Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

Quản trị nội bộ tại Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.26 KB, 78 trang )

Chuyên đề thực tập
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
DN Doanh nghiệp
CTCP Công ty cổ phần
1
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TTCK Thị trường chứng khoán
CTCK Công ty chứng khoán
UBCKNN Ủy ban chứng khoán Nhà nước
HASTC Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội
HOSE Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh
ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông
HĐQT Hội đồng quản trị
2
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
LỜI NÓI ĐẦU
Ở nước ta, sau hơn 20 năm song hành với sự nghiệp đổi mới đất nước và hơn 1 năm
gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát
triển vượt bậc, lớn mạnh về mọi mặt kể cả quy mô và chất lượng; đã có những đóng góp
xứng đáng vào công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nói chung và quá trình
hội nhập với kinh tế thế giới nói riêng. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự hội
nhập với các nước trên thế giới và trong khu vực, Thị trường chứng khoán bắt đầu phát
triển và bùng nổ tại Việt Nam trong hơn 2 năm trở lại đây. Các Công ty chứng khoán lần
lượt ra đời dẫn đến hoạt động thương mại trong nước có sự thay đổi đáng kể, hoạt động
của các Công ty chứng khoán đã từng bước được hoàn thiện, đa dạng và phong phú hơn,
góp phần tích cực mở rộng vốn đầu tư cho những người tham gia vào Thị trường chứng
khoán, tạo điều kiện thu hút vốn nước ngoài để tăng trưởng kinh tế trong nước. Từ những


lợi ích kinh tế từ việc phát triển Thị trường chứng khoán, việc nghiên cứu và tìm hiểu đối
với hoạt động này là rất cần thiết và hữu ích đối với một sinh viên Luật. Vì thế, em đã lựa
chọn đề tài "QUản trị nội bộ tại Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương"
với mong muốn qua việc nghiên cứu tìm hiểu hoạt động của Công ty - Hội sở chính sẽ giúp
em có thêm kiến thức và hiểu rõ hơn hoạt động kinh doanh trên một thị trường đầy năng
động và trong một Công ty chứng khoán đang phát triển với tốc độ nhanh chóng - một
trong mười Công ty chứng khoán lớn nhất Việt Nam.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến toàn thể các thầy cô giáo trong Khoa Luật -
Đại học Kinh tế Quốc dân, những người đã giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập tại
trường, đặc biệt là TS Nguyễn Hợp Toàn và ThS Vũ Văn Ngọc cùng toàn thể các anh chị
trong Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương - Hội sở chính đã hướng dẫn
tận tình, giúp đỡ tạo điều kiện để em hoàn thành Chuyên đề thực tập này.
3
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
Chương I.
Những cơ sở khoa học trong Quản trị doanh nghiệp
I. Quyền tự do kinh doanh trong thành lập và quản trị doanh nghiệp trong cơ chế
thị trường
Quyền tự do kinh doanh trong thành lập và quản trị doanh nghiệp đã được thay đổi đáng
kể sau khi Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tư 2005 được ban hành. Luật Doanh
nghiệp và Luật Đầu tư đã có những quy định thể hiện rõ ràng quan điểm của Đảng và Nhà
nước là mở rộng quyền tự do kinh doanh cho tất cả các đối tượng thuộc mọi thành phần
kinh tế.
Quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là quyền của doanh nghiệp được
tự chủ quyết định các vấn đề trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là quyền đầu tư kinh
doanh và quyền huy động vốn. Mở rộng quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp có
nghĩa là hạn chế sự can thiệp hành chính tùy ý của các cơ quan Nhà nước vào hoạt động
của doanh nghiệp. Sự mở rộng quyền tự do kinh doanh trong quản trị và thành lập doanh
nghiệp được khái quát như sau:

Thứ nhất là hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước. So với Luật Doanh nghiệp Nhà
nước 2003 thì Luật Doanh nghiệp 2005 đã đưa ra các quy định hấp dẫn hơn đối với các
doanh nghiệp Nhà nước. Nếu như các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài được quyền tự
quyết về công việc kinh doanh của mình thì doanh nghiệp Nhà nước vẫn phải chịu sự ràng
buộc hay chi phối bởi sự can thiệp mang tính chất hành chính, chủ quan và thiếu phối hợp
giữa các cơ quan Nhà nước. Với Luật Doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp Nhà nước được
chủ động trong quyền kinh doanh, việc quản trị sẽ được cải thiện và ít phải phụ thuộc vào
Ngân sách Nhà nước. Như vậy, khi doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang hoạt động theo
Luật doanh nghiệp 2005 thì sẽ có 3 điểm lợi: Thuận lợi hơn trong giao dịch nhất là với đối
tác nước ngoài; không bị phân biệt đối xử trong buôn bán và nâng cao hiệu lực quản trị mở
rộng quyền năng và kinh doanh đa ngành.
Thứ hai là sự ra đời về Công ty TNHH 1 thành viên trong Luật Doanh nghiệp 2005. Có
thể nói Luật Doanh nghiệp 2005 đã thể hiện rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước trong
việc mở rộng quyền tự do trong thành lập và quản trị doanh nghiệp khi quy định 4 loại hình
doanh nghiệp để các nhà đầu tư lựa chọn. Luật cho phép cá nhân muốn thành lập một
4
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
doanh nghiệp độc lập được lựa chọn thêm hình thức mới là Công ty TNHH có thành viên là
cá nhân( trước đây quyền thành lập này chỉ thuộc về một tổ chức) thay cho loại hình Doanh
nghiệp tư nhân như trước. Như vậy, doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ này sẽ chỉ phải
chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần vốn mà chủ sở hữu đã đăng ký cho hoạt
động đăng ký kinh doanh.
Thứ ba là thay đổi được coi là mang tính đột phá của Luật Doanh nghiệp 2005, đó là
quyền năng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được mở rộng đáng kể.
Với Luật Doanh nghiệp 2005, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được kinh
doanh tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm chứ không chỉ bị giới hạn trong nội
dung của Giấy phép đầu tư như quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm
1996 và Luật sửa đổi một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000.
Đồng thời, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ được hưởng chế độ đăng ký kinh doanh giống

