Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Thực trạng và giải pháp nhằm nhằm hoàn thiện công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.13 KB, 46 trang )












LUẬN VĂN:

Thực trạng và giải pháp nhằm nhằm hoàn
thiện công tác thanh toán không dùng tiền mặt
tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam















Lời mở đầu


Lịch sử và phát triển của hệ thống Ngân hàng cho thấy Ngân hàng luôn giữ một
vai trò quan trọng trong hoạt động của nền kinh tế. Trọng trách to lớn, riêng có mà
lịch sử đã đặt lên vai hệ thống Ngân hàng đó là phải làm thật tốt trung tâm tiền tệ -
tín dụng và thanh toán cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế, vai trò trung gian thanh toán của Ngân hàng ngày càng tỏ rõ tính ưu
việt và sự linh hoạt của nó.
Ngày nay, khi nói tới thanh toán không dùng tiền mặt là nói đến một mật
nghiệp vụ, hoạt động mạnh mẽ và quan trọng của Ngân hàng.Thanh toán không
dùng tiền mặt có vai trò to lớn góp phần đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn tiền tệ
trong nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển từ đó góp phần ổn
định và tăng trưởng kinh tế.
Với tầm quan trọng như vậy, việc tìm các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt là một việc làm cần
thiết đối với không riêng Ngân hàng nào.
Trên cơ sở những luận điểm đã trình bày, qua quá trình thực tế tại Sở giao dịch
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, em lựa chọn đề tài:
"Thực trạng và giải pháp nhằm nhằm hoàn thiện công tác thanh toán không
dùng tiền mặt tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam " cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung của chuyên đề được kết cấu như sau :




Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt
(TTKDTM)
Chương 2: Thực trạng công tác TTKDTM tại Sở giao dịch NHN

o
và PTNT
Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác TTKDTM.



nội dung
chương 1: những vấn đề cơ bản về
thanh toán không dùng tiền mặt

1.1 Sự cần thiết khách quan và vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt
trong nền kinh tế thị trường
1.1.1 Sự cần thiết khách quan của thanh toán không dùng tiền mặt
Như chúng ta đã biết, sự ra đời và phát triển của lưu thông tiền tệ gắn liền với
quá trình ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Sở dĩ như vậy là
do yêu cầu của quá trình trao đổi hàng hoá mà tiền tệ đã ra đời với vai trò làm trung
gian trao đổi các loại hàng hoá được thực hiện dễ dàng, nhanh chóng góp phần thúc
đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
Quá trình tái sản xuất xã hội là một quá trình liên hoàn và không ngừng mở
rộng, trong đó tồn tại các quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá dịch vụ do đó không
thể không có hoạt động thanh toán.




Khi nền sản xuất còn ở trình độ thấp, thanh toán tiền tệ chỉ bó hẹp trong phạm
vi và khối lượng nhỏ, việc thanh toán được thực hiện bằng việc chi trả tiền mặt, sự
vận động của vật tư hàng hoá gắn liền với sự vận động của một khối lượng tiền mặt
nhất định. Thanh toán bằng tiền mặt lúc này tỏ ra là phương thức thanh toán hữu

hiệu nhất, nó được thực hiện rất linh hoạt tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên mua bán
mà ít gặp trở ngại.
Tuy nhiên, khi sản xuất hàng hoá phát triển ở trình độ cao hơn, khối lượng sản
phẩm sản xuất nhiều hơn thì trao đổi hàng hoá không chỉ bó hẹp trong phạm vi một
vùng mà mở rộng ra cả nước và quốc tế.
Lúc này, thanh toán bằng tiền mặt đã bộc lộ những hạn chế nhất định như chi
phí tốn kém trong việc in ấn, bảo quản, vận chuyển, kiểm đếm, không đáp ứng các
nhu cầu thanh toán lớn, ở xa và nó trở nên không an toàn. Chính vì vậy, đòi hỏi phải
có một hình thức thanh toán mới để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, thanh
toán không dùng tiền mặt ra đời.
Thanh toán không dùng tiền mặt ( TTKDTM ) là sự vận động của tiền tệ qua
chức năng phương tiện thanh toán nhằm phục vụ các quan hệ thanh toán giữa các tổ
chức kinh tế và cá nhân trong xã hội bằng cách trích chuyển vốn tiền tệ từ tài khoản
này sang tài khoản khác, bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của
Ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác.
TTKDTM ra đời là kết quả tất yếu của quá trình phát triển ngày càng cao của
quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, nó nhanh chóng chiếm ưu thế và trở thành
một phần không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. TTKDTM ra đời đã
khắc phục được nhược điểm của thanh toán bằng tiền mặt. Có thể nói, TTKDTM




mang lại hiệu quả cao, thể hiện một nền kinh tế đã và đang phát triển, các mối quan
hệ về kinh tế, tài chính đã mở rộng, hoạt động của hệ thống Ngân hàng ngày càng đa
dạng và phong phú. Việc phát triển các hình thức TTKDTM và hiện đại hoá các
nghiệp vụ ngân hàng là minh chứng hiện thực cho sự tồn tại và phát triển hợp logic
cũng như vai trò, vị trí của hệ thống Ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, có thể nói TTKDTM là phương tiện thanh toán không thể thiếu được,
nó là nấc thang phát triển tất yếu của các quan hệ thanh toán trong nền kinh tế thị

trường và chính nó đã, đang và sẽ đáp ứng tối đa yêu cầu của nền kinh tế hiện đại.

