách đầy đủ và kịp thời.
Các phương thức thanh toán vốn giữa các Ngân hàng ở Việt Nam hiện nay
tương đối phong phú, bao gồm:
a. Thanh toán liên chi nhánh Ngân hàng: Là phương thức thanh toán vốn giữa
các chi nhánh Ngân hàng trong cùng một hệ thống Ngân hàng.
Thực chất của thanh toán liên chi nhánh Ngân hàng là việc chuyển tiền từ chi
nhánh Ngân hàng này đến chi nhánh Ngân hàng khác để phục vu thanh toán tiền,
hàng hoá của hai khách hàng (mua và bán) khi cả hai khách hàng không cùng mở tài
khoản ở một chi nhánh Ngân hàng; hoặc là chuyển cấp vốn, điều hoà vốn trong nội
bộ một hệ thống Ngân hàng. Hiện nay ở Việt Nam có các hệ thống thanh toán liên
chi nhánh Ngân hàng sau:
Hệ thống thanh toán liên chi nhánh Ngân hàng (chuyển tiền điện tử) của
Ngân hàng Nhà nước,
Các hệ thống thanh toán liên chi nhánh Ngân hàng của bốn Ngân hàng
thương mại Nhà nước,
Các hệ thống thanh toán liên chi nhánh Ngân hàng của các chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài,
Hệ thống thanh toán của Kho bạc Nhà nước.
Vấn đề mấu chốt của thanh toán liên chi nhánh Ngân hàng là phải xác định
phương thức kiểm soát và đối chiếu trong thanh toán để đảm bảo cho số liệu trong
thanh toán liên chi nhánh Ngân hàng được hoàn toàn chính xác và an toàn tài sản mà
còn kiểm soát nguồn vốn của các đơn vị Ngân hàng tham gia thanh toán.
Xuất phát từ điều kiện cụ thể của Việt Nam và để từng bước hội nhập với các
Ngân hàng khu vực và quốc tế, Ngân hàng Việt Nam đã áp dụng ba phương thức
kiểm soát, đối chiếu:
- Từ năm 1951 (Khi thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam) đến 1962 áp
dụng phương thức “đại lý liên hàng”. Nội dung của phương thức này là các chi
nhánh Ngân hàng trực tiếp gửi chuyển tiền cho nhau, Ngân hàng Trung ương làm
nhiệm vụ kiểm soát, đối chiếu thông qua các tài khoản liên hàng phản ánh trên bảng
cân đối tài khoản hàng tháng của các chi nhánh gửi về Ngân hàng trung ương.
- Từ năm 1963 đến nay áp dụng hai phương thức là “kiểm soát tập trung, đối
chiếu phân tán” và “kiểm soát tập trung, đối chiếu tập trung”. Cả hai phương thức
đều áp dụng mô hình chữ “V” ngược. Theo mô hình này thì ngoài hai chi nhánh tham
gia thanh toán còn có trung tâm thanh toán làm nhiệm vụ kiểm soát, đối chiếu tất cả
các khoản chuyển tiền thanh toán trong hệ thống và theo dõi nguồn vốn của các chi
nhánh để thực hiện thanh toán vốn giữa các chi nhánh khi có một khoản chuyển tiền
thanh toán xảy ra.
+ Phương thức “kiểm soát tập trung, đối chiếu phân tán”: Các chi nhánh trực
tiếp gửi chuyển tiền cho nhau, trung tâm thanh toán làm nhiệm vụ kiểm soát tất cả
các chuyển tiền, sau đó lập sổ đối chiếu gửi các gửi các chi nhánh nhận chuyển tiền
để Ngân hàng này đối chiếu.
Sơ đồ phương thức “kiểm soát tập trung, đối chiếu phân tán” như sau:
Error!
(1)Ngân hàng chuyển tiền gửi chuyển tiền cho Ngân hàng nhận tiền qua bưu
điện.
(2) Ngân hàng chuyển tiền gửi giấy báo chuyển tiền cho trung tâm thanh toán
để kiểm soát.
(3) Trung tâm thanh toán sau khi kiểm soát, lập sổ đối chiếu gửi Ngân hàng
nhận tiền.
Phương thức này áp dụng trong thanh toán liên chi nhánh Ngân hàng truyền
thống.