như các doanh nghiệp tư nhân trong nước, nhờ đó việc thành lập doanh nghiệp trở nên đơn
giản, nhanh chóng và ít chi phí hơn so với chế độ cấp phép đầu tư phức tạp, tùy tiện và tốn
kém hiện nay.
Với Luật Doanh nghiệp 2005, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ không bị giới hạn ở một
loại hình công ty TNHH như trước mà sẽ được tự do lựa chọn các loại hình doanh nghiệp
phù hợp. Ví dụ, Công ty cổ phần với lợi thế về huy động vốn trên thị trường tài chính. Việc
khống chế mức sở hữu 30% đối với đầu tư nước ngoài về cơ bản sẽ được xóa bỏ. Đối với
một số ngành nghề hạn chế kinh doanh áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài sẽ có quy định những điều kiện nhất định mà nhà đầu tư nước ngoài phải đáp ứng
theo hướng công khai, minh bạch hơn. Những thay đổi này chắc chắn sẽ góp phần tăng tính
hấp dẫn của môi trường đầu tư và thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam,
góp phần thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển và hội nhập với các nước trên thế giới.
II. Sự phát triển của Pháp luật về doanh nghiệp và quản trị nội bộ từ Luật Doanh
nghiệp 1999 đến Luật Doanh nghiệp 2005
1. Sự phát triển của pháp luật về doanh nghiệp:
Trong những năm qua, gắn liền với tiến trình phát triển của nền kinh tế là quá trình hình
thành và phát triển đa dạng của các loại hình doanh nghiệp. Nhằm tạo cơ sở pháp lý bảo
đảm cho doanh nghiệp phát triển bền vững, pháp luật về doanh nghiệp ở nước ta từng bước
5
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
đã được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, hệ thống pháp
luật về doanh nghiệp cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập đòi hỏi phải được điều chỉnh, bổ
sung cho phù hợp với xu thế phát triển và hội nhập hiện nay. Với mục đích tạo sân chơi
bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá,
việc cải cách và hoàn thiện Luật doanh nghiệp là một bước đi quan trọng trong định hướng
hoàn thiện hệ thống pháp luật về doanh nghiệp ở nước ta. Ngày 19 tháng 11 năm 2005,
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ hợp thứ VIII đã thông qua
Luật doanh nghiệp thống nhất thay thế Luật doanh nghiệp 1999 và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01 tháng 07 năm 2006( sau đây gọi là Luật doanh nghiệp 2005). Đây là lần đầu tiên

nước ta ban hành một văn bản pháp luật chung điều chỉnh thống nhất tất cả các loại hình
doanh nghiệp.
Sự phát triển của pháp luật về doanh nghiệp từ Luật DN 1999 đến Luật DN 2005 được
khái quát qua những điểm chính sau đây:
1.1. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được đặt vào một khung pháp lý
chung:
Căn cứ vào Điều 1 Luật doanh nghiệp 2005
“Luật này quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty TNHH,
công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế,
quy định về nhóm công ty".
Do đó, Luật doanh nghiệp 2005 với tư cách là luật chung cho các loại hình doanh
nghiệp thay thế cho Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp Nhà nước 2003 (trừ
trường hợp vẫn còn được áp dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước đang trong thời kỳ
chuyển đổi nếu Luật Doanh nghiệp 2005 không quy định), các quy định về tổ chức quản lý
và hoạt động của doanh nghiệp theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 và Luật sửa
đổi bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000.
Trước đây, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và vốn
đầu tư nước ngoài về cơ bản chịu sự điều chỉnh của hai hệ thống văn bản pháp luật khác
nhau. Điều này ít nhiều tạo ra lợi thế cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước do có
sự khác biệt về thủ tục. Với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp 2005, tất cả các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế, bất kể là trong nước hay ngoài nước, vốn sở hữu nhà nước
hay vốn sở hữu tư nhân đều hoạt động trong một khuôn khổ pháp lý chung.
6
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
Các quy định nói trên tạo ra môi trường pháp lý minh bạch và phù hợp với thông lệ
quốc tế đối với hoạt động của các doanh nghiệp, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng
cho các doanh nghiệp.
1.2. Quy định về đăng ký kinh doanh.
Trong thời gian xây dựng Luật doanh nghiệp 2005, Chính phủ đã thể hiện rất rõ quyết

tâm trong việc khuyến khích các hoạt động đầu tư kinh doanh thông qua việc loại bỏ một
loạt các giấy phép đã lỗi thời, không cần thiết và chỉ giữ một số lượng rất nhỏ các giấy
phép kinh doanh thông qua một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
Thay cho việc phải có Đơn đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật
Doanh nghiệp năm 2005 đã quy định về Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh, có những quy
định cụ thể về hồ sơ đăng ký kinh doanh của từng loại hình doanh nghiệp bao gồm hồ sơ
đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm
hữu hạn và công ty cổ phần. Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng đã quy định cụ thể về tên
của doanh nghiệp, trong đó có cách đặt tên cho doanh nghiệp, những trường hợp cấm về
cách đặt tên doanh nghiệp, đặt tên doanh nghiệp trong trường hợp tên doanh nghiệp viết
bằng tiếng nước ngoài, tên viết tắt của doanh nghiệp và những trường hợp tên trùng và tên
gây nhầm lẫn.
Một điểm mới khác của Luật Doanh nghiệp năm 2005 theo hướng là luật chung cho
các loại hình doanh nghiệp, là gắn thủ tục đăng ký kinh doanh với thủ tục đăng ký đầu tư.
Điều này xuất phát từ quan điểm đổi mới, đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính, tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp gia nhập thị trường và thực hiện các hoạt động
đầu tư. Rút ngắn hơn thời hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Theo khoản 2
Điều 15 Luật Doanh nghiệp 2005, “”Cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm xem xét
hồ sơ đăng ký kinh doanh và cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong thời hạn
mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ”. Hồ sơ, trình tự, thủ tục, điều kiện và nội dung
đăng ký kinh doanh, đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài lần đầu tiên đầu tư vào Việt Nam
được thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 và pháp luật về đầu tư.
Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
1.3. Quy định về các loại hình Công ty
7
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
a. Quy định về Công ty hợp danh:
Luật Doanh nghiệp 2005 thừa nhận tư cách pháp nhân của Công ty hợp danh.
b. Quy định về Công ty TNHH một thành viên:

