Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

LUẬN VĂN Công tác thanh toán không dùng tiền mặt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (707.64 KB, 55 trang )











LUẬN VĂN:

Công tác thanh toán
không dùng tiền mặt




Chương i
lý luận cơ bản về công tác thanh toán không dùng tiền mặt

1.1-Sự cần thiết và vai trò của công tác thanh toán không dùng tiền mặt trong
nền Kinh tế thị trường:
1.1.1-Sự cần thiết của Thanh toán không dùng tiền mặt:

Lịch sử ra đời , sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, thì đồng
thời nó cũng gắn liền với sự phát triển của tiền tệ. Từ cổ xưa đến cách đây vài trăm
năm, các kim loại quý như vàng, bạc được coi như một phương tiện trao đổi trong
Xã hội trừ Xã hội sơ khai nhất. Vấn đề đặt ra với một hệ thống thanh toán hoàn toàn
dựa vào kim loại quý thì việc vận chuyển từ nơi này sang đến nơi khác rất khó khăn
. Sự phát triển tiếp theo của hệ thống thanh toán là đồng tiền giấy, đồng tiền giấy có


lợi hơn so với đồng tiền kim loại ở chỗ, nó nhẹ hơn rất nhiều,việc cầm theo nó cũng
dễ dàng hơn, nhưng vấn đề đặt ra khi công nghệ in ấn tiền phát triển tiên tiến, thì tệ
nạn in tiền giả cũng phát triển theo, chi phí in tiền, vận chuyển tiền. Mặt khác, cả hai
loại tiền này nổi lên một số yếu điểm đó là dễ bị lấy cắp, tốn thời gian vận chuyển,
chi phí bảo quản, in ấn, thời gian thanh toán bị kéo dài. Để khắc phục khó khăn này,
một bước tiến mới của Hệ thống thanh toán đã xuất hiện với hoạt động Ngân hàng
hiện đại.
Hoạt động Ngân hàng sơ khai ban đầu chỉ là thu nhận giữ hộ tiền , kim loại
quý cho khách hàng. Theo quy luật của thị trường , nền kinh tế hàng hoá là luôn vận
động và luôn phát triển, Ngân hàng phát sinh thêm một số nghiệp vụ như việc thanh
toán cho khách hàng gửi tiền tại một Ngân hàng khi có nhu cầu chi trả lẫn nhau.
Khi sản xuất và lưu thông hàng hoá ở mức thấp, quá trình mua bán diễn ra trong
phạm vi hẹp thì người ta thanh toán với nhau bằng tiền mặt, sự vận động của vật tư
hàng hoá, vật tư gắn liền vớí sự vận động của khối lượng tiền tệ nhất định. Lúc này
thanh toán bằng tiền mặt đã tỏ rõ sự linh hoạt của nó. Qua trình thanh toán bằng tiền
mặt không gặp phải một vấn đề nào.


Nhưng theo quy luật của sự phát triển Kinh tế – Xã hội, công việc giao
thương không chỉ bó hẹp trong một phạm vi, một quốc gia mà xuyên suốt khắp
quốc gia trên cả thị trường thế giới với khối lượng hàng hoá lớn nhiều chủng loại đa
đạng và phong phú. Lúc này thanh toán bằng tiền mặt đã nảy sinh hàng loạt những
điểm bất lợi cho công việc thanh toán như thời gian, chi phí, vận chuyển. Thì lúc
này hệ thống thanh toán hiện đại Ngân hàng hay còn gọi thể thức thanh toán không
dùng tiền mặt phần nào đã thoả mãn được những bất lợi của thanh toán bằng tiền
mặt nói trên . Người ta không còn phải mất thời gian vào việc vận chuyển tiền, bảo
quản,… mà thay vào đó chỉ việc trích chuyển vốn từ Tài khoản vốn đơn vị này sang
Tài khoản vốn đơn vị khác, huặc thanh toán bù trừ lẫn nhau giữa các tổ chức Tài
chính. Để thực hiện được quá trình này phải có ít nhất ba chủ thể tham gia đó là
bên mua, bên bán và Ngân hàng đóng vai trò trung gian Tài chính Với chức năng là

trung tâm thanh toán của nền Kinh tế quốc dân. Các Ngân hàng Thương mại hoàn
toàn có khả năng tổ chức các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt thích hợp
để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, sẽ góp phần lớn trong việc thực hiện
chiến lược phát triển Kinh tế của Đảng, ổn định giá cả, đẩy lùi lạm phát,lưu thông
hàng hoá, tăng thu nhập quốc dân. Vì có tính ưu việt như trên , nên công tác thanh
toán không dùng tiền mặt ngày càng được khách hàng ưa chuộng, nên nó không
ngừng phát triển và không thể thiếu được trong nền Kinh tế thị trường hiện nay. Do
đó nó ra đời là một tất yếu khách quan của lịch sử loài người.
Tóm lại , thanh toán không dùng tiền mặt là nghiệp vụ trung gian của Ngân
hàng, đây chính là cách thức mang lại nhiều hiệu quả nhất cho cả hai bên - đơn vị
mở Tài khoản , Ngân hàng, mà lại phù hợp với sự phát triển của sản xuất và lưu
thông hàng hoá. Việc thay thế thanh toán bằng tiền mặt bởi thanh toán không dùng
tiền mặt đã thực sự thu hút dòng tiền mặt chảy vào Ngân hàng , Ngân hàng sẽ tăng
nguồn thu và nguồn vốn bằng tiền mặt đồng thời qua đó Ngân hàng có thể kiểm soát
và điều hành chặt chẽ hơn thông qua công tác thanh toán. Còn khách hàng đơn vị
mở Tài khoản tại Ngân hàng đảm bảo được chi trả đúng thời hạn, tiết kiệm thời gian,
an toàn nhất.
1.1.2 Vai trò của công tác thanh toán không dùng tiền mặt trong nền
Kinh tế thị trường:

Ngân hàng ra đời để đảm nhiệm trọng trách là trung tâm thanh toán cho nền
Kinh tế. Trọng trách này được thể hiện qua việc mua bán, cung ứng dịch vụ hàng
hoá giữa các cơ quan đoàn thể, các tổ chức kinh tế, các doanh ngiệp và cá nhân
trong xã hội. Chính vì thế thanh toán không dùng tiền mặt không thể thiếu được, vì
hàng hoá và tiền tệ luôn có mối quan hệ song hành với nhau, liên hệ với nhau như
những mắt xích trong nền kinh tế Tiền – Hàng – Tiền. Thanh toán không dùng tiền
mặt đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tổ chức và lưu thông hàng hoá. Ngân
hàng thực hiện tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt sẽ góp phần đem lại lợi
ích nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Sau đây là một số vai trò của công tác thanh toán
không dùng tiền mặt:

