Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tài liệu Đề tài: Thực trạng, nguyên nhân, hậu quả của trẻ em lang thang ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.26 KB, 32 trang )

Đề tài
Thực trạng, nguyên
nhân, hậu quả của trẻ
em lang thang
1
Contents
Contents 2
2
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài này không phải chỉ cần có sự nỗ lực, những cố
gắng, hiểu biết còn khiêm tốn của bản thân sinh viên mà còn cần có sự
giúp đỡ của các thầy cô. Hiểu được điều đó nên trong lòng luôn thường
trực sự biết ơn và sinh viên muốn nói rằng:
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Tổ CTXH Trường ĐH
Vinh, đã có những định hướng trong việc chọn đề tài, trong việc hướng
dẫn đề cương chung nhất, cơ bản nhất cho một bài tiểu luận.
Em xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của thầy giáo Phùng Văn
Nam đã hướng dẫn sinh viên làm đề tài này
Em cũng xin xảm ơn các bộ, các sở, các tổ chức đã có những báo cáo,
nghị quyết, nghị định cung cấp những số liệu, những nhận định cụ thể về
đề tài TELT.
Vì đây là lần đầu tiên sinh viên viết tiểu luận nên sẽ không tránh khỏi
những nhầm lẫn, thiếu sót sinh viên mong nhận được sự nhận xét của các
thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên thực hiện
Hoàng Thị Hương
3
I. Mở đầu
1.1 Lý do chọn đề tài
“ Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai”


Đó là khẩu hiệu mà các quốc gia và cộng đồng quốc tế nhằm hướng tới
mục đích chăm sóc, bảo vệ tương lai của mỗi quốc gia và nhân loại. Việt
Nam cũng là một trong những quốc gia trên rất đề cao khẩu hiệu này.
Trong những năm qua, nền kinh tế thị trường khá phát triển, từ sự chuyển
mình mạnh mẽ của nền kinh tế-xã hội , đã đưa Việt Nam dần hội nhập
với thế giới. Quá trình CNH-HĐH dần phát triển giúp người dân có cuộc
sống về tinh thần và vật chất tốt hơn so với trước kia, bộ mặt đời sống
người dân đã có những thay đổi tích cực : tỉ lệ đói nghèo ngày càng được
giảm bớt, người dân đã có những thay đổi theo chiều hướng tích cực…Vì
vậy trẻ em ngày càng được sự chăm sóc tốt hơn. Tuy nhiên, vấn đề nào
cũng luôn có những mặt trái của nó. Cũng chính từ quá trình Đô thị hóa
và phát triển kinh tế thị trường không phải ai cũng được hưởng lợi. Đi
đôi cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thì các loại hình tệ
nạn xã hội ngày càng hình thành nhiều hơn và phát triển theo những
chiều hướng phức tạp như chủ nghĩa thực dụng, chạy theo đồng tiền, bỏ
rơi con cái, các tệ nạ trộm cắp, ma túy, mại dâm…Hơn nữa, tình hình
thiên tai , dịch bệnh ngày càng một phát triển.Và đặc biệt là khoảng cách
giàu nhiều ngày càng chênh lệch, Khi nông thôn được đô thị hóa thì
người dân có nguy cơ thất nghiệp cao, gia đình rơi vào những khủng
hoảng dẫn đến nhiều biến động chính vì vậy mà xung đột gia đình xuất
hiện cùng với kinh tế gia đình khủng hoảng và khó khăn, tỉ lệ ly hôn ngày
càng gia tăng và hậu quả cuae những cuộc ly hôn đó là nguyên nhân dẫn
tới những đứa trẻ từ có cha mẹ trở thành những đứa trẻ lang thang đường
phố. Và do hoàn cảnh gia đình nghèo đói, đã làm cho các em phải đi lao
động sớm khi còn rất nhỏ.
Hiện nay quá trình đô thị hóa ngày càng phát triển, báo động tình trạng
TELT, trẻ em đi làm sớm tập trung đông ở các khu công nghiệp, khu đô
thị lớn ngày càng tăng. Đó là những nơi phải gánh chịu nạn di dân từ mọi
miền đất nước, TELT cơ nhỡ rất dễ trở thành nạn nhân của tình trạng bóc
lột sức lao động. Do bị bóc lột sức lao động đã làm ảnh hưởng đến tinh

thần và thể xác của các em.
Chính vì vậy, TELT đã và đang là vấn đề cấp bách của toàn nhân loại. Để
giúp các em có một mái ấm tình thương và trở về với gia đình, chăm sóc
4
và bảo vệ trẻ em nói chung, TELT nói riêng lại càng đóng một vai trò
quan trọng, nó không còn là trách nhiệm của bậc làm cha làm mẹ, người
thân cuae các em mà còn là trách nhiệm của cộng đồng và toàn xã hội.
Với những tư liệu sẵn có, đồng thời bằng phương pháp thu thập và tìm
kiếm thông tin, được quan sát những trẻ em đường phố trong một vài
chuyến đi ở Hà Nội để nói lên thực trạng TELT hiện nay. Thông qua bài
viết này sinh viên muốn tất cả mọi người có cái nhìn sâu sắc hơn về tình
trạng đáng báo động này. Và muốn nhấn mạnh đến vai trò của người
nhân viên CTXH. Đồng thời qua bài viết sinh viên cũng kêu gọi mọi
người hãy cùng nhau thắp lửa những mảnh đời bất hạnh không nơi nương
tựa, hãy tạo ra những nụ cười trên những gương mặt còn non nớt, để một
ngày không xa khắp nơi trên đất nước mình không còn tình trạng TELT.
“ Hãy lau khô giọt nước mắt bằng trái tim con người Việt Nam”. Đó
chính là thông điệp mà sinh viên muốn gửi tới thông qua bài viết này.
1.2 Mục đích
Thông qua bài viết này sinh viên mong rằng mọi người sẽ nhìn nhận
được tính cấp thiết của vấn đề TELT
Giúp mọi người hiểu sâu sắc về thực trạng, nguyên nhân, hậu quả của
TELT từ đó đưa các phương pháp, kiến nghị để giảm thiểu tình trạng
trên, mọi người cần phải làm gì để các em được hưởng các quyền mà
chính các em phải được hưởng
1.3 Phương pháp tìm hiểu
Đề tài sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp quan sát_tìm hiểu, thu thập thông tin: quan sát và tìm hiểu
thông tin về thực trạng ở 2 TP đó là chính nơi sinh viên sinh sống
TP.Thanh Hóa và TP.Hà Nội (nhân dịp những chuyến đi chơi ngoài đó)

Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp: Qua phương pháp này, chúng tôi
sẽ phân tích những loại tài liệu thứ cấp thông qua các báo cáo, các nghị
định, nghị quyết, các chuyên đề liên quan đến đề tài và các số liệu đã
công khai
Phương pháp tổng hợp tài liệu: Tiến hành tổng hợp tài liệu sau khi đã thu
thập được thông tin
II. Cở sở lý luận
2.1 Hệ thống khái niệm
2.1.1 Khái niệm “Trẻ em”
Khái niệm “Trẻ em“ là một khái niệm bao quát dành cho một bộ phận
công dân còn có sự hạn chế nhất định trong năng lực ứng xử và năng lực
pháp lý của bản thân.
Khái niệm “Trẻ em” hiện nay và tồn tại ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới. Trong đó có sự khác biệt nhất định đối với việc quy định ngưỡng
5
tuổi chính xác của trẻ em ở từng quốc gia, tuy nhiên mọi quan điểm đều
thống nhất quan điểm cho rằng trẻ em là đối tượng yếu thế, cần được
chăm sóc, bảo vệ và hưởng các quyền lợi tốt nhất để phát triển.
Theo Công ước quốc tế về quyền Trẻ em (mà Việt Nam là quốc gia đầu
tiên tại Châu Á và là quốc gia thứ 2 trên thế giới ký kết tham gia), ngay
tại điều 1 đã nêu rõ rằng “Trẻ em là những người dưới 18 tuổi, trừ những
trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em có quy định tuổi vị thành niên
thấp hơn”.
Tại một số quốc gia Bắc Âu như Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan…có nền
kinh tế phát triển ổn định, chú ý nhiều hơn vấn đề an sinh cho con người
thì có quy định lớn hơn về mức tuổi trẻ em, cụ thể luật pháp các quốc gia
này quy định trẻ em là người dưới 20 tuổi.
Tại Việt Nam, theo luật BVCS&GDTE sửa đổi năm 2001, điều 1 cũng
quy định rằng: “Trẻ em quy định trong luật này là những người công dân
dưới 16 tuổi”.