Điểm mới nổi bật của Luật Doanh nghiệp năm 2005 về công ty trách nhiệm hữu hạn
Luật cho phép một cá nhân có thể thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
(Điều 63 Luật doanh nghiệp) và đã đưa ra quy định về cơ cấu tổ chức quản lý công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân. Đạo luật cũng đã đưa ra những quy định cụ thể
về người đại diện theo pháp luật của công ty. Theo đó, chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại
Điều lệ công ty.
c. Quy định về công ty TNHH hai thành viên trở lên:
Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã đưa ra quy định cụ thể khác biệt và cụ thể hơn so với
Luật Doanh nghiệp năm 1999 về người đại diện theo pháp luật đối với công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên. Theo đó Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc
Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều lệ công
ty. Người đại diện theo pháp luật của công ty phải thường trú tại Việt Nam, trường hợp
vắng mặt ở Việt Nam trên 30 ngày thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác theo
quy định tại Điều lệ công ty để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo
pháp luật của công ty. Những quy định về người đại diện theo pháp luật của công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên cũng tương đồng với quy định về vấn đề này của
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã đưa ra quy định về người đại diện theo uỷ quyền, đây
chíng là quy định mới so với Luật Doanh nghiệp năm 1999. Theo quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2005, việc chỉ định người đại diện theo uỷ quyền phải bằng văn bản, được
thông báo đến công ty và cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể
từ ngày chỉ định.
d. Quy định về Nhóm công ty:
8
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
Luật doanh nghiệp 2005 bổ sung quy định về nhóm công ty, trong đó điển hình là mô
hình công ty mẹ - công ty con. Theo đó, tổ hợp công ty mẹ - công ty con không có tư cách
pháp nhân; bản thân công ty mẹ và từng công ty con thành viên đều có tư cách pháp nhân.

Điều này có nghĩa, công ty mẹ và các công ty con thành viên đều có tài sản riêng, đều có
khả năng tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi kinh doanh của mình. Tuỳ
thuộc vào loại hình pháp lý của công ty con, công ty mẹ thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình với tư cách là thành viên, chủ sở hữu hoặc cổ đông trong quan hệ với công ty con.
Điều này có nghĩa, nếu công ty con là công ty TNHH thì công ty mẹ sẽ thực hiện quyền
của mình với tư cách là thành viên của công ty đó. Nếu công ty con là công ty TNHH 1
thành viên thì công ty mẹ thực hiện quyền của chủ sở hữu công ty. Nếu công ty con là công
ty cổ phần thì công ty mẹ sẽ thực hiện quyền với tư cách là cổ đông của công ty.
Thực chất, quy định về nhóm công ty nhằm mục đích tăng cường sự công khai, minh
bạch trong hoạt động kinh doanh cũng như hạn chế chế độ trách nhiệm hữu hạn và bảo vệ
lợi ích của cổ đông thiểu số. Đây là một bước phát triển mới của Pháp luật doanh nghiệp
Việt Nam trong việc tạo ra cơ sở pháp lý để hình thành các tập đoàn kinh tế có khả năng
cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
e. Quy định về công ty cổ phần:
Trong Luật Doanh nghiệp 1999, quy định về công ty cổ phần là phần quy định chặt chẽ
nhất, chi tiết nhất. Tuy nhiên, với Luật Doanh nghiệp 2005, các quy định này còn cụ thể
hơn, chi tiết hơn và tiến dần tới chuẩn mực chung của thế giới về công ty cổ phần. Trong
111 Điều quy định về các hình thức doanh nghiệp, có tới 52 điều quy định về công ty cổ
phần. Điều này thể hiện rất rõ chính sách khuyến khích của Nhà nước đối với việc phát
triển loại hình doanh nghiệp này.
Về cơ bản, quy định về Công ty cổ phần vẫn giữ nguyên theo tinh thần của Luật Doanh
nghiệp 1999, tuy nhiên Luật Doanh nghiệp 2005 có một số điểm mới sau:
- Mở rộng quyền của cổ đông phổ thông:
Cổ đông phổ thông được quyền xem xét, tra cứu, trích lục các thông tin trong danh sách
cổ đông, có quyền biểu quyết và quyền yêu cầu sửa đổi các thông tin không chính xác, xem
xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chép điều lệ Cty, sổ biên bản họp Đại hội đồng cổ đông và
các nghị quyết của HĐCĐ.
9
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập

- Bảo vệ quyền của cổ đông hoặc nhóm cổ đông thiểu số
+ Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc một tỷ lệ khác nhỏ
hơn có quyền yêu cầu Ban kiểm soát kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý,
điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết. Có quyền yêu cầu triệu tập Đại
hội đồng cổ đông công ty khi Hội đồng quản trị vi phạm nghiêm trọng quyền của cổ
đông, nghĩa vụ của người quản lý hoặc ra quyết định vượt quá thẩm quyền được giao;
nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị đã vượt quá sáu tháng mà Hội đồng quản trị mới chưa
được bầu thay thế…
+ Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện ít
nhất 65% cổ phần có quyền biểu quyết, trước đây là 51%.
+ Quyết định của Đại hội đồng cổ đông được thông qua tại cuộc họp khi được số cổ
đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp
thuận; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định, trước đây là 51%.
+ Trường hợp thông qua quyết định dưới hình thức lấy ý kiến bằng văn bản thì quyết
định của Đại hội đồng cổ đông được thông qua nếu được số cổ đông đại diện ít nhất 75%
tổng số phiếu biểu quyết chấp thuận; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định, trước đây là
51%.
- Nâng cao trách nhiệm cá nhân của cổ đông phổ thông.
Cổ phần phổ thông phải chịu trách nhiệm cá nhiệm cá nhân khi nhân danh công ty dưới
mọi hình thức để thực hiện một trong các hành vi sau:
+ Vi phạm pháp luật;
+ Tiến hành kinh doanh và các giao dịch khác để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ
chức, cá nhân khác;
+ Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn trước nguy cơ tài chính có thể xảy ra đối
với công ty.
- Quy định cơ chế xử lý đối với cổ đông sáng lập không thanh toán đủ số cổ phần đã
đăng ký mua.
Luật doanh nghiệp 2005 quy định xử lý như sau:
10
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46

Chuyên đề thực tập
+ Các cổ đông sáng lập còn lại góp đủ số cổ phần đó theo tỷ lệ sở hữu cổ phần của họ
trong công ty;
+ Một hoặc một số cổ đông sáng lập nhận góp đủ số cổ phần đó;
+ Huy động người khác không phải là cổ đông sáng lập nhận góp đủ số cổ phần đó;
người nhận góp vốn đó đương nhiên trở thành cổ đông sáng lập của công ty.
Trong trường hợp này, cổ đông sáng lập chưa góp cổ phần theo đăng ký đương nhiên
không còn là cổ đông của công ty.
- Quy định thành viên HĐQT không nhất thiết là cổ đông.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 thì số lượng tối thiểu của Hội đồng quản trị
là 03 người, thành viên của Hội đồng quản trị không nhất thiết là cổ đông của công ty. Vì
vậy, Luật quy định thêm tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên Hội đồng quản trị.
Như vậy, chủ tịch của Hội đồng quản trị cũng không nhất thiết là cổ đông của công ty.