1.1.2 Vai trò của TTKDTM trong nền kinh tế thị trường
Ngày nay, TTKDTM là một phần không thể tách rời các doanh nghiệp, các cá
nhân và các tổ chức đoàn thể. Trong nền kinh tế thị trường, TTKDTM được thực
hiện trôi trảy sẽ đem lại hiệu quả thiết thực cho tất cả các đối tác tham gia cũng như
cho toàn xã hội.
- TTKDTM góp phần tăng nhanh tốc độ vận động của vật tư, hàng hoá và tiền
vốn, qua đó thúc đẩy quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Như chúng ta đã
biết, bất kỳ một chu kỳ sản xuất nào cũng đều bắt đầu và kết thúc bằng khâu thanh
toán- từ việc mua các yếu tố đầu vào đến việc tiêu thụ các yếu tố đầu ra. Việc đẩy
nhanh tốc độ thanh toán qua Ngân hàng giúp khách hàng rút ngắn được thời gian
trong khâu lưu thông do đó rút ngắn thời được thời gian qua một vòng chu chuyển
vốn, tăng nhanh tốc độ của quá trình sản xuất.
- Tăng tỷ trọng TTKDTM sẽ góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu
thông từ đó tiết kiệm được chi phí của xã hội và của Ngân hàng. Cụ thể đó là những




chi phí trong việc in ấn, vận chuyển, bảo quản, kiểm đếm tiền mặt… Nhờ vậy, có
thể sử dụng các nguồn vốn tiết kiệm được để đầu tư mở rộng sản xuất, xây dựng Cơ
sở hạ tầng nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, TTKDTM còn góp phần
hạn chế đến mức thấp nhất các tệ nạn xã hội như tham ô, hối lộ, trộm cắp…, ngăn
chặn hoạt động "rửa tiền", làm tiền giả hay đầu cơ, tích trữ…
-TTKDTM tạo điều kiện để Ngân hàng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi mở rộng tín
dụng và phát triển dịch vụ Ngân hàng.
Như chúng ta đã biết, nghiệp vụ tín dụng và nghiệp vụ thanh toán luôn có mối
quan hệ ràng buộc hữu cơ với nhau, chỉ khi thực hiện tốt mối quan hệ này thì Ngân
hàng mới có điều kiện phát triển được. TTKDTM đòi hỏi các doanh nghiệp phải có

tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng và số dư trên tài khoản tiền gửi phải đảm bảo khả
năng thanh toán khi cần thiết. Các tổ chức kinh tế và cá nhân mở tài khoản tiền gửi
thanh toán ở Ngân hàng có quyền sử dụng toàn bộ số tiền đó vào bất cứ lúc nào và
Ngân hàng phải có trách nhiệm thoả mãn nhu cầu đó. Tuy nhiên, có sự không ăn
khớp giữa những người có nhu cầu rút tiền và gửi tiền vào, do đó hình thành một số
dư tương đối lớn và ổn định về nguồn vốn ngắn hạn cho Ngân hàng. Mặt khác,
Ngân hàng hoàn toàn có kế hoạch một cách tương đối chính xác nhu cầu rút tiền
mặt của khách hàng trong từng thời kỳ. Như vậy, ngoài phần dự trữ tiền mặt để đảm
bảo khả năng chi trả, thanh toán kịp thời cho khách hàng, số còn lại, Ngân hàng có
thể sử dụng để đầu tư, mở rộng tín dụng của mình. Thực tế, khối lượng tiền gửi
thanh toán chiếm tỷ trọng khá cao trong toàn bộ nguồn vốn của Ngân hàng, tạo
thuận lợi cho Ngân hàng trong việc giảm lãi suất cho vay. Bản chất của nguồn vốn
này không phải gửi vào Ngân hàng để lấy lãi mà để sử dụng một cách chủ động, kịp




thời trong thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ giữa các đơn vị và cá nhân . Làm tốt
công tác thanh toán qua Ngân hàng, thu hút nhiều khách hàng gửi tiền vào Ngân
hàng để thanh toán là điều kiện tốt để mở rộng khối lượng tín dụng với lãi suất thấp.
- Thông qua TTKDTM, tạo điều kiện để NHTW xây dựng và điều hành CSTT
một cách thuận lợi. Sở dĩ như vậy là do yêu cầu bắt buộc chủ thể tham gia
TTKDTM phải có tài khoản tại NH, vì thế thông qua tình hình biến động số dư trên
tài khoản của các khách hàng, Ngân hàng sẽ thu thập những thông tin cần thiết về
tình hình tài chính, tình hình thanh toán của khách hàng cũng như những thông tin
về dòng lưu chuyển tiền tệ… Từ đó, Ngân hàng có thể thực hiện việc quản lý và
điều hành CSTT một cách thuận lợi bằng việc đưa ra những chính sách phù hợp
trong từng thời kỳ.
Như vậy, TTKDTM là rất cần thiết trong nền kinh tế thị trường khi mà Ngân hàng
Thương mại và các doanh nghiệp thực sự kinh doanh tự chủ bởi khi đó tính năng

động, sáng tạo và yếu tố hiệu qủa luôn đặt đúng vị trí của nó.

1.2 một số quy định mang tính nguyên tắc trong TTKDTM
Muốn tổ chức và và thực hiện công tác TTKDTM trong nền kinh tế, ngoài tổ
chức Cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ làm công tác thanh toán cần phải nghiên cứu
sâu sắc lý luận xã hội, chế độ thể lệ thanh toán khoa học, thực tiễn đảm bảo công tác
thanh toán được thực hiện thuận tiện, an toàn, chính xác và nhanh chóng. Hiện nay,
TTKDTM được thực hiện trên cơ sở: Nghị định số 30/CP ngày 09.05.1996 của
Chính phủ ban hành về quy chế phát hành và sử dụng séc; Thông tư số 07/TT- NH1
ngày 27.12.1996 của Ngân hàng Nhà nước Việt nam hướng dẫn thực hiện Nghị định