Thứ nhất: Làm giảm được một khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Như
chúng ta biết thanh toán bằng tiền mặt có những nhược điểm đó là : Khối lượng tiền
lớn, cồng kềnh, tốn công sức chuyên trở, kiểm đếm, chi phí cho nhiều khâu như in
ấn, bảo quản …Ngày nay nền kinh tế thị trường có nhiều mối quan hệ kinh tế phức
tạp và đa dạng, tăng tỷ trọng thanh lớn không dùng tiền mặt sẽ làm giảm được khối
lượng tiền mặt lưu hành trong lưu thông.
Thứ hai: Luân chuyển vốn nhanh gọn, chính xác, an toàn tuyệt đối đáp ứng
nhu cầu vốn kinh doanh kịp thời…mỗi ngiệp vụ phát sinh Ngân hàng chỉ cần căn cứ
vào lệnh của chủ Tài khoản và số dư trên Tài khoản của khách hàng để ghi nợ Tài
khoản này và đồng thời ghi có Tài khoản kia trong cùng một Ngân hàng. Nếu
chuyển tiền qua mạng vi tính khác ngân hàng, khác địa phương ngay trong ngày sẽ
thực hiện được chuyển tìên đảm bảo an toàn chính xác tuyệt đối cả Tài sản khách
hàng và của Ngân hàng. Chính ngiệp vụ này đã rút ngắn được thời gian thanh toán,
đem lại hiệu quả cao cho các doanh nghiệp. Vì ở mỗi doanh ngiệp nếu khâu thanh
toán chậm trễ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng vốn, kết quả sản xuất kinh
doanh sẽ giảm thấp và ảnh hưởng đến đời sống cán bộ công nhân viên, và ảnh
hưởng tồn sự tồn tại các doanh ngiệp.
Thứ ba: Giúp các Ngân hàng thương mại tập trung nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi để cấp vốn cho công tác tín dụng. Để được tham gia thanh toán không dùng tiền
mặt trong Ngân hàng các cá nhân , doanh ngiệp, tổ chức kinh tế, phải nộp tiền của
mình vào ngân hàng và mở Tài khoản tiền gửi thanh toán, trên Tài khoản luôn tồn

tại số dư nhất định để đảm bảo việc chi trả. Số dư tiền này chính là nguồn vốn tiền
gửi mà ngân hàng được phép sử dụng phần lớn để cho vay mà chỉ cần để lại một tỷ
lệ nhất định để đảm bảo đủ khả năng chi trả. Về phía khách hàng được hưởng một
khoản lãi nhất định trên số dư tiền của họ.
Thứ tư: Thanh toán không dùng tiền mặt là công cụ trong chiến lược cạnh
tranh giữa các Ngân hàng thương mại, nhằm thu hút khách hàng đến với mình Khi
Ngân hàng thực hiện tốt công tác thanh toán thì chính nó là nguồn vốn tiềm tàng ở
ngoài Xã hội đổ về Ngân hàng tự nguyện, Ngân hàng không phải tốn nhiều chi phí

như khi huy động vốn ở các hình thức khác (tiền gứi có kỳ hạn, kỳ phiếu…). Vì vậy
Ngân hàng nào tổ chức tốt công tác thanh toán là giải pháp tích cực để thay thế
nguồn vốn theo hướng tăng tỷ trọng nguồn vốn có mức lãi suất thấp, trên cơ sở đó
hạ lãi suất tiền vay. Khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân đầu tư, sản xuất, vào hoạt
động sản xuất kinh doanh có lãi. Ngân hàng còn nắm được tình hình hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh ngiệp cũng như khả năng Tài chính của doanh ngiệp
qua việc quản lý biến động của vốn, số dư trên Tài khoản tiền gửi, trên cơ sở đó
Ngân hàng thực hiện nhiệm vụ tư vấn có hiệu quả.
Thứ năm: Giúp cho Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng tạo tiền .
Trong thực tế nếu thanh toán bằng tiền mặt , sau khi lĩnh tiền mặt ra khỏi Ngân
hàng, số tiền đó không còn nằm trong phạm vi kiểm soát của Ngân hàng nữa. Nhưng
nếu thực hiện bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, khách hàng trích từ
Tài khoản tiền gửi của mình huặc được Giám đốc duyệt cho vay chuyển số tiền đó
đến Ngân hàng khác. Đến Ngân hàng thứ hai để lại tỷ lệ dự trữ bắt buộc chung 10%,
cứ thế đến các Ngân hàng thứ hai, thứ ba…từ 10 triệu ban đầu có thể lên đến 100
triệu. Như vậy Ngân hàng đã thực hiện được chức năng tạo tiền trong khâu thánh
toán.
Thứ sáu: Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước qua Ngân hàng chỉ thực sự
phát huy đầy đủ tác dụng khi phần khối lượng thanh toán tập trung qua Ngân hàng,
giúp Ngân hàng Nhà nước quản lý tổng thể quá trình sản xuất và lưu thông hàng
hoá. Mặt khác, sử dụng công cụ thanh toán, kiểm soát được mức tạo tiền và tăng tín
dụng, thực hiện tốt chính sách tiền tệ là giải pháp tích cực nhằm kìm chế lạm phát,
tạo đà cho kinh tế tăng trưởng. Trên lĩnh vực Ngân hàng nó phản ánh trình độ ngiệp

vụ, kỹ thuật thanh toán, trang thiết bị, cơ sở vật chất của ngành ở tầm vĩ mô, nó phản
ánh trình độ dân trí, tốc độ phát triển của một quốc gia. Với đòi hỏi Ngân hàng phải
thực hiện tốt trong thanh toán dựa trên cơ sở các nguyên tắc sau: Tuyệt đối an toàn
về Tài sản, vốn của Ngân hàng cũng như của khách hàng, giúp cho khách hàng tránh
được rủi ro trong thanh toán, chuyển dịch vốn nhanh gọn, kịp thời chính xác. Từ đó
làm giảm thấp nhất thời gian vốn nằm trong thanh toán.

1.2Khái niệm và nguyên tắc chung về thanh toán không dùng tiền mặt
1.2.1 KháI niệm:
Thanh toán không dùng tiền mặt, là quá trình thanh toán không
xuất hiện tiền mặt, mà thanh toán bằng cách trích chuyển từ Tài khoản của người trả
cho người thụ hưởng mở tại Ngân hàng hoặc thanh toán bù trừ.
Thanh toán không dùng tiền mặt thường bao gồm có 4 bên tham gia
+ Bên mua hàng
+ Ngân hàng phục vụ bên mua, tức là Ngân hàng nơi đơn vị mở Tài khoản
giao dịch.
+ Bên bán, tức là bên cung ứng dịch vụ hay hàng hoá
+ Ngân hàng phục vụ bên bán, tức là Ngân hàng nơi đơn vị bán mở Tài
khoản giao dịch.
1.2.2 Nguyên tắc chung khi thực hiện:
Theo Nghị định 91/CP ngày 25/11/1993 của chính phủ, Quyết định số 22/QĐ
ngày 21/02/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước VN, Nghị định 30/CP của
Chính phủ ngày 09/05/1996 và hàng loạt thông tư hướng dẫn thể lệ thanh toán
không dùng tiền mặt trong giai đoạn hiện nay có các quy định cụ thể sau:
Hiện nay các cá nhân, đơn vị thanh toán qua Ngân hàng huặc Kho bạc Nhà
nước được sáp dụng các thể thức thanh toán

+ Thanh toán bằng Uỷ nhiệm chi – Sec chuyển tiền.
+ Thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu.
+ Thanh toán bằng Séc.
+ Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C)
+ Thanh toán bằng Ngân phiếu thanh toán.

