Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Ý nghĩa trào lưu chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Bắc Âu đối với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.25 KB, 16 trang )

QUY ĐỊNH VIẾT TẮT
1.
2.
3.
4.

CNXH: Chủ nghĩa xã hội
CNTB: Chủ nghĩa tư bản
CNXHDC: Chủ nghĩa xã hội dân chủ
DCXH: Dân chủ xã hội


Đề bài: Ý nghĩa trào lưu chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Bắc Âu đối với chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
MỞ ĐẦU
Trào lưu chủ nghĩa xã hội dân chủ đã trải qua hơn 150 năm tồn tại và phát
triển với những tên gọi khác nhau: Xã hội dân chủ, Chủ nghĩa xã hội Dân chủ,
Dân chủ xã hội… Theo quan điểm Mácxít, trào lưu này có nguồn gốc từ xu
hướng cơ hội trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Theo quan điểm
của các nhà lý luận xã hội dân chủ, trào lưu xã hội dân chủ có 3 cội nguồn: Triết
học đạo đức của thời kỳ Khai sáng; Đạo Thiên chúa thiên tả và Chủ nghĩa Mác.
Ba cội nguồn trên có ngay từ buổi đầu và song song tồn tại trong phong trào xã
hội dân chủ. Và các nước Bắc Âu được xem là khu vực kiểu mẫu của thành
công, đạt được nhiều thành tựu khi thực hiện mơ hình này. Những thành tựu của
mơ hình chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Bắc Âu để lại nhiều ý nghĩa và bài học kinh
nghiệm cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, nhất là
trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành hội nhập quốc tế, tham gia vào quá
trình tồn cầu hóa sâu rộng. Vì bởi những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Ý nghĩa
trào lưu chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Bắc Âu đối với chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam” làm đề tài tiểu luận của mình



CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÀO LƯU
DÂN CHỦ XÃ HỘI
1.1.

Khái niệm
Thuật ngữ "Dân chủ xã hội” và "Chủ nghĩa xã hội dân chủ" trong lịch sử

từng là những khái niệm đồng nghĩa, được sử dụng thay thế nhau trong từng
giai đoạn cụ thể. Đây là một khái niệm chính trị xuất hiện lần đầu tiên trong
phong trào cách mạng Đức vào những năm 1848 – 1849, nó thể hiện tư tưởng
xây dựng một xã hội dân chủ cho mọi cơng dân, trong đó dân chủ về chính trị
xã hội gắn liền với cơng bằng xã hội và nghĩa vụ đóng góp của mỗi người dân,
đối lập với tư tưởng nhà nước dân tộc Sô Vanh và quân phiệt của Đức thời bấy
giờ. Các nhà nước dân chủ được thiết lập theo tinh thần của dân chủ xã hội ở
nhiều nước châu Âu đã thể hiện một trình độ, mức sống chưa từng có trong lịch
sử và trên toàn cầu về viêc thực hiện những mục tiêu chính trị có tầm quan
trọng như là sự tôn trọng quyền con người, bảo đảm dân chủ, an toàn xã hội,
mức sống cao và mọi người đều được học hành, đào tạo dù rằng vẫn còn cách
khá xa với mục tiêu về một xã hội những con ngườ tự do bình đằng mà những
người dân chủ xã hội đề ra.
Trong những năm 1950, để làm nổi bật bản chất "dân chủ" của nền DCXH,
các nhà DCXH đã đảo ngược tên hệ tư tưởng của họ từ "Dân chủ xã hội" sang
"Chủ nghĩa xã hội dân chủ". Trong những năm 1990, sau khi Liên Xô sụp đổ và
trước những thay đổi mạnh mẽ ở Đông Âu, các Đảng DCXH một lần nữa thay
đổi tên hệ tư tưởng của họ từ "Chủ nghĩa xã hội dân chủ" sang "Dân chủ xã
hội". Tháng 9 năm 1992, Quốc tế xã hội đã tổ chức Đại hội lần thứ 19 tại Berlin.
Đại hội với chủ đề "Thay đổi dân chủ xã hội trên thế giới" và đưa ra một tuyên
bố về vấn đề này. Các bài phát biểu quan trọng trong Đại hội thường sử dụng
xen kẽ giữa các từ "Dân chủ xã hội" và "Chủ nghĩa xã hội dân chủ" ở các mức