Trung tâm
thanh
toán
Ngân hàng
chuyển
ti
ền
Ngân hàng
nhận tiền
(2)
(1)
(3)
+ Phương thức “kiểm soát tập trung, đối chiếu tập trung” thể hiện qua sơ đồ sau:
(1) Ngân hàng chuyển tiền gửi chuyển tiền qua mạng về trung tâm thanh toán để
trung tâm thanh toán chuyển tiếp về Ngân hàng nhận chuyển tiền.
(2) Trung tâm thanh toán truyền chuyển tiền về Ngân hàng nhận.
(3) Cuối ngày trung tâm thanh toán đối chiếu cho tất cả các Ngân hàng.
(4) Các Ngân hàng xác nhận đối chiếu gửi trung tâm thanh toán.
Phương thức này được áp dụng trong thanh toán liên hàng điện tử.
b. Thanh toán bù trừ giữa các Ngân hàng.
Thanh toán bù trừ giữa các Ngân hàng là phương thức thanh toán vốn giữa các
Ngân hàng được thực hiện bằng cách bù trừ tổng số phải thu, phải trả và trên cơ sở
đó chỉ thanh toán với nhau số chênh lệch (kết quả bù trừ). Thanh toán bù trừ phát
sinh trên cơ sở các khoản tiền hàng hoá, dịch vụ của khách hàng mở tài khoản ở các
Ngân hàng khác nhau hoặc thanh toán vốn của bản thân Ngân hàng. Thanh toán bù
trừ được áp dụng giữa các Ngân hàng khác hệ thống (thanh toán bù trừ khác hệ
thống) hoặc có thể áp dụng giữa các đơn vị Ngân hàng thuộc cùng một hệ thống
Ngân hàng (thanh toán bù trừ cùng hệ thống). Tuỳ thuộc vào phương pháp trao đổi
chứng từ, chuyển số liệu mà có cơ chế thanh toán bù trừ trên cơ sở chứng từ giấy
(thanh toán bù trừ giấy) và thanh toán bù trừ điện tử.
Trung tâm
thanh
toán
Ngân hàng
nhận
chuyển
ti
ền
(1
)
Ngân hàng
chuyển
ti
ền
(4
)
(3
)
(2
)
(4
)
(3
)
Thanh toán bù trừ giấy có một số đặc trưng về tổ chức và kỹ thuật nghiệp vụ
như sau:
- Các Ngân hàng, tổ chức tín dụng và Kho bạc nhà nước, kể cả các chi nhánh
và đơn vị trực thuộc được phép làm dịch vụ thanh toán (sau đây gọi chung là Ngân
hàng) tham gia thanh toán bù trừ được gọi là Ngân hàng thành viên. Các Ngân hàng
thành viên phải mở tài khoản tại Ngân hàng chủ trì. Đối với thanh toán bù trừ khác hệ
thống thì các Ngân hàng thành viên phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng chủ trì
là Ngân hàng Nhà nước trên địa bàn.
- Ngân hàng chủ trì chịu trách nhiệm tổng hợp kết quả thanh toán của các
Ngân hàng thành viên và thanh toán số chênh lệch trong thanh toán bù trừ cho từng
Ngân hàng thành viên. Ngân hàng chủ trì được quyền chủ động trích tài khoản tiền
gửi của các Ngân hàng thành viên để thanh toán.
- Thanh toán bù trừ có thể tổ chức trong phạm vi địa bàn (nội thành, nội thị và
các Ngân hàng lân cận có cự ly gần để đảm bảo giao nhận chứng từ thanh toán bù trừ
theo phiên giao nhận trong ngày) hoặc có thể tổ chức thanh toán bù trừ theo khu vực
hay toàn quốc (khi đã thực hiện thanh toán bù trừ điện tử, nối mạng trực tiếp giữa các
Ngân hàng thành viên và trung tâm thanh toán bù trừ).
- Về luân chuyển chứng từ:
+ Thanh toán bù trừ truyền thống (luân chuyển chứng từ giấy). Tuỳ theo hình
thức hoạt động của các Ngân hàng thành viên trong địa bàn để quy định phiên giao
nhận chứng từ trong ngày. Đến giờ giao nhận chứng từ, các Ngân hàng thành viên
phải mang các chứng từ thanh toán bù trừ đến địa điểm giao dịch (tại Ngân hàng chủ
trì) để giao nhận chứng từ giữa các Ngân hàng thành viên và Ngân hàng thành viên
với Ngân hàng chủ trì.