+Thanh toán bằng thẻ thanh toán

* Quy định chung khi thực hiện giữa các khách hàng qua Ngân hàng, kho
bạc

Điều một:Các Doanh nghiệp, cơ quan tổ chức, đoàn thể, đơn vị lực lượng vũ
trang, công dân Việt nam và người nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt nam
được quyền lựa chọn Ngân hàng để mở Tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Điều hai: Việc mở Tài khoản thanh toán tại Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước
và thực hiện thanh toán qua Tài khoản được ghi bằng đồng Việt nam. Trường hợp
mở Tài khoản thanh toán và bằng ngoại tệ phải thực hiện theo quy chế quản lý ngoại
hối của chính phủ Việt nam ban hành.
Điều ba: -Để thực hiện thanh toán đầy đủ kịp thời, các chủ Tài khoản (bên
trả tiền) phải có đủ tiền trên Tài khoản. Mọi trường hợp thanh toán vượt quá số dư
Tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước là phạm pháp và phải bị xử lý
theo pháp luật.
Điều bốn: Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước có trách nhiệm:
Thực hiện các uỷ nhiệm thanh toán của chủ Tài khoản đảm bảo chính xác, an
toàn, thuận tiện. Các Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước có trách nhiệm chi trả bằng tiền
mặt hoặc chuyển khoản trong phạm vi số dư tiền gửi theo yêu cầu của chủ Tài
khoản.
Kiểm tra khả năng thanh toán của chủ Tài khoản (bên trả tiền) trước khi
thực hiện thanh toán và được quyền từ chối thanh toán nếu chủ Tài khoản không đủ
tiền, đồng thời chịu trách nhiệm về những nội dung liên đới của hai bên khách hàng.
Nếu do thiếu sót trong quá trình thanh toán gây thiệt hại cho khách hàng thì
Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước phải bồi thường thiệt hại và tuỳ theo mức độ vi
phạm có thể bị xử ký theo pháp luật.
Điều năm:Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước chỉ cung cấp số liệu trên Tài
khoản khách hàng cho các cơ quan ngoài Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước khi có các
văn bản của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Điều sáu:Khi thực hiện dịch vụ thanh toán cho khách hàng, Ngân hàng được
thu phí theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt nam.

1.3 một số thể thức thanh toán không dùng tiền mặt hiện đang được
dùng ở việt nam

1.3.1.Thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu:

Uỷ nhiệm thu là hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, được áp dụng
giữa người mua và người bán trên cơ sở hợp đồng kinh tế huặc đơn đặt hàng, trong
đó người mua sẽ chủ động lập Uỷ nhiệm thu gửi tới Ngân hàng phục vụ mình để uỷ
nhiệm cho Ngân hàng thu hộ số tiền hàng hoá, dịch vụ theo các chứng từ thanh toán
hợp lệ, hợp pháp.
Phạm vi áp dụng của hình thức thanh toán này là giữa cac đơn vị mở Tài
khoản ở cùng một chi nhánh huặc các chi nhánh Ngân hàng trong cùng một hệ thống
huặc khác hệ thống.
Bên mua và bên bán phải thống nhất với nhau dùng hình thức thanh toán
Uỷ nhiệm thu, đồng thời thông báo bằng văn bản cho Ngân hàng của bên thụ hưởng
để có căn cứ thực hiện uỷ nhiệm thu
Bên bán lập uỷ nhiệm thu theo mẫu của Ngân hàng, kèm theo hoá đơn, vận
đơn gửi tới Ngân hàng. Khi nhận được uỷ nhiệm thu, Ngân hàng bên mua phải trích
tiền từ Tài khoản của bên mua để thanh toán trong vòng một ngày làm việc. Nếu Tài
khoản bên mua không đủ tiền để thanh toán cho bên bán thì bên mua sẽ bị chịu một
khoản tiền phạt.
Sơ đồ luân chuyển chứng từ thanh toán Uỷ nhiệm thu

* Trường hợp bên mua và bên bán mở Tài khoản tiền gửi ở hai Ngân hàng
cùng hệ thống.


(1 )



(6 ) (2) (4 )
(3)

Đơn v

bán

Đơn v

mua

Ngân hàng

Bên bán
Ngân hàng

Bên mua



(5)


(1) Đơn vị bán giao hàng hoá, dịch vụ cho đơn vị mua (2) Đơn vị bán nộp
4 liên Uỷ nhiệm thu cùng hoá đơn thanh toán sang Ngân hàng bên bán.
(3) Ngân hàng bên bán giữ lại 1 liên, gửi 3 liên và hoá đơn sang Ngân hàng
bên mua.
(4) Ngân hàng bên mua sau khi kiểm soát, hạch toán, gửi một liên và hoá
đơn cho đơn vị mua để báo Nợ.
(5) Ngân hàng bên mua gửi 1 liên giấy báo Có liên hàng kê theo 1 liên Uỷ
nhiệm thu cho Ngân hàng bên bán
(6) Ngân hàng bên bán xuất sổ theo dõi Uỷ nhiệm thu, hạch toán và gửi
giấy báo Có cho đơn vị bán.

* Trường hợp hai bên khách hàng có Tài khoản ở hai chi nhánh Ngân
hàng khác hệ thống: Thanh toán xử lý qua mạng thanh toán bù trừ theo quy định
hiện hành.

1.3.2. Thanh toán bằng Uỷ nhiệm chi – Séc chuyển tiền:
1.3.2.1.Thanh toán bằng Uỷ nhiệm chi:
Uỷ nhiệm chi là lệnh của chủ Tài khoản được lập theo mẫu in sẵn của Ngân
hàng, yêu cầu Ngân hàng phục vụ trích tiền từ Tài khoản để chi trả cho người thụ
hưởng.
Uỷ nhiệm chi được sử dụng để thanh toán hàng hoá, dịch vụ huặc chuyển
tiền giữa hai đơn vị tín nhiệm nhau. Phạm vi áp dụng của hình thức này là giữa các
đơn vị có Tài khoản ở cùng một Ngân hàng, huặc ở hai ở hai Ngân hàng khác nhau
trong cùng hệ thống huặc khác tỉnh, cùng tỉnh. Ngân hàng có trách nhiệm xử lý, giải
quyết các Uỷ nhiệm chi của khách hàng nộp vào ngay trong ngày hôm đó.
Sơ đồ luân chuyển chứng từ thanh toán Uỷ nhiệm chi giữa hai Ngân hàng
khác nhau trong cùng một hệ thống:

(1 )


(3a) (2) (4)



(3b)

(1) Bên bán giao hàng hoá, dịch vụ cho đơn vị mua theo hợp đồng đã ký kết.
(2) Đơn vị mua lập 4 liên Uỷ nhiệm chi và Ngân hàng yêu cầu trích Tài
khoản chuyển tiền cho đơn vị bán.
(3. a) Ngân hàng bên mua gửi một liên giấy báo “Nợ” cho đơn vị mua sau

khi hạch toán ghi “Nợ” cho đơn vị mua.
(3. b) Ngân hàng bên mua lập chứng từ thanh toán liên hàng với Ngân hàng
cùng hệ thống để Ngân hàng này ghi “Có” cho bên thụ hưởng.
(4) Ngân hàng bên bán ghi “Có” vào Tài khoản của đơn vị thụ hưởng và báo
“Có" cho người thụ hưởng.
* Trong trường hợp hai đơn vị mua và bán mở Tài khoản ở hai Ngân hàng
khác hệ thống và khác tỉnh, thành phố thì việc chuyển tiền giữa hai Ngân hàng
được thực hiện thông qua NHNN. Trong trường hợp này NHNN đóng vai trò trung
gian thanh toán giữa các Ngân hàng thương mại.