Theo định nghĩa sinh học: “Trẻ em là người trong giai đoạn phát triển, từ
khi còn trong trứng nước đến tuổi trưởng thành”.
Tâm lý học cho rằng: “Trẻ em là giai đoạn đầu của sự phát triển tâm lý-
nghiên cứu con người”.
Nhìn dưới góc độ XHH: “Trẻ em là giai đoạn xã hội hóa mạnh nhất và là
giai đoạn đóng vai trò quyết định của việc hình thành nhân cách của mỗi
con người”.
Như vậy tuy mỗi văn bản luật của mỗi quốc gia trong văn kiệt quốc tế
dều có sự khác biệt nhất định trong việc quy định tuổi của trẻ em. Nhưng
tất cả đều thống nhất cho rằng trẻ em là những người công dân còn nhỏ
tuổi, càn được bảo vệ. Cách hiểu này căn cứ từ sự phân tích thực tế, về cả
mặt thể chất, tâm sinh lý và sự phát triển về mặt xã hội, ý thức tự lập, tự
chủ của con người từ khi sinh ra cho đến khi trưởng thành…Trong bài
viết này, để phù hợp hơn với điều kiện kinh tế-xã hội và luật pháp nước
ta nên sinh viên xin được quy ước phạm vi tuổi của trẻ em là dưới 18
tuổi.
2.1.2 Khái niệm “Trẻ em lang thang”
Theo luật BVCS&GDTE năm 2004 “Trẻ em lang thang là những trẻ em
rời bỏ tổ ấm gia đình, tự kiếm sống, nơi kiếm sống và nơi cư trú không
ổn định”
Như vậy, có thể nói trẻ em lang là những trẻ em mà sự nuôi dưỡng của
chúng trong gia đình là suy yếu khiến chúng phải chia sẻ trách nhiệm để
gia đình được sống bằng cách làm lụng vất vả, trên các đường phố bằng
các nghề khác nhau như bán vé số, bán báo, đánh giày…và nơi chúng
thường tập trung tới là đô thị, thành phố lớn.
6
“Trẻ em lang thang” có nghĩa đồng với khái niệm “Trẻ em đường phố” là
những trẻ em hàng ngày kiếm sống đơn độc, không được sự nâng đỡ của
gia đình. Trên thế giới, người ta thường gọi trẻ em lang thang là trẻ em
đường phố, vì dấu hiệu rõ nét để nhận biết số trẻ em này là các em có mặt

thường xuyên trên đường phố. Trẻ em đường phố chia thành 3 nhóm:
- Trẻ em lang thang bỏ hẳn gia đình, không có quan hệ với gia đình. Số
trẻ em này bị bỏ rơi hoàn toàn, không gia đình, không người thân phải tự
kiếm sống, thời gian chủ yếu lang thang trên đường phố hoặc trên các bãi
rác, bến tầu, bến xe…
- Trẻ em lang thang kiếm sống có liên hệ với gia đình, nhưng ít khi về
thăm. Đây thường là nhóm có cha mẹ, nhưng do cha mẹ quá nghèo để
con đi kiếm sống trên đường phố.
- Trẻ em lang thang nhưng đi cùng gia đình (gia đình từ nông thôn vrrg
thành thị), ban ngày chia mỗi người mỗi ngả để kiếm ăn, tối về “đoàn tụ”
trên vỉa hè, nhà ga hoặc nhà trọ rẻ tiền. Dưới góc độ di dân, đây là một
hình thức di dân tự do từ nông thôn về thành thị.
Việc làm của trẻ em đường phố tạm thời có thể chia thành 3 nhóm chính:
- Nhóm trẻ đường phố: gồm các em kiếm sống bằng các nghề trên đường
phố như bán sách báo, đánh giầy, bán xổ số, tạp hoá, bán bánh mỳ, bơm
xe, bốc vác, rửa bát, thu nhặt phế liệu, ăn xin, v.v…
- Nhóm trẻ lao động là nhóm trẻ làm thuê cho các cửa hàng ăn uống,
quán cơm bình dân, làm thuê trong các xưởng sản xuất thủ công.
- Nhóm trẻ giúp việc gia đình gồm những em (chủ yếu là em gái) làm
thuê hay làm người giúp việc trong các gia đình.
2.1.3 Khái niệm “Bảo vệ trẻ em”
Thuật ngữ “BVTE”được nhiều tổ chức sử dụng khác nhau. Tuy nhiên,
khái niệm sau đã được nhiều nhà phân tích chấp nhận và sử dụng như
sau: “BVTE là khái niệm chung về công tác phòng ngừa, ngăn chặn các
nguy cơ và hành động lạm dụng, bóc lột trẻ em” (từ điển Bách Khoa Việt
Nam_tập I, trang 641). Nói cách khác thì BVTE chính là thực hiện
những hành động để nhằm phòng ngừa và ngăn chặn không để trẻ em bị
sao lãng bị lạm dụng hoặc xâm hại, bóc lột cũng như hỗ trợ môi trường
an toàn và lành mạnh. Ở hình thức đơn giản nhất của BVTE là đảm bảo
cho trẻ em không bị xâm hại.

BVTE chính là một công tác chung của không chỉ những người có trách
nhiệm trực tiếp với các em như cha mẹ, người thân trong gia đình mà nó
còn là trách nhiệm xã hội của cộng đồng và nhà nước.
2.2 Đặc điểm tâm lý của trẻ em và trẻ em lang thang
2.2.1 Đặc điểm tâm lý của trẻ em nói chung
7
Trẻ em từ 0->16 tuổi là giai đoạn đã có đầy đủ những đặc điểm tâm lý
phát triển lứa tuổi, đây là giai đoạn quan trọng để các em hình thành và
phát triển nhân cách sống, cụ thể là những nhận thức về sau này. Đồng
thời, những đặc điểm tâm lý trong lứa tuổi này có ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống tình cảm của mỗi người trong các giai đoạn tiếp theo, chúng
ta có thể thấy rõ quá trình phát triển tâm lý của trẻ em giai đoạn này,
trong những nghiên cứu về tâm lý học lứa tuổi (tâm lý của trẻ em từ 0-
>16 tuổi). Dưới đây là những đặc điểm tâm lý cơ bản của trẻ em nói
chung:
Trẻ em nói chung trong giai đoạn này đang hình thành và phát triển nhân
cách một cách mạnh mẽ. Trong giai đoạn đầu (nhỏ tuổi) tức là trong giai
đoạn tuổi mẫu giáo, trẻ có nhu cầu được quan tâm, chăm sóc về mặt tinh
thần rất lớn. Những nhu cầu về mặt tình cảm gia đình đặc biệt quan trọng
trong giai đoạn này, nó có ý nghĩa đặt nền móng cho những tình cảm xã
hội sau này của trẻ. Từ giai đoạn lớn hơn, trẻ em có nhu cầu thể hiện cái
“tôi” của mình rất lớn. Trẻ có yêu cầu được mọi người xung quanh chấp
nhận những suy nghĩ của mình và coi mình là một người lớn, bắt đầu có
khả năng suy xét mọi vấn đề. Đặc biệt, đối với trẻ đang trong giai đoạn
dậy thì, tuổi vị thành niên xuất hiện một sự thay đổi lớn không chỉ trong
đặc ddierm sinh lý mà còn cả trong tâm lý của trẻ. Lúc này, nhu cầu tự
khẳng định mình của trẻ lớn, tư tưởng độc lập và không muốn chịu sự chi
phối của người khác. Trẻ có thể tự làm những gì mà mình muốn, kể cả
khi chưa có sự cho phép của người lớn. Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn
này, những khả năng nhận thức của trẻ cũng đã phát triển nhanh, trẻ nhận