số 30/CP; Quyết định số 371/2002/QĐ- NHNN1 ngày 19.10.2002 của Thống đốc
NHNN Việt nam về việc ban hành, sử dụng và thanh toán thẻ Ngân hàng và Nghị
định số 64/2004/NĐ-CP ngày 20.09.2004 của Chính phủ về hoạt động thanh toán
qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Nội dung của văn bản pháp quy được
tóm tắt thành những quy định có tính nguyên tắc sau:
- Mở và sử dụng tài khoản thanh toán.
- Đảm bảo khả năng thanh toán.
- Thực hiện lệnh thanh toán.
- Phí dịch vụ thanh toán.
- Chứng từ thanh toán.
- Trách nhiệm của ngân hàng.
1.3. Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
Hiện nay, trên thế giới đã nghiên cứu và áp dụng nhiều hình thức TTKDTM rất
đa dạng và phong phú. Nhưng ở mỗi nước tuỳ theo mô hình kinh tế, trình độ quản
lý, tuỳ theo mức độ hoàn thiện và hiệu năng của hệ thống Ngân hàng người ta lựa
chọn một số hình thức và cụ thể hoá cho phù hợp với điều kiện, đặc thù của mỗi

nước.
Ơ nước ta hiện nay, nền kinh tế cơ bản đã chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Vị trí, vai trò và chức năng của doanh nghiệp, của Ngân hàng thương mại, của Ngân
hàng Nhà nước đã thay đổi theo mô hình kinh tế thị trường. Chính vì vậy, chế độ
TTKDTM cũng được hoàn thiện hơn để phù hợp với thực tiễn.
TTKDTM được quy định trong Nghị định số 64/ 2004/ NĐ - CP ngày
20.9.2004 của Chính phủ bao gồm những hình thức sau :




1. Hình thức thanh toán bằng séc
2. Hình thức thanh toán bằng UNC - chuyển tiền
3. Hình thức thanh toán bằng UNT
4. Hình thức thanh toán bằng thư tín dụng
5. Hình thức thanh toán bằng thẻ thanh toán





Chương 2
Thực trạng công tác TTKDTM tại
sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam

2.1 Khái quát chung về hoạt động của Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam
2.1.1 Sự hình thành và phát triển của Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt
nam
Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam ( trước đây được gọi là Sở kinh doanh
Hối đoái) thành lập ngày 28.9.1994 theo quyết định số 129/QĐ- NHNo của Tổng

giám đốc NHNo & PTNT Việt Nam. Đến 13.5.2002, Sở kinh doanh Hối đoái được
đổi tên thành Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam theo quyết định số
232/QĐ/HĐQT-02 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo & PTNT Việt nam.
Sở giao dịch là thành viên thực hiện chức năng trực tiếp kinh doanh đa năng và
chức năng Sở đầu mối trong toàn hệ thống NHNo & PTNT Việt nam.
Sở giao dịch thực hiện các nghiệp vụ chủ yêú là: Điều hoà vốn nội, ngoại tệ
trong hệ thống NHNo ; đầu mối thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ cho các đơn vị
thành viên trong toàn hệ thống NHNo và các doanh nghiệp là khách hàng của Sở
giao dịch; Kinh doanh tiền tệ trên thị trường liên Ngân hàng, thị trường mở, tham
gia thị trường chứng khoán; Nhận tiền gửi bằng đồng Việt nam và ngoại tệ với
nhiều hình thức; Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng VND và ngoại tệ;
Thực hiện cơ chế ưa đãi lãi suất và dịch vụ Ngân hàng đối với khách hàng.
Sở giao dịch thực hiện các dịch vụ Ngân hàng như: thanh toán quốc tế; Chuyển
tiền nhanh trong nước và nước ngoài qua mạng SWIFT và mạng máy tính trong hệ




thống NHNo; Nhận chuyển tiền kiều hối; Mua bán ngoại tệ tiền mặt, bảo lãnh, uỷ
thác, chiết khấu, tái chiết khấu bộ chứng từ; Máy rút tiền tự động (ATM), thanh toán
thẻ; thực hiện quan hệ đại lý thanh toán và dịch vụ Ngân hàng đối với các Ngân
hàng nước ngoài, đầu tư hùn vốn liên doanh, mua cổ phần và các hình thức đầu tư
khác….
Trụ sở của Sở giao dịch được đặt tại số 2 Láng hạ, Quận Ba Đình, Hà nội.
- Mô hình tổ chức của Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam :



Giám đốc


Phó giám đốc


Phó giám đốc
Phòng
kinh
doanh

Phòng
nguồn
vốn và
KKTH

Phòng
KDNT
&
TTQT
Phòng
KTKT
nội
bộ
Phòng
thẩm
định
Phòng
kế toán
ngân
quỹ
Phòng
hành

chính
nhân sự


Phòng
giao
dịch




Trong những năm qua, dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Ban giám đốc và sự phối
hợp nhịp nhàng, có hiệu quả của các phòng nghiệp vụ, Sở giao dịch đã khẳng định
vị trí, vai trò của mình trong hệ thống. Đứng vững và phát triển trong cơ chế mới,
chủ động mở rộng mạng lưới giao dịch. Đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh, dịch
vụ tiền tệ Ngân hàng, thường xuyên tăng cường vật chất kỹ thuật, từng bước đổi
mới công nghệ, hiện đại hoá Ngân hàng.
2.1.2 Tình hình kinh doanh của Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam
Tiền thân là Sở kinh doanh Hối đoái, Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam ra
đời và đi vào hoạt động từ tháng 5 năm 2002. Chỉ với một khoảng thời gian ngắn
như vậy nhưng Sở giao dịch đã từng bước khẳng định được vị trí của mình trên địa
bàn và ngày càng lớn mạnh cả về quy mô, số lượng và chất lượng các dịch vụ Ngân
hàng, đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Sở giao dịch đã đảm nhận tốt vai trò đầu mối thanh toán quốc tế, đảm bảo
thanh toán an toàn, kịp thời, gây được lòng tin của khách hàng và sự tín nhiệm của
các Ngân hàng nước ngoài. Quản lý các tài khoản về vốn của NHNo & PTNT Việt
nam , đảm bảo khả năng thanh toán của toàn hệ thống. Thực hiện kinh doanh vốn
thông qua thị trường liên Ngân hàng góp phần tăng cường năng lực tài chính, năng
lực cạnh tranh của NHNo & PTNT Việt nam. Năm 2004, Sở giao dịch quản lý 4 tài
khoản VND, 14 tài khoản ngoại tệ trong nước và 31 tài khoản NOSTRO (trong đó