1.3.2.2. Thanh toán bằng Séc chuyển tiền:
Séc chuyển tiền là một hình thức chuyển tiền theo yêu cầu khách hàng trong
đó người đại diện đứng tên trên tờ Séc trực tiếp cầm và chuyển nộp Séc vào Ngân
hàng trả chuyển để lĩnh tiền mặt hay chuyển khoản để chi trả cho người cung cấp
hàng hoá dịch vụ.
Séc chuyển tiền được áp dụng trong một hệ thống Ngân hàng. Thời hạn
hiệu lực tối đa là 30 ngày kể từ ngày phát hành séc.
Đơn v

mua

Đơn vị bán
Ngân hàng

Bên mua
Ngân hàng

Bên bán

Séc chuyển tiền tạo cho khách hàng cảm thấy an tâm khi sử dụng vì trên tờ

Séc chuyển tiền có ký hiệu mật.
Sơ đồ thanh toán Séc chuyển tiền




(1)
(2á) (2b)
(3)


(1) Đơn vị chuyển tiền đến Ngân hàng phục vụ mình làm thủ tục xin được
cấp Séc chuyển tiền.
(2) Người cầm Séc trực tiếp cầm Séc nộp vào Ngân hàng trả chuyển tiền để
được thanh toán.
(3) Ngân hàng trả chuyển tiền sau khi trả Séc xong chuyển “Nợ” lại Ngân
hàng chuyển tiền.
1.3.3. Thanh toán bằng Séc:
Thanh toán bằng Séc là lệnh trả tiền của chủ Tài khoản, được lập trên mẫu in
sẵn do NHNN quy định, yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình trích một số tiền từ Tài
khoản tiền gửi thanh toán của mình để trả cho người thụ hưởng có tên ghi trên Séc
huặc người cầm Séc. Về nguyên tắc Séc chỉ được phát hành trong phạm vi số dư tiền
gửi trên Tài khoản của mình nếu vượt quá số dư sẽ bị phạt một khoản tiền theo quy
định chung.
Thời hạn hiệu lực của tờ Séc là thời hạn tính từ ngày phát hành Séc được quy
định là 15 ngày.
Séc được hạch toán theo nguyên tắc ghi “Nợ” trước, ghi “Có” sau. Các tờ
séc sau khi kiểm tra phải đảm bảo tính hợp lệ, hợp pháp, có đủ tiền trên Tài khoản
thì Ngân hàng phải ghi “Nợ” vào Tài khoản người phát hành séc trước và ghi “Có”
Đơn v



chuyển
ti
ền

Ngư
ời
đ
ại
di
ện

Ngân
hàng
Chy
ển
Ngân
hàng
Tr


vào Tài khoản người thụ hưởng sau, hiện nay thanh toán Séc qua Ngân hàng thông
dụng nhất là hai loại Séc chuyển khoản và Séc bảo chi.
3.3.3.1. Séc chuyển khoản:
Séc chuyển khoản là giấy uỷ nhiệm lập trên mẫu in sẵn của Ngân hàng do
chủ Tài khoản phát hàng giao trực tiếp cho đơn vị thụ hưởng để thanh toán tiền hàng
hoá, dịch vụ ngay sau khi nhận cung ứng.
Phạm vi thanh toán séc chuyển khoản là giữa các Ngân hàng huặc khác chi
nhánh Ngân hàng nhưng các chi nhánh này có tham gia thanh toán bù trừ trên địa

bàn.
Thời gian hiệu lực của thanh toán Séc chuyển khoản là 15 ngày làm việc kể
từ ngày ký phát Séc đến ngày Séc được nộp vào Ngân hàng.
Việc thanh toán Séc chuyển khoản theo nguyên tắc ghi “Nợ” trước, và ghi
“Có” sau. Các chứng từ kèm theo tờ séc để hạch toán là các bảng kê nộp séc. Séc chỉ
được phát hành trong phạm vi số dư Tài khoản tiền gửi, trong trường hợp vượt quá
số dư tiền gửi thì sẽ chịu phạt theo qy định của pháp luật hiện hành.
Sơ đồ luân chuyển chứng từ thanh toán séc chuyển khoản khác ngân
hàng, cùng địa bàn tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp:

(1)


(4) (2’) (6)
(2)

(3)


(5)

(1) Người phát hành séc giao séc cho đơn vị bán.
Ngư
ời phát
hành
(Đơn v
ị mua)

Ngư
ời thụ

hưởng
(Đơn v
ị bán)

Ngân hàng

Thanh toán
Ngân hàng

Thu hộ

(2) Người thụ hưởng (đơn vị bán) nộp séc và bảng kê cho Ngân hàng phục vụ
mình để thanh toán.
(2’) Người thụ hưởng có thể nộp trực tiếp séc vào Ngân hàng thanh toán.
(3) Ngân hàng thu hộ chuyển bảng kê nộp séc và tờ séc sang cho Ngân hàng
thanh toán.
(4) Ngân hàng thanh toán sau khi kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của tờ séc thì
ghi “Nợ” và báo ‘Nợ” cho người phát hành séc.
(5) Ngân hàng thanh toán chuyển bảng kê nộp séc kèm bảng kê thanh toán bù
trừ cho Ngân hàng thu hộ thông qua thanh toán bù trừ.
(6) Ngân hàng thu hộ chuyển giấy báo “Có” cho người thụ hưởng.
1.3.3.2. Séc báo chi:
Séc bảo chi là tờ séc chuyển khoản thông thường nhưng được Ngân hàng
đảm bảo chi trả bằng cách trích trước số tiền ghi trên tờ séc từ Tài khoản của bên trả
tiền đưa vào một Tài khoản riêng (Tài khoản tiền gửi séc bảo chi) được Ngân hàng
làm thủ tục bảo chi và đóng dấu bảo chi séc trước khi giao cho khách hàng.
Séc bảo chi được thanh toán trong phạm vị các đơn vị có Tài khoản ở cùng
một Ngân hàng nhưng trong cùng hệ thống huặc khác hệ thống thì phải cùng địa bàn
tham gia thanh toán bù trừ
Thời hạn hiệu lực của séc bảo chi tối đa là 15 ngày làm việc bảo chi séc,

nhận Được séc bảo chi, sau khi kiểm tra tính hợp lệ Ngân hàng có quyền ghi
“Có”vào Tài khoản của người thụ hưởng. Sau đó mới báo “Nợ” cho Ngân hàng phát
hành để ghi ”Nợ” vào Tài khoản séc bảo chi.
Trường hợp hai Ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ thì được phép ghi
đồng thời “Nợ”, “Có” trong phiên giao dịch.

Sơ đồ luân chuyển chứng từ thanh toán séc bảo chi
* trường hợp thanh toán séc bảo chi khác Ngân hàng nhưng cùng một hệ
thống

(3)

Đơn v

mua

Đơn v

bán

Ngân
hàng
Bên
mua

Ngân
hàng
Bên bán



(1) (2) (4) (5)

(6)


(1) Đơn vị mua đến Ngân hàng phục vụ mình làm thủ tục bảo chi séc.
(2) Ngân hàng làm thủ tục bảo chi séc, giao séc cho đơn vị mua và giấy nợ.
(3) Đơn vị mua giao séc cho đơn vị bán.
(4) Đơn vị bán nộp bảng kê nộp séc và tờ séc vào Ngân hàng bên bán.
(5) Ngân hàng bán hạch toán và báo “Có” cho đơn vị bán.
(6) Ngân hàng bên bán gửi giấy báo “Nợ’ cho ngân hàng bên mua
*Trường hợp thanh toán séc bảo chi khác Ngân hàng, cùng địa bàn tham
gia thanh toán bù trừ:
(3)


(1) (2) (4) (7)
(5.)
(6)