+ Thanh toán bù trừ điện tử: qua mạng máy tính, các Ngân hàng thành viên
truyền chứng từ điện tử đến trung tâm thanh toán bù trừ để thực hiện thanh toán bù
trừ theo chương trình phần mềm thanh toán bù trừ điện tử.
c. Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước.
Được áp dụng trong thanh toán qua lại giữa hai Ngân hàng hoặc đơn vị Ngân
hàng khác hệ thống đều có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước (cùng hoặc
khác chi nhánh, sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước). Các khoản thanh toán qua tiền
gửi tại Ngân hàng Nhà nước của các Ngân hàng cũng đều phát sinh trên cơ sở các
khoản thanh toán của khách hàng và của nội bộ các Ngân hàng như các khoản điều
chuyển vốn, các khoản vay trả giữa các Ngân hàng với nhau.
Để các Ngân hàng thực hiện thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng
Nhà nước, trên cơ sở chứng từ giấy, cần có các điều kiện như sau:
- Các Ngân hàng phải mở tài khoản tiền gửi tại Sở giao dịch hoặc chi nhánh
Ngân hàng Nhà nước và phải đăng ký mẫu dấu, chữ ký trong giao dịch thanh toán
với Ngân hàng Nhà nước nơi mở tài khoản.
- Dấu và chữ ký trên chứng từ thanh toán và bảng kê chứng từ thanh toán qua
Ngân hàng Nhà nước phải đúng với mẫu đã đăng ký.
- Tài khoản tiền gửi của Ngân hàng Nhà nước của Ngân hàng trả tiền (Ngân
hàng phát sinh nghiệp vụ thanh toán) phải có đủ số dư để đảm bảo thanh toán kịp
thời.
d. Thanh toán theo phương thức uỷ nhiệm thu hộ, chi hộ.
Uỷ nhiệm thu hộ, chi hộ là một phương thức thanh toán giữa hai Ngân hàng
theo sự thoả thuận và cam kết với nhau, Ngân hàng này sẽ thực hiện thu hộ hoặc chi
hộ cho Ngân hàng kia trên cơ sở các chứng từ thanh toán của các khách hàng có mở
tài khoản tại các Ngân hàng kia.
Phạm vi áp dụng trong thanh toán:
- Giữa hai đơn vị Ngân hàng trong cùng hệ thống và
- Giữa hai Ngân hàng hoặc đơn vị Ngân hàng khác hệ thống.
Để tiến hành thanh toán theo phương thức uỷ nhiệm thu hộ, chi hộ, hai Ngân
hàng ký hợp đồng để thống nhất với nhau về nguyên tắc, thủ tục và nội dung thanh
toán. Các nghiệp vụ thanh toán thu hộ, chi hộ phát sinh được hoạch toán vào tài
khoản thu hộ, chi hộ giữa các Ngân hàng. Theo định kỳ thoả thuận, hai Ngân hàng
đối chiếu doanh số phát sinh và số dư tài khoản thu, chi hộ để thanh toán cho nhau và
tất toán số dư của tài khoản này.
e. Mở tài khoản tiền gửi lẫn nhau để thanh toán.
Phương thức này được áp dụng trong thanh toán:
- Giữa hai đơn vị Ngân hàng trong cùng hệ thống và
- Giữa hai Ngân hàng hoặc đơn vị Ngân hàng khác hệ thống
Để thanh toán theo phương thức này đòi hỏi Ngân hàng hoặc đơn vị Ngân
hàng này (sau đây gọi chung là Ngân hàng) phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng
kia hoặc ngược lại. Thanh toán theo phương thức này đòi hỏi phải đăng ký mẫu dấu,
chữ ký của người có thẩm quyền ra lệnh thanh toán qua tài khoản tiền gửi.
1.2.3.2. Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam hiện nay.
Theo Quyết định 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26/03/2002 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam ban hành “Quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán” và Quyết định 235/2002/QĐ-NHNN ngày 27/03/2002
của Ngân hàng Nhà nước ban hành về việc chấm dứt phát hành ngân phiếu thanh
toán. Hiện nay, thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam có các hình thức sau
đây:
- Thanh toán bằng Séc,
- Thanh toán bằng Uỷ nhiệm chi – chuyển tiền,
- Thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu,
- Thanh toán bằng Thư tín dụng,
- Thanh toán bằng thẻ thanh toán.
