Tải bản đầy đủ (.pdf) (238 trang)

7 Chuyên Đề, Ôn thi Chuyên viên chính năm 2013 - Phần Kiến Thức Chung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.06 MB, 238 trang )



Mục Lục
1- NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC, BỘ MÁY CỦA
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY (2-17)

2- MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN VÀ CÔNG TÁC
XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI (18-46)

3- XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN (47-81)

4- A:CHẾ ĐỘ CÔNG VỤ VÀ QUẢN LÝ CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC ( 82 -126)

B: NỀN HÀNH CHÍNH VÀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC (127 -155)

5- MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG CÁC VĂN KIỆN
ĐẠI HỘI XI (155-186)

6- ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA
MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VÀ CÁC ĐOÀN THỂ
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI (186-215)

7- TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THẾ CHẾ KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (216-238)





NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC, BỘ MÁY
CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

(Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch chuyên viên cao cấp khối Đảng, đoàn thể năm
2011)




I. CÁC TỔ CHỨC CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA

Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là một chỉnh thể thống nhất, gắn bó
hữu cơ bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ
chức cơ bản. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước
và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính
sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động tổ
chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những
đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan
lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng

viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách
nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.

Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ thống
ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân
dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

2. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc
về nhân dân ta mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước
ban hành pháp luật, tổ chức quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.


Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện
quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu
sự giám sát của nhân dân… Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo
nguyên tắc tập trung, dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.

3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và cá
nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo,

người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ
phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng
Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận
hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành
động giữa các thành viên.

Các đoàn thể nhân dân tuỳ theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã xác
định, vừa vận động đoàn viên, hội viên giúp nhau chăm lo, bảo vệ các lợi ích
thiết thực, vừa giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt cho đoàn viên, hội viên, vừa
tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội .

Tổ chức của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân (nòng cốt là
Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội
Nông dân), các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội khác tuỳ theo tính chất,
đặc điểm mà có quy mô tổ chức phù hợp.

Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã -
hội, tổ chức xã hội thông qua tổ chức của Đảng được lập trong cơ quan Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể (Ban cán sự đảng, đảng đoàn); thông qua đội ngũ
cấp uỷ viên và đảng viên công tác trong các cơ quan Nhà nước, Mặt trận và
đoàn thể; lãnh đạo bằng nghị quyết của Đảng, bằng công tác tổ chức cán bộ,
công tác kiểm tra, giám sát Đảng lãnh đạo lực lượng vũ trang tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt và lãnh đạo trực tiếp Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.

II. TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NƯỚC TA

1. Hệ thống tổ chức đảng

Điều lệ Đảng quy định:Hệ thống tổ chức của Đảng được thành lập tương
ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước.



Hệ thống tổ chức Đảng thành lập theo cấp hành chính lãnh thổ là hệ thống
cơ bản, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở mỗi cấp và của toàn Đảng.
Việc lập tổ chức đảng ở những nơi có đặc điểm riêng theo quy định của Ban
Chấp hành Trung ương.

Hệ thống tổ chức của Đảng, các cơ quan tham mưu giúp việc của cấp uỷ
các cấp từng bước được sắp xếp, kiện toàn hợp lý và hiệu quả hơn sau khi thực
hiện Nghị quyết Trung ương ba, Trung ương bảy (khoá VIII) và Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Hội nghị lần thứ 4, lần thứ 5, Ban chấp hành
Trung ương khoá X đã tiến hành kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng theo
hướng tinh gọn hơn, tập trung hơn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.

Tình hình hệ thống tổ chức của Đảng Cộng sản Việt nam hiện nay :

- Hệ thống tổ chức đảng bộ, chi bộ (từ cấp Trung ương, cấp tỉnh, huyện,
cơ sở, chi bộ);

- Cơ quan lãnh đạo của Đảng các cấp (đại hội, cấp uỷ);

- Cơ quan tham mưu giúp việc cấp uỷ (các ban đảng, đơn vị sự nghiệp của
Đảng);

- Tổ chức đảng được lập trong các cơ quan nhà nước và đoàn thể chính trị
xã hội (ban cán sự đảng, đảng đoàn).

1.1. Hệ thống tổ chức đảng bộ, chi bộ

- 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương , gồm :


+ 63 Đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (theo cấp hành chính
lãnh thổ, có chính quyền cùng cấp).

+ 04 Đảng bộ khác trực thuộc Trung ương là Đảng bộ khối cơ quan Trung
ương, Đảng bộ khối Doanh nghiệp TW (không có chính quyền cùng cấp); Đảng
bộ Quân đội, Đảng bộ Công an Trung ương (có chính quyền cùng cấp).

Trước năm 2006 có 75 đầu mối, sau khi thực hiện NQTW 4 khoá X giảm
được 08 đầu mối.

- Các đảng bộ, chi bộ trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ khối Trung
ương, Đảng uỷ Quân sự, Đảng uỷ Công an Trung ương:

+ Đảng bộ huyện, quận, thị, thành phố trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ (theo
hành chính lãnh thổ).

+ Đảng bộ cấp trên trực tiếp của cơ sở (tương đương cấp huyện) trực
thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương.


+ Một số tổ chức cơ sở đảng có vị trí quan trọng, đông đảng viên, nhiều tổ
chức đảng trực thuộc, được giao một số quyền của cấp trên cơ sở.

+ Một số đảng bộ cơ sở có vị trí quan trọng.

- Các tổ chức cơ sở đảng trực thuộc cấp uỷ cấp trên trực tiếp của cơ sở
gồm : các đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp,
đơn vị sự nghiệp, lực lượng vũ trang .v.v.


Trực thuộc đảng uỷ cơ sở có các đảng bộ bộ phận (nơi có đông đảng
viên); chi bộ trực thuộc; tổ đảng (ở nơi thành lập chi bộ cơ sở). Đây không phải
là một cấp.

1.2. Đại hội và hệ thống cấp uỷ

Điều lệ Đảng quy định : Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội
đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội
đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành
Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, ban chấp hành chi bộ (gọi tắt
là cấp uỷ).

Nhiệm kỳ đại hội của tổ chức cơ sở đảng trở lên là 5 năm/1 lần. Nhiệm kỳ
của chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở là 5 năm /2 lần.

Gắn với hệ thống tổ chức đảng là hệ thống cấp uỷ đảng các cấp. Cấp uỷ
các cấp là cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, chấp hành giữa hai kỳ đại hội
đảng bộ các cấp.