- Quy định tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên của Ban Kiểm soát, quy định cụ thể hơn
quyền và nhiệm vụ của Ban Kiểm soát.
Mở rộng thẩm quyền của Ban Kiểm soát như “Khi phát hiện có thành viên Hội đồng
quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty quy
định tại Điều 119 của Luật này thì phải thông báo ngay bằng văn bản với Hội đồng quản
trị, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục
hậu quả”, “sử dụng tư vấn độc lập để thực hiện các nhiệmvụ được giao”… Ngoài ra Luật
còn quy định về việc miễn nhiệm, bãi nhiệm Ban Kiểm soát. Khi kết thúc năm tài chính,
Hội đồng quản trị phải chuẩn bị các báo cáo và tài liệu về tình hình kinh doanh, tài chính,
đánh giá công tác quản lý để nộp cho Ban Kiểm soát…
1.4. Tăng cường quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp:
Quy định về quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp được tăng cường và cụ thể hơn.
Điều này được thể hiện bằng các quy định về cung cấp thông tin giữa các cơ quan Nhà
nước; quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của từng cơ quan Nhà nước; cấp chính quyền
trong quản lý doanh nghiệp; quy định cụ thể điều kiện giải thể doanh nghiệp; quy định cụ
thể các hành vi bị cấm; bổ sung thêm trường hợp thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh

doanh. Đổi mới cơ bản cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước tại các doanh nghiệp,
11
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
trong đó tách chức năng thực hiện quyền chủ sở hữu ra khỏi chức năng quản lý hành chính
Nhà nước, thực hiện tập trung và thống nhất các quyền chủ sở hữu, đồng thời tôn trọng
quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra Luật còn quy định rõ hơn quyền lợi và nghĩa vụ của người quản lý: Thiết lập
chế độ thù lao, tiền lương gắn với kết quả và hiệu quả kinh doanh của công ty (các Điều
58,73,117,125); Nghĩa vụ của người quản lý, nhất là đối với thành viên Hội đồng quản trị
và Giám đốc, đặc biệt là nghĩa vụ trung thành, trung thực và cẩn trọng (Điều
56,72,119,126,134); Nâng cao, tăng cường và quy định cụ thể hơn vai trò, vị trí và trách
nhiệm của Ban kiểm soát, Thành viên Ban kiểm soát (các Điều 123,124,126).
2. Sự phát triển của pháp luật về quản trị nội bộ
2.1. Các quy định về quản trị nội bộ trong điều lệ công ty.
So với Luật Doanh nghiệp 2005, luật doanh nghiệp 2005 đã có nét đột phá khi đi theo
hướng chỉ quy định những vấn đề cơ bản, có tính nguyên tắc về nhiều nội dung trong quản
trị nội bộ doanh nghiệp, cho phép Điều lệ công ty quy định thêm những vấn đề cụ thể để
đáp ứng nhu cầu điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có
quyền quyết định trong Điều lệ của mình các quan hệ ứng xử nội bộ và cách thức quản lý,
điều hành cụ thể trong hoạt động nội bộ của doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa các quy định
của luật doanh nghiệp 2005 với các yêu cầu của quản trị doanh nghiệp ghi trong điều lệ cty
được thể hiện trong nhiều điều khoản của Luật này. Các quy đinh này của Luật doanh
nghiệp 2005 nhằm hình thành khung quản trị nội bộ tiên tiến của doanh nghiệp.
2.2. Hoàn thiện quản trị doanh nghiệp
Khung quản trị doanh nghiệp được hoàn thiện hơn, rõ ràng hơn và bảo vệ mạnh mẽ hơn
quyền và lợi ích của thành viên, cổ đông. cụ thể:
- Khung quản trị được thiết kế tuỳ theo loại hình doanh nghiệp và được áp dụng
thống nhất đối với doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài hay doanh nghiệp có chủ sở hữu tư nhân, doanh nghiệp sở hữu vốn nhà nước.

- Xác định rõ hơn các nghĩa vụ của người quản lý, nhất là đối với thành viên HĐQT
và Giám đốc, đặc biệt là nghĩa vụ trung thành, trung thực và cẩn trọng.
- Quy định rõ điều kiện và tiêu chuẩn của chức danh quản lý quan trọng trong công ty.
12
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
- Tăng thêm quy định yêu cầu công khai và minh bạch, nhất là đối với những người
quản lý.
- Nâng cao, tăng cường và quy định cụ thể hơn vai trò, vị trí và trách nhiệm của ban
kiểm soát.
- Tăng cường thêm các quy định về quản lý vốn, hạn chế nguy cơ lạm dụng trách
nhiệm hữu hạn.
III. Đặc điểm riêng của Công ty cổ phần
Trong nền kinh tế thị trường, các Công ty cổ phần hình thành theo con đường tự nhiên
là dựa trên nhu cầu vốn lớn của doanh nghiệp khi công nghệ, kỹ thuật phát triển, nhiều lĩnh
vực sản xuất kinh doanh đòi hỏi quy mô sản xuất lớn, đầu tư nhiều trang thiết bị kỹ thuật
hiện đại mà cá nhân các nhà đầu tư không thể có đủ vốn để thực hiện thì Công ty cổ phần -
loại hình doanh nghiệp hoạt động dựa trên vốn góp của các cổ đông - bắt đầu hình thành và
phát triển.
Công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của Công ty đối vốn. Trong đó, vốn của Công ty
được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ
đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ
sở hữu.
Theo quy định tại khoản 1 điều 77 Luật Doanh nghiệp 2005, công ty cổ phần là doanh
nghiệp, trong đó:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau, gọi là cổ phần.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn
chế số lượng tối đa.
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào DN.

- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác trừ
trường hợp quy định tại khoản 3 điều 81 và khoản 5 điều 84 của Luật Doanh nghiệp
2005.
Dựa vào khái niệm trên có thể rút ra những đặc điểm riêng của Cty cổ phần, từ đó chúng
ta có thể phân biệt được công ty cổ phần với công ty TNHH và công ty hợp danh:
13
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
- Thứ nhất, về thành viên công ty: Trong quá trình hoạt động ít nhất phải có 3 thành
viên tham gia công ty cổ phần. Công ty cổ phần là loại hình công ty đặc trưng cho
công ty đối vốn nên cần có sự liên kết của nhiều thành viên và vì vậy, việc quy định
số thành viên tối thiểu phải có đã trở thành thông lệ quốc tế trong mấy trăm năm tồn
tại của công ty cổ phần.
- Thứ hai, vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phần và được phản ánh trong cổ phiếu.
Một cổ phiếu có thể phản ánh mệnh giá của một hoặc nhiều cổ phần. Việc góp vốn
vào công ty được thực hiện bằng cách mua cổ phần, mỗi cổ đông có thể mua nhiều
cổ phần. Luật không hạn chế mỗi thành viên được mua tối đa bao nhiêu phần trăm
vốn điều lệ nhưng các thành viên có thể thỏa thuận trong Điều lệ giới hạn tối đa số
cổ phần mà một thành viên có thể mua nhằm chống lại việc một thành viên nào đó
có thể nắm quyền kiểm soát công ty.
- Thứ ba, tính tự do chuyển nhượng phần vốn góp: phần vốn góp của các thành viên
được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ phiếu do công ty phát hành là một
loại hàng hóa. Người có cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng theo quy định của
pháp luật.
- Thứ tư, về chế độ trách nhiệm: Công ty cổ phần chịu trách nhiệm về các khoản nợ
của công ty bằng tài sản của công ty. Các cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty ( tức là
đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu)
- Thứ năm, trong quá trình hoạt động, công ty cổ phần có quyền phát hành chứng

khoán (như cổ phiếu, trái phiếu) ra công chúng theo quy định của pháp luật về
chứng khoán để huy động vốn.
- Thứ sáu, công ty cổ phần là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, công ty có tư cách
pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
14
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
- Và cuối cùng, công ty cổ phần là loại hình công ty thông thường có rất nhiều thành
viên và việc tổ chức quản lý rất phức tạp, do đó cần phải có một cơ chế quản lý thật
chặt chẽ. Việc quản lý điều hành công ty cổ phần được đặt dưới quyền của 3 cơ
quan: Đại hội đồng cổ đông, HĐQT và Ban kiểm soát quy định cụ thể trong Luật
doanh nghiệp 2005.
Từ những đặc điểm trên, ta có thể rút ra được những thuận lợi đối với công ty cổ phần
là:
- Trách nhiệm pháp lý có giới hạn: trách nhiệm của các cổ đông chỉ giới hạn ở số tiền
đầu tư của họ.
- Tính chất ổn định, lâu bền, sự thừa nhận hợp pháp, khả năng chuyển nhượng các cổ
phần và trách nhiệm hữu hạn, tất cả có nghĩa là nhà đầu tư có thể đầu tư mà không
sợ rủi ro cho các tài sản cá nhân khác và có sự đảm bảo trong một chừng mực nào
đó giá trị vốn đầu tư sẽ tăng lên sau mỗi năm. Điều này tạo khả năng cho hầu hết
các Công ty cổ phần tăng vốn tương đối dễ dàng.
- Được chuyển nhượng quyền sở hữu
Các cổ phần hay quyền sở hữu công ty có thể được chuyển giao dễ dàng. Chúng được
ghi vào danh mục chuyển nhượng tại sở giao dịch chứng khoán và có thể mua hay bán
trong các phiên mở cửa một cách nhanh chóng. Vì vậy, các cổ đông có thể duy trì tính
thanh khoản của cổ phiếu và có thể chuyển nhượng các cổ phiếu một cách thuận tiện
khi họ cần tiền mặt.
Bên cạnh những thuận lợi trên thì việc thành lập và hoạt động của Công ty cổ phần
cũng gặp phải những khó khăn sau:
+ Công ty cổ phần phải chấp hành các chế độ kiểm tra và báo cáo chặt chẽ.

+ Khó giữ bí mật: vì lợi nhuận của các cổ đông và để thu hút các nhà đầu tư tiềm tàng,
công ty thường phải tiết lộ những tin tức tài chính quan trọng, những thông tin này có thể
bị đối thủ cạnh tranh khai thác.
+ Phía các cổ đông thường thiếu quan tâm đúng mức, rất nhiều cổ đông chỉ lo nghĩ đến
lãi cổ phần hàng năm và ít hay không quan tâm đến công việc của công ty. Sự quan tâm
15
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
đến lãi cổ phần này đã làm cho một số ban lãnh đạo chỉ nghĩ đến mục tiêu trước mắt chứ
không phải sự thành đạt lâu dài. Với nhiệm kỳ hữu hạn, ban lãnh đạo có thể chỉ muốn bảo
toàn hay tăng lãi cổ phần để nâng cao uy tín của bản thân mình.
+ Công ty cổ phần bị đánh thuế hai lần. Lần thứ nhất thuế đánh vào công ty. Sau đó, khi
lợi nhuận được chia, nó lại phải chịu thuế đánh vào thu nhập cá nhân của từng cổ đông.
IV. Khái quát về Thị trường chứng khoán và Công ty chứng khoán:
1. Thị trường chứng khoán
1.1. Khái niệm Thị trường chứng khoán:
Cho đến thời điểm này có rất nhiều quan điểm khác nhau về TTCK, do đó khó có thể đưa
ra một khái niệm thống nhất. Tuy nhiên, để có một cái nhìn toàn diện về TTCK, chúng ta
có thể tham khảo các ý kiến sau:
- Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng
khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi
người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những
thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị
trường sơ cấp. Như vậy, xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán là nơi diễn ra
các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay
đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán.
- Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng
khoán, trong đó chứng khoán là các giấy tờ có giá hoặc bút toán ghi sổ, nó cho phép
chủ sở hữu có quyền sở hữu hoặc quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức
phát hành. Các quyền yêu cầu này là khác nhau giữa các loại chứng khoán tuỳ theo

tính chất sở hữu của chúng.
Từ những quan điểm trên, ta thấy rằng TTCK không giống với thị trường hàng hóa
thông thường, bởi vì hàng hóa được mua bán, trao đổi, chuyển nhượng trên TTCK là các
loại chứng khoán, hay chính là quyền sở hữu về tư bản.
Với mục tiêu hội nhập theo sự phát triển của nền kinh tế thế giới và phù hợp với tình
hình phát triển của đất nước, TTCK Việt Nam ra đời. Sự ra đời của TTCK Việt Nam được
16
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
đánh dấu bằng sự kiện thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chính Minh, bắt
đầu hoạt động vào ngày 20/07/2000 và giao dịch phiên đầu tiên ngày 28/07/2000.