định những sự việc mà mình gặp phải như những người lớn có trách
nhiệm thực sự.
Đó là những đặc điểm tâm lý cơ bản nói chung của trẻ em trong độ tuổi
từ 0->16 tuổi. Từ những đặc điểm tâm lý nói chung này mà đặt ra cho
những người có trách nhiệm nuôi dưỡng trẻ, có cách dạy dỗ phù hợp để
các em có được sự phát triển nhân cách toàn diện.
2.2.2 Đặc điểm tâm lý của trẻ em lang thang
TELT là những đứa trẻ thường xuyên kiếm sống hàng ngày trên đường
phố bằng những công việc khác nhau, chỗ ăn ở không cố định và hầu như
là những việc không được tốt lắm so với những gì mà chúng ta mong
muốn ở trẻ.
Cho dù là trẻ còn sống với gia đình hay không thì trẻ vẫn thiếu đi sự quan
tâm và chăm sóc của gia đình đối với trẻ. Sự tổn thương về mặt tinh thần
và tình cảm của trẻ là nguyên nhân gây nên những hậu quả nghiêm trọng.
Quan trọng hơn hết là chúng đang đứng trước nguy cơ bị xâm hại.
8
Trẻ lang thang là những đứa trẻ thích tự do và sự tự do đó không giống
nhau mà tùy vào từng hoàn cảnh, nguyên nhân của từng trẻ. Thông
thường thì TELT không chịu sống trong khuôn khổ và nơi ở cũng sẽ thay
đổi theo nhu cầu cuộc sống và công việc, các em thường có tính phòng vệ
cao, đôi khi hơi hung hãn với những người lạ mặt.
Tuy vậy, ở trong tâm trí và bản chất của các em thì thông thường bộc lộ
nhiều cách trong các cử chỉ hào hiệp, tương trợ và thông cảm với những
người bạn cùng lứa tuổi, cùng cảnh ngộ, cùng hoàn cảnh với nhau. Đặc
biệt là các em có tính tự lập cao và biết cách tổ chức cho cuộc sống riêng
của mình.
2.3 Nhu cầu của trẻ em và trẻ em lang thang
2.3.1 Nhu cầu của trẻ em nói chung
Mọi con người từ khi sinh ra cho đến khi chết đi đều có những nhu cầu
nhất định cần được đáp ứng để đảm bảo cho cuộc sống của mình được

phát triển đầy đủ và bình thường. Giai đoạn trẻ em từ 0->16 tuổi là giai
đoạn đầu trong cuộc đời của mỗi con người.
Trong giai đoạn này trẻ em đã có những nhu cầu cơ bản tất yếu cần được
đáp ứng để đảm bảo cho sự phát triển và đặt tiền đề cho những giai đoạn
sau:
Theo lý thuyết về nhu cầu mà nhà tâm lý học Masllow đã đưa ra trong
thế kỷ XVII và vẫn được sử dụng cho đến ngày nay, thì mọi người và đặc
biệt là trẻ em dều có những nhu cầu cơ bản sau, cần được đáp ứng ở mức
độ nhất định. Đó là những nhu cầu theo các mức thang: Nhu cầu sinh lý
và thể chất ( là những nhu cầu về ăn uống, chỗ ở, trang phục…cần phải
đảm bảo một cách đầy đủ, để mỗi con người có thể tồn tại và phát triển).
Nhu cầu an toàn ( nhu cầu được bảo vệ và cần được bảo về: trẻ em phải
được bảo vệ tránh mọi sự phân biệt đối xử; được baoe vệ trước các tệ nạn
xã hội; được bảo vệ khỏi bị bóc lột về kinh tế, lạm dụng sức lao động; trẻ
em cần được bảo vệ khỏi sự can thiệp vô cớ vào thư tín và sự riêng tư.
Quyền được bảo về an toàn bao gồm cả không bị tra tấn, đánh đập trong
trường hợp trẻ em làm trái pháp luật hay bị giam giữ, nhu cầu về những
môi trường xung quanh được an toàn, như: gia đình, nhà trường, xã
hội…). Nhu cầu giao tiếp hay còn gọi là nhu cầu được thuộc về một
nhóm xã hội nhất định (trong đó có gia đình, bạn bè…). Nhu cầu được
tôn trọng ( tức là nhu cầu cần được công nhận vị trí, vai trò trong xã hội,
được tôn trọng nhân phẩm và những quan điểm, ý kiến của mỗi cá nhân).
Nhu cầu được hoàn thiện và phát triển: trẻ em cần phải được đảm bảo
đầy đủ các nhu cầu trên để có mức sống tốt về thể chất, tâm lý, trí tuệ,
đạo đức; được tiếp xúc với các nguồn thông tin cần thiết; được học hành
9
theo khả năng, năng khiếu của mình;…và mục đích cuối cung cần hướng
tới đó là phát triển một cách toàn diện nhất trên mọi mặt đời sống.
2.3.2 Nhu cầu của trẻ em lang thang
Như vây, xét trên góc độ chung mọi TELT đều có và cần được đáp ứng

những nhu cầu cơ bản như trên để đảm bảo cho sự hình thành và phát
triển nhân cách.
Ở mức độ thấp nhất, TELT cần được thỏa mãn các điều kiện như ăn,
uống, chỗ ở,…Đó là những yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự sống của các
em. Khi những nhu cầu cơ bản đó đã được đáp ứng thì các em cũng có
nhu cầu ở một mức cao hơn đó là cần được bảo vệ. Ta thấy nhu cầu này
đối với trẻ em đặc biệt quan trọng và cần được đáp ứng bởi vì các em vẫn
chưa đạt được sự phát triển đầy đủ, chưa độc lập, chưa có khả năng bảo
vệ chính bản thân mình thậm chi còn phụ thuộc vào nhiều người khác.
Các nhu cầu còn lại đều ở bậc cao hơn để đảm bảo cho các em hòa nhập
được với cộng đồng, phát triển hoàn thiện nhân cách của mình.
Lý thuyết nhu cầu của Masllow cũng hoàn toàn phù hợp với những quyền
cơ bản mà không phải chỉ trẻ em mà mọi đối tượng trong xã hội đều cần
được hửng như trong tuyên ngôn về quyền con người và công ước quốc
tế về quyền trẻ em đã khẳng định: “ quyền sống còn, quyền được bảo vệ,
quyền được tham gia và quyền được phát triển”( điều 09->điều 15, công
ước quốc tế về quyền trẻ em).
Ta có thể thấy được rằng, những nhu càu cơ bản mà mỗi con người, đặc
biệt là với TELT cần được đáp ứng, nếu thiếu hụt hoặc không đáp ứng
một hay nhiều những nhu cầu đó thì chúng khó mà đạt được sự hình
thành và phát triển nhân cách bình thường được và những phát triển trong
giai đoạn này khó có thể làm tiền đề cho những giai đoạn tiếp sau. Vì
vậy, chúng ta cần đặc biệt chú ý, quan tâm đến việc tìm hiểu và đáp ứng
nhu cầu cơ bản của TELT.
TELT có nguy cơ bị mất đi một trong những quyền cơ bản nêu trên vì:
1. Không có cơ hội đi học.
2. Suy giảm sức khỏe.
3. Dễ khủng hoảng tinh thần, mất niềm tin vào cuộc sống.
4. Dễ gặp rủi ro tai nạn.
5. Dễ bị bóc lột sức lao động và có nguy cơ bị xâm hại tình dục, bị bạo

hành, bị buôn bán.
6. Dễ nhiễm thói hư tật xấu.
7. Dễ bị lôi kéo vào hoạt động trái pháp luật như ăn trộm, ăn cắp hoặc sử
dụng ma túy.
III. Cơ sở thực tiễn
10
3.1 Thực trạng về trẻ em lang thang hiện nay
Một thực tế cho thấy, số TELT,cơ nhỡ kiếm sống trên các đường phố
ngày càng tăng lên một cách đáng kể. Dù chất lượng cuộc sống của toàn
xã hội chúng ta càng được nâng cao, nhưng với nhiều lý do khác nhau,
nhưng vẫn còn nhiều trẻ em phải sống ở góc phố, vỉa hè. Hiện trạng này
đòi hỏi xã hội phải có những kế hoạch, những giải pháp mang tính kịp
thời và cụ thể hướng tới mục đích không còn TELT.
Theo thống kê của Bộ LĐ-TBXH, về trẻ em lang thang thì: năm 1996 cả
nước có 14.596 em; năm 1997 có 16.263 em; năm 1998 có 19.024 em;
năm 1999 có 23.000 em; năm 2000 lên đến khoảng 25.000 em. Vào thời
điểm thống kê tháng 2 năm 2003 cả nước còn khoảng 21.000 TELT.
Tháng 8 năm 2003 ủy ban DSGD&TE điều tra tại 2 thành phố Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh số trẻ em lang thang có mặt tại hai thành phố này
có trên 10.000 em. Riêng thành phố Hồ Chí Minh có trên 8 ngàn em và
Hà Nội có gần 2000 em (số trẻ em lang thang được thống kê gồm cả trẻ
em là người của Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh). Số trẻ em này có tới
trên 50% không đi cùng gia đình và khoảng 40% đi cùng gia đình, cùng
người thân tạm thời đến thành phố rồi lại về quê hương hoặc di chuyển đi
nơi khác. Một số khác đi cùng gia đình (di dân tự do) đến các vùng đô
thị.
Các tỉnh, thành phố tập trung nhiều trẻ em đến lang thang kiếm sống là:
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Bình Dương, Khánh Hòa,
Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Hải Phòng. Các địa phương có nhiều trẻ em
đi lang thang gồm: Quảng Ngãi, Phú Yên, Thanh Hóa, Hưng Yên