có 11 tài khoản USD) của NHNo & PTNT Việt nam. Năm 2002, Sở giao dịch đã có
quan hệ với 702 Ngân hàng ở 89 nước trên thế giới. Cài đặt và thiết lập mạng
SWIFT nội bộ, đến nay có 53 chi nhánh NHNo & PTNT Việt nam đã tham gia
mạng SWIFT và thực hiện thanh toán quốc tế trực tiếp qua mạng SWIFT. Sở giao




dịch cũng đã có nhiều cố gắng trong việc làm đầu mối mua bán ngoại tệ nên đã cơ
bản đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho thanh toán Nhập khẩu các mặt hàng chiến lược:
Xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu… Thực hiện có kết quả việc mua bán ngoại tệ
với các chi nhánh trong hệ thống theo quy định của NHNo.
Hoạt động kinh doanh đã đạt được những kết quả tích cực, thể hiện ở tốc độ
tăng trưởng nguồn vốn và dư nợ, nợ quá hạn giảm; hoạt động thanh toán quốc tế,
kinh doanh ngoại tệ và dịch vụ đạt kết quả khả quan. Tài chính tăng trưởng vượt kế
hoạch được giao.
Bên cạnh đó, Sở giao dịch đã có nhiều biện pháp tích cực cải tiến quy trình
nghiệp vụ, đảm bảo an toàn, hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của khách
hàng. Thái độ giao dịch với khách hàng, với chi nhánh đã được cải tiến góp phần
đưa hoạt động của Sở giao dịch thông suốt, phục vụ tốt khách hàng, chi nhánh. Sở
giao dịch cũng đã tích cực ứng dụng tin học vào hoạt động Ngân hàng, từng bước
xây dựng Sở giao dịch theo hướng hiện đại như tham gia thanh toán điện tử, đưa hệ
thống máy ATM vào hoạt động cải tiến báo cáo qua SWIFT, sử dụng mạng
REUTERS để kinh doanh tiền gửi, mua bán ngoại tệ trên thị trường trong nước và
quốc tế…
Với sự nỗ lực, cố gắng của ban lãnh đạo cũng như tập thể nhân viên mà tình
hình hoạt động kinh doanh của Sở ngày càng khởi sắc. Để có cái nhìn cụ thể từng
bước phát triển của Sở, ta có thể đi sâu nghiên cứu các hoạt động sau:

2.1.2.1 Hoạt động huy động vốn





Tổng nguồn vốn đến 31/12/2004 đạt 6.380 tỷ đồng, tăng 2.570 tỷ đồng (tăng
67,4%) so với 31/12/2003. Trong đó, nguồn vốn huy động của Sở giao dịch (Không
tính nguồn vốn huy động hộ Trung ương) đạt 6.022 tỷ đồng, bằng 140,5% chỉ tiêu
kế hoạch huy động vốn năm 2004 được giao.
- Về cơ cấu vốn theo thời gian.
+ Nguồn vốn không kỳ hạn đạt 2.231 tỷ đồng, tăng 1.048 tỷ đồng (tăng 88,5%)
so với 31/12/2003; chiếm tỷ trọng 35% tổng nguồn vốn.
+ Nguồn vốn có kỳ hạn đạt 4.149 tỷ đồng, tăng 1.522 tỷ đồng (tăng 58%) so
với 31/12/2003; chiếm tỷ trọng 65% tổng nguồn vốn. Riêng nguồn vốn có kỳ hạn từ
12 tháng trở lên đạt 2.828 tỷ đồng.
- Về cơ cấu theo thành phần kinh tế.
+ Nguồn vốn huy động tiền gửi dân cư đạt 1.573 tỷ đồng, tăng 342 tỷ đồng
(tăng 27,8%) so với 31/12/2003; chiếm 24,6% tổng nguồn vốn.
+ Nguồn vốn của các tổ chức kinh tế đạt 4.316 tỷ đồng, tăng 1.746 tỷ đồng
(tăng 68%) so với 31/12/2003; chiếm 67,6% tổng nguồn vốn.
+ Nguồn vốn của các tổ chức tín dụng 491 tỷ đồng, tăng 481 tỷ đồng so với
31/12/2003; chiếm 7,7% tổng nguồn vốn.
- Về cơ cấu vốn theo đồng tiền huy động.
+ Nguồn vốn nội tệ đạt 5.151 tỷ đồng, tăng 2.337 tỷ đồng (tăng 83%) so với
31/12/2003; chiếm 80,7% tổng nguồn vốn.
+ Nguồn vốn ngoại tệ đạt 74,33 triệu USD và 2,62 triệu URE (tương đương
1.230 tỷ VNĐ) tăng 13,1 triệu USD và 1,25 URE và 1,25 triệu URE (tăng 23,4%)
so với 31/12/2003; chiếm 19,3% tổng nguồn vốn.