1.2. Phân loại Thị trường chứng khoán:
• Căn cứ vào hình thức hoạt động của thị trường, TTCK được chia thành hai loại là:
TTCK tập trung và TTCK phi tập trung.
- TTCK tập trung: Tính tập trung phản ánh các giao dịch được tổ chức tập trung theo
một địa điểm vật chất. Hình thái điển hình của TTCK tập trung là Sở giao dịch
chứng khoán( hay Stock Exchange).
Tại VN, Sở giao dịch chứng khoán như đã nói ở trên chính là Trung tâm giao dịch
chứng khoán Hà Nội (HASTC) và Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh (HOSE).
- TTCK phi tập trung còn có tên gọi khác là thị trường OTC( viết tắt của Over the
Couter). Trên TTCK phi tập trung, giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công
ty chứng khoán nằm khắp mọi miền và nối mạng với nhau. Giá thị trường này được
hình thành theo phương thức thỏa thuận.
• Căn cứ vào tính chất của sự luân chuyển nguồn vốn: TTCK được chia thành hai loại
là TTCK sơ cấp và TTCK thứ cấp:
- TTCK sơ cấp là nơi mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này,
vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư
mua cổ phiếu mới phát hành từ nhà phát hành.
- TTCK thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã phát hành trên thị trường sơ cấp.

Thị trường này bảo đảm tính thanh khoản cho các chứng khoán mới phát hành.
• Căn cứ vào phương thức giao dịch: Thị trường chứng khoán được chia thành thị
trường giao ngay và thị trường giao sau
- Thị trường giao ngay: là thị trường mua bán chứng khoán theo giá tại thời điểm giao
dịch nhưng việc thực hiện thanh toán và giao hàng có thể diễn ra sau dó một vài
ngày theo thoả thuận.
17
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
- Thị trường giao sau: Là thị trường mua bán chứng khoán theo một loại hợp đồng
định sẵn, giá cả được thoả thuận trong ngày giao dịch , nhưng việc thanh toán và
giao hàng xảy ra trong một thời hạn ở tương lai.
• Căn cứ vào đặc điểm hàng hoá lưu hành: Tthị trường chứng khoán còn được chia
thành thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu và thị trường các công cụ phái sinh.
1.3 Các chủ thể trên TTCK Việt Nam
1.3.1 Tổ chức phát hành chứng khoán
Các tổ chức phát hành gồm có: Chính phủ( Kho bạc Nhà nước), Chính quyền địa
phương, các công ty cổ phần, doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa, Công ty quản lý quỹ và
các quỹ đầu tư chứng khoán.
Những tổ chức trên được phép phát hành chứng khoán để bán trên thị trường nhằm mục
đích huy động vốn.
1.3.2 Nhà đầu tư chứng khoán:
Nhà đầu tư chứng khoán là tổ chức, cá nhân Việt Nam và các tổ chức nước ngoài tham
gia đầu tư trên TTCK.
- Các nhà đầu tư cá nhân, hộ gia đình, nhà đầu tư có tổ chức và các tổ chức đầu tư
chuyên nghiệp như Ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư và công ty quản lý
quỹ.
- Các nhà đầu tư nước ngoài: các tổ chức, cá nhân nước ngoài có thể tham gia mua
chứng khoán trên TTCK Việt Nam.
1.3.3 Chủ thể trung gian trên TTCK.

a. Ủy ban chứng khoán Nhà nước:
Ủy ban chứng khoán Nhà nước là một cơ quan trực thuộc Chính phủ, được thành lập
theo Nghi định 75/ NĐ- CP ngày 28 tháng 01 năm 1996. Ủy ban thực hiện chức năng tổ
chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK, quản lý việc cấp giấy phép, đăng ký
phát hành và kinh doanh chứng khoán, tổ chức công tác thanh tra giám sát các hoạt động
18
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
giao dịch mua bán chứng khoán để đảm bảo cho thị trường hoạt động ổn định, công bằng
và minh bạch.
b. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội:
Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội có tên Tiếng Anh là Hanoi Stock Trading
Centre, viết tắt là HASTC. Đây là đơn vị trực thuộc có thu của Uỷ ban chứng khoán Nhà
nước, có tư cách pháp nhân, thực hiện các chức năng tổ chức và quản lý điều hành việc
mua bán chứng khoán, quản lý điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán và cung cấp các
dịch vụ hỗ trợ việc mua bán chứng khoán, dịch vụ lưu ký chứng khoán, đăng ký chứng
khoán, thanh toán bù trừ đối với các giao dịch chứng khoán, công bố thông tin về hoạt
động giao dịch chứng khoán, kiểm tra giám sát các hoạt động giao dịch chứng khoán và
một số hoạt động khác…
Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội thực hiện quản lý trên TTCK phi tập trung.
c. Trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh:
Trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh cũng thực hiện các chức năng giống
như Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, nhưng quản lý trên thị trường tập trung.
Theo quyết định số 599/ QĐ- TTg ngày 11 tháng 05 năm 2007 của Thủ tướng Chính
phủ thì Trung tâm Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chính thức đổi tên thành
Sở Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh với tên Tiếng Anh là Ho Chi Minh
Stock Exchange, viết tắt là HOSE.
d. Công ty chứng khoán:
Theo điều 59 Luật chứng khoán 2006, Công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình
thức Công ty TNHH hoặc Công ty cổ phần.