Thực hiện kế hoạch đưa trẻ em lang thang về với gia đình và hòa nhập
cộng đồng và triển khai Đề án Ngăn chặn và trợ giúp trẻ em lang thang
kiếm sống, năm 2005 tại 38 tỉnh, thành phố còn từ 100 trẻ em lang thang
trở lên đã đem lại những kết quả khả quan. Hiện nay, theo báo cáo của 38
tỉnh, thành phố, số lượng trẻ em lang thang kiếm sống còn khoảng 8000
em; trên địa bàn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh còn khoảng 1.500
em.
Có nhiều nguyên nhân liên quan đến việc trẻ em bỏ gia đình đi lang
thang, nhưng tập trung ở hai nhóm nguyên nhân chính có liên quan chặt
chẽ và tác động qua lại với nhau đó là: Nhóm nguyên nhân liên quan đến
kinh tế và nhóm nguyên nhân về xã hội. Sự phát triển không đồng đều
giữa khu vực nông thôn và thành thị, chênh lệch mức sống và thu nhập,
11
nhu cầu việc làm ở các đô thị là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến vấn
đề trẻ em lang thang.
Theo Bộ LĐ-TBXH, trong tổng số trẻ em lang thang có tới 82% ra đi từ
các vùng nông thôn hoặc tập trung ở các vùng điều kiện tự nhiên không
thuận lợi, kinh tế khó khăn. Điều kiện kinh tế gia đình khó khăn là lý do
chủ yếu dẫn đến việc trẻ em lang thang kiếm sống. (71,7% TELT ra đi vì
kinh tế gia đình khó khăn). Nhận thức của gia đình về vai trò trách nhiệm
của cha mẹ đối với nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em còn
hạn chế, việc quan tâm thường xuyên đến con cái chưa được nhiều;
bản thân trẻ em chưa nhận thức đầy đủ về hậu quả lâu dài đối với việc bỏ
nhà đi lang thang; chưa có ý thức phòng ngừa hoặc còn tò mò, muốn thử
nghiệm, muốn thể hiện mình; chưa có các kỹ năng sống cần thiết để tự
bảo vệ mình nên dễ bị rủ rê, lôi kéo vào các tệ nạn xã hội bên cạnh đó các
xung đột giữa vợ - chồng, giữa cha mẹ với con cái, đặc biệt giữa cha và
con cái đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý của trẻ em; thường các
em có thể chán học, bỏ học, quan hệ với những trẻ chưa ngoan, dẫn đến
các em rời xa gia đình, bỏ nhà đi lang thang (theo khảo sát có 5% trẻ em

lang thang bỏ nhà ra đi chủ yếu vì sự bất hòa trong gia đình và không có
mối liên hệ với gia đình).
Từ giác độ kinh tế, các kinh tế học và xã hội học kinh tế cho rằng công
việc mà trẻ em lang thang kiếm sống đang làm là một yếu tố cần thiết để
góp phần tạo ra thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội. Trong hoàn
cảnh kinh tế còn khó khăn, thiếu thốn thì việc huy động trẻ em vào quá
trình lao động vật chất trở thành một nhu cầu, đòi hỏi khách quan. Dựa
vào Lý thuyết xã hội học kinh tế thì nghèo đói và thiếu thốn vật chất là
nguyên nhân chính của việc trẻ em phải lang thang tham gia lao động
kiếm sống. Quan niệm này giải thích được hiện tượng trẻ em lang thang
phổ biến ở các nước đang phát triển, ở những khu vực nghèo nàn và lạc
hậu nhưng khó lý giải vì sao ngay ở những nước phát triển vẫn có nhiều
trẻ em lang thang? Tại sao một số gia đình không nghèo, thậm chí có
cuộc sống ổn định mà trẻ em vẫn phải lang thang kiếm sống từ lúc còn
nhỏ tuổi.
Dưới giác độ xã hội, các nhà xã hội học giải thích hiện tượng trẻ em lang
thang bằng thuyết cấu trúc - chức năng và cho rằng nguồn góc phát sinh
trẻ em lang thang là có từ cơ chế phân công lao động xã hội. Trong xã hội
có những loại công việc đòi hỏi sức lực và sự tham gia của trẻ em. Xã hội
cần trẻ em thực hiện những công việc mà người lớn không làm được
hoặc có làm cũng không thể tốt bằng trẻ em. Ví dụ công việc bán báo
12
hàng ngày, đánh giày, thu gom và nhặt rác, bưng bê và dọn rửa cửa hàng
…. Những công việc đó thường tập trung ở các đô thị lớn.
Đô thị hóa là quy luật tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế của các
nước đang phát triển, sự phát triển kinh tế không đồng đều giũa các vùng,
sự cách biệt lớn trong thu nhập giũa khu vực thành thị và nông thôn làm
cho số lượng người di dân tự do (trong đó có trẻ em) từ nông thôn đến
các đô thị sẽ ngày càng tăng. Môi trường sinh thái bị huỷ hoại dẫn đến
thiên tai thất thường (hạn hán kéo dài, bão lụt liên tiếp…) làm cuộc sống

của nông dân trở nên nghèo khó và bấp bênh hơn. Tình trạng thiếu việc
làm, thu nhập thấp dẫn đến một bộ phận trẻ em phải bỏ học, thất học đi
lang thang kiếm sống. Hầu hết trẻ em lang thang gắn liền với lao động
sớm; trẻ lang thang kèm luôn cả bỏ học và rất khó trở lại trường học và
nếu đi học trở lại thì gặp khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức.
Ở nước ta, hiện nay các điều kiện, cơ sở vật chất đảm bảo cho việc thực
hiện các quyền cơ bản của trẻ em còn hạn chế (trường học, dịch vụ khám
chữa bệnh, khu vui chơi…), chi phí cho trẻ em đi học còn quá cao so với
thu nhập của các hộ gia đình nghèo. Do đó, một số trẻ em tranh thủ thời
gian nhàn rỗi, đặc biệt là dịp nghỉ hè để đến các thành phố kiếm tiền phụ
giúp gia đình, đóng góp cho việc học tập… Bên cạnh đó, nhu cầu sử
dụng lao động ở các đô thị, đối với một số công việc cụ thể như: Giúp
việc trong gia đình, làm thuê trong các nhà hàng, quán ăn, đánh giày…
ngày một gia tăng. Ngoài ra, bộ phận trẻ em bị bỏ rơi, mồ côi không nơi
nương tựa cũng là nguy cơ dẫn đến việc trẻ em đi lang thang (trẻ em lang
thang bị bỏ rơi, mồ côi không nơi nương tựa chiếm 3,4% trong tổng số
trẻ em lang thang được khảo sát). Việt Nam vẫn là nước nghèo, theo
chuẩn nghèo mới, cả nước có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 22% số
hộ toàn quốc; tỷ lệ đói nghèo chênh lệch lớn giữa các vùng (cao nhất là
vùng Tây Bắc: 42% và Tây Nguyên: 38%, thấp nhất là vùng Đông Nam
Bộ: 9%,…) cũng là nguyên nhân làm nảy sinh các vấn đề xã hội ngày
càng phức tạp và tạo nguy cơ gia tăng trẻ em lang thang.
2.1.1 Thực trạng của trẻ lang thang tại thành phố Hà Nội:
Hà Nội, Thủ đô, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội của cả nước
đang phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. Chính vì vậy Hà Nội
đang trở thành trung tâm thu hút những dòng người từ nông thôn ra tìm
kế sinh nhai. Trong số dòng người di cư ra thành thị có TELT. Số lượng
trẻ em lang thang tăng lên hàng năm.
Tháng 7/1999, Uỷ ban chăm sóc trẻ em thành phố Hà Nội phối hợp với
ngành công an khảo sát trong 1 tuần tại Hà Nội có khoảng 4.558 trẻ lang