độ khác nhau.
“Trào lưu dân chủ xã hội” là một trào lưu tư tưởng chỉnh trị phong trào
công nhân, lúc đầu chịu ảnh hưởng tích cực của chủ nghĩa Mác, về sau xa dần


mục tiêu đấu tranh của phong trào công nhân, thực hiện những thỏa hiệp chỉnh
trị với giai cấp tư sản. Lịch sử tồn tại của nó là một q trình đầy mâu thuẫn và
thăng trầm, gắn liền với những cuộc đấu tranh trong nội bộ từng đảng cũng như
trong trào lưu nói chung, giữa hai trào lưu dân chủ xã hội và cộng sản trong
phong trào công nhân quốc tế.
Khác với CNXH với mục đích chấm dứt ưu thế của hệ thống tư bản chủ
nghĩa hay mục đích thay thế nó một cách triệt để, DCXH là loại hình hướng đến
việc cải tạo CNTB một cách hịa bình thơng qua tiến hóa xã hội, qua sự điều
hành của nhà nước và việc xây dựng các chương trình và tổ chức do nhà nước
tài trợ để hoạt động nhằm giảm nhẹ hoặc dần loại bỏ những sự bất công do hệ
thống thị trường tư bản chủ nghĩa gây ra, đồng thời phủ nhận sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân, phủ nhận bạo lực cách mạng.
1.2.

Bản chất xã hội
Dù có thể dùng các tiêu chí, tên gọi khác nhau để mơ tả nhưng các mơ

hình dân chủ đều có điểm chung là nhấn mạnh tới các khía cạnh, đặc tính nào
đó của việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, và xem xét chúng có phù
hợp với nguyện vọng của dân chúng hay khơng. Nói cách khác, nhân dân có
phải là người quyết định tối hậu hay khơng, mức độ, phạm vi của các vấn đề mà
người dân có quyết định tối hậu. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, sự đa
dạng của các nền văn minh là một tính năng quan trọng của xã hội lồi người,
dân chủ và tự do không tồn tại cái gọi là mơ hình hồn hảo. Vì các quốc gia trên
thế giới có những điều kiện và lộ trình phát triển cụ thể khác nhau nên logic,

con đường phát triển và mô hình thể chế phát triển dân chủ cũng sẽ là khác
nhau.
Mục tiêu kinh tế: Mục tiêu kinh tế của CNXHDC là sự thịnh vượng và
bình đẳng. CNXHDC cam kết phát triển kinh tế, ủng hộ nền kinh tế sở hữu hỗn
hợp, tin rằng quyền sở hữu không phải là dấu hiệu của chủ nghĩa xã hội.
CNXHDC ủng hộ vai trò của thị trường, bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, thực hiện
dân chủ kinh tế (tham gia vào quản lý, đàm phán) để vượt qua sự bất công trong


phân phối. Mục tiêu chính trị. CNXHDC thực hiện dân chủ hiến pháp, đặc điểm
chính của nó là nhấn mạnh đến nền dân chủ. CNXHDC mà nhà nước là cộng
đồng quyền lợi của nhân dân, ủng hộ hợp tác giai cấp, thúc đẩy hệ thống quốc
gia về dân chủ hóa. CNXHDC ủng hộ mạnh mẽ các hoạt động của các tổ chức
xã hội như cơng đồn, tơn giáo, phụ nữ và bảo vệ môi trường. CNXHDC công
nhận sự phân chia quyền lực, việc thực hiện phổ thông đầu phiếu, chiến dịch đa
đảng, giám sát lẫn nhau trong nắm giữ quyền lực, ủng hộ tự do báo chí và sự
độc lập của tự pháp.
Mục tiêu xã hội: CNXHDC bênh vực xây dựng nhà nước phúc lợi. Cái
gọi là trạng thái phúc lợi là một hệ thống an ninh xã hội hoàn hảo. Các nhà xã
hội dân chủ tin rằng an ninh xã hội khơng thể đạt được nếu khơng có an sinh xã
hội, bao gồm quyền được hưởng chăm sóc phúc lợi, quyền được học hành,
quyền làm việc, quyền nghỉ ngơi, quyền nhà ở, trợ cấp thất nghiệp, an ninh y
tế…
Từ những năm 1990, mơ hình DCXH nói chung và mơ hình DCXH của
các Đảng DCXH Châu Âu nói riêng đã gặp phải những thách thức chưa từng
có. Một trong những biểu hiện của thách thức này là lý thuyết về DCXH đã mất
đi sự hấp dẫn ban đầu trước những thay đổi của tồn cầu hố và cấu trúc xã hội.
Bên cạnh đó, các vấn đề về phúc lợi xã hội, thâm hụt ngân sách, lạm phát,
doanh nghiệp nhà nước thiếu sức sống; sự phát triển của công nghệ, dẫn đến
thay đổi đáng kể trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu giai cấp dưới sự xuất hiện của