Số lượng Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương do Đại hội Đảng toàn quốc
quyết định, số lượng cấp uỷ viên mỗi cấp do đại hội cấp đó quyết định trên cơ sở
hướng dẫn của Trung ương. Hệ thống cấp uỷ đảng do đại hội các cấp bầu,
trường hợp thật đặc biệt do cấp uỷ cấp trên trực tiếp chỉ định.
1.3. Ban cán sự đảng, đảng đoàn

Thực hiện theo Điều 42, Điều 43 Điều lệ Đảng. Ban Cán sự đảng được
lập ở một số cơ quan hành pháp, tư pháp cấp Trung ương, cấp tỉnh. Đảng đoàn
được lập ở một số cơ quan lãnh đạo Nhà nước (do bầu cử) và một số tổ chức
chính trị - xã hội cấp Trung ương, cấp tỉnh.


1.4. Hệ thống cơ quan tham mưu giúp việc, đơn vị sự nghiệp của cấp uỷ

Theo quy định của Điều lệ Đảng “Cấp uỷ mỗi cấp lập các cơ quan tham
mưu giúp việc theo hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương”.


Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và khi thực hiện nghị quyết
Trung ương 7 (khoá VIII) và NQTW 4 khoá X vừa qua, hệ thống cơ quan tham
mưu giúp việc được tổ chức lại gọn hơn, đến nay đầu mối tổ chức các ban và cơ
quan Đảng đã được tinh giản đáng kể so với thời kỳ trước đổi mới. Ở cấp Trung
ương, từ 24 đầu mối (16 ban, văn phòng và 8 đơn vị sự nghiệp), nay còn 6 ban
(Ban Tổ chức TW, Ban Tuyên giáo TW, Ban Dân vận TW, Uỷ ban Kiểm tra
TW, Ban Đối ngoại TW, Văn phòng TW) và 4 đơn vị sự nghiệp (Báo Nhân dân,
Tạp chí Cộng sản, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hôc Chí Minh). Ở cấp tỉnh từ 12 - 15 đầu mối nay còn 7 đầu mối
(5 ban và 2 đơn vị sự nghiệp). Ở cấp huyện còn từ 5 - 6 đầu mối (5 ban và trung
tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện).

2. Tổ chức nhà nước

Tổ chức bộ máy Nhà nước bao gồm : Quốc hội (cơ quan lập pháp) và hội
đồng nhân dân các cấp; Chủ tịch nước (là nguyên thủ quốc gia, Chủ tịch Hội đồng
Quốc phòng an ninh và thực thi các nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp);
Chính phủ và uỷ ban nhân dân các cấp (cơ quan hành chính nhà nước), Viện
Kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân, cơ quan điều tra các cấp (cơ quan tư pháp).

2.1. Tổ chức của Quốc hội

Quốc hội do dân bầu, thực hiện nhiệm kỳ đại biểu 5 năm. Quốc hội lập ra
các Uỷ ban, các Ban có bộ phận chuyên trách ở Trung ương; ở địa phương có

các đoàn đại biểu, chuyên trách địa phương.

Quốc hội có sự đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, tăng
cường việc xây dựng và ban hành các bộ luật, luật, pháp lệnh, thể chế hoá đường
lối, chủ trương của Đảng, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp, quan hệ phối
hợp giữa Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội với Chủ tịch nước, Chính phủ,
Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, hình thành cơ chế tiếp xúc giữa đại biểu Quốc hội với cử tri, dân chủ trong
sinh hoạt Quốc hội, tăng cường chất vấn công khai tại Quốc hội, bảo đảm vai trò
lãnh đạo của Đảng thông qua Đảng đoàn Quốc hội.

2.2. Chủ tịch nước

Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước là đại biểu Quốc
hội, do Quốc hội bầu; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Chủ
tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình
(theo Chương VII, Hiến pháp 1992) và tổ chức bộ máy chuyên trách giúp việc
theo quy định của pháp luật.


2.3. Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước

Tổ chức bộ máy của Chính phủ, cơ quan hành chính nhà nước đã tinh
giản hơn so với năm 1986. Ở cấp Trung ương, trước 1/8/2007 tổng số đầu mối
các cơ quan thuộc Chính phủ đã giảm từ 76 xuống còn 38 (26 bộ, cơ quan ngang
bộ và 12 cơ quan thuộc chính phủ), hiện nay còn 22 đầu mối (gồm 18 bộ, 4 cơ
quan ngang bộ). Ở cấp tỉnh từ 35 - 40 đầu mối nay còn 17 – 25 đầu mối cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân. Ở cấp huyện từ 20 - 25 đầu mối, nay
còn 8 - 12 đầu mối cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân.


Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khoá
X, cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính phủ được sắp xếp cho phù hợp yêu cầu,
nhiệm vụ mới, tinh gọn hơn, tổng hợp hơn. Chính phủ, cơ quan hành chính nhà
nước đã có sự đổi mới về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, bộ máy gắn với
quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, làm rõ hơn chức năng quản lý vĩ mô
của Chính phủ và các Bộ; phân biệt rõ hơn quản lý hành chính nhà nước với
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ đã tiến
hành cải cách thể chế, tập trung cải cách thủ tục hành chính, nhất là trong lĩnh
vực liên quan đến sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân.

2.4. Các cơ quan tư pháp

Hệ thống tổ chức của toà án bao gồm: Toà án nhân dân tối cao, các toà án
nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương, các toà án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; các toà án quân sự; các toà án khác do
luật định. Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định hình thành toà án
đặc biệt.

Hệ thống tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân bao gồm: Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, các viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; các viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các
viện kiểm sát quân sự.

Hệ thống các toà án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án
đã được kiện toàn và đổi mới một bước về tổ chức và hoạt động, về phối hợp
đấu tranh phòng chống tội phạm, giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân
gia đình, lao động và các vụ án khác, góp phần giữ vững ổn định chính trị và trật
tự an toàn xã hội.


3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân

Các tổ chức bao gồm Công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân được tổ chức từ Trung
ương đến cơ sở cùng với các tổ chức quần chúng khác đã từng bước đổi mới về


nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục một bước tình trạng hành chính
hoá, coi trọng nhiệm vụ tập hợp và giáo dục vận động đoàn viên, hội viên và
nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần xây dựng Đảng,
chính quyền, đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất xoá đói giảm
nghèo, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Những ưu điểm nổi bật trong việc đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của
hệ thống chính trị ở nước ta sau 4 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, 5
khoá X (Thông báo kết luận số 39- TB/TW ngày 14/6/2011 của Bộ Chính trị) là:

- Từng bước sắp xếp, kiện toàn hợp lý hơn tổ chức, bộ máy cơ quan Đảng,
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội theo hướng tinh
gọn. Số lượng đầu mối các bộ, ban, ngành giảm.

- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức lãnh đạo, mối quan hệ, lề
lối làm việc của cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã
hội được quy định cụ thể hơn, điều chỉnh, bổ sung hợp lý, phân định rõ ràng hơn
theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Về cơ bản,
chức năng, nhiệm vụ của các ban đảng ở Trung ương, nhất là các ban có sự sắp
xếp, kiện toàn đã phù hợp với cơ cấu tổ chức mới, không trùng lắp, chồng chéo.
Chức năng, nhiệm vụ các bộ, cơ quan ngang bộ tiếp tục được hoàn thiện, khắc
phục cơ bản sự trùng dẫm, các bộ được tổ chức theo mô hình quản lý đa ngành,
đa lĩnh vực đã hoạt động ổn định, cơ chế phối hợp tốt hơn, hiệu lực, hiệu quả

được nâng lên, phân biệt rõ hơn chức năng quản lý nhà nước với chức năng
quản lý sản xuất kinh doanh, tách dần hoạt động hành chính với hoạt động của
các đơn vị kinh tế, sự nghiệp và dịch vụ công.

- Tổ chức đảng đoàn, ban cán sự đảng đã được xác định rõ hơn về chức
năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động.

- Chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nhìn chung được nâng lên một
bước về trình độ lý luận chính trị, học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ. Đa số cán
bộ, công chức giữ gìn phẩm chất chính trị và đạo đức, lối sống, trung thành với
sự nghiệp cách mạng của Đảng, thích ứng dần với cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Những tiến bộ đó đã góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của
các cấp uỷ đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; đổi mới hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội.

Những khuyết điểm, tồn tại chủ yếu:

- Tổ chức của một số cơ quan đảng, nhà nước và đoàn thể chính trị - xã
hội chưa thực sự tinh gọn, hiệu quả. Việc thành lập các tổng cục, cục thuộc tổng


cục nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý sâu chuyên ngành, nhưng chức năng, nhiệm
vụ, cơ chế phối hợp, quy chế làm việc chưa đủ rõ nên hiệu lực, hiệu quả hoạt
động chưa cao; nhiều cơ quan tăng số lượng lãnh đạo cấp phó, kể cả nơi không
hợp nhất tổ chức; chức năng đại diện chủ sở hữu còn trùng lặp, chưa rõ trách
nhiệm; cải cách hành chính có tiến bộ nhất định, nhưng nhìn chung chưa đáp
ứng được yêu cầu; cải cách tư pháp chậm, chưa đồng bộ.


- Việc thực hiện chức năng tham mưu và thẩm định về kinh tế - xã hội,
nội chính ở Trung ương và địa phương có phần còn bất cập; việc quản lý, kiểm
tra, giám sát trên một số lĩnh vực kinh tế, xã hội còn lỏng lẻo, thậm chí còn
không nắm chắc tình hình; những khó khăn, vướng mắc chậm được tháo gỡ.

- Nội dung và phương thức lãnh đạo của cấp uỷ và tổ chức đảng đổi mới
chậm. Nhiều cấp uỷ địa phương và cơ sở vẫn còn tình trạng bao biện, làm thay,
hoặc có mặt lại buông lỏng vai trò lãnh đạo. Tổ chức thực hiện và kiểm tra,
thanh tra, giám sát vẫn là khâu yếu; tình trạng ra nhiều nghị quyết, nhiều văn
bản lãnh đạo, chỉ đạo nhưng việc cụ thể hoá thường chậm, còn tình trạng chấp
hành không nghiêm. Hệ thống thể chế, quy định, quy chế tuy được rà soát, bổ
sung nhưng vẫn còn những chồng chéo. Mô hình tổ chức bộ máy, hệ thống luật
pháp chưa phân định thất rõ chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn, chưa
phản ánh hết đặc điểm của chính quyền đô thị, nhất là các đô thị lớn, kinh tế-
văn hoá- xã hội phát triển nhanh. Việc xác định chức năng tự chủ, tự chịu trách
nhiệm trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và chức năng quản lý nhà
nước,quản lý của chủ sở hữu của các bộ, các địa phương còn nhận thức khác
nhau, có nhiều sơ hở, hiệu quả thấp.

- Tổ chức, bộ máy của Mặt trận và các đoàn thể còn tình trạng nhà nước
hoá về tổ chức và kinh phí, hành chính hoá về phương thức hoạt động, cán bộ
đoàn thể làm việc gần như công chức nhà nước, khiến cho công tác của các đoàn
thể thiếu sự gắn bó mật thiết với quần chúng. Chưa có tiêu chí rõ ràng để phân
định các loại hình tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội… bên cạnh một số hình thức tổ chức tự quản của quần chúng, nhiều hội có
tính chất nghề nghiệp và từ thiện cũng yêu cầu Nhà nước chi trả sinh hoạt phí,
cấp kinh phí và phương tiện hoạt động.

- Mục tiêu tinh giản biên chế chưa đạt yêu cầu, từ sau Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX đến nay, biên chế khối đảng và đoàn thể, hành chính, sự nghiệp

Nhà nước và khối đảng, đoàn thể vẫn có xu hướng tăng lên nhưng chất lượng
cán bộ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Đội ngũ cán bộ vừa thừa vừa thiếu. Đào


tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tăng về số lượng, nhưng chất lượng còn nhiều
hạn chế, nhất là đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh của cán bộ, công chức. Cơ
cấu và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức còn bất cập. Một bộ phận cán bộ,
công chức yếu kém về tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ nhân dân.

III. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI, KIỆN TOÀN TỔ CHỨC, BỘ
MÁY CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

Ngày nay, khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, yêu cầu khách quan là phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, kiện toàn tổ
chức, bộ máy của hệ thống chính trị ở nước ta cho phù hợp và đồng bộ với cơ
chế quản lý kinh tế - xã hội mới, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

Trước hết, yêu cầu xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN phải có một hệ thống chính trị phù hợp : Đổi mới tổ chức bộ máy
của hệ thống chính trị ở nước ta phải nhằm phục vụ có hiệu quả sự lãnh đạo, chỉ
đạo, quản lý và điều hành thông suốt nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa, thúc đẩy phát triển văn hoá – xã hội, an ninh – quốc phòng. Mục tiêu
là trong thập kỷ tới đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Thứ hai, đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nhằm khắc phục
cho được những yếu kém tồn tại mà Đảng ta đã chỉ ra là tổ chức bộ máy còn

cồng kềnh, nhiều đầu mối với nhiều tầng nấc trung gian, chất lượng, hiệu quả
thấp, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm của nhiều cơ quan và
người đứng đầu chưa thật rõ, cơ chế vận hành và nhiều mối quan hệ còn bất hợp
lý, đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế cả về năng lực chuyên môn và tinh
thần trách nhiệm Tệ quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng không giảm, có
mặt còn rất nghiêm trọng; trật tự kỷ cương bị vi phạm.

Thứ ba, các thế lực phản động và thù địch tiếp tục thực hiện những âm
mưu và thủ đoạn thâm độc chống phá nước ta, đặc biệt là âm mưu “diễn biến
hoà bình”, “bạo loạn lật đổ” nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng. Vì vậy đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nhằm khắc
phục tình trạng trì trệ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức đảng,
bộ máy Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội; ngăn chặn những tư tưởng và
hành động sai trái, tiêu cực; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động
chống phá của các thế lực thù địch.


IV. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, NGUYÊN TẮC CƠ BẢN KIỆN TOÀN
TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NƯỚC TA

1. Quan điểm

- Việc đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải phù hợp với đặc điểm của
hệ thống chính trị nước ta vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ” do một Đảng duy nhất lãnh đạo; phù hợp với đặc điểm
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế
và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, giữ vững và tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng.

- Kiện toàn tổ chức bộ máy phải bảo đảm các cơ quan trong hệ thống

chính trị hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, tinh gọn, khắc phục tình trạng quan
liêu, trùng lặp, chống chéo về chức năng, nhiệm vụ hoặc tổ chức không phù hợp
với chức năng, nhiệm vụ. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của
mỗi tổ chức, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị.

- Kiện toàn tổ chức bộ máy phải bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, bảo đảm
sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị nước ta; vừa xây dựng các cơ
quan của Đảng vững mạnh, đủ sức thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, vừa phát
huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan
nhà nước, Mặt trận tổ quốc, đoàn thể chính trị xã hội.

- Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải vừa kế thừa những thành quả
và kinh nghiệm đã đạt được, vừa đáp ứng yêu cầu của tiến trình đổi mới đất
nước, hội nhập kinh tế quốc tế.

2. Mục tiêu

Kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị phải thực hiện được
mục tiêu tổng quát là:

“Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, bản chất cách mạng
của Nhà nước ta, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong
hệ thống chính trị, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh
sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tăng cường tiềm lực
quốc gia, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân”.

Mục tiêu, yêu cầu cụ thể là phải từng bước nâng cao chất lượng chính
trị và hiệu quả hoạt động của mỗi tổ chức cũng như toàn hệ thống chính trị; xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy, cơ chế vận hành, lề lối làm việc;

nâng cao chất lượng cán bộ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương; cụ thể hoá nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng; nội dung và phương thức quản lý của Nhà
nước; nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị
- xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.


3. Nguyên tắc cơ bản kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
ở nước ta

Một là, việc đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống
chính trị phải xuất phát từ đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng trong thời kỳ
mới, phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, thúc đẩy việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể.

Hai là, đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị là một
nhiệm vụ lớn, nặng nề và phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Vì
vậy, phải tiến hành vừa kiên quyết, vừa thận trọng, có bước đi thích hợp, phải
bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Đảng và sự quản lý điều
hành của Nhà nước. Phải bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong đổi mới,
kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đồng thời bảo đảm cho tổ chức
bộ máy của hệ thống chính trị vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Ba là, kiện toàn hệ thống tổ chức đảng gắn với cải cách, đổi mới tổ chức
bộ máy của các cơ quan nhà nước và đoàn thể chính trị - xã hội.

Tổ chức bộ máy của Đảng phải phù hợp với điều kiện của một đảng cầm
quyền, giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội; tổ chức bộ máy chuyên trách
phải tinh gọn, có chất lượng. Phát huy vai trò của các tổ chức đảng và đội ngũ
đảng viên, các cấp uỷ viên và cán bộ chủ chốt hoạt động trong các cơ quan nhà

nước và các đoàn thể vừa là hạt nhân lãnh đạo chính trị của các tổ chức đó, vừa
làm tham mưu cho Đảng về chủ trương, chính sách đối với những lĩnh vực có liên
quan. Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng theo chức danh, tiêu chuẩn quy định.

- Đổi mới, kiện toàn bộ máy của Nhà nước phải bảo đảm tiến tới xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân, là
công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm được
nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

- Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động
của Quốc hội để thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước, quyết định và phân bổ ngân sách nhà nước, thực hiện quyền
giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.

- Điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ
theo hướng thống nhất quản lý vĩ mô việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong cả nước bằng hệ
thống pháp luật, chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ.


- Cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư
pháp để thực hiện tốt chức năng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, không để
xảy ra oan sai.

- Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội phải bảo đảm từng bước
khắc phục tình trạng hành chính hoá, phô trương, hình thức, quan liêu, xa dân;
phát huy tốt vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, góp phần xây
dựng Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân

phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Bốn là, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy
của hệ thống chính trị phải kết hợp chặt chẽ cả ba mặt: Coi trọng công tác giáo
dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên;

- Có chế độ, chính sách đúng đắn, hợp lý và đồng bộ để bảo đảm thực
hiện tốt chủ trương của Đảng về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị, tinh giản biên chế, không gây xáo trộn và ảnh hưởng lớn tới tư tưởng
và đời sống của cán bộ, công chức.

- Đề cao kỷ cương, kỷ luật, chấp hành nghiêm túc chủ trương, nghị quyết
của Đảng về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Có chính
sách động viên khen thưởng những nơi tổ chức thực hiện tốt, phê bình xử lý
nghiêm túc những nơi không chấp hành hoặc hiệu quả tổ chức thực hiện kém.