13
thang chủ yếu là ở độ tuổi từ 8-17 tuổi, trong đó nam chiếm 53%, nữ
chiếm 47% tăng gấp 2 lần so với năm 1997 (2772 em và hơn 4 lần so với
năm 1996 (1054 trẻ). Đa số trẻ đến Hà Nội lang thang kiếm sống là từ
các vùng quê ra. Tỉnh Thanh Hoá 21%, Hà Nam 6,5%, Hưng Yên 8%,
Hà Tây 14%, Nam Định 9,4%. Số tỉnh trẻ em lang thang đến Hà Nội đã
tăng từ 11 tỉnh năm 1992 lên 36 tỉnh năm 1999. Riêng Hà Nội 13,7% thì
chủ yếu thuộc 2 huyện Sóc Sơn và Đông Anh.
Cuộc điều tra này còn cho thấy 68% trẻ lang thang còn cha mẹ, 9,5% là
trẻ mồ côi, trong đó mồ côi cả cha mẹ chỉ có 1,4%, số trẻ có bố mẹ bỏ
nhau hoặc sống ly thân chỉ chiếm 6,5%, những trường hợp khác chiếm
15,7%. Số trẻ lang thang được phỏng vấn có tới 30,58% là con của các
gia đình có từ 5 con trở lên, 40,68% là con các gia đình có từ 3-4 con,
3,16% trẻ lang thang là con của các gia đình con một. Hầu hết số trẻ em
này đều có trình độ văn hoá thấp, số em chưa bao giờ đi học chiếm 11%,
trẻ lang thang không biết chữ chiếm 4,7% có trình độ cấp 1 chiếm 34%
cấp 2 chiếm 58,7% có trình độ cấp 3 chiếm 2,6%
Loại công việc kiếm sống hàng ngày của trẻ
Trẻ em nông thôn ra Hà Nội kiếm sống phải làm rất nhiều loại công việc
khác nhau. Đó là những công việc bị coi rẻ, người nghèo ở Hà Nội (kể cả
người lớn và trẻ em) không mấy ai làm. Công việc cực nhọc, vất vả
nhưng mức thu nhập lại rất thấp. Theo kết quả khảo sát năm 2001 của
201 trẻ đường phố và trẻ lao động tại Thanh Xuân hiện đang làm các loại
công việc như sau:
Đánh giầy: là công việc trẻ làm nhiều nhất (43,7%). Công việc này dễ
làm, thời gian học việc ít, chỉ với mấy chục ngàn đồng là có được một bộ
đồ nghề. Chính vì vậy đây là công việc của phần lớn trẻ đường phố.
Làm thuê trong các cửa hàng ăn uống cũng thu hút được 13,7% số em
tham gia. Đây là công việc của trẻ lao động, tuy cực nhọc nhưng có mức
thu nhập tương đối ổn định và không phải lo về nơi ăn chốn ở. Được làm

thuê cho các cửa hàng này có lẽ là “mơ ước” của không ít trẻ muốn có
việc làm tại Hà Nội.
Bán sách báo, giúp việc gia đình và ăn xin cũng là cách kiếm tiền của 6-
7% trong số trẻ được khảo sát.
Công việc bán vé xổ số, tạp hoá và làm thuê trong các xưởng thủ
công chỉ có khoảng 2% số trẻ tham gia.

14
STT Loại công việc Tỷ lệ (%)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Bán sách báo
Đánh giầy
Bán xổ số, tạp hoá
Bán rong rau, hoa quả, thực phẩm
Thu nhặt phế liệu
Làm thuê trong các cửa hàng ăn uống
Làm thuê trong các xưởng sản xuất thủ công
Làm thuê giúp việc trong các gia đình
Ăn xin
Các loại công việc khác
7,6

43,7
2,0
4,1
4,6
13,7
2,0
6,6
6,1
9,6

Bảng: Tỷ lệ phần trăm công việc của trẻ em nông thôn ra Hà Nội kiếm sống
2.1.2 Thực trạng của trẻ lang thang tại thành phố Hồ Chí Minh
Theo thống kê, TP HCM hiện có khoảng 1.500 trẻ em lang thang kiếm sống,
chủ yếu là lao động tại các cơ sở sản xuất tư nhân và hộ gia đình kinh doanh
nhỏ lẻ, tập trung nhiều nhất ở quận Tân Phú, Bình Tân.
Trong số này, chiếm 30% là trẻ nhập cư đến từ 35 tỉnh, thành, chủ yếu đến
từ các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Hà Giang…
Các em thường lang thang đánh giày, bán báo, bán vé số, gom, lục rác, bán
hoa quả trên các thuyền ghe dọc tuyến kênh quận 4, quận 8 kiếm sống hoặc
được “tuyển dụng” vào làm việc trong các quán ăn, nhà hàng, khách sạn…
với những công việc đơn giản, không đòi hỏi cao về trình độ chuyên môn
như: Bưng bê, rửa chén bát, quét dọn, trông xe cho khách….
Một số em khác phải làm việc trong môi trường nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm hơn như: Đi biển, khai thác đá, làm gạch, cạo mủ cao-su, tách vỏ hạt
điều…Thời gian làm việc của các em bình quân khoảng 5-6 giờ/ngày. Đối
với một số ngành như dệt may, giày da, chế biến thực phẩm… nhất là khi
vào vụ sản xuất thì thời gian làm việc có thể kéo dài lên đến 8-9 giờ/ngày,
thậm chí lên đến 12 giờ/ngày nếu trùng vào vụ sản xuất, lễ tết.
Tuy nhiên thu nhập bình quân các em chỉ hơn 500.000 đồng/tháng. Nhưng
không hiếm trường hợp, các em thậm chí còn không được nhận đủ số tiền

công ít ỏi do phạm phải những lỗi vô lý mà chủ lao động nghĩ ra hoặc
thường xuyên bị chủ chửi bới, nhục mạ, đánh đập…
Điều đáng nói là qua kết quả khảo sát, nhóm trẻ em ở độ tuổi 12-15 có tỷ lệ
tham gia lao động nhiều nhất. Xu hướng ngày càng tăng trẻ làm thuê tự kiếm
sống, nhất là lứa tuổi từ 14-16. Trong số này, không ít trẻ em bỏ quê lên TP
kiếm sống do đời sống gia đình nhiều rạn nứt, bố mẹ ly dị, thường xuyên cãi
vã, đánh đập, bạo hành, không quan tâm chăm sóc, giáo dục và buông lỏng
15
quản lý con cái. Thống kê, có khoảng 28% trẻ em gái trong số 5.000 em
nhập cư vào TP Hồ Chí Minh. Những trẻ em này rất dễ bị tổn thương và là
nạn nhân bị bóc lột sức lao động, nguy cơ nhiễm HIV/AIDS, lạm dụng tình
dục và bị đối xử tàn tệ.
Tính từ năm 2004 đến nay, trên địa bàn thành phố có trên 10.000 trẻ em lang
thang kiếm sống trên các đường phố không nhà, không có nơi che chở, chăm
sóc. Tuy nhiên TP chỉ mới hồi gia chưa được 2.000 em.
Năm 2005, toàn địa bàn TP Hồ Chí Minh có hơn 8.000 trẻ lang thang. Hiện
nay, theo Sở LĐ-TBXH TP Hồ Chí Minh, thành phố hiện có khoảng 1.700
trẻ em lang thang đường phố kiếm sống bằng các nghề: đánh giày, bán dạo,
bán vé số, ăn xin… Khảo sát cho thấy trẻ lang thang kiếm sống thường đi
một mình hoặc đi cùng người lớn. Tuy nhiên, trẻ thường sống tập trung
trong một khu trọ. Điển hình như khu trọ tại quận 7, một nhà trọ có 88
phòng thì có tới hơn 200 trẻ em lang thang đường phố. Còn ở quận Tân
Bình, một nhà trọ có hơn 100 phòng có gần 200 trẻ lang thang
Đa số ý kiến đồng ý rằng, chính sự phân hóa giàu nghèo, sự chênh lệch quá
lớn giữa nông thôn và thành thị là nguyên nhân chủ yếu đẩy không ít trẻ em
vùng quê vốn nghèo khó phải bỏ học sớm để lên thành phố kiếm sống. Do
vậy, để giải quyết bài toán trẻ em lang thang cần có sự phối hợp chặt chẽ
giữa các tổ chức, đoàn thể xã hội với chính gia đình của, qua đó xác định
được nơi sinh sống và nơi kiếm sống của trẻ nhằm can thiệp và hỗ trợ kịp
thời.

