Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận môn đường lối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.04 KB, 14 trang )

Bằng lý luận và thực tiễn, anh (chị) hãy chứng minh:
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là một tất yếu
khách quan.
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết hợp của ba yếu tố chủ yếu
Chủ nghĩa Mác Lenin, phong trào yêu nước và Phong trào công nhân,
là kết quả của q trình phát triển có quy luật.
Cuộc khủng hoảng về đường lối cách mạng cũng như giai cấp
lãnh đạo và tư tưởng chỉ đạo chung ở nước ta vào đầu thế kỷ XX đã
chấm dứt kể từ khi Đảng Cộng sản ra đời. Sự ra đời của Đảng đã nói
lên giai cấp cơng nhân đã “ đủ sức mạnh lãnh đạo cách mạng”. Và sự
kiện này đã chứng minh Chủ nghĩa Mác Lenin đã chiến thắng đối với
các trào lưu không đi theo con đường vô sản.
Nhìn vào quá trình và kết quả hoạt động của Đảng, Đảng Cộng
Sản Việt Nam ra đời vừa là một tất yếu khách quan cũng như đã mở
ra một bước ngoặt lớn cho cách mạng Việt Nam. Đảng ra đời cùng
với một Cương lĩnh đúng đắn, sáng tạo chính là sự chuẩn bị cho mọi
thắng lợi của cách mạng nước ta. Đảng đưa ra phương hướng phát
triển là kim chỉ nam đưa đến mọi thắng lợi trên con đường giải phóng
dân tộc và tiến lên xây dựng theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đảng
Cộng Sản ra đời ở nước ta đã giúp cho cách mạng của Việt Nam trở
thành một bộ phận của cách mạng thế giới, được cách mạng thế giới
ủng hộ và đã đóng góp lớn vào cách mạng thế giới.
Sự ra đời của Đảng cũng là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai
yếu tố lý luận và thực tiễn trong đó có sự đóng góp to lớn của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc.
Hoàn cảnh trong nước và thế giới dẫn đến sự ra đời của
Đảng
Trước hết về hồn cảnh quốc tế, có nhiều sự kiện trên thế giới
liên tục diễn ra làm thay đổi cơ bản tình hình quốc tế.
Từ những năm cuối thế kỉ XIX, Chủ nghĩa tư bản đã chuyển dần
sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa mà trước đó là giai đoạn tự do


cạnh tranh. Các nước tư bản đế quốc ngày càng tăng cường bóc lột
nhân dân lao động trong nước, bên ngồi thì bành trướng mở rộng
thuộc địa, áp bức, bóc lột đến cùng kiệt các dân tộc thuộc địa. Mà
hậu quả của nó chính là chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Và


nó là điều kiện cho các cuộc đấu tranh bùng nổ và phát triển mạnh
mẽ ở các thuộc địa.
Vào giữa thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
phát triển mạnh đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lí luận
khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng soi đường chỉ lối. Trong hồn
cảnh đó chủ nghĩa Mác Lenin là ánh sáng đã chỉ rõ giai cấp công
nhân muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, hồn thành được sứ mệnh lịch sử của mình thì cần phải có
một Đảng Cộng sản lãnh đạo. Mà từ đó Đảng Cộng sản ra đời là một
tất yếu khách quan đáp ứng được yêu cầu trong quá trình thực hiện
sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân.
Trong hồn cảnh đó cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 giành
thắng lợi nó đã mở ra một thời đại mới cho lịch sử nhân loại. Nó là
nguồn cổ vũ tinh thần mạnh mẽ cho cách mạng ở khắp nơi trên thế
giới mà đặc biệt là cách nước thuộc địa. Là điều kiện giúp lý luận của
chủ nghĩa Mác Lenin được truyền bá mạnh mẽ, giúp cho các dân tộc
bị bóc lột trên thế giới tìm ra được một hướng đi khi đang cịn trong
tăm tối của con đường giải phóng dân tộc.
Vào tháng 3 năm 1919 thì Quốc tế Cộng sản được thành lập với
ý nghĩa thúc đẩy mạnh mẽ các phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa của Lenin lần đầu được công bố trong Đại hội 11 Quốc tế
Cộng sản vào năm 1920 đã chỉ ra con đường giải phóng các dân tộc
thuộc địa trên lập trường cách mạng vô sản.