2.1.2.2 Hoạt động cho vay vốn
- Tổng dư nợ đến 31/12/2004 đạt 1.508 tỷ đồng (trong đó: dư nợ của công ty
chứng khoán: 144 tỷ đồng, Công ty vàng bạc: 32 tỷ đồng), tăng 579 tỷ đồng (tăng
62,3%) so với 31/12; đạt 153 % kế hoạch năm 2004 được giao.
* Dư nợ phân theo thời gian
+ Dư nợ ngắn hạn: 380 tỷ đồng, tăng 62 tỷ đồng so với 31/12/2003; chiếm
25,2% tổng dư nợ.
+ Dư nợ trung, dài hạn: 1.128 tỷ đồng, tăng 337 tỷ đồng so với 31/12/2003;
chiếm 74,8% tổng dư nợ.
* Dư nợ phân theo loại tiền
+ Dư nợ nội tệ đạt 611 tỷ đồng, tăng 228 tỷ đồng (tăng 59,5%) so với
31/12/2003; chiếm 40,5% tổng dư nợ.
+ Dư nợ ngoại tệ đạt 56,84triệu USD (tương đương 897 tỷ VNĐ), tăng 22,14
triệu USD (tăng 63,8%) so với 31/12/2003; chiếm 59,5% tổng dư nợ.
- Nợ quá hạn đến 31/12/2003 là: 16 tỷ đồng; chiếm tỷ lệ 1,06% tổng dư nợ.
Trong đó: Nợ quá hạn Công ty LICOLA 6,85 tỷ đồng; Công ty quan hệ quốc tế đầu
tư 8,2 tỷ đồng, của cá nhân 867 triệu đồng.
2.1.2.3. Hoạt động thanh toán quốc tế
- Doanh số thanh toán hàng nhập khẩu đạt 180 triệu USD; tăng 51,5 triệu
USD (tăng 40%) so với năm 2003; đạt 114% chỉ tiêu kế hoạch năm 2004.
- Doanh số thanh toán hàng xuất khẩu đạt 11,4 triệu USD, tăng 6,1 triệu USD
(tăng 112,7%) so với năm 2003; đạt 114% chỉ tiêu kế hoạch năm 2004
- Doanh số bán ngoại tệ đạt 80,2 triệu USD




- Chênh lệch mua bán ngoại tệ: 1,1 tỷ đồng
- Thu dịch vụ thanh toán quốc tế đạt 3 tỷ đồng, chiếm 63% tổng thu dịch vụ.

2.1.2.4 Kết quả kinh doanh, tài chính
- Tổng thu 946 A: 380 tỷ đồng
- Tổng chi 946A: 275 tỷ đồng
- Chênh lệch thu chi: 105 tỷ đồng
- Quỹ tiền lương xác lập: 7,78 tỷ đồng
- Hệ số tiền lương làm ra 4,8 lần
- Chênh lệch lãi suất đạt 0,324% /tháng
2.1.2.5. Công tác kế toán, thanh toán và ngân quỹ
- Năm 2004, thực hiện "Văn minh giao dịch" Sở giao dịch triển khai hệ thống
xếp hàng tự động và thực hiện giao dịch một cửa, nâng hạn mức giao dịch cho thanh
toán viên phù hợp với trình độ, mức độ thành thạo công việc, thúc đẩy tăng năng
suất lao động, rút ngắn thời gian xử lý nghiệp vụ, nâng cao chất lượng phục vụ
khách hàng. Khối lượng thanh toán, số lượng bút toán giao dịch tăng nhanh, vẫn
thực hiện hạch toán kịp thời, chính xác các nghiệp vụ phát sinh, đảm bảo an toàn tài
sản.
- Thực hiện mở 2.231 tài khoản mới, trong đó có 2.049 tài khoản cá nhân và
182 tài khoản của các tổ chức, doanh nghiệp; nâng tổng số lên 4.957 tài khoản VNĐ
và 617 tài khoản USD hoạt động tại Sở giao dịch. Phát hành 1.834 thẻ ATM, nâng
tổng số thẻ ATM đang hoạt động lên 2.823 thẻ, số dư nguồn vốn bình quân đạt 14 tỷ
VNĐ. Doanh số chuyển tiền đi: 22.464 tỷ đồng/21.748 món; chuyển tiền đến 24.624
tỷ đồng/53.281 món.




- Thực hiện chức năng đầu mối ngoại tệ mặt, hoạt động thu chi tiền mặt đa
dạng về loại tiền, bao gồm các đồng ngoại tệ mạnh và Séc du lịch; doanh số thu chi
tiền mặt qua quỹ lớn (4.047 tỷ VNĐ và 487 triệu USD), đảm bảo an toàn tài sản,
không để mất mát trong thu chi tiền mặt và kho quỹ, phát hiện tiền giả kịp thời.
2.1.2.6. Công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ

Trong năm 2004 Sở giao dịch tiến hành 23 lượt kiểm tra, phúc tra trong đó:
Kiểm tra công tác tín dụng (04 lần); kiểm tra công tác kế toán tài chính (07 lần),
kiểm tra công tác an toàn kho quỹ (04 lần); kiểm tra việc trích lập dự phòng và xử lý
rủi ro (01 lần); kiểm tra công tác đầu tư XDCB và mua sắm TSCĐ (01 lần); Phúc tra
sửa sai nghiệp TTQT, Kế toán, Tín dụng 03 lần… Tổng số chứng từ đã được kiểm
tra là 76.180 chứng từ, phát hiện 344 chứng từ có sai sót, chiếm 0,32%.
Qua kiểm tra, các hoạt động nghiệp vụ đều thực hiện đúng quy trình, một số
sai sót phát sinh đã được phát hiện và chấn chỉnh kịp thời, một số tồn tại sai sót
trong công tác kho quỹ đã được phát hiện sớm, khắc phục và xử lý kịp thời, đảm
bảo an toàn tài sản.
Năm 2004. Đoàn thanh tra NHNN tiến hành thanh tra về công tác điều hành,
kiểm tra kiểm toán, tín dụng và bảo lãnh Sở giao dịch đã đánh giá các hoạt động
của Sở giao dịch cơ bản là tốt, còn một số tồn tại trong công tác tín dụng nhưng
không lớn. Đồng thời, trong năm 2004 Sở giao dịch tiếp tục thực hiện nghiêm túc kế
hoạch chấn chỉnh, sửa sai theo kiến nghị của Đoàn thanh NHNN như: Duy trì hoạt
động thường xuyên của Tổ thu hồi nợ, đã thu hồi được 2,28 tỷ đồng nợ tồn đọng; bổ
sung, hoàn thiện hồ sơ tài sản đảm bảo tiền vay cho các khoản nợ của công ty XNK