(1), (2), (3), (4): giống trường hợp khác chi nhánh nhưng cùng hệ thống.
(5) Ngân hàng bên bán chuyển bảng kể nộp séc cùng tờ séc để Ngân hàng bên
mua ghi “Nợ” trước.
(6) Ngân hàng bên mua lập bảng kê chứng từ thanh toán bù trừ báo “Có”
gửi tới Ngân hàng bên bán
(7) Ngân hàng bên bán hạch toán và báo “Có” cho đơn vị bán.
1.3.4. Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C):
Đơn v


mua

Đơn v

bán

NH bên
mua

NH bên bán

Thư tín dụng là uỷ nhiệm của Ngân hàng bên mua đối với Ngân hàng bên
bán, để thanh toán cho người bán theo hoá đơn, vận đơn huặc chứng từ giao hàng
có chữ ký người đại diện bên mua.
Thể thức thanh toán bằng thư tín dụng được áp dụng để thanh toán dịch vụ,
tiền hàng trong điều kiện hai bên mua bán chưa thực sự tín nhiệm lẫn nhau, ngưòi
bán đòi hỏi người mua phải có đủ số tiền để trả ngay, phù hợp vói số tiền hàng đã
giao theo hợp đồng.
Thư tín dụng được sử dụng thanh toán giữa hai bên mua bán mở Tài khoản
của hai chi nhánh Ngân hàng khác địa phương cùng hệ thống huặc khác hệ thống,
mức tiền tối thiểu để mở một tín dụng thư là 10 triệu đồng và chỉ dùng để trả cho
một người thụ hưởng, thời hạn hiệu lực tối thiểu là 3 thàng kể từ ngày tín dụng thư
được mở.
Sau khi mở thư tín dụng Ngân hàng bên mua phải gửi thư tín dụng sang cho
bên bán biết . Bên bán có trách nhiệm giao hàng cho bên mua sau khi nhận được
giấy báo mở thư tín dụng, sau khi hoàn thành thủ tục giao hàng cho bên mua, bên
bán làm thủ tục xin được thanh toán thư tín dụng, sau đó Ngân hàng bên bán kiểm
soát nếu hợp lệ sẽ tiến hành thanh toán và báo Nợ cho Ngân hàng bên mua để biết
thanh toán thư tín dụng.

Sơ đồ luân chuyển chứng từ thanh toán L/C

* Trường hợp khách hàng có Tài khoản tại hai Ngân hàng cùng hệ
thống:

(5)



(1) (2) (3) (4) (6) (8)

(7)

Đơn v

mua

Đơn v

bán

NH bên
mua

NH bên
bán


(1) Đơn vị mua lập 05 liên giấy xin mở L/C nộp vào Ngân hàng phục vụ
mình

(2) Ngân hàng bên mua lưu ký tiền, gửi một liên L/C báo nợ cho đơn vị
mua.
(3) Ngân hàng bên mua gửi 03 liên L/C đến Ngân hàng bên bán.
(4) Ngân hàng bên mua sau khi ghi sổ theo dõi L/C, gửi 01 liên cho bên bán
làm căn cứ giao hàng.
(5) Đơn vị bán gioa hàng cho đơn vị mua.
(6) Đơn vị bán lập 04 liên bảng kê hoá đơn chứng từ giao nhận hàng nộp cho
Ngân hàng bên bán để thanh toán.
(7) Ngân hàng bên baná hạch toán, gửi giấy báo “Nợ” cho Ngân hàng bên
mua.
(8) Ngân hàng bên bán gửi giấy báo “Có” cho đơn vị bán.

* Trường hợp thanh toán giữa hai Ngân hàng khác hệ thống: Được thực
hiện qua Tài khoản thu chi hộ với Ngân hàng thương mại khác.
Tóm lại: thanh toán L/C chủ yếu được thực hiện trong hoạt động Xuất nhập
khẩu, vì khi đó bên mua và bên ban hầu như không biết nhau và do đó có thể biết
đượckhả năng Tài chính của nhau. Do vậy thanh toán bằng L/C đối với các doanh
ngiệp trong nước là rất ít và hầu như không được áp dụng mặc dù các đơn vị này
cũng không tín nhiệm lẫn nhau nhưng ít nhiều họ cũng có thể tìm hiểu về nhau, Mặt
khác thủ tục mở L/C là quá phiền phức, trong khi đó lại có rất nhiều thể thức thanh
toán khác hữu dụng hơn mà thủ tục của nó lại đơn gián hơn nhiều mà vẫn đảm bảo
khả năng thanh toán.

1.3.5. Thanh toán bằng Ngân phiếu thanh toán:
Ngân phiếu thanh toán là phương tiện thanh toán không dùng tiên mặt do
Ngân hàng Nhà nước phát hành. Ngân phiếu thanh toán được dùng để chi trả tiền
hàng hoá, dịch vụ, trả nợ nộp ngân sách, nộp NHNN, tổ chức tín dụng.
Ngân phiếu thanh toán có mệnh giá, có thời hạn lưu hành, không ghi tên và
được chuyển nhượng. Đối tượng sử dụng ngân phiếu là các tổ chức kinh tế và cá


nhân. Ngiệp vụ thu chi Ngân phiếu rất nhanh chóng, thuận tiện. Khi khách hàng
không sử dụng Ngân phiếu thanh toán nữa huặc khi Ngân phiếu thanh toán hết thời
hạn sử dụng họ có thể nộp vào Ngân hàng để ghi Có vào Tài khoản tiền gửi của
mình huặc đổi ra Ngân phiếu còn gía trị lưu hành
1.3.6. Thanh toán bằng thẻ thanh toán:
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán hiện đại, nó gắn với công ngệ
tin học ứng dụng. Ngân hàng phát hành thẻ thanh toán và bán cho khách hàng để họ
thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ tại các Ngân hàng đại lý huặc các quầy thanh toán
trả tiền tự động.
Xét về góc độ ngiệp vụ kế toán thì thẻ thanh toán đượec chia làm 3 loại:
* Thẻ ghi nợ: là loại thẻ không phải lưu ký tiền vào Tài khoản riêng ở Ngân
hàng, áp dụng với khách hàng có quan hệ tín dụng, thanh toán thường xuyên, có tín
nhiệm với Ngân hàng và do Ngân hàng phát hành. Đây còn được gọi là thẻ loại A.
* Thẻ ký quỹ thanh toán: áp dụng rộng rãi cho mọi đối tượng khách hàng.
Muốn sử dụng loại thẻ này thì khách hàng phải lưu ký một khoản tiền gửi vào Tài
khoản riêng ở Ngân hàng (số tiền này chính hạn mức thẻ). Khách hàng chỉ được sử
dụng thanh toán trong phạm vi số tiền lưu ký. Thẻ ký quỹ còn được gọi là thẻ loại
B.
* Thẻ tín dụng: Thẻ tín dụng áp dụng cho khách hàng có đủ điều kiện Ngân
hàng đồng ý cho vay. Số tiền vay chính là hạn mức thẻ, khách hàng chỉ được phép
sử dụng trong phạm vi hạn mức cho vay trên thẻ. Ngân hàng phát hành thẻ có trách
nhiệm thanh toán ngay trên số tiền trên biên lai do Ngân hàng đại lý chuyển đến.
Trong phạm vi 10 ngày kể từ ngày viết hoá đơn cung ứng dịch vụ, hàng hoá. Người
tiếp nhận thanh toán bằng thẻ phải nộp lại biên lai vào Ngân hàng đại lý để đòi tiền,
quá thời hạn ghi quy định trên Ngân hàng không thanh toán.
* Hình thức thanh toán bằng thẻ thuận lợi, văn minh, lịch sự. Nhưng vì điều
kiện nước ta hiện nay chưa triển khai rộng khắp cả nước vì người bán hàng đòi hỏi
phải có máy hiện đại đọc thẻ, kiểm tra mật mã và các còn nhiều yếu tố khác như
phải mua thẻ, phải trả phí thanh toán. Chính vì vậy , cần có sự quan tâm đàu tư từng
bước cho phù hợp voi tình hình thực tế từ phía NHNN cũng như các Ngân hàng

thương mại.