1.2.3.2.1. Thanh toán bằng Séc:
Theo Nghi định 30/ CP, Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập theo
mẫu do Ngân hàng Nhà nước quy định yêu cầu đơn vị thanh toán trích một số tiền từ
tài khoản tiền gửi thanh toán của mình để trả cho người thụ hưởng số tiền trên tờ Séc
hoặc là người cầm Séc.
- Chủ tài khoản là người đứng tên mở tài khoản tiền gửi thanh toán và là người
sở hữu hoặc đại diện chủ sở hữu số tiền ghi trên tài khoản. Chủ tài khoản có thể là
pháp nhân hoặc cá nhân.
- Người phát hành Séc là chủ tài khoản hoặc là người được uỷ quyền theo quy
định của pháp luật.
- Đơn vị thanh toán là đơn vị giữ tài khoản thanh toán của khách hàng. Đơn vị
thanh toán có thể là Ngân hàng, Kho bạc nhà nước hoặc là một số đơn vị khác được
phép thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt.
- Người thụ hưởng là người có tên trên tờ Séc đối với Séc ký danh và là người
cầm Séc đối với Séc vô danh.
Hiện nay chỉ có một mẫu Séc duy nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định dùng
cho các pháp nhân và cá nhân, Séc này có thể phát hành Séc chuyển khoản, Séc bảo
chi, Séc rút tiền mặt…
Theo Nghị định 30/CP, thời hạn xuất trình của Séc là 15 ngày kể từ ngày ký
phát cho đến khi tờ Séc đó được xuất trình tại địa điểm thanh toán. Nhưng theo Nghị
định số 159/2003/ NĐ-CP thì thời hạn xuất trình của Séc là 30 ngày theo lịch, kể từ
ngày ký phát cho đến khi tờ Séc đó được xuất trình tại địa điểm thanh toán (địa chỉ
của người thực hiện thanh toán, trụ sở chính của người thực hiện thanh toán hoặc tại
trung tâm thanh toán bù trừ Séc), trong thời hạn này, tờ Séc được thanh toán vô điều
kiện khi xuất trình; thời hạn thanh toán của Séc là 6 tháng kể từ ngày ký phát, nếu sau
thời hạn xuất trình (30 ngày) người thực hiện thanh toán không nhận được thông báo
đình chỉ thanh toán đối với tờ Séc đó và người ký phát đang có khoản tiền được sử
dụng đủ để chi trả cho tờ Séc đó.
* Séc chuyển khoản.
Séc chuyển khoản là Séc mang người phát hành sẽ ký phát và giao trực tiếp
cho người thụ hưởng sau khi nhận được hàng hoá.
Séc chuyển khoản chỉ được áp dụng thanh toán trong phạm vi giữa các khách
hàng có tài khoản ở cùng một chi nhánh Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, khác chi
nhánh Ngân hàng nhưng các Ngân hàng này có tham gia thanh toán bù trừ.
Nguyên tắc hoạch toán Séc chuyển khoản là tiến hành ghi nợ trước, có sau.
Nếu phát hành quá số dư thì đơn vị phát hành Séc phải chịu phạt vi phạm theo quy
định.
Với loại Séc này, người phát hành Séc gạch chéo hai đường song song góc
hoặc viết tay đóng dấu từ “chuyển khoản” ở góc trái mặt trước tờ Séc trước khi giao
Séc cho người thụ hưởng.
ở Việt Nam, Séc chuyển khoản có thủ tục phát hành và hoạch toán đơn giản.
Sau khi thoả thuận với người bán, người mua tự trao tự trao tờ Séc cho người thụ
hưởng, không phải qua Ngân hàng. Trong thanh toán Séc chuyển khoản, đơn vị thanh
toán phải tuân thủ nguyên tắc hạch toán: ghi Nợ trước, ghi Có sau vào tài khoản tiền
gửi của khách hàng mà không phải qua tài khoản trung gian như Séc bảo chi. Séc
chuyển khoản chỉ dùng để thanh toán chuyển khoản qua Ngân hàng, không được
dùng để rút tiền mặt.