Với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản giúp truyền bá chủ nghĩa Mác
Lenin và thành lập được Đảng Cộng sản. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã
khẳng định về vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt
Nam là “An Nam muốn cách mệnh thành cơng thì tất phải nhờ Đệ
Tam Quốc tế”.
Thứ hai, hoàn cảnh trong nước
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và chúng muốn
biến ta thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta
bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Chính sách cai trị của
thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến.
Trước hết về chính trị: Triều đình phong kiến nhà Nguyễn bị thực
dân Pháp tước bỏ quyền lực về đối nội, đối ngoại. Chúng bóc lột triệt


để nhân dân ta thông qua bộ máy cai trị của chế độ phong kiến.
Chúng thực hiện chính sách chia để trị; Còn về kinh tế, Thực dân
Pháp cướp đoạt ruộng đất lập nên các đồn điền, xây dựng các ngành
cơng nghiệp nhẹ. Đặc biệt chúng cịn phát triển giao thông vận tải
để thuận lợi cho việc khai thác thuộc địa. Dẫn đến nền kinh tế nước
ta bị kiệt quệ, yếu kém phụ thuộc vào thực dân Pháp; Về văn hóa,
chúng dung túng cho các tệ nạn, hủ tục lạc hậu
Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam:
Có sự ra đời của hai giai cấp là giai cấp công nhân và giai cấp nông
dân và xuất hiện một số tầng lớp mới. Tuy vậy, các giai cấp và tầng
lớp đều có chung hồn cảnh là thực dân Pháp và phong kiến tay sai
bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn là mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với Thực dân Pháp xâm lược và mâu
thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam và giai cấp địa chủ phong
kiến. Trong đó mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân
tộc Việt Nam và Thực dân Pháp xâm lược.

Trước sự xâm lược của Pháp thì các phong trào đấu tranh đã
diễn ra theo khung hướng phong kiến, khuynh hướng tư sản diễn ra
mạnh mẽ với những phong trào điển hình: Phong trào Cần Vương
( 1885- 1896) phong trào diễn ra mạnh mẽ ở Bắc Kỳ, đến 1888 vua
Hàm Nghi bị bắt phong trào vẫn tiếp tục đến năm 1896; Cuộc khởi
nghĩa Yên Thế từ 1884 – 1913, đã đánh thắng Thực dân Pháp nhiều
trận và gây ra cho chúng nhiều khó khăn và đến 1913 bị thất bại,
cuộc khởi nghĩa bị dập tắt. Thời kì chiến tranh thế giới thứ nhất diễn
ra, ở Việt Nam, các phong trào đấu tranh tiếp tục diễn ra nhưng đều
có kết quả chung là thất bại.
Bên cạnh đó phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của các tầng
lớp sĩ phu tiến bộ theo tư tưởng tư sản diễn ra sôi nổi. Các phong
trào này diễn ra theo hai xu hướng: một bộ phận theo xu hướng bạo
động do Phan Bội Châu làm đại diện với chủ trương dùng bạo lực
đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc; một bộ phận chủ
trương vận động cải cách văn hóa, xã hội do Phan Chu Trinh làm đại
diện.
Ngồi ra cịn có phong trào Đông Kinh nghĩa thục ( 1907), phong
trào “ tẩy chay khách trú, phong trào chống độc quyền xuất nhập
khẩu ở cảng Sài Gòn ( 1923), đấu tranh trong các hội đồng Quản hạt,
hội đồng thành phố … các phong trào đều đòi cách tự do, dân chủ.