V. GIẢI PHÁP CƠ BẢN KIỆN TOÀN TỔ CHỨC CỦA HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA

Văn kiện Đại hội XI nêu yêu cầu tổng quát :

“ Tiếp tục xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức của các tổ
chức trong hệ thống chính trị. Sớm tổng kết việc thực hiện sáp nhập một số ban,
bộ, ngành Trung ương để có chủ trương phù hợp. Kiện toàn, nâng cao chất
lượng các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, nhất là ở
cấp chiến lược”.

1. Đối với các tổ chức đảng


Tổng kết đánh giá đúng thực trạng, đề ra các giải pháp củng cố và đổi
mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức đảng, nhất là đảng
đoàn, ban cán sự đảng. Tập trung chỉ đạo, củng cố những tổ chức đảng yếu kém;
kịp thời kiện toàn cấp uỷ và tăng cường cán bộ ở nơi có nhiều khó khăn, nội bộ
mắt đoàn kết. Coi trọng đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, tổ
chức đảng. Phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, các cấp


uỷ đến Ban Chấp hành Trung ương. Chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân
chủ trong tổ chức, sinh hoạt đảng.

2. Đối với Quốc hội

Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
Quốc hội nhằm thực hiện tốt chức năng lập pháp, giám sát tối cao và quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước. Hoàn thiện cơ chế bầu cử đại biểu Quốc
hội để cử tri lựa chọn và bầu những người thực sự tiêu biểu vào Quốc hội. Nâng
cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng cường hợp lý số đại biểu Quốc hội hoạt
động chuyên trách. Tổ chức lại một số uỷ ban của Quốc hội theo hướng chuyên
sâu hơn. Cải tiến, nâng cao chất lượng đại biểu hoạt động của Hội đồng dân tộc,
các Uỷ ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội. Đổi mới
quy trình xây dựng luật, tiếp tục giảm việc ban hành pháp lệnh.
Trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài
hạn về lập pháp, đổi mới quy trình xây dựng luật, nâng cao chất lượng luật, pháp
lệnh mới ban hành. Bảo đảm để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối
với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, làm tốt chức năng quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước, quyết định và phân bổ ngân sách Nhà nước…hoàn
thiện quy chế về vai trò, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội chuyên trách. Nâng
cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ba cấp.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo Quốc hội và Hội đồng nhân dân các

cấp.

3. Đối với Chủ tịch nước

Nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước
để thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn nguyên thủ quốc gia theo quy định của
Hiến pháp, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại và thống lĩnh lực lượng vũ
trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp; xây dựng Luật về Chủ tịch nước.

4. Đối với Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước

Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây
dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu
lực, hiệu quả; tổ chức tinh gọn, hợp lý, tăng cường tính dân chủ và pháp quyền
trong điều hành của Chính phủ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước
trong giai đoạn mới của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập kinh tế quốc tế. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ. Trọng tâm là điều chỉnh để làm rõ và thực
hiện đúng chức năng của các cơ quan quản lý Nhà nước, khắc phục tình trạng bỏ
trống hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ; cải tiến phương thức hoạt động


của Chính phủ theo hướng thống nhất quản lý vĩ mô việc thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong cả
nước bằng hệ thống pháp luật, chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ. Định rõ quyền
và trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan trực thuộc Chính phủ và chính
quyền địa phương( quyền quyết định hành chính của Thủ tướng, bộ trưởng, chủ
tịch UBND). Định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ theo hướng bộ
quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc. Phân công, phân cấp,

nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý
ngành và quản lý lãnh thổ. Tổ chức hợp lý Hội đồng nhân dân, kiện toàn các cơ
quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân và bộ máy chính quyền cấp xã, phường,
thị trấn. Nghiên cứu tổ chức, thẩm quyền của chính quyền ở nông thôn, đô thị,
hải đảo. Tiếp tục thực hiện chủ trương thí điểm không tổ chức hội đồng nhân
dân ở một số quận, huyện, phường.

Sớm tổng kết, đáng giá việc thực hiện chủ trương sắp xếp các bộ, sở, ban
ngành quản lý đa ngành, đa lĩnh vực để có chủ trương, giải pháp phù hợp.

Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính và thực hiện tốt cơ chế
“một cửa”, giảm mạnh và bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ
chức và công dân, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên của tất cả các cơ quan
hành chính nhà nước các cấp.

Thực hiện triệt để việc tách quản lý hành chính Nhà nước với quản lý sản
xuất, kinh doanh và quản lý hoạt động của tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công.

5. Đối với các cơ quan tư pháp

Văn kiện Đại hội XI nêu nhiệm vụ trọng tâm :

“Đẩy mạnh chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ
thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền
con người. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng
tư pháp và tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, bảo đảm tính khoa học, đồng
bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và
chức danh tư pháp”.

Đổi mới hệ thống tổ chức toà án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải

cách hoạt động xét xử là trọng tâm của cải cách hoạt động tư pháp; mở rộng
thẩm quyền xét xử của toà án đối với các khiếu kiện hành chính.

Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức toà án, bảo đảm
các điều kiện để viện kiểm sát các cấp nâng cao hiệu quả hoạt động, thực hiện
tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra, nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà.


Sắp xếp kiện toàn tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra theo hướng
thu gọn đầu mối; xác định rõ hoạt động điều tra theo tố tụng và hoạt động trinh
sát trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Tiếp tục đổi mới và kiện toàn các tổ
chức bổ trợ tư pháp.

6. Đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội

Kiện toàn tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị
- xã hội nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trong mỗi tổ chức, chú trọng ở hai cấp Trung ương và cơ sở; khắc phục tình
trạng “hành chính hoá”; đổi mới phương thức hoạt động, đảm bảo đúng tôn chỉ,
mục đích, hướng về cơ sở, tập trung cho cơ sở; chăm lo một cách thiết thực
quyền lợi chính đáng và hợp pháp của hội viên, đoàn viên, tham gia phong trào
thi đua yêu nước, tham gia xây dựng Đảng,chính quyền và quản lý xã hội; cụ thể
hoá cơ chế dân chủ đại diện, tư vấn, giám sát của Mặt trận và các đoàn thể đối
với hoạt động của Nhà nước.

7. Đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội.


Văn kiện Đại hội XI nêu :

“Rà soát, bổ sung hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức; phân
định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ, công
chức; tăng cường tính công khai, minh bạch trách nhiệm của hoạt động công vụ.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức, năng lực lãnh đạo. chỉ đạo điều hành, quản lý nhà nước”.