1.4. Sơ lược về quá trình phát triển công tác thanh tóan không dùng tiền
mặt tại Việt nam:
1.4.1. Thời kỳ kế hoạt động theo phương thức Kế hoạch hoá tập trung
bao cấp:
Ngày 06/05/1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập Ngân hàn
Quốc gia Việt nam. Ngân hàng ra đánh dấu bước phát triển của cách mạng, đặc biệt
là công tác tiền tệ, tín dụng và thanh toán. Đây là một bước nguặt lớn mang ý nghĩa
lịch sử trong ngành Ngân hàng Việt nam.
Công tác thanh toán không dùng tiền mặt trong thời kỳ bao cấp – Kế hoạch
hoá tập trung cũng chịu ảnh hưởng bối cảnh chung của đất nước lúc bấy giờ, thời
kỳ này thanh toán không dùng tiền mặt là giữa các đơn vị trong phạm vi kinh tế
quốc doanh, kinh tế hợp tác xã, và các đơn vị hành chính sự nghiệp. Hạch toán kế
toán có nhưng chỉ là hình thức , vì chẳng ai cần đến việc chuyển tiền nhanh hay
chậm và có chuyển chậm cũng chẳng sao, nên đã dần đẫn đến chuyện nợ nần dây
dưa, chuyển tiền vòng vo dẫn đến các đơn vị chiếm dụng vốn lẫn nhau. Sự vân
động hàng hoá tách rời sự vận động tiền tệ, phương tiện thanh toán áp dụng của các
nước XHCN một cách thụ động, còn thủ công lạc hậu là nguyên nhân dãn đến Ngân
hàng chưa phát huy đượchết chức năng của mình trong công tác thanh toán không
dùng tiền mặt.
Năm 1985 nền kinh tế Việt nam rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng, tỷ
lệ lạm phát lón. Trong thời kỳ này toàn dân đều thích dùng tiền mặt, không những
dân cư mà ngay trong cơ quan xí nghiệp quốc doanh, các đơn vị bộ đội đều thích
dùng tiền mặt. Do đó dẫn đến tình trạng lúc bấy giờ là thiếu tiền mặt ngiêm trọng.
Trước tình hình kinh tế đất nước đang đứng trên bờ vực thẳm Đảng và Nhà nước ta
đã có giải pháp tích cực đưa nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý Nhà nước.
1.4.2. Thời kỳ Ngân hàng hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
Nhà nước

Năm 1988, cùng với công cuộc đổi mới đất nước. Ngân hàng cũng được coi
là một mũi nhọn trong quá trình đột phá nền kinh tế hoạt động theo cơ chế tập trung
bao cấp. Trong lịch sử bước đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ

mô của Nhà nước, ngành Ngân hàng đã đổi mới toàn diện và sâu sắc trong công tác
thanh toán không dùng tiền mặt, được áp dụng bởi Quyết định số101/QĐ - NH ngày
30/07/1991. Quyết định ban hành các chế độ thể lệ về thanh toán không dùng tiền
mặt với các thể thức sau: Séc, Uỷ nhệm thu, Uỷ nhịêm chi, L/C. Sau một quá trình
thực hiện quyết đinh trên , NHNN nhận thấy bốn thể thức này chưa đáp ứng đủ nhu
cầu đa dạng của nền kinh tế thị trường, cho nên thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã
ký Quyết định số 22/QĐ - NH ngày 21/02/1994 để bổ xung thêm hai thể thức thanh
toán nữa là thanh toán bằng Ngân phiếu và Thẻ thanh toán. Nghị định ngày
09/05/1996 Về quy chế phát hành và sử dụng Séc của chính phủ dần đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế ổn định, giá trị đồng tiền đáp ứng ngày một tăng của nền kinh
tế nước ta. Một đất nước có nền kinh tế phát triển, đảy lùi lạm phát thì 90% doanh số
thanh toán phải là thanh tóan không dùng tiền mặt, có như vậy Ngân hàng mới tận
dụng được nguồn vốn dồi dào từ dân cư để cấp tín dụng cho nền kinh tế nói chung
được tốt, giảm thiểu được tối đa lượng tiền mặt trong lưu thông , tiết kiệm chi phí
lưu thông tiền mặt, đồng thời kiểm soát được đồng tiền đẩy lùi lạm phát,thực hiện
tốt nhiệm vụ tham mưu tích cực cho Chính phủ trong việc điều hành nền Kinh tế
phát triển đẩy mạnh sự nghiệp Công ngiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước. Từ chỗ
trước đây Ngân hàng thanh toán không dùng tiền mặt chỉ phục vụ các doanh ngiệp
quốc doanh, hợp tác xã, các đoàn thể, thì đến nay trong nền kinh tế thị trường, công
tác thanh toán không dùng tiền mặt đã thực sự trở thành Ngân hàng phục vụ các
thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, thể hiện qua thái độ phục vụ, khuyến khích
khách hàng đến với Ngân hàng. Mặc dù công tác thanh toán không dùng tiền mặt
còn nhiều thay đổi về chất lượng, song so với yêu cầu Công nghiệp hoá, Hiện đại
hoá, hiện nay ngành Ngân hàng còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa và công tác thanh
toán không dùng tiền mặt còn phải gắn bó với chính cuộc sống của mỗi đơn vị, mỗi
doanh ngiệp, mỗi người dân trong Xã hội.

Sau một thời gian, cùng với sự nỗ lực tích cực đóng góp cải tiến đối với
công tác thanh toán không dùng tiền mặt của Đảng và Nhà nước. Hoạt động thanh
toán không dùng tiền mặt đã đạt kết quả cao về số lượng và chất lượng cũng như của
các thành phần tham gia đến nay đã rất nhiều. Ngân hàng Việt nam đã trở thàn thành
viên của tổ chức MASTERCART quốc tế như Vietcombank, FirstVinabank,

ABC,…đây là bước tiến quan trọng trong công nghệ Ngân hàng ở Việt nam, góp
phần không nhỏ vào công cuộc đổi mới chung của nền Kinh tế quốc gia, tiến tới
hoà nhập với cộng đồng thế giới.

Chương II
thực trạng công tác Thanh toán không dùng tiền mặt qua Sở giao dịch NHNo
& PTNT VN
2.1. Tình hình Kinh tế - Xã hội và các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà
nước có tác động tới hoạt động Thanh toán không dùng tiền mặt qua Sở giao
dịch NHNo & PTNT VN
Sau đại hội đảng 6 (năm 1986) đã đánh dấu một bước nguặt lớn trong tiến trình
phát triển Kinh tế - Xã hội Việt nam. Chủ trương xoá bỏ nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp, chuyển sang nền Kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nướcđã thực
sự khởi đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta. Từ khi chuyển sang nền
Kinh tế thị trường đến nay, chúng ta đã thực hiện được thành công sự nghiệp phát
triển kinh tế. Lúc này sản suất phát triển, các doanh nghịêp tổ chức Kinh tế - Xã hội
trong và ngoài nước được tự do cạnh tranh, hàng hoá được lưu thông phát triển và
phong phú hơn bao giờ hết
Thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20 vừa khép lại . Đất nước vừa trải qua 10 năm phát
triển với những thành tựu được giới nghiên cứu kinh tế thế giới đánh giá là “tuyệt
vời” về tốc độ tăng trưởng, khả năng tạo việc làm và xoá đói giảm nghèo. Như vậy
là so với thập kỷ 90, sau 10 năm phát triển đầy cam go, quy mô của nền kinh tế đã
tăng gấp 2 lần. Với thành tích như vậy là nhờ vào sự cố gắng và nỗ lực của Đảng và
chính phủ trong việc tạo hành lang pháp lý thông thoáng, cải cách luật Đầu tư, luật