các ngành công nghiệp mới và sự suy giảm của các ngành công nghiệp truyền
thống; tham nhũng trong Đảng DCXH ngày càng trở nên nghiêm trọng
Có nhiều nguyên nhân và nhiều cách giải thích cho sự khủng hoảng của
DCXH hiện nay. Một số nghiên cứu cho rằng, ngày nay, không ai phản đối các
nguyên tắc cơ bản của DCXH vì hầu hết các nguyên tắc này đã đạt được hoặc
đã được thông qua và áp dụng trong các chương trình của các đảng chính trị
khác, và vì vậy cử tri khơng nhận thấy sự điển hình hay bản sắc riêng của
DCXH. Số khác lại cho rằng, do ảnh hưởng mạnh mẽ của làn sóng tự mới trong


những năm 1990, bao gồm cả bên cánh tả (Con đường thứ ba), và hệ quả của sự
thỏa hiệp của các nhà DCXH đã làm lệch lạc các giá trị cơ bản của DCXH.
Tồn cầu hóa, Châu Âu hóa và sự thay đổi xã hội đã làm giảm giá trị của các
cơng cụ chính sách… Những mục tiêu chủ yếu của những người DCXH là duy
trì an sinh xã hội ở trình độ cao, để bù đắp cho sự dao động có tính chu kỳ của
nền kinh tế và để ngăn chặn sự bất bình đẳng kinh tế. Tuy nhiên, tồn cầu hóa,
tác động tiêu cực của hội nhập và thị trường EU đã thách thức ba mục tiêu này.
Tóm lại, Trào lưu dân chủ xã hội là một trong ba trào lưu lý luận chính
trị - xã hội đương đại chủ yếu, có q trình lịch sử lâu đời với nhiều giai đoạn
tồn tại và phát triển phức tạp; trong mỗi giai đoạn lại có những thay đổi nhất
định về quan điểm lý luận và đường lối, chính sách thực tiễn.


CHƯƠNG II: KHẢO SÁT THÀNH TỰU VÀ THÁCH THỨC CỦA CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI DÂN CHỦ Ở BẮC ÂU
2.1. Thành tựu
2.1.1. Xây dựng xã hội dân chủ, cơng bằng, bình đẳng hơn
Ở các nước Bắc Âu, người dân có khả năng tham gia vào chính trị ngày
càng tích cực hơn. Nhân dân được biết tương đối đầy đủ nhà nước, chính phủ
đang và sẽ làm gì. Những sáng kiến chính trị của người dân được lắng nghe tơn

trọng và có cơ chế hiện thực để trình bày, thẩm định và nếu khả thi thì sẽ được
pháp luật có cơ chế để hiện thực hóa. Quyền của người dân được tham gia vào
các hoạt động kinh tế và thụ hưởng thành quả của nền kinh tế thị trường xã hội,
được nhà nước và xã hội bảo đảm ở mức tương đối tốt, thông qua phân phối
theo lao động và phúc lợi xã hội.
Các nước Bắc Âu có một nền kinh tế thị trường khá lành mạnh, năng
động và được điều tiết vì những lợi ích xã hội, đã được xây dựng khá vững chắc
và có khả năng “đề kháng” với những bất trắc của kinh tế tồn cầu. Cơng bằng
xã hội và bình đẳng xã hội cũng đã có những thành tích đáng kể. So với các
nước theo mơ hình kinh tế thị trường tự do và những nước đang xây dựng nền
kinh tế thị trường gặp phải hiện tượng phân hóa giàu nghèo tiêu cực diễn ra với
quy mô lớn, tốc độ nhanh và sâu sắc thì mơ hình Bắc Âu có sự phân hóa giàu
nghèo thấp hơn nhiều.
Nhà nước phúc lợi xã hội với chính sách bảo hiểm xã hội, an sinh xã hội
là công cụ điều tiết quan trọng nhất để đạt tới bình đẳng xã hội. Nhà nước chịu
trách nhiệm chính cho tồn bộ phúc lợi của các cơng dân. Trách nhiệm nhà
nước ở đây mang tính tồn diện, khá chu đáo cho tất cả, đều do một “mạng lưới
an sinh xã hội” bảo đảm. Mơ hình này đã khá thành công cả về tăng trưởng kinh
tế và phát triển xã hội theo hướng dân chủ, công bằng, văn minh. Các nước này
trong nhiều năm qua, về mọi tiêu chí tích cực ln nằm ở tốp dẫn đầu của thế
giới. Đây là những quốc gia có độ ổn định cao về chính trị, có khả năng cạnh
tranh về kinh tế, phúc lợi xã hội cao (giáo dục, y tế, an sinh...) và đạt được chỉ