Séc chuyển khoản so chủ tài khoản trực tiếp phát hành và giao trả trực tiếp cho
người thụ hưởng không qua kiểm soát của Ngân hàng nên dễ bị lợi dụng phát hành
quá số dư, người thụ hưởng dễ bị thiệt hại. Khả năng chi trả của tờ Séc không cao
nên nó được sử dụng ở phạm vi khiêm tốn.
*Séc bảo chi là Séc được Ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả bằng cách trích
tài khoản của người phát hành một khoản tiền theo yêu cầu để lưu ký vào một tài
khoản riêng. Séc bảo chi thường được sử dụng cho hai đơn vị mua bán không tín
nhiệm nhau.
Tiền gửi để bảo chi Séc không được trả lãi vì đây là một loại tiền gửi mang
tính chất bắt buộc.
Ngân hàng làm thủ tục bảo chi và đóng dấu bảo chi lên mặt trước của tờ Séc
trước khi giao cho khách hàng. Séc bảo chi được thanh toán cho hai khách hàng có
mở tài khoản ở cùng một Ngân hàng hoặc khác Ngân hàng nhưng cùng hệ thống
hoặc khác hệ thống nhưng có tham gia thanh toán bù trừ.
Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng phải kiểm tra các yếu tố, nhất là chữ ký
và con dấu của Ngân hàng bảo chi trước khi nhận, nếu sơ suất gây thiệt hại thì Ngân
hàng này phải chịu trách nhiệm.
Với số tiền bảo chứng được lưu ký đã đảm bảo cho Séc bảo chi có khả năng
thanh toán cao nên sử dụng Séc bảo chi ít rủi ro và đảm bảo quyền lợi cho người thụ
hưởng. Vì được Ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán, nên Séc bảo chi đơn giản
được khâu luân chuyển chứng từ, không cần thiết phải kiểm tra số dư trên tài khoản
nên thời gian thanh toán được giảm bớt. Với những ưu điểm đó, Séc bảo chi trở
thành Séc có uy tín và có phạm vi sử dụng thanh toán rộng rãi nhất trong các loại
Séc.
1.2.3.2.2. Uỷ nhiệm chi- chuyển tiền.
* Uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủ tài khoản được lập theo mẫu in sẵn
của Ngân hàng, Kho bạc nhà nước phục vụ mìn, yêu cầu trích một số tiền nhất định
trong tài khoản của mình để trả cho người thụ hưởngcó tài khoản ở cùng Ngân hàng
hoặc khác Ngân hàng với mình.
Uỷ nhiệm chi có phạm vi thanh toán như sau:
- Giữa hai khách hàng có mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại cùng một tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán;
- Hoặc, hai khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại hai tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán khác nhau cùng hệ thống hoặc khác hệ thống nhưng cùng địa
bàn hoặc vừa khác hệ thống vừa khác địa bàn.
Ngân hàng phải có trách nhiệm xử lý, giải quyết uỷ nhiệm chi nộp trong ngày.
Ngân hàng của người thụ hưởng khi nhận được chứng từ phải kiểm tra, nếu hợp lệ thì
ghi có ngay vào tài khoản của người thụ hưởngvà báo cho khách hàng đó biết.
Uỷ nhiệm chi là hình thức thanh toán đơn giản, tiện lợi và được áp dụng rộng
rãi dưới sự trợ giúp của các thành tựu trong lĩnh vực tin học. Nó được sử dụng phổ
biến trong thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, nó tạo điều kiện hình thành các quan hệ
thương mại ổn định và sự tín nhiệm giữa các doanh nghiệp trong cả nước.
* Séc chuyển tiền: là loại Séc do Ngân hàng, Kho bạc nhà nước phát hành
theo yêu cầu của khách hàng, họ trực tiếp cầm Séc đến Ngân hàng yêu cầu chuyển
tiền. Thời hạn hiệu lực của tờ Séc này là 30 ngày kể từ ngày phát hành ghi trên tờ
Séc. Séc này được sử dụng để chuyển tiền giữa hai chi nhánh Ngân hàng cùng hệ
thống.
Để được Ngân hàng phát hành Séc chuyển tiền, khách hàng phải ký quỹ số
tiền tương ứng với nhu cầu chuyển tiền trên tài khoản Séc chuyển tiền, bằng cách
trích từ tài khoản tiền gửi sang tài khoản Séc chuyển tiền hoặc nộp trực tiếp tiền mặt
vào Ngân hàng.