Theo đó, các địa phương vốn là “điểm đi” của trẻ cần “siết” lại công tác
quản lý nhân khẩu, theo dõi chặt chẽ sự di biến động của trẻ em rời địa
phương kiếm sống, tăng cường các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, nâng
cao nhận thức cho trẻ em. Có như vậy, việc giải quyết tình trạng trẻ em lang
thang – vốn là vấn nạn của TP Hồ Chí Minh từ nhiều năm qua mới không
rơi vào tình trạng “bắt cóc bỏ đĩa”.
Một số hình ảnh về tình trạng TELT trên các thành phố lớn:
16
17
18
Học vấn của TELT nhìn chung là thấp vì đa số là những trẻ bỏ học sớm,
thất học và thậm chí còn có một số em mù chữ hoặc tái mù chữ.
Theo điều tra của Bộ LĐ-TBXH, trẻ em lang thang từ 6 - 16 tuổi chưa
từng đi học chiếm 4,7%; 34% bỏ học ở bậc Tiểu học; 58,7% bỏ học ở cấp
Trung học cơ sở và 2,6% bỏ học ở cấp Trung học phổ thông. Qua khảo
sát trẻ em lang thang tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ biết chữ
là 73,9%; không biết chữ là 26,1%; có 12,9% học lớp 1; 39,6% học lớp 5
trở lên và rất ít trẻ em lang thang có được trình độ Trung học phổ thông.
Như vậy, Luật phổ cập giáo dục Tiểu học đã có từ lâu, nhưng vẫn còn
khoảng gần 40% trẻ em lang thang chưa được học xong chương trình tiểu
học.
Và theo kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu Thanh niên kết hợp cùng
ủy ban DS-GĐ&TE Việt Nam thì tỷ lệ trẻ em lang thang muốn có cơ hội
được tiếp tục học tập không phải là ít (dưới 15 tuổi là 50%; trên 15 tuổi là
25%); tuy nhiên nhu cầu học tập của các em đa dạng hơn, không chỉ đơn
thuần là học văn hóa mà còn mong muốn học nghề. Khảo sát về trẻ em
lang thang tại thành phố Hà Nội cũng cho thấy 46.6% trẻ em lang thang
chỉ có trình độ học vấn từ mù chữ đến bậc tiểu học. Các em có trình độ
trung học cơ sở là 51,7%. Kết quả đánh giá việc TELT ở Hà Nội tự
nguyện học văn hóa đã cho thấy: 94,1% số em được điều tra thích thú với

việc học; 71,1% trẻ này rất thích thú với việc học nghề, có 47,3% trẻ cho
rằng nếu được học nghề chắc chắn các em sẽ kiếm sống tốt hơn và nếu có
việc làm ổn định các em sẽ không đi lang thang nữa.
Đối với TELT, cơ hội tiếp cận với các loại hình giáo dục gặp rất nhiều
khó khăn mà nguyên nhân chính bắt nguồn từ điều kiện sống của các em.
Khó khăn tác động đến cơ hội học tập của TELT bao gồm các yếu tố
khách quan và chủ quan; trực tiếp và gián tiếp… Trên thực tế, TELT đã
bị mất đi các cơ hội, cơ may phát triển cá nhân, cơ hội học hành. Phải rời
bỏ mái trường, cộng đồng, gia đình, bạn bè… để đi lang thang kiếm sống,
các em cũng không có được một cuộc sống ổn định cho nên không thể có
điều kiện được học hành. Khi không có kiến thức văn hóa cần thiết và
các kỹ năng trong lao động, nghề nghiệp các em cũng không thể có cơ
hội tìm được việc làm. Điều đó buộc các em chỉ có thể làm được những
công việc đơn giản, dịch vụ đường phố.
Cuộc sống của trẻ lang thang có rất nhiều nguy cơ ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sự phát triển về mọi mặt của trẻ em; ảnh hưởng đến sự phát
triển của xã hội. Hoạt động cơ bản để phát triển trí tuệ của trẻ em là quá
trình học tập nhưng trong độ tuổi tiếp thu kiến thức tốt nhất thì các em lại
19
không hoặc ít có cơ hội đi học, tiếp cận với giáo dục. Vì không được
trang bị kiến thức cơ bản nên việc tiếp thu kiến thức về nghề nghiệp đối
với trẻ lang thang cũng rất khó khăn, ít có khả năng kiếm được việc làm
ổn định.
3.2 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ em lang thang
3.2.1 Nhóm nguyên nhân về kinh tế
Phân tích kết quả của hầu hết các cuộc điều tra cho thấy trên 60% trẻ em
lang thang xuất thân từ gia đình đói nghèo, thiếu việc làm. Trên 80% trẻ
em lang thang có nguồn gốc từ các làng quê kinh tế chậm phát triển, đất
chật, người đông, thiếu việc làm. Đó chính là những nguyên nhân thúc
đẩy trẻ em đi lang thang kiếm sống.

Sự phát triển không đồng đều về kinh tế giữa các vùng, sự phân hoá giàu
nghèo trong cac tầng lớp nhân dân, sự cách biệt lớn giữa điều kiện sống,
thu nhập và cơ hội tìm kiếm việc làm của khu vực thành thị và nông thôn
cũng là những nguyên nhân khác dẫn đến hiện tượng dòng người di dân
tự do về các thành phố, thị xã kiếm sống có xu hướng tăng lên và do đó
kéo theo số trẻ em lang thang ngày càng đông. Theo báo cáo của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội, mức thu nhập bình quân tính theo đầu
người ở các khu vực nông thôn chỉ bằng 55% mức thu nhập bình quân
tính theo đầu người ở khu vực thành phố
3.2.2 Nhóm nguyên nhân về gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội, là tổ ấm của con trẻ, hầu hết những trẻ em
bỏ nhà đi lang thang kiếm sống đều từ nguyên nhân gia đình. Đây là
nguyên nhân hẹp, nhưng lại có tác động trực tiếp đến đứa trẻ và quyết
định việc ra đi của trẻ. Những nguyên nhân từ phía gia đình dẫn trẻ em
đến con đường lang thang thường là do nguyên nhân kinh tế gia đình khó
khăn chiếm 66,5%; bố mẹ ly dị 8,57%; bố mẹ ghét bỏ 4,6%.
Nguyên nhân chủ yếu từ phía gia đình dẫn đến việc trẻ em bỏ nhà đi lang
thang kiếm sống là do gia đình nghèo khó, chính cuộc sống nghèo khó đã
khiến không ít ông bố bà mẹ phải chấp nhận việc để con cái mình ra đi
kiếm sống, dẫu biết rằng cuộc sống lang thang nơi thành phố là cùng cực,
khổ sở và đầy rẫy cạm bẫy, nhưng vì nghèo đói nên “đầu gối phải bò”.
Một bộ phận không ít các gia đình có suy nghĩ cho con đi kiếm sống vừa
đỡ một khẩu phần ăn, vừa khiến cho trẻ khôn lớn, trưởng thành và có tiền
phụ cấp gia đình, thậm chí có gia đình lợi dụng con nhỏ, con tàn tật để đi
ăn xin.
Cũng còn có nhiều nguyên nhân thuộc về bản thân trẻ em như một số trẻ em
thích sống tự do, buông thả, muốn thoát ly khỏi sự ràng buộc của gia đình,
20
thích tụ tập bạn bè, muốn khẳng định vai trò của bản thân trong việc tự kiếm
sống, không muốn lệ thuộc vào người lớn.