số hạnh phúc rất cao. Các nước Bắc Âu hiện là nhóm nước có chỉ số phát triển
con người cao nhất trên thế giới. Trong tổng số 189 nước được xếp hạng năm
2018[7]. Nauy xếp thứ nhất, Thụy Điển thứ bảy, Đan Mạch thứ 11 và Phần Lan
thứ 15. Nếu xét về chỉ số bất bình đẳng thì các nước Bắc Âu cũng thuộc nhóm
có chỉ số bất bình đẳng thấp nhất trên thế giới. Xét về chỉ số hạnh phúc thì các
nước Bắc Âu nằm trong top các nước người dân hạnh phúc nhất theo Báo cáo

về chỉ số hạnh phúc năm 2019[8]: Phần Lan xếp thứ nhất, Đan Mạch thứ hai,
Nauy thứ ba và Thụy Điển thứ 7.Các chỉ số trên cho thấy hệ thống phúc lợi xã
hội của các nước Bắc Âu được xếp vào hàng cao nhất trên thế giới hiện nay.
Các nước Bắc Âu cho rằng, muốn có nguồn lực để thực hiện phúc lợi xã
hội, nâng cao đời sống con người, thì cần phải có nhiều của cải vật chất, và
muốn vậy, thì cần phải thúc đẩy phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế sẽ là tốt
nhất trong nền kinh tế dựa trên thị trường cởi mở, hiệu quả.
2.1.2. Quản lý phát triển hiện đại, hạn chế được nhiều khuyết tật của kinh tế
thị trường
Chính phủ năng động, khắc phục nhanh tác động tiêu cực của khủng
hoảng kinh tế và đang thực hiện chuyển đổi mơ hình tăng trưởng theo u cầu
của cách mạng công nghiệp 4.0. Hiện nay, Bắc Âu là một trong những khu vực
hội nhập nhất và là nền kinh tế lớn thứ 11 của thế giới với tổng giá trị GDP là
1.416 tỷ đô la Mỹ [5]
Kinh tế thị trường xã hội của các nước Bắc Âu là một trong những mơ
hình phát triển được xem là khá phù hợp hiện nay. Tính chất xã hội, giá trị xã
hội, hiệu quả tích cực với phát triển xã hội là yêu cầu pháp lý và đạo đức của
loại hình thị trường này. Nền kinh tế thị trường xã hội là một nền kinh tế thị
trường kết hợp tự do cá nhân, năng lực hoạt động kinh tế với điều tiết của nhà
nước vì tiến bộ và cơng bằng xã hội.
Tư tưởng chủ đạo của mơ hình này là: tự do thị trường, tự do kinh doanh,
khơng có sự khống chế của độc quyền, bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, bảo vệ hệ
thống kinh tế tư bản, nêu cao tính độc lập kinh tế và “trách nhiệm xã hội” của


doanh nghiệp, thừa nhận vai trò quan trọng của nhà nước trong quản lý phát
triển để đảm bảo phối hợp tự do kinh tế với các quy tắc của một xã hội cơng
bằng, bình đẳng. Trên thực tế, trong mơ hình Bắc Âu, nhà nước là “người cầm
lái” - định ra thể chế kinh tế thị trường, và là cơ quan thu thuế và tái phân phối
phúc lợi xã hội có được, chức năng kinh doanh của nhà nước gần như nhường