Trên cơ sở định kỳ đánh giá và phân loại đúng đội ngũ cán bộ, công
chức, tăng cường đào tạo, đào tạo lại và kịp thời thay thế những người không
hoàn thành nhiệm vụ. Lập quỹ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong
quy hoạch, nhất là về chuyên môn, ngoại ngữ, tin học, quản lý hành chính và
pháp luật quốc tế.

Thực hiện việc điều động, luân chuyển cán bộ; coi trọng việc sử dụng
chuyên gia, cán bộ có phẩm chất chính trị tốt, giỏi chuyên môn, có kiến thức lý
luận và kinh nghiệm thực tiễn, có năng lực nghiên cứu, tổng kết để tăng cường
cho các cơ quan đảng.

Tiếp tục rà soát, làm rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức và xác định
chức danh, tiêu chuẩn của từng cán bộ, công chức; trên cơ sở đó, xác định lại
định mức biên chế, tinh giản biên chế ở các bộ phận trùng lắp, thực hiện giao
biên chế theo định kỳ 5 năm. Tiếp tục chuyển đổi cơ chế quản lý biên chế theo


hướng thực hiện hợp đồng đối với các công việc phục vụ thay cho việc tuyển
vào biên chế.

Mức biên chế của từng cơ quan, đơn vị, ở các ngành và địa phương phải

dựa trên cơ sở xác định nội dung và khối lượng công việc cụ thể và tiêu chuẩn
các chức danh, cơ cấu cán bộ, công chức hợp lý.

Thí điểm việc khoán biên chế và khoán chi phí hành chính ổn định để
khuyến khích việc giảm biên chế và tiết kiệm chi phí hành chính ở các cơ quan,
đơn vị. Khắc phục tình trạng tăng biên chế để tăng thêm ngân sách.

Thực hiện chế độ thuê, khoán, hợp đồng một số loại dịch vụ trong cơ
quan hành chính thay cho việc tuyển người vào biên chế.

Phân định rõ biên chế trong bộ máy hành chính với biên chế trong các
đơn vị sự nghiệp, kinh tế, dịch vụ công; thí điểm việc xã hội hoá một số lĩnh vực
dịch vụ, y tế, giáo dục, khoa học và hoạt động văn hoá, thể thao… đổi mới chế
độ tiền lương, nâng cao thu nhập của những người làm việc trong các lĩnh vực
này gắn với nâng cao kết quả và chất lượng hoạt động.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc thi tuyển công chức vào cơ quan đảng,
nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội; thi nâng ngạch cán bộ, công chức; chú
trọng đào tạo và đào tạo lại cán bộ, công chức, cập nhật kiến thức mới nhằm tiếp
tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Tăng cường công tác tư tưởng; thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ,
công chức trong quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy, bảo đảm không ảnh hưởng
đến đời sống và thu nhập của cán bộ. Chính phủ chỉ đạo sửa đổi, bổ sung chính
sách về tinh giản biên chế, tiếp tục đổi mới chính sách tiền lương, bảo hiểm xã
hội đối với cán bộ, công chức phù hợp với yêu cầu đổi mới, kiện toàn và nâng
cao chất lượng hoạt động tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội.


Ban hành và thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với cán bộ, công
chức nhất là chính sách đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ; đồng thời chú trọng giải quyết thoả đáng chính sách đối
với cán bộ, công chức dôi ra trong quá trình sắp xếp lại, bảo đảm thực
hiện việc tinh giản bộ máy và biên chế, không ảnh hưởng lớn đến tư
tưởng và đời sống của cán bộ, công chức.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN

VÀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI

(Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch chuyên viên cao cấp khối Đảng, đoàn thể năm
2011)






Phần thứ
nhất


MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐẢNG CẦM
QUYỀN

PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG


I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN


1. Một số vấn đề về lý luận

Khái niệm Đảng lãnh đạo là để chỉ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
từ khi thành lập đến nay; tức là vai trò lãnh đạo của Đảng trong toàn bộ tiến
trình cách mạng Việt Nam.

“Đảng cầm quyền” là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một
đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền
để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình. Đối
với Đảng ta, khái niệm “Đảng cầm quyền” là để chỉ vai trò của Đảng khi đã
giành được chính quyền; cũng có nghĩa là Đảng lãnh đạo khi đã có chính quyền;
Đảng lãnh đạo toàn xã hội bằng chính quyền, thông qua chính quyền và các
đoàn thể nhân dân.

Khái niệm “Đảng cầm quyền” lần đầu tiên được V.I.Lênin nêu ra. Sau
này Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sử dụng các thuật ngữ để nói về vai trò cầm
quyền của Đảng như: Đảng giành được chính quyền, Đảng nắm chính quyền,
Đảng lãnh đạo chính quyền, Đảng cầm quyền. Trong Di chúc dặn lại, Bác viết:
“Đảng ta là một đảng cầm quyền”. Trong Điều lệ Đảng được Đại hội X của
Đảng thông qua cũng khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm
quyền”.

Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng khi đã giành được chính quyền
khác rất nhiều so với khi chưa có chính quyền.

Trước khi có chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu là các
tổ chức đảng và đảng viên trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương
đến các hội, đoàn thể, quần chúng “cốt cán”, thậm chí đến từng người dân; từ đó
tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Quan hệ của Đảng

với nhân dân là quan hệ máu thịt; mọi sự xa rời nhân dân đều có thể dẫn đến tổn
thất cho cách mạng, cho sinh mệnh của ngay bản thân tổ chức đảng và đảng

viên. Trong điều kiện chưa có chính quyền, trong Đảng không có điều kiện để
phát sinh, phát triển các tệ nạn như quan liêu, mệnh lệnh

Khi đã có chính quyền thì chính quyền là công cụ mạnh mẽ, sắc bén nhất
để đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống, bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Trong phương thức cầm quyền, ngoài
cách thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân, Đảng lãnh đạo chính
quyền (Nhà nước) thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành
Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch… và tổ chức nhân dân thực hiện. Thực chất của
Đảng cầm quyền là: Đảng lãnh đạo chính quyền và thông qua chính quyền để
nhân dân làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội. Trong điều kiện Đảng đã có chính
quyền, V.I.Lênin đã cảnh báo các nguy cơ: sai lầm về đường lối, quan liêu, xa
rời quần chúng và kiêu ngạo cộng sản. Ngay sau khi giành được chính quyền,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã cảnh báo nguy cơ sai lầm về đường lối và suy
thoái của cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu cần phải chiến thắng ba thứ giặc nội
xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu; nếu không sẽ làm đổ vỡ cả sự nghiệp của
một Đảng cầm quyền.