Từ trong các phong trào đấu tranh, các tổ chức Đảng phái ra đời
như Đảng Lập Hiến ( 1923), Đảng Thanh Niên ( tháng 3/ 1926), Đảng
Thanh niên cao vọng ( năm 1926) ; Việt Nam nghĩa đoàn ( năm
1925) sau đó lấy tên là Tân Việt cách mạng Đảng đã thúc đẩy phong
trào yêu nước chống Pháp với hai đảng nổi bật là Tân Việt cách mạng
Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng.
Các phong trào đấu tranh trong thời kì này diễn ra sơi nổi với

mục tiêu chủ yếu là giành độc lập dân tộc trên các lập trường giai
cấp khác nhau. Tuy nhiên không đổi mới mà nhằm khôi phục chế độ
phong kiến hoặc là thiết lập chế độ quân chủ lập hiến và cao hơn là
thiết lập chế độ cộng hòa tư sản. Các phong trào diễn ra với phương
thức và biện pháp khác nhau nhưng tất cả đều có kết quả chung là
thất bại.
Các phong trào và tổ chức trên đều không thành công đều do
hạn chế về tầm nhìn về tập hợp giai cấp, đường lối chính trị, tổ chức
thiếu chặt chẽ, chưa tập hợp được rộng rãi lực lượng của dân tộc đặc
biệt là cơng nhân và nơng dân vì vậy dẫn đến thất bại. Sự thất bại
của phong trào theo khuynh hướng vô sản thể hiện sự yếu kém về
địa vị kinh tế và chính trị, phản ánh sự bất lực của họ trước nhiệm vụ
của lịch sử. Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước diễn ra
có ý nghĩa quan trọng. Nó thể hiện một truyền thống của dân tộc với
tinh thần bất khuất vì độc lập dân tộc, tạo ra cơ hội truyền bá quan
điểm cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác Lenin
một cách thuận lợi. Phong trào u nước - Đó chính là một những
yếu tố quan trọng dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự thất bại của các phong trào chống Thực dân Pháp theo
khuynh hướng khác nhau cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã chứng tỏ
con đường cứu nước theo hệ tư tưởng tư sản và phong kiến đều thất
bại dẫn đến cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cũng như giai
cấp lãnh đạo. Đặt yêu cầu phải có con đường cách mạng mới, với
một giai cấp lãnh đạo đại biểu quyền lợi của nhân dân, cho dân tộc,
có đủ năng lực lãnh đạo cuộc đấu tranh dân tộc, dân chủ đi đến
thắng lợi.
Trước hồn cảnh đó lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường
cứu nước.
2. Những yếu tố dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng Sản
Việt Nam



Nói về những yếu tố dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng Sản thì ta
nhìn vào lịch sử thì xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của Nga cũng như
phong trào công nhân ở Châu Âu, Lenin đã chỉ ra sự kết hợp chủ
nghĩa Mác và phong trào công nhân là hai nhân tố dẫn tới hình thành
nên Đảng Cộng sản.
Trong khi đó khi nói về yếu tố dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam thì ngồi hai yếu tố trên thì chủ tịch Hồ Chí Minh còn
chỉ ra thêm một yếu tố là phong trào yêu nước. Quan điểm của chủ
tịch Hồ Chí Minh chính là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac Lenin
trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam. “Chủ nghĩa Mác – Lênin
kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới
việc thành lập đảng cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930” được
chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong bài “ Ba mươi năm hoạt động của
Đảng” và năm 1953, trong bài “ Thường thức chính trị” năm 1953,
chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Đảng kết hợp phong trào cách mạng
Việt Nam với chủ nghĩa Mác – Lênin”.
Yếu tố Chủ nghĩa Mác Lênin
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỉ XIX, khi mà
chủ nghĩa tư bản đang phát triển mạnh mẽ đã tạo ra điều kiện cho
chủ nghĩa Mác ra đời mà đặc biệt với sự xuất hiện của giai cấp vô
sản cùng với phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ yêu cầu phải
có hệ thống lý luận khoa học là vũ khí tư tưởng của giai cấp công
nhân để đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản đã tạo thuận lợi về chính
trị - xã hội quan trọng cho sự ra đời chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Mac ra
đời là sự kế thừa có chọn lọc và tiếp thu tinh hoa của nhân loại. Sự ra
đời của chủ nghĩa Mác là kết quả của yếu tố chủ quan của Mác và
Angghen như tình yêu thương những người lao động, tinh thần hi
sinh khơng mệt mỏi vì niềm tin vào lý tưởng cách mạng của giai cấp

công nhân.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa Mac được Lenin bổ
sung trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác Lenin là một học thuyết khoa học và
cách mạng, phản ánh đúng quy luật khách quan vận động của lịch
sử và đấu tranh xóa bỏ hình thức nơ dịch người, xây dựng một xã hội
khơng cịn bóc lột, đàn áp, nơ dịch người và tự do cho mỗi người là
điều kiện tự do cho tất cả mọi người.