Bên cạnh những nguyên nhân trên, cũng có không ít đứa trẻ bỏ nhà đi lang
thang là do tình trạng ly hôn hoặc mâu thuẫn xung đột giữa bố mẹ. Căn bệnh
thế kỷ HIV/AIDS ảnh hưởng nghiêm trọng đến cấu trúc gia đình, làm cho
trẻ em không có cha mẹ, cũng là tác nhân trực tiếp gây tâm lý buồn chán cho
trẻ trở về cuộc sống gia đình, thiếu sự quan tâm chăm sóc, giáo dục khiến trẻ
ra đi tự kiếm sống. Nhiều gia đình do quá đông con phải cho con đi lao động
hoặc là do tác động tiêu cực từ môi trường xã hội của những phương pháp
giáo dục thiếu khoa học, thiếu sự quản lý chặt chẽ của gia đình, làm cho đứa
trẻ bị bỏ rơi, hư hỏng…dẫn đến bỏ nhà đi lang thang.
3.2.3 Nhóm nguyên nhân về xã hội
Một trong những nguyên nhân không kém phần quan trọng là nhận thức của
một số cán bộ, chính quyền địa phương còn hạn chế chưa thấy hết trách
nhiệm trong việc quản lý giáo dục trên địa bàn, chưa có biện pháp ngăn chặn
hiện tượng TELT ngay từ địa phương, gia đình, nơi các em sinh sống; việc
quản lý hộ khẩu, hộ tịch chưa chặt chẽ, chưa làm tốt công tác tuyên truyền
giáo dục pháp luật nhất là bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em trong nhân
dân để cho một số kẻ lợi dụng lừa gạt trẻ em, bóc lột sức lao động của trẻ em
gây ra các tệ nạn xã hội, các vụ vi phạm quyền trẻ em…
3.2.4 Các yếu tố về nhân khẩu học
Sự gia tăng dân số, tình trạng di dân tự do hiện nay nảy sinh nhiều vấn đề
phức tạp ảnh hưởng tới vấn đề TELT và lao động. Quá trình đô thị hoá tạo
ra sự phát triển mất cân đối giữa thành thị và nông thôn thu hút mạnh mẽ lao
động giản đơn, lao động nông nhàn rẻ mạt. Theo số liệu tổng điều tra dân số
năm 1999 cả nước có đến khoảng 4,8 triệu lao động thất nghiệp; theo số liệu
điều tra của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội có khoảng trên 10 triệu
người thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định. Khu vực nông thôn chỉ
sử dụng hết khoảng 75% thời gian lao động đã làm cho dòng người từ nông
thôn ra thành phố hoặc các khu công nghiệp kiếm việc làm ngày càng đông
kéo theo không ít TELT.
3.3 Hậu quả của tình trạng trẻ em lang thang

Từ việc TELT lao động sớm ta có thể thấy được hậu quả của vấn đề này là
rất nặng nề và nghiêm trọng. Nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân
các em mà còn ảnh hưởng tới gia đình và toàn xã hội.
Tại sao TELT lại phải lên thành phố kiếm sống? Đó là câu hỏi có thể có
nhiều đáp án. Phải chăng tình trạng lao động sớm ở trẻ em là vấn đề khách
quan mang lại? Liệu rằng các em có được đối xử và sống một cuộc sống
như bao đứa trẻ khác hay không? Đó là một vấn đề cần đựt ra và giải quyết.
21
TELT có thể phải va chạm với cuộc sống đầy phức tạp và nguy hiểm, các
em rất dễ bị nhiễm những thói hư tật xấu của xã hội. Với đủ tuổi và kiến
thức không đủ để tránh khỏi việc không bị mắc phải. Ma túy, mại dâm,
HIV/AIDS, trộm cắp, đâm thuê giết mướn…đang ngày càng dẫn sâu vào
cuộc sống của các em. Tất cả TELT có thể là đối tượng tấn công của bất kỳ
tệ nạn nào.
Một thực tế cho thấy đó là hiện tượng trẻ em vi phạm pháp luật là rất cao,
mà tập trung chủ yếu ở TELT. Ban ngày thì đi làm, tối về thì tụ tập ở các
bến xe, các quán nhậu, các tụ điểm và muốn được tự khẳng định mình, các
em đó sẽ bị lôi kéo vào lối sống không lành mạnh, điều này sẽ làm ảnh
hưởng đến nhân cách, suy nghĩ của các trẻ mới lớn, chìm trong những cảnh
các em chỉ mới 13, 14, 15 tuổi, đang chích hút, đang phê, đang điên cuồng
cùng với thuốc lắc…thì chúng ta có thể nhìn thấy được những tác hại của
tình trạng trẻ lang thang, kiếm sống trên đường phố khi đang ở tuổi ngồi trên
ghế nhà trường.
Bên cạnh nguy cơ sa vào các tệ nạ xã hội thì TELT phải đối mặt đó là bị bạo
hành,lạm dụng sức lao động và lạm dụng tình dục ở những bé gái. Các em vì
kiếm sống để tồn tại và có có tiền, thì các em cam chịu để chủ bóc lột sức
của mình mà không hề phản kháng. Tuổi của các em là tuổi ăn, tuổi học,
được vui chơi, nhưng các em phải bươn chải khắp thành phố để kiếm sống,
phải làm việc trong những môi trường độc hại: hóa chất, khí thải công
nghiệp, bụi bẩn….và nặng nhọc như: bốc vác, phụ hồ, kéo xe…Sức khỏe sẽ

bị ảnh hưởng nghiêm trọng và có thể bị nhiễm các bệnh như: ung thư. Cột
sống, viêm phổi, đường ruột…Cộng thêm vào đó là chỗ ở không an toàn:
nhà ổ chuột, gầm cầu, vệ đường hoặc công viên…
3.3.1 Đối với bản thân các em
Về thể chất: Những TELT thường phải làm những công việc nguy hiểm gây
tổn hại cho sức khỏe, thường bị thiếu ăn, ăn thiếu chất, ốm yếu, bệnh tật, làm
việc trong điều kiện thiếu ánh sáng như trong hầm than, làm việc trong đêm
tối…
Về tinh thần: Như mọi trẻ em khác, TELT lao động sớm cũng có những nhu
cầu được yêu thương, được chăm sóc, dược bảo vệ, được tôn trọng và được
phát triển. Tuy nhiên với cuộc sống trên đường phố, vỉa hè thì những nhu
cầu trên không được đáp ứng. Do vậy trẻ có cảm giác thiệt thòi, thua kém
những đứa trẻ bình thường khác. Điều này làm các em trở nên kếm tự tin
vào chính bản thân mình,khó khăn trong việc tự khẳng định năng lực thật sự
của các trẻ, luôn cảm thấy bị coi thường và ngại tiếp xúc với người khác. Do
bị tổn thương về mặt tình cảm, nên các em dễ dẫn tới mắc phải các bệnh
như: trầm cảm, chán nản, tự ti, mặc cảm với bản thân và có những trường
hợp em đã nghĩ quẩn. Đây cũng chính là điều kiện thuận lợi cho những tệ
22
nạn xã hội tấn công. Do nơi ở và việc kiếm sống trên đường phố không ổn
định, nhiều rủi ro nên trẻ em thường mang tâm trạng bất an, luôn lo lắng, trẻ
thường sợ bị bắt nạt, sợ hành hung, sợ không kiếm được tiền phải nhịn đói.
Sự sợ hãi đó đã làm các em mất đi tính hồn nhiên và cũng vừa làm cho trẻ
luôn sống trong trạng thái đề phòng và nghi ngờ thiện trí của những người
xung quanh.
3.3.2 Đối với gia đình có trẻ em lang thang
Một gia đình có TELT kiếm sống trên đường phố, thì cuộc sống vẫn luôn
khó khăn và có thể là dẫn đến những điều không mong muốn, như mâu
thuẫn gia đình, thứ bậc trong gia đình bị đảo lộn, con cái khó có cơ hội và
điều kiện để tìm cách thay đổi được khó khăn, nghèo đói của gia đình sau