lại cho thị trường. Nguyên tắc phân phối là vừa phát huy đầy đủ tính tích cực xã
hội về mọi mặt và nâng cao năng suất lao động, lại vừa không để xuất hiện
chênh lệch phân phối quá lớn. Nhà nước phúc lợi thơng qua luật pháp và chính
sách điều chỉnh để doanh nghiệp tư nhân cũng có trách nhiệm xã hội.
Các tiêu chuẩn cơ bản của nền kinh tế thị trường xã hội Bắc Âu gồm:
Thứ nhất, đảm bảo quyền tự do cá nhân nhưng là “chủ nghĩa cá nhân nằm
ngang” - hàm ý mọi cá nhân đều có cơ hội phát triển như nhau trong sự điều
chỉnh của nhà nước chứ không phải là “chủ nghĩa cá nhân thẳng đứng” của kinh
tế thị trường tự do. Thứ hai, nhà nước bảo đảm công bằng xã hội thông qua các
chính sách kinh tế và xã hội như luật kinh doanh, thuế thu nhập lũy tiến và phân
phối lại... Thứ ba, chính sách kinh doanh theo chu kỳ - nhà nước có chính sách
khắc phục hậu quả của khủng hoảng chu kỳ, điều chỉnh mất cân đối, vốn là
những hiện tượng thường diễn của thị trường toàn cầu. Thứ tư, chính sách tăng
trưởng kinh tế gắn với phát triển xã hội cơng bằng và tiến bộ. Thứ năm, chính
sách để kiến tạo một cơ cấu kinh tế hiện đại - được coi là tiêu chuẩn đặc trưng,
hạt nhân trong chính sách tăng trưởng nhằm giải quyết vấn đề chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, đào tạo nhân lực theo yêu cầu cách mạng công nghiệp hiện đại. Thứ
sáu, bảo đảm tính phù hợp với thị trường, hạn chế sự cạnh tranh quá mức (hình
thành các tổ chức độc quyền) và cũng hạn chế sự can thiệp quá sâu của nhà
nước vào hoạt động của thị trường...
Mơ hình Bắc Âu theo đuổi các mục tiêu: bảo đảm và nâng cao tự do về
vật chất cho mọi công dân bằng cách bảo đảm cơ hội kinh doanh và hỗ trợ cho
các cá nhân tham gia bằng một hệ thống bảo hiểm xã hội. Đây là nền kinh tế thị
trường kích thích mạnh mẽ sáng kiến cá nhân và lợi ích tồn xã hội, đồng thời


phòng tránh được các khuyết tật lớn của thị trường, chống lạm phát, giảm thất
nghiệp và những bất trắc khác qua hệ thống bảo hiểm đa diện, đa dạng. Các
quyết định kinh tế và chính trị của nhà nước được hoạch định trên cơ sở quan
tâm đến những nhu cầu cá nhân và hài hịa nó với lợi ích cộng đồng. Thực hiện

công bằng xã hội cả trong khởi nghiệp và phân phối đã giúp cho ổn định bên
trong của xã hội. Nó góp phần khắc phục được những khuyết tật cố hữu của
kinh tế thị trường như cạnh tranh khiến cho phân tầng, phân cực xã hội sâu sắc,
theo đuổi lợi nhuận cá nhân đôi khi hy sinh lợi ích xã hội...
2.1.3. Xây dựng đồng thuận và lòng tin xã hội để phát triển kinh tế - xã hội
Niềm tin xã hội hay lòng tin xã hội là sự tin tưởng vào độ trung thực, tử tế
của người khác. Nó là tiền đề cho quan hệ giữa người với người, là điều kiện cơ
bản để duy trì đời sống cộng đồng. Các nhà nghiên cứu đều cho rằng lòng tin xã
hội tạo nên một trong những nguồn lực quan trọng nhất cho đất nước, cấu thành
“vốn xã hội”. Lòng tin giữa các cơng dân với nhau đóng góp đáng kể vào tăng
trưởng kinh tế, độ ổn định, hiệu quả và dân chủ của chính phủ, hội nhập xã hội,
mức độ hài lòng và hạnh phúc, sự lạc quan, sức khỏe... Nó tỷ lệ thuận với phồn
vinh và an sinh [1]
Có một nhận định khá đúng rằng: “Độ tin cậy cao là một giá trị vàng đã
được khẳng định, nằm trong hệ giá trị Bắc Âu. Ở Bắc Âu, sáu đặc tính phổ biến
dễ dàng được tìm thấy là: trung thực, cơng bằng, hiệu quả, tận tâm, tin tưởng
vào chính phủ, bình đẳng giới và văn hóa đồng nhất.
Niềm tin xã hội của cơng dân với các chính phủ Bắc Âu giúp cho xã hội
vừa năng động trong kinh tế thị trường lại vừa cân bằng, hài hòa trong nhà nước
phúc lợi, nơi mà các điều khoản xã hội trong kinh doanh có vẻ tiết chế khá
mạnh những hưng cảm tìm kiếm lợi nhuận. Nhà doanh nghiệp vẫn mải miết với
cuộc tìm kiếm để tăng thu nhập và họ vẫn luôn tin tưởng rằng thuế lũy tiến từ
nhà nước là công bằng và cao hơn nữa là công lý; rằng những đóng góp vào
thuế của mình sẽ quay trở lại với các khoản chi phúc lợi xã hội; rằng đó là
những quy định đúng mực và có ích cho cả xã hội. Đó là niềm tin xã hội, tuy