Chủ nghĩa Mác Lenin chỉ ra giai cấp công nhân muốn giành được
thành công trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình thì phải có
một Đảng lãnh đạo đó là Đảng cộng sản. Và Đảng cộng sản phải ln
là đại biểu cho tồn bộ phong trào, là bộ phận kiên quyết của các
Đảng của giai cấp công nhân ở các nước và họ hiểu được những điều
kiện, tiến trình và kết quả của phong trào đấu tranh vơ sản. Những
nhiệm vụ chủ yếu mà Giai cấp công nhân thực hiện thơng qua chính
đảng với mục đích giành chính quyền và xây dựng xã hội mới.Măc dù
là chính Đảng của giai cấp công nhân luôn đứng trên lập trường của
giai cấp cơng nhân và xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân để
thực hiện mọi sách lược và chiến lược của Đảng nhưng Đảng phải là
đại biểu của tồn thể nhân dân lao động. Bởi vì xuất phát từ cái
chung thì lợi ích về cái riêng mới được đảm bảo nên giai cấp cơng
nhân chỉ có thể giải phóng được giai cấp nình nếu như tồn bộ nhân
dân lao động đều được giải phóng.
Lý luận của chủ nghĩa Mác Lenin khơng chỉ giải phóng các dân
tộc bị áp bức, giải phóng nhân dân lao động và tồn thể lồi người.
Trên con đường đi tìm ánh sáng cho dân tộc đang chìm đắm trong
bóng tối, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã tìm thấy chủ nghĩa Mác thơng qua
việc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc

và vấn đề thuộc địa của Lênin, Người đã khẳng định: “ Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản. Người đã ra sức truyền bá lý luận Mác Lenin vào
nước ta, vận dụng một cách sáng tạo và phát triển chủ nghĩa MácLenin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người đã thông qua những
luận đề tư tưởng của mình vào phong trào cơng nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam giác ngộ giai cấp công nhân và cả dân tộc ta đấu
tranh giành độc lập dân tộc. Chủ nghĩa Mac-Lenin là nền tảng tư
tưởng của Đảng.
Phong trào công nhân
Ở nước Nga năm 1917 Cách mạng Tháng Mười giành được thắng
lợi vang dội. Nhà nước Xô viết ra đời dưới sự lãnh đạo của Đảng
Bonsevich Nga dựa trên nền tảng liên minh công nông. Thắng lợi của
chủ nghĩa Mac Lenin đã chứng minh được Chủ nghĩa Mác từ lý luận
đã trở thành hiện thực. Nó mở ra một thời đại mới “ Thời đại cách
mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Với thắng lợi cách
mạng tháng Mười Nga đã là một nguồn cổ vũ mạnh mẽ cho phong


trào đấu tranh của giai cấp công nhân và là yếu tố thúc đẩy sự ra đời
của nhiều Đảng Cộng sản trên thế giới như Đảng Cộng sản Hungari,
Đảng cộng sản Đức, Đảng Cộng sản Pháp ( năm 1919)….
Cách mạng Tháng Mười trở thành tấm gương sáng trong việc
giải phóng dân tộc bị áp bức, nó đã dạy cho chúng ta “ Muốn cách
mệnh thành cơng thì phải có quần chúng cơng, nơng làm gốc, phải
có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói
tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lenin”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “ Cách mạng tháng Mười đã thúc đấy phong trào
giải phóng dân tộc, làm cho nó trở thành làn sóng mãnh liệt cho tất
cả các nước phương Đông: Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Dương, Việt
Nam”. Nói về ý nghĩa của Cách mạng tháng Mười Nga Người cho