Trong quá trình cầm quyền của Đảng Cộng sản, việc tồn tại một đảng hay
nhiều đảng ở mỗi nước là do những điều kiện lịch sử - cụ thể quy định, không có
khuôn mẫu chung cho tất cả các nước, cũng như chung cho mọi giai đoạn, mọi
thời kỳ trong phạm vi một nước. Ở Việt Nam từ giữa 1947 đến năm 1988, ngoài
Đảng Cộng sản lãnh đạo chính quyền, còn có hai đảng: Đảng Dân chủ Việt Nam
và Đảng Xã hội Việt Nam tham gia chính quyền, nhưng hai Đảng trên đều thừa
nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Từ tháng 11 năm 1988 đến
nay, trên chính trường Việt Nam chỉ còn lại duy nhất một đảng là Đảng Cộng
sản Việt Nam. Ở Cu Ba, Lào cũng chỉ có một đảng cầm quyền. Ở Trung Quốc,

ngoài Đảng Cộng sản là đảng cầm quyền, còn 8 đảng phái dân chủ tham chính,
nhưng vẫn chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc v.v… Vấn đề
chủ yếu đối với một đảng cộng sản cầm quyền là cầm quyền một cách khoa học,
dân chủ và theo pháp luật trên cơ sở giữ vững sự trong sạch, vững mạnh của các
tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên và quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với
nhân dân.

2. Thuận lợi và nguy cơ đối với Đảng cầm quyền

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng từ khi giành được
chính quyền đến nay, nhất là lãnh đạo đất nước trong thời kỳ đổi mới và từ
những bài học kinh nghiệm xương máu về sự đổ vỡ của các Đảng Cộng sản và
Công nhân ở các nước trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kịp thời rút ra

bài học kinh nghiệm cho mình. Là một Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng có
nhiều thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có những nguy cơ tiềm ẩn cực kỳ nguy hại
cần đề phòng, vì nó có thể làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng bất cứ lúc nào.

a) Những thuận lợi đối với Đảng cầm quyền:

- Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, không có các
đảng chính trị đối lập nên không có sự cạnh tranh về vai trò lãnh đạo của Đảng;

- Đảng hoạt động một cách công khai, hợp pháp, hợp hiến; vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với đất nước đã được nhân dân thừa nhận trong thực tế và
được quy định tại Điều 4 của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam;

- Đảng có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân,
một công cụ đắc lực, mạnh mẽ và sắc bén để Đảng thực hiện sự lãnh đạo của

mình đối với toàn xã hội và có Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội
hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng.

- Qua 80 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được
nhân dân và cả dân tộc Việt Nam thừa nhận là người tổ chức, lãnh đạo và quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng được nhân dân tin yêu, che
chở, bảo vệ và gọi Đảng với cái tên trìu mến là “Đảng ta”. Người dân coi Đảng
chính là Đảng của mình.

- Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ với các Đảng
Cộng sản và Công nhân quốc tế; ngoài ra, Đảng còn có quan hệ với nhiều đảng
cầm quyền khác trên thế giới; có sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn của bạn bè
và nhân dân yêu chuộng hoà bình, tiến bộ trên thế giới.

b) Nguy cơ đối với Đảng cầm quyền:

Sau khi trở thành Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm vạch rõ
những suy thoái của một số cán bộ, đảng viên và cảnh báo hai nguy cơ đối với
một Đảng cầm quyền: một là, sai lầm về đường lối; hai là, sự suy thoái, biến
chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
do Đại hội VII của Đảng thông qua (năm 1991), Đảng lại nhấn mạnh đến hai
nguy cơ này và đến Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng (năm
1994), Đảng đã bổ sung và xác định 4 nguy cơ đối với cách mạng Việt Nam là:

(1) Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới, do điểm xuất phát thấp.

(2) Nguy cơ sai lầm về đường lối, đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa.


(3) Nguy cơ về sự suy thoái, biến chất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và
tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

(4) Nguy cơ “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.

Trong 4 nguy cơ đó, có hai nguy cơ bên trong rất nguy hại và nó chính là
chỗ dựa để cho những nguy cơ từ bên ngoài tấn công vào Đảng. Cụ thể là:

- Nguy cơ sai lầm về đường lối, đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa là nguy
cơ có thể xảy ra bất cứ lúc nào, đặc biệt là khi có những biến động lớn ở trong
nước cũng như trên thế giới và trong những bước ngoặt của cách mạng. Tuy
nhiên, nguy cơ này chỉ diễn ra ở cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng, bởi đây là cấp
hoạch định ra đường lối.

Vì vậy, việc xây dựng một tập thể lãnh đạo cao nhất của Đảng ngang tầm
nhiệm vụ trong mỗi thời kỳ của cách mạng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
Đảng, bởi vì nếu cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng vững vàng, kiên định về
đường lối thì dù có một số cấp lãnh đạo ở địa phương, cơ sở có chệch hướng về
điểm này, điểm khác thì cũng không thể lay chuyển được sự lãnh đạo của Đảng.

- Nguy cơ về sự suy thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên và tệ
nạn quan liêu, xa dân, tham nhũng, lãng phí. Đây là nguy cơ nguy hiểm nhất và
có thể xảy ra bất cứ lúc nào, bởi vì, khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, một
bộ phận đáng kể cán bộ, đảng viên trở thành những cán bộ có chức, có quyền
trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Đây là điều kiện dễ làm cho
cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, chạy theo chức, quyền, danh, lợi, dẫn đến
phai nhạt lý tưởng, tham nhũng, xa rời nhân dân và dễ xa vào những tệ nạn mà
khi Đảng chưa giành được chính quyền không có được. Những tệ nạn này không
chừa một ai và bất kỳ cán bộ đó làm gì, ở lĩnh vực nào, ở cấp cao hay thấp, nếu

cán bộ đó không kiên trì học tập, tu dưỡng và rèn luyện đạo đức cách mạng thì
đều có thể mắc phải.