khá hiếm hoi trong kinh tế thị trường tự do nhưng lại khá phổ biến trong kinh tế
thị trường xã hội của Bắc Âu. Rõ ràng, đạt được công bằng trên thực tế và lòng
tin của xã hội vào nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

Những người dân chủ xã hội cầm quyền của Bắc Âu đã xây dựng được
mơ hình nhà nước liêm chính, thân thiện và trong sạch trước sự giám sát chặt
chẽ của pháp luật. Một nhà nước thượng tôn pháp luật, pháp luật chi phối các
quan hệ cơ bản trong xã hội trở thành nguyên tắc chính trị quan trọng ở các
nước Bắc Âu. Những quy định chặt chẽ của nhà nước đối với các quyền, lợi ích
và trách nhiệm của cơng chức, viên chức, sự tự giác rèn luyện tác phong bình
dị, vì dân, đạo đức cơng vụ và uy quyền của cơng luận... có thể là những nhân tố
hỗ trợ đắc lực cho nhà nước liêm chính này.
2.2. Thách thức
Vẫn có khơng ít vấn đề lý luận đặt ra hiện nay đối với CNXH dân
chủ. Biện pháp bị coi là “cải lương CNTB” đã gây nhiều tranh cãi. Có ý kiến
cho rằng đó là sự tự điều chỉnh của CNTB, hoặc là cách để kéo dài CNTB, lại
có ý kiến lại cho rằng đó là cách để vượt qua CNTB hoặc là một kiểu để phủ
định CNTB... Mơ hình này cũng có nhiều vấn đề trên thực tế, như: Nhà nước
phúc lợi xã hội cùng hệ thống thuế, đặc biệt là thuế thu nhập lũy tiến, có lúc gây
tình trạng “đóng băng sản xuất” và nảy sinh sự ỷ lại, lạm dụng.
Nhưng cũng cần thấy rằng, các Đảng dân chủ xã hội cánh tả trong vị thế
cầm quyền, đã hiện thực hóa một số tiêu chí của CNXH, đã bảo vệ và mang lại
cho nhân dân nhiều quyền lợi và qua đó làm giảm bớt những khuyết tật, hạn chế
của CNTB. Mơ hình Bắc Âu và một số nơi khác đã gián tiếp xác định rằng, cần
phải vượt qua CNTB.
Ngày nay quan niệm mang tính chất giáo điều rằng: “đó là những biện
pháp cải lương xã hội tư bản, là để duy trì CNTB...” đang tỏ ra thiếu thuyết
phục. Ở những nước này, chế độ TBCN vẫn là một thực tại hiện hữu, nhưng
không thể phủ nhận những nhân tố, tiền đề cho CNXH, thậm chí có cả những


mảnh ghép của xã hội tương lai đang định hình. Ở những nước này, các đảng
dân chủ - xã hội đang là đảng cầm quyền lâu dài dù trong cơ chế đa ngun.
Xen lẫn với tính chất tư sản khó tránh, người ta cũng nhận thấy những ảnh