rằng nó như tiếng sét đã đánh thức nhân dân Châu Á tỉnh giấc mê
hàng thế kỉ nay.
Tháng 3/1919 Quốc tế cộng sản ra đời. Sự ra đời của Quốc tế
cộng sản có ý nghĩ thúc đẩy phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế. Năm 1920 Lần đầu tiên công bố bản Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin đã chỉ
ra phương hướng đấu tranh giải phóng thuộc địa, trên lập trường của
cách mạng vơ sản đã mở ra con đường giải phóng các dân tộc thuộc
địa bị áp bức, bóc lột.
Với Việt Nam, việc thành lập được Đảng Cộng Sản Việt Nam và
việc truyền bá chủ nghĩa Mac Lenin vào Việt Nam thì Quốc tế cộng
sản đóng vai trị quan trọng. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từng nhân xét
“ An Nam muốn cách mệnh thành cơng, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc
tế” qua đó cho thấy Người đánh giá cao sự ra đời của Quốc tế Cộng
sản đối với phong trào cách mệnh thế giới và nhấn mạnh vai trò của
Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam.
Phong trào yêu nước
Phong trào yêu nước diễn ra theo nhiều khuynh hướng
Trước hết Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong
kiến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỷ XX
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp vào năm 1858 các phong
trào yêu nước diễn ra mạnh mẽ theo khuynh hướng phong kiến với
những phong trào yêu nước tiêu biểu như sau


Phong trào Cần Vương ( 1885-1896) Ngày 13/7/1885 vua Hàm
Nghi xuống chiếu Cần Vương. Phong trào phát triển mạnh dưới sự
lãnh đạo của vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Nam kỳ. Tuy nhiên năm 1888 vua Hàm Nghi bị Thực dân Pháp bắt
nhưng phong trào vẫn tiếp tục phát triển với thời kỳ khơng có vua

đến 1896 kết thúc với kết quả thất bại.
Khởi nghĩa Ba Đình do Phạm Bành và Đinh Cơng Tráng diễn ra tại
Thanh Hóa dù đã gây cho Pháp khó khăn nhưng kết quả là thất bại
Khởi nghĩa Bãi Sậy ( 1883-1892) Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo
diễn ra tại Hải Dương, Hải Phịng, Thái Bình, Hưng n
Khởi nghĩa Hương Khê ( 1885-1896) do Phan Đình Phùng và Cao
Thắng lãnh đạo diễn ra tại Thanh, Nghệ, Tinh, Quảng Bình.
Khởi nghĩa Yên Thế ( 1885-1913) do Hoàng Hoa Thám và Lương
Văn Nắm diễn ra tại Yên Thế - Bắc Giang đã gây cho Thực dân Pháp
nhiều khó khăn. Đến năm 1913 thì cuộc khởi nghĩa bị thất bại
Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất các cuộc khởi nghĩa chống
Pháp vẫn tiếp diễn và kết quả chung là thất bại.
Bên cạnh phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến
thì đầu thế kỷ XX phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản do
tầng lớp sĩ phu tiến bộ lãnh đạo diễn ra sôi nổi. Và các phong trào
yêu nước theo hai xu hướng :
Một bộ phận chủ trương dùng biện pháp bạo động để đánh đuổi
thực dân Pháp khôi phục nền độc lập dân tộc do Phan Bội Châu làm
đại diện. Phát động phong trào Đông Du đưa du học sinh sang Nhật
du học. Nguyễn Ái Quốc nhận xét rằng “ Phan Bội Châu là tiêu biểu
cho chủ nghĩa quốc gia”.Việc Phan Bội Châu dựa vào Nhật để đánh
Pháp chẳng khác nào “đuổi hổ cửa trước rước beo cửa sau”.
Một bộ phận chủ trương theo vận động cải cách văn hóa, xã hội,
động viên lịng u nước cho nhân dân; đả kích bọn vua quan phong
kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân
trí, chấn dân trí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu
tranh vũ trang cầu viện nước ngoài, cầu xin Pháp đến khai hóa cho
VN.Đại diện theo xu hướng này là Phan Châu Trinh. Về phương
pháp,Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương vì
vậy, điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến “ xin giặc rủ lịng thương”.