Công ty chứng khoán được thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh
sau: Môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư
vấn đầu tư chứng khoán, dịch vụ tư vấn tài chính và các dịch vụ tài chính khác.
e. Các tổ chức hỗ trợ khác:
Các tổ chức hỗ trợ khác có thể kể đến là các tổ chức lưu ký, thanh toán và bù trừ chứng
khoán, các tổ chức kiểm toán, Ngân hàng …
19
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
2. Công ty chứng khoán
2.1 Khái niệm Công ty chứng khoán
Điều 59 của Luật chứng khoán 2006 chỉ quy định về hình thức tổ chức pháp lý của
Công ty chứng khoán. Sau đây, để hiểu rõ về Công ty chứng khoán, chúng ta hãy xem
xét một số khái niệm:
- Công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty TNHH thành lập theo Pháp luật
Việt Nam để kinh doanh chứng khoán theo giấy phép do Uỷ ban chứng khoán Nhà
nước cấp.
- Công ty chứng khoán là một tổ chức kinh doanh chứng khoán có tư cách pháp nhân,
có vốn riêng hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế, hoạt động theo giấy phép do
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp. Công ty chứng khoán có chức năng của người
môi giới, người chuyên viên & người bảo lãnh chứng khoán.
Tuy Luật Chứng khoán 2006 không quy định nhưng theo khoản 1 Điều 2 Quy chế Tổ
chức và hoạt động của Công ty chứng khoán thì: Công ty chứng khoán là tổ chức có tư
cách pháp nhân hoạt động kinh doanh chứng khoán, bao gồm một, một số hoặc toàn bộ
các hoạt động: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng
khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán.
Theo quy định tại Luật Chứng khoán 2006, Ủy ban chứng khoán Nhà nước là cơ quan
có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh cho các công ty cổ phần hoặc công ty TNHH
được thành lập để hoạt động kinh doanh chứng khoán nếu như những công ty này đáp
ứng được đầy đủ điều kiện theo quy định của Pháp luật hiện hành về mức vồn pháp

định, cơ sở vật chất kỹ thuật, nhân viên Công ty phải có chứng chỉ hành nghề kinh
doanh chứng khoán do Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp.
2.2 Phân loại Công ty chứng khoán:
Có thể phân loại CTCK thành các loại sau:
- Công ty môi giới chứng khoán: là công ty cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư
chứng khoán cho khách hàng và nhận hoa hồng.
20
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
- Công ty kinh doanh chứng khoán: là công ty tự bỏ vốn và tự kinh doanh chứng
khoán. Giống như mọi nhà đầu tư, họ kinh doanh trên vốn của mình và tự chịu trách nhiệm
về kết quả kinh doanh.
- Công ty bảo lãnh phát hành: là công ty cung ứng các dịch vụ bảo lãnh đối với những
công ty có dự định phát hành chứng khoán và hưởng phí từ dịch vụ đó hoặc hưởng lợi từ
sự chênh lệch giá chứng khoán ( trong trường hợp bảo lãnh có cam kết mua số chứng
khoán còn dư).
- Công ty tư vấn tài chính và tư vấn đầu tư chứng khoán: là công ty cung cấp các dịch
vụ tư vấn như tư vấn cổ phần hóa, tư vấn niêm yết, tư vấn phát hành trái phiếu, tư vấn định
giá, thẩm định đầu tư và thu phí dịch vụ.
- Công ty quản lý danh mục đầu tư (các quỹ): là công ty nhận uỷ quyền hay nguồn
vốn từ khách hàng, đại diện cho khách hàng, thông qua việc giao dịch mua bán chứng
khoán trên thị trường chứng khoán để kiếm lời cho mình và cho khách hàng.
- Công ty trái phiếu: là công ty chuyên mua bán các loại trái phiếu
- Công ty chứng khoán phi tập trung : là các công ty hoạt động chủ yếu trên thị
trường OTC và đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường.
2.3 Đặc điểm của Công ty chứng khoán
2.3.1 Các quy chế pháp lý đối với Công ty chứng khoán:
a. Loại hình tổ chức của Công ty chứng khoán
- Công ty chứng khoán là công ty cổ phần: Công ty cổ phần là công ty mà vốn được
chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Công ty cổ phần có tư cách pháp

nhân và có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của Pháp
luật.
- Công ty chứng khoán thành lập dưới hình thức công ty TNHH: Công ty TNHH là
doanh nghiệp trong đó thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài
sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp.
Cty TNHH không được quyền phát hành cổ phiếu.
b. Các điều kiện và thủ tục được cấp giấy phép thành lập và hoạt động Công ty chứng
khoán
• Điều kiện cấp phép thành lập và hoạt động:
21
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
 Có trụ sở, có trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh chứng khoán (Đối với nghiệp
vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán không phải đáp ứng
điều kiện này).
Theo quy định tại khoản 1 điều 3 Quy chế Tổ chức và hoạt động của Công ty chứng
khoán thì Điều kiện cấp Giấy phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán là Công ty
chứng khoán phải có trụ sở đảm bảo các yêu cầu sau:
- Quyền sử dụng trụ sở làm việc tối thiểu một năm, trong đó diện tích làm sàn giao
dịch phục vụ nhà đầu tư tối thiểu 150 m
2
;
- Có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ hoạt động kinh doanh, bao gồm: Sàn giao
dịch phục vụ khách hàng; thiết bị văn phòng, hệ thống máy tính cùng các phần mềm thực
hiện hoạt động giao dịch chứng khoán; trang thông tin điện tử, bảng tin để công bố thông
tin cho khách hàng; hệ thống kho, két bảo quản chứng khoán, tiền mặt, tài sản có giá trị
khác và lưu giữ tài liệu, chứng từ giao dịch đối với công ty chứng khoán có nghiệp vụ môi
giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán;
- Hệ thống phòng cháy chữa cháy theo quy định của pháp luật;
- Có hệ thống an ninh, bảo vệ an toàn trụ sở làm việc.

 Có đủ vốn góp theo quy định của Chính phủ
Theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 14/ NĐ - CP ngày 19 tháng 01 năm 2007 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán
2006 thì Vốn pháp định cho các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán trong
nước, công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh công ty chứng khoán nước
ngoài tại Việt Nam là:
+ Môi giới chứng khoán: 25 tỷ VNĐ
+ Tự doanh chứng khoán: 100 tỷ VNĐ
+ Bảo lãnh phát hành chứng khoán: 165 tỷ VNĐ
+ Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ VNĐ
Trong trường hợp Công ty xin cấp giấy phép cho nhiều hoạt động kinh doanh thì vốn
pháp định là tổng số vốn pháp định theo từng loại hình kinh doanh mà công ty được cấp
phép.
22
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
 Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc và các nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán phải có chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán do Ủy ban chứng khoán Nhà
nước cấp.
Ngoài ra, Quy chế Tổ chức và hoạt động của Công ty chứng khoán còn quy định các
Tiêu chuẩn đối với Tổng Giám đốc, Phó Tổng giám đốc, Giám đốc Chi nhánh, Phó Giám
đốc chi nhánh của công ty chứng khoán. Hơn nữa Điều 3 khoản 3 còn quy định có tối thiểu
ba (03) người hành nghề chứng khoán cho mỗi nghiệp vụ kinh doanh.
 Điều kiện đối với cá nhân góp vốn:
- Đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 62 Luật Chứng khoán;
- Chỉ được phép sử dụng vốn của chính mình để góp vốn, không được sử dụng nguồn vốn
ủy thác đầu tư của pháp nhân và cá nhân khác.
Cá nhân góp vốn từ 5% trở lên vốn điều lệ của công ty chứng khoán phải chứng
minh tài sản bằng tiền, chứng khoán hoặc các tài sản khác. Đối với tài sản bằng tiền,
phải có xác nhận của ngân hàng về số dư tại ngân hàng. Đối với tài sản bằng chứng