hưởng ở mức độ khá sâu rộng, nhiều tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin. Ở những nước này, không quá khó để thấy những cách tiếp cận, những
quan niệm khác biệt với các mơ hình CNXH kiểu cũ, nhưng cũng không thể phủ
nhận được những thành quả của các đảng dân chủ xã hội làm được cho phát
triển xã hội trong tiến bộ, dân chủ, công bằng và văn minh. Ở những nước này,
kinh tế thị trường xã hội với những nguyên tắc khá đầy đủ của kinh tế thị trường
nói chung, vẫn chịu sự chi phối mạnh mẽ từ bàn tay hữu hình của nhà nước
phúc lợi, nhà nước kiến tạo và gợi ý rất nhiều về quản lý kinh tế - xã hội trong
bối cảnh hiện nay...
Bắc Âu là khu vực có phúc lợi cho người dân rất cao. Nhưng việc này lại
đem lại mặt trái không mong muốn: phúc lợi cao làm cho hiệu quả lao động
không cao, gia tăng sự ỉ lại và tận hưởng, gia tăng số người lười biếng trong xã
17 hội. Vì vậy nhiều người phụ thuộc vào hệ thống phúc lợi hơn. Hiện nay, các
nước Bắc Âu đang đối mặt với tỷ lệ thất nghiệp cao, già hóa dân số, vấn đề
nhập cư, luân chuyển thị trường lao động và các vấn đề nổi bật khác. Ở cấp độ
doanh nghiệp, thuế cao làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, giảm tính cạnh
tranh trên thị trường quốc tế, dẫn đến một số doanh nghiệp lớn chuyển ra nước
ngoài đầu tư, gây suy giảm nguồn lực, chảy máu chất xám... Thuế cao đã trở
thành một gánh nặng cho các doanh nghiệp Bắc Âu, ngăn chặn sức sống của
doanh nghiệp và tác động trực tiếp đến tốc độ phát triển kinh tế. Ở cấp quốc gia,
phúc lợi cao của mơ hình Bắc Âu đã dẫn đến một vấn đề xã hội nan giải khi
phải vừa đảm bảo phúc lợi tốt cho nhân dân, vừa đạt được mục tiêu việc làm
đầy đủ. Nhìn chung, việc duy trì sự thành cơng của mơ hình Bắc Âu hiện gặp
nhiều khó khăn, thách thức.


CHƯƠNG III: Ý NGHĨA TRÀO LƯU CHỦ NGHĨA XÃ HỘI DÂN CHỦ
Ở BẮC ÂU ĐỐI VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Đối với CNXH cải cách, đổi mới, mô hình Bắc Âu cung cấp nhiều kinh
nghiệm đáng chú ý về vai trò và phương thức quản lý của nhà nước với kinh tế
thị trường, dân chủ hóa đời sống xã hội thông qua nhà nước pháp quyền và xã

hội dân sự. Mơ hình nhà nước kiến tạo, nhà nước phúc lợi của Bắc Âu cũng nêu
những thực tế để tham chiếu cho xây dựng nhà nước kiến tạo ở Việt Nam.
Đáng lưu ý là kinh nghiệm quản lý nền kinh tế thị trường, có lẽ đây là vấn
đề khó khăn nhất của các nước XHCN đang xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Chính thực tế Bắc Âu đã cho thấy, có thể vừa làm năng
động, tăng hiệu quả của hoạt động kinh tế thông qua kinh tế thị trường, vừa xây
dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, đồng thuận thơng qua nhà nước phúc lợi
và gần đây là nhà nước kiến tạo.
Những thành công của các nước Bắc Âu qua mơ hình thị trường xã hội
cũng cổ vũ các nước XHCN đang hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Đời sống của nhân dân được nhà nước chăm lo thông qua hệ
thống phúc lợi đa dạng và rộng khắp. An sinh xã hội đã được thực hiện thông
qua sự kết hợp giữa vai trị tích cực của nhà nước và thị trường đã bị kiềm chế
những mặt tiêu cực. để xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội bền vững hướng tới
mô hình của các nước Bắc Âu, Việt Nam cần quan tâm tới một số điểm sau:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu và phê chuẩn các tiêu chuẩn quốc tế liên quan tới
phúc lợi xã hội cho người lao động và các quyền trong lao động, hướng tới hệ
thống phúc lợi xã hội dựa trên nguyên tắc phổ quát ở Việt Nam. Thứ hai, đảm
bảo các quyền tham gia của người lao động trong quá trình xây dựng hệ thống
để đảm bảo tính bền vững của hệ thống liên quan tới các chế độ phúc lợi xã hội
có thể chấp nhận được đối với người lao động, từ đó tạo ra một cuộc sống đàng
hoàng, tử tế và nhân phẩm cho người lao động. Thứ ba, hệ thống phúc lợi xã hội
chỉ có nghĩa khi được thực thi tốt. Vì vậy, cần tăng cường các biện pháp đảm