Ngồi ra, trong thời kỳ này ở Việt Nam cịn nhiều phong trào
đấu tranh khác như: Phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907); Phong
trào “tẩy chay Khách trú”(1919); Phong trào chống độc quyền xuất
nhập ở cảng Sài Gòn (1923); đấu tranh trong các hội đồng quản hạt,
hội đồng thành phố… đòi cải cách tự do dân chủ…
Các Đảng Cộng Sản ra đời từ trong phong trào đấu tranh thúc
đẩy phong trào yêu nước phát triển, đặc biệt là Tân Việt cách mạng
Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng.
Tân Việt cách mạng Đảng ra đời và hoạt động trong bối cảnh Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên phát triển mạnh, đã tác động mạnh
mẽ đến Đảng này. Tuy nhiên nội bộ Đảng này lại phân hóa theo hai
tư tưởng : tư tưởng cách mạng vô sản và tư tưởng cải lương. Một số
đảng viên chuyển sang Hội Việt Nam cách mạng Đảng, bộ phận cịn
lại tích cực chn bị cho sự ra đời một chính đảng theo chủ nghĩa
Mác- Lenin
Việt Nam quốc dân Đảng là một đảng chính trị theo xu hướng
dân chủ tư sản. Điều lệ Đảng ghi mục tiêu hoạt động là: trước làm
dân tộc cách mạng, sau làm thế giới cách mạng; đánh đuổi giặc
Pháp, đánh đổ ngôi vua, thiết lập nền dân quyền. Sau vụ ám sát
trùm mộ điền cao su Ba Đanh thì Đảng bị khủng bố và vỡ ở nhiều
nơi. Lạnh đạo quyết dồn lực lượng vào trấn đấu tranh sống mai với
kẻ thù. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ ngày 9/2/1930 và bị Pháp nhanh
chóng dập tắt
Như vậy trước yêu cầu lịch sử Việt Nam các phong trào đấu
tranh diễn ra sôi nổi. Các phong trào đều có mục tiêu giành độc lập
dân tộc nhưng lại nhằm khôi phục chế độ phong kiến hoặc thiết lập
chế độ quân chủ lập hiến hoặc cao hơn là thiết lập chế độ Cộng sản.
Các phong diễn ra theo phương pháp bạo động hoặc cải cách; tập

hợp lục lượng bên ngoài, dựa vào Pháp, dựa nào ngoại viện để đánh
pháp nhưng tưu chung đều thất bại.
Các phong trào đều bị bạn chế về lực lượng, giai cấp, về đường
lối chính trị, hệ thống tổ chức chặt chẽ nên kết quả đều thất bại.
Thất bại này phản ánh sự yếu kém của giai cấp tư sản về địa vị chính
trị, kinh tế trên tiến trình cách mạng dân tộc, phản ánh sự bất lực
của họ trước nhiệm vụ lịch sử của dân tộc.


Mặc dù thất bại nhưng lại có ý nghĩa quan trọng là sự tiếp nối
truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất vì độc lập tự do của
dân tộc Việt Nam và chính sự phát triển của phong trào yêu nước đã
tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin,
quan điểm cách mạng Hồ Chí Minh.
Sự thất bại của các cuộc kháng chiến chống Pháp cuối thế kỉ XĨ
đầu thế kỉ XX chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong
kiến và tư sản đã đi vào bế tắc. Điều đó dẫn đến cuộc khủng hoảng
về đường lối và giai cấp lãnh đạo, đặt ra nhiệm vụ lịch sử cần có
một con đường cách mạng mới với một giai cấp đủ uy tín và năng lực
lãnh đạo cuộc cách mạng đi đến thành công.
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Năm 1911 Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Người
đã đi khác hướng so với các tiền bối, Người đã tìm hiểu kỹ các cuộc
cách mạng diển hình trên thế giới: cách mạng Mỹ, Pháp,… nhưng
Người cũng nhận ra những hạn chế của các cuộc cách mạng này.
Người khẳng định cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng các
nước nói chung khơng thể đi theo con đường cách mạng tư sản.
Nguời đặc biệt quan tâm tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917 và Người đã rút ra kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách
mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân

chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”.
Tháng 7-1920 Nguyễn Ái Quốc đọc được bản sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lenin trên báo Nhân Đạo. Đã đưa người đến với chủ nghĩa Mac Lenin
Tại Đại hội Đảng xã hội Pháp Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành
việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng
sản Pháp. Sự kiện đánh dấu Nguyễn Ái Quốc trở thành Người Cộng
Sản và Người đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn “Muốn cứu
nước phải giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”.
Từ đây cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng
sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác –
Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn
bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.


Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mac Lenin vào Việt Nam
thông qua những bài đăng trên báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời
sống công nhân và Bản án chế độ thực dân Pháp ( 1925). Tác phẩm
lột tẩy việc che dấu tội ác dưới cái vỏ bọc “khai hóa văn minh”, từ đó
khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, thức tỉnh tinh thần dân tộc
nhằm đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược.Năm 1923 Người sang Liên
Xô học tập nghiên cứu Chủ nghĩa Mác Lenin
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc với tư cách là đại diện Quốc tế
cộng sản đã đến Quảng Châu thành lập Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên và nêu rõ mục đích trong điều lệ và chương trình là làm
cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới. Sau khi cách mạng thành
công, Hội chủ trương thành lập Chính phủ nhân dân, mưu cầu hạnh
phúc cho nhân dân, tiến lên xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa,
thực hiện đồn kết với giai cấp vơ sản các nước, với phong trào cách

mạng thế giới.
Hội mở ra nhiều lớp huấn luyện cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp
bức xuất bản tác phẩm Đường cách mệnh. Tác phẩm Đường cách
mệnh đã đề cấp những vấn đề cơ bản của một cương lĩnh chính trị,
chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, Đường cách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với
cách mạng Việt Nam.
Năm 1928, Hội thực hiện chủ trương “vơ sản hóa”, đưa hội viên
vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường, quan điểm
giai cấp công nhân; để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và lý luận
giải phóng dân tộc nhằm thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách
mạng Việt Nam. Đẩy mạnh việc thức tỉnh phong trào đấu tranh của
quần chúng theo con đường cách mạng vơ sản.
Nhìn chung, phong trào cơng nhân những năm 1919- 1925 đã có
bước phát triển mới so với trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Hình thức bãi cơng đã trở nên phổ biến, diễn ra trên quy mô lớn hơn
và thời gian dài hơn
Từ năm 1926-1929 phong trào cơng nhân có sự lãnh đạo của Hội
việt nam cách mạng thanh niên, Công hội đỏ và các tổ chức cộng
sản ra đời từ năm 1929.


Từ năm 1928 đến năm 1929, có khoảng 40 cuộc đấu tranh của
cơng nhân diễn ra trong tồn quốc.
Sự ra đời của các Đảng Cộng sản
Chi Bộ cộng sản Việt Nam đầu tiên ra đời vào tháng 3-1929 tại
Hàm Long- Hà Nội gồm 7 đồng chí
Tại Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
(5/1929) đã xảy ra bất đồng giữa các đoàn đại biểu về việc thành lập