Trong điều kiện mới, thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống,
đặc biệt là tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân diễn ra rất tinh vi, phức tạp
và ngày càng trở nên nghiêm trọng. Sự suy thoái, biến chất không chỉ diễn ra
riêng lẻ và đối với những đảng viên thường, mà có nơi, có lúc đã trở thành số
đông có tính chất tập thể, thậm chí có cả một tổ chức, một cấp uỷ và xảy ra đối
với cả một số cán bộ có trình độ cao, có những người giữ chức vụ chủ chốt trong
bộ máy của Đảng hoặc cơ quan quản lý của Nhà nước. Đây là nguy cơ “diễn
biến bên trong” đặc biệt nguy hại không thể coi thường và đang là những thách
thức lớn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân ta.

Vì vậy, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương trình Đại hội
XI của Đảng tiếp tục chỉ rõ những nguy cơ, thách thức đối với Đảng ta hiện nay
là: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên
thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí là nghiêm trọng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu
“diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”,
“nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ,
những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” có những diễn biến phức tạp”.

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1. Quá trình cách mạng của Đảng

Từ ngày thành lập (3/2/1930) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ

tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến
hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn,
thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cánh mạng
Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam), Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa dân tộc Việt Nam tiến
vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm
lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, năm 1954, cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi
của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế, đưa đất nước tiếp tục quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã giành được trong 80 năm
qua đều gắn liền với quá trình xây dựng, trưởng thành và phát triển của Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 80 năm qua, với hơn
65 năm cầm quyền, trong đó có 25 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, Việt Nam
từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tư do,
phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; đất nước đã thoát khỏi nghèo nàn,
lạc hậu, đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; có
quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên
thế giới.

2. Bản chất, mục đích và nền tảng tư tưởng của Đảng

Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
xác định rõ bản chất, mục đích và nền tảng tư tưởng của Đảng như sau:

- Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu

trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt
Nam.

- Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam hoà bình, độc lập, dân
giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa
xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

- Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế
thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách
mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.

3. Nguyên tắc tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng

- Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và
hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình
và phê bình; đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng; gắn bó
mật thiết với nhân dân; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật.

- Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về
chính sách và chủ trương lớn; bằng tuyên truyền, thuyết phục, vận động; bằng
công tác tổ chức, cán bộ và kiểm tra; bằng sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên.

- Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ,
giới thiệu những đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực vào hoạt động trong các
cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng tôn trọng, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào dân để xây dựng

Đảng

- Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ thống
ấy. Đảng lãnh đạo, phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào
sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế
giới.

4. Về hệ thống tổ chức và đảng viên của Đảng

Để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và xã hội,
các tổ chức đảng được thành lập ở mọi nơi, ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh
vực hoạt động của đời sống xã hội từ trung ương đến địa phương và cơ sở. Hệ
thống tổ chức cơ bản của Đảng được thành lập tương ứng với hệ thống tổ chức
hành chính của Nhà nước (theo đơn vị hành chính, lãnh thổ), gồm 4 cấp là: cấp
trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp cơ sở. Ngoài ra, tổ chức đảng còn được
lập ra ở những nơi có đặc điểm riêng theo quy định của Trung ương.

Hiện nay, toàn Đảng có 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương, gồm 58 đảng
bộ tỉnh, 05 đảng bộ thành phố, 04 đảng bộ trực thuộc Trung ương. Có gần 1.300
đảng bộ cấp huyện và tương đương (gần 700 đảng bộ huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh và gần 600 đảng bộ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng).

Toàn Đảng có gần 57.000 tổ chức cơ sở đảng, với hơn 23.000 đảng bộ cơ
sở và hơn 33.000 chi bộ cơ sở; gần 1.700 đảng bộ bộ phận, hơn 254.000 chi bộ
trực thuộc đảng uỷ cơ sở với tổng số gần 3,8 triệu đảng viên, chiếm hơn 4% dân
số của cả nước. Các tổ chức cơ sở đảng có 5 loại hình cơ bản là: Tổ chức cơ sở
đảng xã, phường, thị trấn; tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp; tổ chức cơ sở
đảng trong cơ quan hành chính; tổ chức cơ sở đảng trong đơn vị sự nghiệp và tổ

chức cơ sở đảng trong lực lượng vũ trang.

Trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới, nhất là trong 10 năm gần
đây, số lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên trong các loại hình cơ sở tăng
nhanh và chất lượng không ngừng được nâng lên. Nhiều tổ chức cơ sở đảng
trong các loại hình đã phát huy vai trò lãnh đạo và là hạt nhân chính trị ở cơ sở;
có nhiều mô hình mới và điển hình tiên tiến, lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ
chính trị, công tác chuyên môn, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, đẩy mạnh sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước.

Số lượng đảng viên trong những năm gần đây tăng nhanh, bình quân mỗi
năm toàn Đảng kết nạp hơn 170.000 đảng viên mới, trong đó số đảng viên trẻ, là
Đoàn viên thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh chiếm hơn 65%; số đảng viên nữ,
đảng viên là người dân tộc thiểu số ngày càng tăng, làm cho tuổi bình quân của
toàn Đảng giảm và cơ cấu đội ngũ đảng viên từng bước chuyển dịch theo hướng
tích cực.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, một số loại hình tổ chức cơ sở đảng
có những thay đổi: tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn tăng lên do chia,
tách hoặc thành lập mới; tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp nhà nước giảm

dần và tổ chức cơ sở đảng trong công ty cổ phần tăng lên do thực hiện chủ
trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; một số loại hình tổ chức cơ sở đảng
có sự thay đổi về quy mô, hình thức tổ chức và phương thức hoạt động cho phù
hợp với cơ chế quản lý kinh tế mới; một số loại hình tổ chức cơ sở đảng mới ra
đời và đi vào hoạt động.

III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG


Từ thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam qua 25 năm thực hiện
đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại
hội X, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) trình
Đại hội XI của Đảng đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn sau đây:

Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình hướng nào cũng phải kiên trì thực
hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Đổi mới toàn diện, đồng bộ với những bước đi thích hợp.
Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc.
Mở rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và ý thức
trách nhiệm của mỗi công dân, cơ quan, doanh nghiệp và cả cộng đồng.

Hai là, phải thật sự coi trọng chất lượng hiệu quả tăng trưởng và phát
triển bền vững, nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời duy
trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường huy
động các nguồn lực trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các
nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển lực lượng sản xuất
phải đồng thời xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp; củng cố và tăng
cường các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.

Ba là, phải coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu,
vùng xa, có nhiều khó khăn; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, củng
cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư

tưởng và tổ chức. Thật sự phát huy dân chủ, giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ
cương, đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng về chính trị, tư tưởng, trong sáng về

×