vật tư đường biển để bán đấu giá thu hồi nợ… Thường xuyên báo cáo thanh tra
NHNN kết quả sửa sai sau thanh tra theo quy định.
2.2 Thực trạng công tác TTKDTM tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam
2.2.1 Tình hình thanh toán chung
Hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng là một trong 4 định hướng lớn của Ban
lãnh đạo NHNN đề ra cho toàn ngành. Thực hiện chủ trương đó trong lĩnh vực
thanh toán, kế toán của hệ thống Ngân hàng đã đạt được những kết quả to lớn và rất
cơ bản. Việc chuyển đổi toàn bộ hệ thống thanh toán, kế toán thủ công sang công
tác điện tử, tin học đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự nghiệp đổi mới hoạt

động Ngân hàng. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, của
ngành Ngân hàng, Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam ngay từ khi mới đi vào
hoạt động đã rất quan tâm hoàn thiện, cải tiến công tác trên các mặt nội dung, hình
thức cũng như công tác phục vụ và đã thu được những kết quả khả quan, cụ thể: Các
nguồn chu chuyển tiền tệ ngày càng được tập trung qua Ngân hàng nhiều hơn, thể
hiện ở doanh số thanh toán qua Ngân hàng ngày càng tăng trong đó doanh số
TTKDTM không ngừng được nâng lên, góp phần xoá đi tình trạng khan hiếm tiền
mặt do tâm lý thích dùng tiền mặt của khách hàng, từ đó tiết kiệm chi phí cho việc
in ấn, vận chuyển, bảo quản tiền mặt.
Theo những số liệu thu thập được tại Sở giao dịch NHNN &PTNT Việt Nam,
ta thấy doanh số thanh toán qua Ngân hàng của Sở giao dịch tăng từ 194.533.302
triệu năm 2002 lên 373.782.012 triệu năm 2003 với mức tăng là 179.248.710 triệu
tương đương 92,14%. Đến cuối năm 2004, tổng thanh toán đạt 489.098.994 triệu
đồng, tăng 115.316.982 triệu so với năm 2003, tương đương với tỷ lệ tăng 30, 85%.




Trong đó, ta thấy năm 2002 TTKDTM đạt doanh số 194.502.770 triệu, chiếm
99,73% tổng thanh toán. Đến cuối năm 2003, con số này là 372.904.689 triệu,
chiếm 99,77% trong tổng thanh toán, tăng so với năm 2002 là 178.901.919 triệu ,
tương đương với tỷ lệ tăng 92,21%. Tính đến 31.12.2004, doanh số TTKDTM là
448.216.132 triệu, chiếm 99,8% tổng thanh toán, tăng 115.221.443 triệu so với năm
2002, tương đương với tỷ lệ tăng 30,9%. Điều này có nghĩa là thanh toán bằng tiền
mặt đã giảm xuống cả về doanh số lẫn tỷ trọng trong tổng thanh toán.
Như vậy, qua số liệu mô tả ở trên thì TTKDTM luôn chiếm một tỷ trọng rất
cao trong tổng thanh toán của Sở giao dịch, điều đó chứng tỏ hình thức TTKDTM
đang ngày càng được sử dụng một cách phổ biến và dần khẳng định được chỗ đứng
trong nền kinh tế. Đó cũng là kết quả tất yếu của việc đổi mới chính sách, chế độ
của hệ thống Ngân hàng , kết hợp với đội ngũ cán bộ trẻ hoá, có năng lực, trình độ,

phẩm chất đạo đức tốt và nhiệt tình với công việc.
Bên cạnh đó, ta thấy tình hình công tác TTKDTM ở Sở giao dịch là lý tưởng
với một tỷ lệ cao (luôn trên mức 99%) nhưng con số này không phản ánh tình hình
TTKDTM của nền kinh tế. Nguyên nhân của khối lượng TTKDTM cao là do NHNo
& PTNT Việt nam ký hợp đồng thanh toán nhanh với các Ngân hàng nước ngoài
như CITYBANK, ABN, AMRO…. Đặc biệt, với nhiệm vụ là sở đầu mối trong toàn
hệ thống thì ngoài khách hàng là các tổ chức kinh tế, các cá nhân, Sở giao dịch còn
có quan hệ với các Ngân hàng trong và ngoài nước, hơn nữa, khách hàng của Sở
giao dịch thường là khách hàng lớn do đó phần thanh toán nội bộ thường chiếm
khoảng 70% tổng giá trị TTKDTM. Như vậy, có thể noí tình hình hoạt động
TTKDTM của Sở cũng giống như các Ngân hàng lớn trên địa bàn Hà nội là đang