Đảng Cộng sản thực chất là sự khác nhau giữa những đại biểu muốn
thành lập ngay một đảng cộng sản và giải thể tổ chức Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên, với những đại biểu cũng muốn thành lập
đảng cộng sản, nhưng “không muốn tổ chức đảng ở giữa Đại hội
thanh niên và cũng không muốn phá thanh niên trước khi lập được
đảng”. Trong bối cảnh đó, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời.
Ngày 17/6/1929 Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời tại 312
Khâm Thiên- Hà Nội, thông qua đại hội đại biểu các tổ chức cộng sản
ở Bắc Kỳ. Tuyên ngôn của Đảng nêu rõ: Đảng Cộng sản Đông dương
tổ chức đại đa số và thực hành cơng nơng liên hiệp mục đích để
đánh đổ đế quốc chủ nghĩa; đánh đổ tư bản chủ nghĩa; diệt trừ chế
độ phong kiến; giải phóng cơng nơng; thực hiện xã hội bình đẳng, tự
do, bác ái, tức là hội cộng sản
Mùa thu năm 1929,Trước sự ra đời của Đông Dương Cộng sản
Đảng và để đáp ứng yêu cầu của phong trào cách mạng, mùa thu
năm 1929, các đồng chí trong Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
hoạt động ở Trung Quốc và Nam Kỳ đã thành lập An Nam Cộng sản
Đảng về điều kiện kết nạp đảng viên, Điều lệ của Đảng viết “Ai tin
theo chương trình của Quốc tế Cộng sản, hăng hái phấn đấu trong
một bộ phận đảng, phục tùng mệnh lệnh đảng và góp nguyệt phí, có
thể cho vào đảng được”.
Vào tháng 9/1929, Việc ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng
và An Nam Cộng sản Đảng đã làm cho nội bộ Đảng Tân Việt phân
hóa mạnh mẽ, những đảng viên tiên tiến của Tân Việt đã thành lập
Đơng Dương Cộng sản Liên đồn. Tun đạt của Đơng Dương Cộng
sản Liên đồn( 9/1929), nêu rõ : “Đơng Dương Cộng sản Liên Đồn
lấy chủ nghĩa Cộng sản làm nền móng, lấy cơng, nơng, binh liên hiệp
làm đối tượng vận động cách mệnh cộng sản trong xứ Đơng Dương,
làm cho xứ sở của chúng ta hồn tồn độc lập, xóa nạn bóc lột áp



bức người, xây dựng chế độ cộng sản chủ nghĩa trong tồn xứ Đơng
Dương”.
Cả ba tổ chức cộng sản đều có chủ trương giương cao ngọn cờ
giải phóng dân tộc, chống phong kiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam nhưng cả ba tổ chức cộng sản trên lại hoạt động riêng rẽ
làm ảnh hưởng xấu đến tình hình cách mạng ở Việt Nam. Do đó
nhiệm vụ cần thiết và cấp bách lúc này là thống nhất các tổ chức
cộng sản.
Được tin không thống nhất được các tổ chức cộng sản, Này 2312-1929 Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm tới Trung Quốc. Người triệu tập đại
biểu của Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng tại
Hồng Kong ngày 6-1-1930. Ngày 3 đến 7-2-1930 Hội nghị hợp nhất
ba tổ chức cộng sản tại Hương Cảng-Trung Quốc dưới sự chủ trì của
Nguyễn Ái Quốc. Tham gia hội nghị có các đồng chí của An Nam
cộng sản Đảng và Đơng Dương cộng sản Đảng cịn đại biểu của
Đơng Dương cộng sản Liên đồn khơng đến kịp. Hội nghị nhất trí
thành lập Đảng và thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là một tất yếu
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam đã chấm dứt cuộc khủng
hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo kéo dài ở nước ta. Đó là một
bước ngoặt trọng đại trong lịch sử Việt Nam. Với sự ra đời của Đảng
là một bước ngoặt lich sử cách mạng Việt Nam. Chứng tỏ giai cấp vô
sản nước ta đã trưởng thành và đủ năng lực lãnh đạo cách mạng .
Ngay từ khi Đảng ra đời đã cso cương lĩnh chính trị xác định
đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo cách
mạng vô sản là cơ sở để Đảng cộng sản Việt nam vừa ra đời đã nắm
ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Chính đường lối của Đảng đã thống nhất toàn dân tộc vào chung
một tư tưởng và hành động để giành được thắng lợi to lớn sau này.
Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc quyết định những phương

hướng cách mạng Việt Nam trong 86 năm qua.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã trở thành một bộ phận của
cách mạng thế giới góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của
nhân dân trên thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Phần III: Kết Luận


Qua những sự kiện lịch sử đã chứng minh vì sao Đảng cộng sản
Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử. Đảng Cộng Sản Việt Nam là
lực lượng chính trị duy nhất đã lãnh đạo Cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi sau này đã giải thích vì sao Đảng ra đời là
yếu tố mang tính lịch sử vĩ đại.
Danh mục tài liệu tham khảo
Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 12 NXB CTQG, Hà Nội-2002



×