khoán, phải có xác nhận của công ty chứng khoán hoặc của tổ chức phát hành về số
chứng khoán đó. Đối với tài sản khác, phải có tài liệu chứng minh quyền sở hữu và tài
sản đó phải được định giá bởi tổ chức định giá đang hoạt động hợp pháp tại Việt
Nam.
Điều kiện đối với pháp nhân:
- Đang hoạt động hợp pháp;
- Vốn chủ sở hữu (không tính các khoản đầu tư dài hạn) đảm bảo đủ góp vốn theo cam
kết; hiệu số giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn tại thời điểm báo cáo tài chính năm
gần nhất có kiểm toán tối thiểu bằng số vốn góp;
- Không được dùng vốn ủy thác của các tổ chức, cá nhân khác để góp vốn.
 Cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% vốn điều
lệ thực góp ban đầu của công ty chứng khoán. Phần vốn góp ban đầu của cổ đông
sáng lập, thành viên sáng lập không được chuyển nhượng trong vòng ba năm kể từ
ngày được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, trừ trường hợp chuyển nhượng cho
23
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp và
phù hợp với Điều lệ công ty.
• Cơ quan cấp giấy phép thành lập và hoạt động
Theo quy định của Pháp luật Việt Nam, chỉ có các Công ty chứng khoán được Chính
phủ( Bộ Tài chính, Ủy ban chứng khoán Nhà nước) cấp giấy phép mới được kinh doanh
chứng khoán tại Việt Nam. Ngoài công ty chứng khoán, không một cá nhân hoặc thực thể
pháp lý nào khác được cấp giấy phép hành nghề tương tự.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Ủy ban chứng khoán Nhà
nước cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho công ty chứng khoán( Trích khoản 1 Điều
65 Luật Chứng khoán 2006)
2.3.2 Đặc điểm về các loại hình nghiệp vụ kinh doanh của Cty chứng khoán:
Như đã đề cập ở trên, các loại hình nghiệp vụ kinh doanh mà Cty chứng khoán thực
hiện gồm có: Môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng

khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, tư vấn tài chính và các dịch vụ tài chính khác. Chỉ có
công ty chứng khoán mới được phép thực hiện các nghiệp vụ nói trên và đây chính là đặc
điểm của công ty chứng khoán so với các công ty khác.
Để hiểu rõ hơn về sự khác biệt này, chúng ta nên đi sâu vào việc tìm hiểu từng loại hình
nghiệp vụ.
a. Môi giới chứng khoán:
Môi giới chứng khoán là việc công ty chứng khoán làm trung gian thực hiện mua, bảo
lãnh chứng khoán cho khách hàng (Điều 6.20 Luật chứng khoán 2006)
Thông qua hoạt động môi giới chứng khoán, Công ty chứng khoán sẽ thay mặt khách
hàng của mình để tiến hành các giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường
OTC, và chính khách hàng phải tự chịu trách nhiệm về kết quả giao dịch của mình. Khi
giao dịch bắt đầu, có nghĩa là Công ty chứng khoán đã kết nối thành công người bán chứng
khoán và người mua chứng khoán.
Hoạt động môi giới chứng khoán là hoạt động mang lại lợi nhuận cao cho các Công ty
chứng khoán. Hoạt động này là sự liên kết giữa nguồn cung và cầu trên TTCK. Công ty
chứng khoán là điều kiện để các nhà đầu tư giao dịch với nhau mà không cần quan tâm họ
24
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46
Chuyên đề thực tập
đang ở đâu, có quen biết nhau hay không mà chỉ cần có hai lệnh khớp nhau là các Công ty
chứng khoán sẽ thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch và nhận tiền hoặc chứng khoán
thay cho khách hàng đã mở tài khoản tại Công ty chứng khoán đó.
b. Hoạt động tự doanh chứng khoán
Tự doanh chứng khoán là việc Công ty chứng khoán mua hoặc bán chứng khoán cho
chính mình (Điều 6.21 Luật chứng khoán 2006)
Trong hoạt động tự doanh, Công ty chứng khoán dùng chính nguồn vốn của công ty để
kinh doanh chứng khoán. Mục đích của hoạt động tự doanh là mang đến thu nhập cho
chính Công ty chứng khoán. Lúc này, Công ty nắm giữ một số lượng chứng khoán nhất
định và thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán với khách hàng để hưởng chênh lệch giá.
Khi một Công ty chứng khoán thực hiện hoạt động tự doanh, đôi khi Công ty chứng

khoán còn tham gia với tư cách là Nhà tạo lập thị trường. Nếu như vậy, ngoài mục tiêu lợi
nhuận, Công ty chứng khoán còn phải thực hiện một mục tiêu với vai trò quan trọng là bình
ổn giá chứng khoán. Để thực hiện các mục tiêu đó, Công ty chứng khoán phải đảm bảo có
đủ tiền và chứng khoán để thanh toán các lệnh giao dịch của chính mình. Theo quy định
của Việt Nam, khi tiến hành hoạt động tự doanh, Công ty chứng khoán cần phải chú ý các
điểm sau:
- Không được đầu tư vào cổ phiếu của công ty có sở hữu trên 50% vốn điều lệ của
Công ty chứng khoán.
- Không được đầu tư trên 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một số tổ chức
niêm yết trên thị trường tập trung.
- Không được đầu tư trên 15% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một số tổ chức
không niêm yết trên thị trường phi tập trung.
- Không được đầu tư góp vốn trên 15% tổng số vốn góp của một công ty TNHH.
Đây là 04 quy định riêng đối Công ty chứng khoán, và chỉ có Công ty chứng khoán phải
tuân theo các quy định này.
c. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết với tổ chức
phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay
25
SV: Hoàng Ngọc Hoa - Lớp Luật kinh doanh 46

×