Doanh nghiệp đối với các nhà Đầu tư trong nước và ngoài nước.
Hoạt động Ngân hàng cũng tuân theo quy luật Kinh tế thị trường mà phát triển, sau
một thời gian nghiên cứu, tại kỳ họp thứ hai quốc hội khoá X đã quyết dịnh ban
hành luật Ngân hàng nhà nước VN (Luật số 01/1997/QH 10) và Luật các tổ chức tín
dụng (Luật số 02/1997/QH 10). Luật Ngân hàng ra đời tạo cơ sở pháp lý vững chắc
cho hoạt động Ngân hàng có hiệu quả. Quyết định 101 ra đời phù hợp với thời kỳ
chuyển đổi cơ chế, sau đó Quyết định 22/QĐ/NHNo & PTNT VN ngày 21/02/1994

ban hành thể lệ thanh toán Thanh toán không dùng tiền mặt. Quyết định Thanh toán
không dùng tiền mặt ra đời đã xoá bỏ hàng loạt khó khăn của ngành Ngân hàng và
đối với các đơn vị hoạt động Kinh tế - Xã hội. Hiện nay giao dịch thanh toán qua
Ngân hàng được thực hiện trên 90 % là Thanh toán không dùng tiền mặt, thử hình
dung trong công cuộc Công nghệp hoá - Hiện đại hoá như hiện nay trong thế giới
của sự bùng nổ hàng hoá, tiến trình hội nhập đang diễn ra từng giờ, từng ngày, các
công ty nước ngoài đang muốn tìm kiếm cơ hội lợi nhuận ở Việt nam nếu công tác
Thanh toán không dùng tiền mặt không ưư việt, không nhanh chóng thì chắc chắn
Việt nam không thể có được nền Kinh tế phát triển như hiện nay. Công tác Thanh
toán không dùng tiền mặt ngày một tăng, đây là một dấu hiệu đáng mừng cho hoạt
động Ngân hàng nói riêng và cho hoạt động Kinh tế nói chung, nó như một thứ dầu
nhớt bôi trơn cho toàn bộ hoạt động Kinh tế – Ngân hàng sẽ thu hút được nguồn vốn
nhàn rỗi từ dân cư , giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông,tiết kiệm chi phí lưu
thông tiền mặt. Đồng thời kiểm soát dòng tiền, đẩy lùi lạm phát. Như vậy hơn lúc
nào hết nhu cầu Thanh toán không dùng tiền mặt trong giai đoạn này là thật cần
thiết. Tuy nhiên bên cạnh những đường lối chính sách đổi mới của Đảng và Nhà
nước, thì tác động của tình hình Thanh toán không dùng tiền mặt thế giới và khu vực
là không nhỏ tới công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Trong bối cảnh toàn cầu
hoá nền Kinh tế thế giới hiện nay, các nước đều có xu hướng mở cửa hướng ngoại
thì khủng hoảng kinh tế tại một nước hay một khu vực sẽ có ảnh hưởng nhất định
đến một khu vực hay một quốc gia. Mức độ ảnh hưởng của nền Kinh tế sẽ phụ thuộc
vào các mối quan hệ kinh tế, tiền tệ, Ngân hàng với từng khu vực xảy ra với từng

đặc điểm riêng của khu vực đó. Như vậy ta có thể thấy rằng thực hiện Kinh tế - Xã
hội và các đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ảnh hưởng rất lớn tới công
tác Thanh toán không dùng tiền mặt của các Ngân hàng thương mại Việt nam hiện
nay.

2.2. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch NHNo &
PTNT VN
2.2.1. Một số nét về Sở giao dịch NHNo & PTNT VN:

Sở giao dịch NHNo & PTNT VN được thành lập theo quyết định số
232/QĐ/HĐQT – 02 ngày 13/05/1995 của Chủ tịch HĐQT NHNo & PTNT VN trên
cơ sở tổ chức và sắp xếp lại Sở kinh doanh hối đoái NHNo & PTNT VN .
Sở giao dịch là đơn vị thành viên, hạch toán phụ thuộc đại diện uỷ quyền của
NHNo & PTNT VN, chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi đối với NHNo &
PTNT VN, chịu trách nhiệm cuối cùng về các nghĩa vụ do sự cam kết của Sở giao
dịch trong phạm vi uỷ quyền. Sở giao dịch có tên giao dịch quốc tế là vietnam
bank for aggriculture và có trụ sở chính tại số 2 – Láng hạ - Ba đình - Hà nội.
Sở giao dịch có chức năng trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ theo lệnh của Tổng
giám đốc, là đầu mối thực hiện các nghiệp vụ theo uỷ quyền, trực tiếp kinh doanh
đa năng trên địa bàn Hà nội.
Nhiệm vụ chủ yếu của Sở giao dịch là quản lý vốn nội và ngoại tệ tạm thời nhàn
rỗi của NHNo & PTNT VN, cân đối điều hoà vốn ngoại tệ trong hệ thống, chấp
hành quy chế dự trữ bắt buộc, làm đầu mối thanh toán quốc tế, quản lý Tài khoản
tiền gửi ngoại tệ của các đơn vị thành viên và của Ngân hàng Nông nghiệp tại các
Ngân hàng khác. Sở giao dịch là đầu mối kinh doanh trên thị trường liên Ngân hàng
trong và ngoài nước, phát triển và quản lý hệ thống Ngân hàng đại lý khai thác các
nguồn vốn và nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán bằng đồng nội tệ và ngoại
tệ. Phát hành tiền chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu và thực hiện các hình thức
huy động vốn khác theo quy định tiếp nhận các nguồn vốn Tài trợ uỷ thác của chính
phủ, của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước.

Sở giao dịch thực hiện quan hệ đại lý thanh toán và dịch vụ Ngân hàng đối với các
Ngân hàng nước ngoài, đầu tư hùn vốn liên doanh mua cổ phần và các hình thức đầu
tư khác, trực tiếp thử nghiệm thử nghiệm các dịch vụ sản phẩm mới trong hoạt động
kinh doanh, thực hiện kiểm tra kiểm soát nội bộ.
Sở giao dịch thực hiện huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đồng thời cho
vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng nội và ngoại tệ. Thực hiện các nghiệp vụ
dịch vụ Ngân hàng như, dịch vụ ngân quỹ thẻ thanh toán, dịch vụ Ngân hàng, cất
giữ các loại giấy tờ có giá trị bằng tiền, két sắt, thanh toán quốc tế, bảo lãnh, tái bảo
lãnh, chiết khấu, tái chiết khấu.Sau đây là mô hình tổ chức bộ máy của Sở giao dịch
NHNo & PTNT VN .

cơ cấu tổ chức bộ máy của sở giao dịch:
Theo quy chế tổ chức và hoạt động của Sở, Giám đốc là người điều hành trực tiếp
mọi hoạt động của Sở giao dịch
+Giám đốc được sự giúp đỡ của 3 Phó giám đốc (1 Phó giám đốc thường trực)
+Dưới ban giám đốc có 7 phòng chức năng: Phòng Kinh Doanh ngoại tệ, Phòng
Kinh Doanh, Phòng Thanh Toán quốc tế, Phòng SWIFT, Phòng Kiểm tra-Kiểm
toán, Phòng Hành Chính- Nhân sự, Phòng Kế toán - Ngân quỹ.