bảo thực thi hệ thống phúc lợi xã hội hiện có, đảm bảo quyền thụ hưởng của
cơng nhân, viên chức, lao động.
Thời kỳ quá độ được các nhà kinh điển nhấn mạnh tính chất trung gian
giữa hai hình thái kinh tế xã hội cũ và mới, tính đan xen, tính chất khơng thuần
nhất. Bởi vậy, cần có tư duy phù hợp về những biện pháp quá độ, những trạng

thái quá độ của kinh tế và chính trị trên thế giới hiện nay. Phân định tính chất
TBCN hay XHCN của một mơ hình xét đến cùng, bao giờ cũng là hạnh phúc
đạt được của nhân dân, của đa số trên thực tế. Ở những nước Bắc Âu, chế độ
TBCN vẫn là một thực thể hiện tồn nhưng nó cũng đang tự phủ định bằng cách
tích lũy những nhân tố, tiền đề XHCN trong lịng nó thơng qua các tiến hóa xã
hội hướng tới nâng cao mức sống của nhân dân.


KẾT LUẬN
Chế độ xã hội của Việt Nam so với Bắc Âu là rất khác biệt, nhưng chắc
chắn Việt Nam vẫn phải không ngừng thay đổi để vươn lên là một nước giàu
mạnh, hiện thực hóa mục tiêu dân chủ trong hệ mục tiêu xây dựng CNXH của
mình. Một đất nước khép kín, bảo thủ và cứng nhắc trong bối cảnh của tồn cầu
hóa, thế giới phẳng hiện nay là điều đã trở nên lỗi thời. yêu cầu đổi mới ở Việt
Nam hiện còn cấp bách hơn trong bối cảnh cách mạng 4.0. Cách mạng 4.0 sẽ
thay đổi một cách toàn diện cách chúng ta sống, kinh doanh, các hệ thống tương
tác với nhau, do vậy sẽ tác động đến cách thức ra chính sách và cải cách quốc
gia. Con đường cịn lại chỉ có thể là mở cửa, trao đổi và học hỏi dựa trên sự tôn
trọng lẫn nhau. Việc học hỏi một mơ hình phát triển như Bắc Âu khơng chỉ cần
thiết với riêng Việt Nam, mà đó là cũng điều mà nhiều quốc gia phát triển hàng
đầu thế giới hiện nay đã và đang thực hiện


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Phạm Vũ Lửa Hạ: Lòng tin xã hội - những giá trị Phần Lan, từ sách
“Lửa trời, đuôi cáo - 100 câu truyện Phần Lan”
2. TS. Hồ Thị Nhâm, Mơ hình dân chủ xã hội ở các nước Bắc Âu hiện
nay- giá trị và những biến đổi chủ yếu, Luận án tiến sĩ, Hà Nội, 2019.
3. TS, Hồ Thị Nhâm (2018), “Mơ hình Bắc Âu và một số giá trị tham
khảo gợi mở cho Việt Nam”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận,

4. Tống Đức Thảo, Bùi Việt Hương (đồng chủ biên): Trào lưu xã hội dân
chủ ở một số nước phương Tây hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2011.
5. Tọa đàm tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, ngày 16-32018, với đại sứ các nước Bắc Âu, nhân ngày Bắc Âu “16 Tháng Ba”
(1952 - 2018)
6. Tạp chí Lý luận chính trị- Cơ quan nghiên cứu và ngôn luận khoa học
của Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Mơ hình chủ nghĩa xã
hội dân chủ ở Bắc Âu hiện nay và những gợi mở, tham chiếu cho Việt
Nam
7. UNDP, Chỉ số phát triển con người 2018
8. UN, Báo cáo hạnh phúc thế giới 2019



×