trên đà phát triển, bước đầu đã có sự tăng trưởng đáng khích lệ. Góp phần vào thành
công đó không thể không kể đến nỗ lực của bản thân Ngân hàng trong việc đổi mới
công tác thanh toán, cải tiến và đa dạng hoá các thể thức thanh toán làm cho quá
trình thanh toán không ngừng được hoàn thiện.
Tuy nhiên, trong kỳ, ta thấy thanh toán bằng tiền mặt giảm về số tương đối
nhưng lại tăng lên về số tuyệt đối (Năm 2004 tăng 95.539 triệu so với năm 2003).
Tỷ lệ này chủ yếu là thanh toán tiết kiệm cho dân cư, chi lương cho các đơn vị có tài
khoản tiền gửi tại Sở giao dịch, đặc biệt là khách hàng mở tài khoản cá nhân vẫn sử
dụng thanh toán bằng tiền mặt. Thực tế này cho thấy tâm lý ưa dùng tiền mặt trong
nhân dân vẫn là hiện tượng phổ biến. Đây là vấn đề đòi hỏi ngành Ngân hàng nói
chung và Sở giao dịch nói riêng phải quan tâm để giảm bớt tỷ lệ thanh toán bằng
tiền mặt, tạo thói quen TTKDTM trong dân cư.
Trong quá trình hoạt động, quán triệt các quyết định, Nghị định, thông tư
hướng dẫn của chính phủ, của NHNo cũng như sự chỉ đạo, điều hành cảu ban lãnh
đạo Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam, phòng kế toán đã có nhiều cố gắng

trong việc tổ chức thực hiện nghiệp vụ đem lại kết quả khả quan. Công tác
TTKDTM được áp dụng rộng rãi, chiếm ưu thế trong thanh toán, phù hợp với điều
kiện mới của nền kinh tế.

2.2.2 Tình hình vận dụng các hình thức thanh toán
Qua khảo sát thực tế tại Sở giao dịch cho thấy khách hàng rất ưa sử dụng
hình thức thanh toán này. Ngược lại, ta lại thấy thể thức thanh toán bằng UNT đạt
doanh số thấp nhất so với tổng TTKDTM . Về tình hình thanh toán Séc, tuy chiếm




tỷ trọng không cao so với các thể thức TTKDTM khác nhưng nó tương đối ổn định
qua các năm, điều đó chứng tỏ thanh toán bằng Séc luôn được khách hàng ưa
chuộng và sử dụng một cách thường xuyên. NPTT cũng chiếm tỷ trọng khá lớn
trong tổng giá trị TTKDTM. Trong khi đó, hai hình thức TTD và thẻ thanh toán lại
hoàn toàn chưa được sử dụng nhưng nhìn chung về doanh số, TTKDTM luôn có
chiều hướng tăng.

2.2.2.1. Tình hình sử dụng Séc
Hiện nay, tại Sở giao dịch sử dụng hai loại séc đó là séc chuyển khoản và séc
bảo chi. Như ta đã biết, Séc là một trong những phương tiện TTKDTM rất hữu ích,
nó được xem là một công cụ thanh toán tiến bộ nhất trong các hình thức thanh toán
truyền thống của Ngân hàng vì thủ tục có phần đơn giản, thời gian nhanh, kịp thời,
dễ sử dụng.
*. Séc chuyển khoản
Đây là hình thức thanh toán đơn giản, thuận tiện và nhanh chóng; tuy nhiên,
nó lại ít được sử dụng tại Sở giao dịch. Điều này được thể hiện rõ qua các số liệu
sau:
Trong năm 2004, Sở giao dịch đã thực hiện được 980 món với tổng số tiền là

22.878 triệu đồng, chiếm 32,8% trong tổng doanh số thanh toán séc tại Sở và chiếm
0,005% tổng doanh số TTKDTM. Nếu so với năm 2003 thì doanh số thanh toán
bằng séc chuyển khoản tăng 9.348 triệu với số món tăng lên là 242 món. So với năm
2002 thì năm 2004 tăng được 731 món với mức tăng về doanh số là 16.900 triệu
tương ứng với tỷ lệ tăng là 282,7%.




Tỷ trọng thanh toán bằng séc chuyển khoản trong thanh toán bằng séc nói
riêng và TTKDTM nói chung trong những năm qua còn thấp, tuy có chiều hướng
gia tăng nhưng không lớn lắm. Qua khảo sát thực tế tại Sở giao dịch ta thấy, những
món có giá trị cao, người bán không chắc chắn khả năng thanh toán của người mua
thì họ thanh toán với nhau bằng các thể thức khác. Bởi lẽ:
- Séc chuyển khoản có thủ tục khá đơn giản: Do người mua phát hành và trả
trực tiếp cho người thụ hưởng chứ không phải qua sự kiểm soát của Ngân hàng.
Chính vì đơn giản như vậy nên khi xảy ra phát hành quá số dư thì quyền lợi của
người thụ hưởng bị xâm phạm.
- Người thụ hưởng bị chiếm dụng vốn do nguyên tắc hạch toán ghi nợ trước,
có sau của ngân hàng.
- Phạm vi thanh toán của séc chuyển khoản bị hạn chế
Cũng từ tính rủi ro cao cho người thụ hưởng như vậy nên tâm lý của người
thụ hưởng ít khi chấp nhận thanh toán bằng séc chuyển khoản.
Mặc dù, séc chuyển khoản có những hạn chế nhất định như đã trình bày ở
trên và hiện nay đang ít được sử dụng nhưng xét ở góc độ nào đó thì séc chuyển
khoản cũng có những ưu điểm là thủ tục đơn giản, gọn nhẹ, thời gian luân chuyển
vốn nhanh, không phải lưu ký tiền chờ thanh toán như một số hình thức thanh toán
khác Đây cũng là những ưu điểm mà các ngân hàng nói chung và sở giao dịch nói
riêng có biện pháp khuyến cáo và tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng nhiều hơn.
*. Séc bảo chi