Sơ đồ cơ cấu tổ chức sở giao dịch














2.2.2.Tình hình hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch NHNo & PTNT VN
trong thời gian qua:
Tình hình kinh tế đất nước năm 2000 đã có những chuyển biến tích cực so với
năm 1999, tỷ lệ tăng trưởng GDP đạt 6.7%, sản lượng lương thực đạt 35.7 vạn tấn,
thuỷ sản tăng 7.6%, sản xuất công ngiệp tăng 15.7%, đạt tỷ lệ tăng trưởng cao nhất
từ năm 1996 tới nay. Hoạt động thương mại dịch vụ có nhiều khởi sắc, trong lĩnh
vực ngân hàng, tình trạng ứ đọng vốn đã được giải toả, dư nợ tăng trưởng 25%, gấp
giám đốc
Phạm văn quyến
PHó GIáM Đốc
Hà đan huấn

Phó giám đốc
Lê thanh hằng

Phó giám đốc
Vũ thanh phương
Phòng
Kinh
Doanh
NgoạI
Tệ
Phòng
Kinh
doanh

Phòng
Thanh
Toán
Quốc
Tế
Phòng
Swift
Phòng
Kiểm tra
Kiểm
Toán
Nội bộ

Phòng
Kế toán
Ngân
quỹ
Phòng
Hành
Chính
Nhân sự

2 lần so với mức tăng trưởng của năm 1999. Huy động vốn tăng 29%. Nhiều chính
sách mới được ban hành đã tạo khung pháp lý thuận lợi cho hoạt động ngân hàng.
Hoạt động của NHNo tăng trưởng ổn định vững chắc, nguồn vốn tăng trưởng
41%, dư nợ tăng 36%, chất lượng tín dụng được nâng cao, lợi nhuận tăng so với
năm 1999.Thuận lợi đối với Sở giao dịch là thường xuyên nhận được sự quan tâm
chỉ đạo của Hội Đồng Quản Trị, Ban điều hành và các ban ngiệp vụ tại Trung Tâm
điều hành. Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế hiện nay. Năm 2000
thiên tai dồn dập diễn ra ở nhiều nơi trong cả nước, đã gây nhiều thiệt hại về người

và Tài sản, gây khó khăn đối với sản xuất nông ngiệp. Gía một số mặt hàng nông
sản như: gạo, càphê, cao su, trên thị trường vẫn tiếp tục giảm và ở mức thấp so với
năm trước, đã ảnh hưởng tới xuất khẩu của Việt nam. Sức ép cạnh tranh trong lĩnh
vực Ngân hàng trên địa bàn Hà nội ngày càng gia tăng nên gặp nhiều khó khăn trong
công tác tiếp thị, mở rộng hoạt động, tuy nhiên hoạt động Thanh toán không dùng
tiền mặt của Sở giao dịch vẫn đạt chỉ tiêu > 90 %. Sau đây là những kết quả cụ thể
hoạt động kinh doanh năm 2000.
2.2.2.1.Công tác nguồn vốn:
- Năm 2000 hoạt động huy dộng vốn đạt được bước phát triển khá tốt, tốc độ tăng
82%, cơ cấu nguồn vốn thay đổi theo hướng có lợi cho hoạt động SXKD. Theo bảng
phân tích cơ cấu nguồn vốn chúng ta có thể thấy được như sau:
- Nguồn vốn không kỳ hạn đạt tốc độ tăng cao nhất 197%, nâng tỷ trọng từ 14%
năm 99 đến 23% năm 2000 . Nguồn vốn không kỳ hạn tăng nhanh chủ yếu từ các tổ
chức tín dụng, các dự án trường học. Nguồn vốn từ dân cư chậm chủ yếu từ nguồn
vốn thanh toán của khách hàng mở Tài khoản ATM.
Nguồn vốn có kỳ hạn > 12 tháng, tốc độ tăng 143% và chiếm 37 % trong tổng
nguỳn vốn. Nguồn vốn này luôn giữ một vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn bởi
sự tăng trưởng nhanh và ổn định. Năm 2000 lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng bằng
USD luôn ở mức cao, trong khi lãi suất nội tệ giảm xuống, thêm vào đó tỷ giá có xu
hướng tăng thường xuyên do vậy mà tiền gửi tiết kiệm 12 tháng bằng USD tăng rất
nhanh trong khi các nguồn tiền gửi tiết kiệm khác chỉ tăng ở mức 30 %, còn nguồn
tiền gửi 12 tháng tăng 68 %

Điều này đặt ra một định hướng cho việc phát triển nguồn vốn năm 2001.Tóm lại
qua bảng 2 có thể đánh giá khái quát hoạt động nguồn vốn năm 2000 đã có bước đi
vững chắc. Các loại nguồn vốn đều tăng về số tuyệt đối, tỷ trọng về nguồn không
kỳ hạn và nguồn tiền gửi > 12 tháng tăng, tỷ trọng nguồn không kỳ hạn và nguồn có
kỳ hạn giảm nhưng ở mức hợp lý. Riêng tiền gửi dưới 12 tháng giảm về tỷ trọng là
một yếu tố cần xem xét, nhất là trong giai đoạn hiện nay lãi suất luôn thay đổi, nếu
huy động tiền gửi ngắn hạn sẽ hạn chế được rủi ro.

Tổng nguồn vốn được sử dụng cuối năm 2000 đạt khoảng 1500 tỷ, sử dụng vào
đầu tư tín dụng là 230 tỷ, phần còn lại điều về trung tâm điều hành. Đây là một lợi
thế rất lớn về mặt Tài chính bởi đầu tư tín dụng lãi suất thấp, rủi ro, còn gửi vốn
TTĐH, phí cao không rủi ro.
Sau đây là bảng phân tích tình hình huy động vốn tại Sở giao dịch:
2.2.2.2.Công tác cho vay:
Tổng dư nợ đến 31/12/2000 ở mức 236 tỷ, tăng so với 1/1/2000 là 14%, dư nợ cho
vay thông thường là 228 tỷ chiếm 97% tổng dư nợ, cho vay chỉ định là 8 tỷ chiếm
3%. Thực chất đây là khoản chuyển vốn từ vay thông thường sang chỉ định.
Cho vay ngắn hạn 120 tỷ chiếm 55%, tổng dư nợ cho vay trung dài hạn 100 tỷ
chiếm 45% tỷ lệ trên phù hợp định hướng chung của NHNo VN đồng thời cũng là
phù hợp với đặc thù hoạt động kinh doanh của Sở chủ yếu vẫn là kinh doanh nhỏ,
vốn lưu động là chủ yếu. Vốn tín dụng tập trung chủ yếu ở một số công ty quốc
doanh, Cty TNHH gắn với hoạt động mua bán ngoại tệ, mở L/C nhập khẩu.
-Nợ quá hạn đầu năm 2000 là 39,7 tỷ trong đó nợ khó đòi là 20,8 tỷ chiếm 52%,
chủ yếu là nợ ngắn hạn bằng ngoại tệ. Nợ quá hạn từ 180 ngày đến 360 ngày là 8,3
tỷ chiếm 21 %, còn lại là 10,6 tỷ nợ quá hạn dưới 180 tỷ bằng 27 %. Với một tỷ lệ
nợ quá hạn và cơe cấu nợ quá hạn như vậy có thể đánh giá tín dụng đầu năm là rất
yếu. Sau đây là bảng phân tích cơ cấu dư nợ
2.2.2.3 Kế toán ngân quỹ:
- Đến 31/12/2000 Sở giao dịch quản lý 982 Tài khoản cuả khách hàng. Trong đó có
187 Tài khoản của đơn vị kinh tế và 795 Tài khoản của cá nhân, số dư tiền gửi luôn
duy trì ở mức 50 tỷ đồng và trên 7 triệu USD. Thực hiện dịch vụ rút tiền tự động, Sở
giao dịch và phát hành 488 thẻ ATM,số dư 1.6 tỷ đồng

×