này.
Nếu con trong gia đình họ đi lang thang kiếm sống và sa một trong những tệ
nạn xã hội như ma túy, tiêm chích, HIV/AIDS thì những dằn vặt, nỗi khổ sẽ
luôn đeo bám nhưng bậc làm cha, làm mẹ…luôn sống trong nỗi lo mất con.
3.3.3 Đối với xã hội
Tình trạng TELT kiếm sông trên đường phố sẽ ảnh hưởng xã hội, các tệ nạn
xã hội tăng, dẫn đến vấn đề phức tạp như ma túy, mại dâm, trộm cắp, giết
người…mất trật tự an ninh, làm mất cảnh quan thành phố.
Từ vấn đề này nảy sinh nhiều tiêu cực trong xã hội như: hình thành những
đường dây buôn bán trẻ em, sự bó lột, lạm dụng sức lao động, với trình độ
học vấn thấp các em dễ bị lợi dụng vào con đường buôn bán ma túy của kẻ
xấu.
Đồng thời, xã hội cũng mất đi một nguồn lao động trí thức khi các em bỏ
học để đi kiếm sống, có thể có những nhân tài mà xã hội khó để tìm kiếm và
phát triển.
4. Một số quan điểm và giải pháp cơ bản giải quyết vấn đề trẻ em lang
thang
4.1 Một số quan điểm
TELT là vấn đề xã hội, vì vậy giải quyết tình trạng TELT phải gắn liền với
sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và của từng địa phương đồng thời
phải gắn chặt giữa các giải pháp về kinh tế, văn hoá với các giải pháp về xã
hội.
Giải quyết vấn đề TELT là đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi cho các em
như mọi trẻ em khác.
Giải quyết vấn đề TELT là một quá trình lâu dài. Vì vậy phải huy động sức
mạnh tổng hợp của toàn xã hội, của các cấp, các ngành, của từng địa phương
và gia đình, đa dạng hoá các nguồn lực. Ưu tiên đầu tư cho những nơi có
nhiều trẻ đi lang thang, lấy phương châm phòng ngừa, giải quyết tại cơ sở là
chính, giúp các em trở về với gia đình, quê hương, làng xóm.
23

4.2 Các giải pháp chủ yếu
4.2.1 Giáo dục gia đình
Trong xu thế giao thoa văn hóa Phương đông và Phương Tây như hiện nay,
việc giáo dục con cái theo quan điểm nào để đảm bảo cho trẻ hình thành
nhân cách, tránh được những tác động xấu là một vấn đề không dễ đối với
các bậc cha mẹ, ông bà. Nhưng điều đó không có nghĩa là các bậc cha mẹ
không thực hiện được. Theo tài liệu truyền thống về bảo về, chăm sóc trẻ em
tại cộng đồng, để làm được điều đó cha mẹ cần phải thực hiện được những
vấn đề cơ bản sau:
Mỗi cặp vợ chồng nên tổ chức xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ, thực
hiện cuộc vận động kế hoạch hóa gia đình.
Thể hiện tình cảm: Cũng như người lớn, trẻ em rất cần tình yêu thương,
những cử chỉ quan tâm, thương yêu như nụ cười, động viên, lắng nghe, chơi
đùa với con trong những lúc rãnh rỗi…sẽ mang lại cho trẻ cảm giác được
che chở, an toàn, hạnh phúc và đầy đủ. Đó là nền tảng vững chắc để trẻ gắn
bó bền vững với gia đình.
Quan tâm đến những nhu cầu căn bản của trẻ: Để đảm bảo cho việc phát tiển
cả về thể chất lẫn tinh thần. Đó là những nhu cầu ăn no, mặc ấm, được bảo
vệ, chăm sóc, yêu thương…
Xây dựng sự gắn bó ấm áp: Trẻ rất cần cha mẹ lắng nghe những suy nghĩ,
cảm xúc của chúng, vì thế khii trẻ muốn chia se một vấn đề băn khoăn nào
đó, thì bố mạ phải giải thích rõ ràng với thái độ chấp nhận,luôn bên cạnh và
chở che : để cảm nhận được sự yêu thương,cởi mở, an toàn và gắn bó với gia
đình.
Biết cách ứng phó với thực tế: Dạy trẻ biết ứng phó với mọi tình huống, nhất
là nỗi buồn, mệt mỏi và thất vọng của trẻ về một vấn đề nào đó. Bởi vì đó là
một phần cuộc sống mà trẻ cần phải hiểu rằng không phải lúc nào con người
cũng có được những mong muốn.Như thế giúp trẻ nhận biết, chấp nhận và
tìm cách giải quyết vấn đề, tình huống, hoàn cảnh của mình.
Khuyến khích tính đồng cảm và nghĩ đến người khác: Đó là kỹ năng đặt trẻ

vào vị trí của người khác để nhìn nhận một vấn đề nào đó. Điều này có
nghĩa, chúng ta khuyến khích trẻ phát triển khả năng đồng cảm, biết chia sẻ
và ứng xử với mọi người tốt hơn, tránh được cảm giác cô đơn ở trẻ
Nhận trách nhiệm: Dạy cho trẻ cuộc sống có nhiều việc cần phải làm, có cho
và nhận. Mỗi người ai cũng có bổn phận chia sẻ phần trách nhiệm của bản
thân mình, để trẻ có những trách nhiệm, nhiệm vụ của mình, trẻ sẽ cảm nhận
được mình cũng là một phần đóng góp vào việc gắn bó, xây dựng gia đình.
Biểu lộ bằng hành động: Cuộc sống luôn tồn tại mặt tốt và xấu, cần cho trẻ
biết được điều đó, sau đó đưa ra các cách, các giải pháp xây dựng một cuộc
sông tốt đẹp hơn để trẻ hướng tới, sữa chữa, thay đổi điều xấu thành điều tốt
24
4.2.2 Giáo dục nhà trường
Vấn đề học hành của TELT, bộ GD-ĐT cho biết,sẽ tập trung đẩy mạnh giáo
dục hòa nhập nhằm mở cửa đón mọi trẻ em có hoàn cảnh kho khăn được đến
lớp, đến trường: miễn học phí, cho mượn sách giáo khoa theo chương trình.
Song song đó ngành GD-ĐT của các địa phương, các ngành liên quan tiếp
tục đẩy mạnh hoạt động quỹ học bổng cho học sinh nghèo vượt khó nhằm
tạo điều kiện và là động lực thúc đẩy giúp các em đến trường.
Thực sự để giải quyết một cách căn bản và bền vững về vấn đề này là một
khó khăn và phức tạp. Bởi phần đông các em bỏ học đi lang thang một cách
tự nguyệt. Do đó việc cần làm là tạo điều kiện cho các em vừa học vừa làm,
cụ thể hơn là dạy cho các em một cái nghề để kiếm sống sau này.
Thật khó khăn để giải quyết dứt điểm tình trạng TELT, trước mắt chúng
tacoos gắng tạo điều kiện tốt nhất để các em có cuộc sống dễ chịu hơn, Còn
việc để giải quyết một cách bền vững, yếu tố gia đình vẫn đóng vai trò quan
trọng nhưng cần phải có sự giúp đỡ hỗ trợ của xã hội và cộng đồng để tạo ra
môi trường an toàn nhất cho các em.
Tuyên truyền giáo dục:Cần tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục về
vấn đề TELT tới cả các cấp các ngành, đoàn thể nhân dân và trực tiếp đối
với trẻ em và người lớn đang lang thang kiếm sống trên địa bàn thành phố.

Cần làm cho họ hiểu rõ Luật BVCS&GDTE, Công ước Quốc tế về quyền trẻ
em, các quan điểm tư tưởng của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ chăm sóc trẻ
em. Cần tổ chức các chiến dịch truyền thông, vận động xã hội để mọi người
cùng hiểu, cùng tham gia thực hiện góp phần bảo vệ quyền của trẻ em. Đẩy
mạnh giáo dục gia đình và đề cao vai trò của cộng đồng trong việc chăm sóc
và giáo dục trẻ em.
4.2.3 Kinh tế-xã hội
Để hạn chế được sự gia tăng trẻ lang thang ra các thành phố, khu đô thị kiếm
sống cần phát triển ngành nghề phụ tại địa phương có nhiều trẻ đi lang thang
kiếm sống. Sự phát triển ngành nghề phụ giúp trẻ có thêm công việc làm và
thu nhập cho gia đình. Đồng thời cần có sự giúp đỡ những gia đình nghèo
khó tại địa phương như giúp vốn để phát triển kinh tế vườn tại gia đình,
hướng dẫn cung cách làm ăn để những gia đình tự vươn lên thoát khỏi cảnh
đói nghèo.
Tiếp tục duy trì và mở rộng các mô hình đang thực hiện có hiệu quả hiện
nay như: hoạt động của các phòng tư vấn về trẻ em, hoạt động của các nhà
mái ấm, nhà tình thương, các lớp dạy hướng nghiệp, dạy văn hoá linh hoạt
cho trẻ em lang thang, các chương trình vay vốn, chương trình nuôi dưỡng
đỡ đầu thường xuyên, trợ cấp cho trẻ em nghèo.
25

×