Trong các công cụ thanh toán séc thì séc bảo chi có ưu thế và an toàn hơn tất
cả các loại séc khác. Điều này được thể hiện rõ nét tại sở giao dịch NHNo & PTNT
Việt Nam.
Năm 2002, doanh số séc bảo chi đạt 13.394 triệu đồng, chiếm 19,14% trong
thanh toán séc và 0,007% trong tổng doanh số TTKDTM. Sang năm 2003, séc bảo
chi tăng 447 món, tương đương 16.126 triệu so với năm 2002 Năm 2004, séc bảo
chi tăng cả về số món và doanh số nhưng tỷ trọng so với doanh số séc lại giảm
xuống còn 67,2% chiếm 0,014% trong tổng TTKDTM. Như ta đã biết, trong điều
kiện nền kinh tế thị trường thì mức độ tin cậy giữa các đối tác khách hàng là chưa
cao, hơn nữa, nhu cầu về vốn của các tổ chức hiện nay rất căng thẳng đòi hỏi đảm
bảo khả năng thanh toán nhanh và chắc chắn. Đây là lý do giải thích vì sao séc bảo
chi được sử dụng nhiều hơn séc chuyển khoản tại sở giao dịch.
- Đứng trên góc độ là người thụ hưởng thì séc bảo chi có nhiều ưu điểm : có
tính chắc chắn vì khi thực hiện thanh toán cho khách hàng có tài khoản tại 2 ngân
hàng trong cùng hệ thống thì kế toán hạch toán ghi Có trước vào tài khoản người thụ
hưởng và ghi Nợ sau vào tài khoản người trả tiền. Mặt khác, phạm vi thanh toán của
séc bảo chi rộng hơn séc chuyển khoản.
- Tuy nhiên, đứng trên góc độ người trả tiền thì sử dụng séc bảo chi lại có
nhược điểm : Do phải mở một tài khoản để lưu ký tiền nên ít nhiều đối với đơn vị
phát hành séc cũng bị chi phí đọng vốn trong một thời gian nhất định. Ngoài ra, để
được bảo chi, khách hàng phải làm thủ tục bảo chi nên cũng có những phiền hà đối
với họ.





Tuy vậy, trong những năm qua sở giao dịch cũng đã làm mọi cách để phục
vụ khách hàng tốt nhất nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những nhược điểm vốn có
của thể thức này như cố gắng đảm bảo tính toán và xử lý các bước về nghiệp vụ bảo
chi cũng như thanh toán séc bảo chi trong thời gian ngắn nhất (thông thường 1 séc
bảo chi được thanh toán trong vòng 2 - 4 ngày).
2.2.2.2. Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi - chuyển tiền
UNC là phương tiện thanh toán phổ biến và có mức doanh số cao nhất tại sở
giao dịch. Trung bình tỷ trọng thanh toán bằng UNC chiếm tới 99% trong tổng số
TTKDTM.
Đến 31/12/2003, thanh toán bằng UNC tăng lên rất nhanh cả về số tiền cũng
như số món so với năm 2002, cụ thể : số món đạt được là 77.174 món, chiếm
34,21% tổng số món, tăng 47.683 món so với năm 2002, doanh số đạt được là
372.181.989 triệu, tăng 178.628.553 triệu so với năm 2002.
Năm 2004, số món UNC là 97.244 món, chiếm 34,1% tổng số món thanh
toán, tăng so với năm 2003 là 20.070 món với doanh số tăng 114.975.328 triệu, đưa
doanh số UNC năm 2004 lên 487.157.317 triệu, chiếm 99,9% tổng TTKDTM.
Nhìn chung, số món thanh toán bằng UNC có chiều hướng tăng dần, hay nói
cách khác, UNC ngày càng được khách hàng ưa chuộng và sử dụng. Nguyên nhân
chính làm cho UNC được sử dụng rộng rãi là do :
- Phạm vi thanh toán rộng (thanh toán trong cả nước), thủ tục thanh toán đơn
giản, người trả tiền chỉ cần lập UNC gửi ngân hàng phục vụ mình, nếu UNC hợp
pháp, hợp lệ, tài khoản tiền gửi đủ số dư, ngân hàng sẽ tiến hành thanh toán ngay.




- Mặt khác, do ứng dụng công nghệ tin học vào thanh toán làm cho quá trình
thanh tán bằng UNC được nhanh chóng và thuận tiện hơn.
- Ngoài ra, UNC còn được sử dụng cho bản thân ngân hàng như để thực hiện
nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, chi trả lãi, điều hoà vốn nên doanh số thanh toán

UNC ngày càng cao.
- Hơn nữa, với chức năng thanh toán của sở đầu mối sở giao dịch có quan hệ
thanh toán với nhiều khách hàng lớn như KBNN, các Ngân hàng nước ngoài
(CITYBANK, ABN, AMRO ), nhận điều hoà vốn nội, ngoại tệ cho các chi nhánh
trong toàn hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam, có nhiều đơn vị lớn như sứ quán
Mỹ, tổ chức CARE, công ty máy tính FUJSU, công ty chuyển phát nhanh BNT trả
lương cho cán bộ công nhân viên thông qua tài khoản tiền gửi tại sở giao dịch bằng
UNC. Chính những hoạt động này đã nâng doanh số thanh toán bằng UNC của sở
giao dịch lên mức cao nhất.
Tuy vậy, thể thức thanh toán này chỉ được áp dụng trong trường hợp khách
hàng có tín nhiệm lẫn nhau vì độ rủi ro vẫn là lớn cho cả 2 bên tuỳ thuộc vào thời
gian giao hàng trước hoặc sau khi lập UNC. Trường hợp giao hàng sau khi lập UNC
trả tiền, nếu bên bán không đủ hàng hoặc chần chừ không chịu giao hàng thì thiệt
hại thuộc về bên mua. Ngược lại, nếu bên bán giao hàng trước khi bên mua UNC trả
tiền mà khi bên mua hàng không đủ hoặc không có tiền để thanh toán sẽ bị ngân
hàng từ chối thanh toán UNC đó. Như vậy, người bán không thu được tiền và cũng
không đòi được hàng. Trong trường hợp khách hàng không tin tưởng nhau thì họ
thường sử dụng thể thức thanh toán có độ an toàn cao hơn như : séc bảo chi, NPTT
đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến thanh toán bằng UNC của các cá

×