Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Lập danh mục đầu tư các cổ phiếu ngành bất động sản trên thị trường Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.64 KB, 85 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ và
thu hút rất nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các nhà đầu tư có thể là các
cá nhân hay các tổ chức, và họ tham gia vào thị trường theo những cách tiếp
cận khác nhau. Nhiều nhà đầu tư ưa thích rủi ro, nhiều nhà đầu tư e ngại rủi
ro, có nhà đầu tư thụ động và chủ động. Tuy nhiên tất cả các nhà đầu tư cá
nhân hay tổ chức đều với một mục tiêu là thu được lợi nhuận cao và với mức
rủi ro thấp nhất.
Trong thời gian hiện nay, với sự biến động của thị trường thì việc đầu tư cổ
phiếu khá nhiều rủi ro. Vì vậy việc thiết lập một danh mục chứng khoán đầu
tư là rất quan trọng. Mục đích củc việc đầu tư theo danh mục là giảm thiểu rủi
ro bằng việc đa dạng hóa danh mục đầu tư. Dựa trên cơ sở các tài sản đầu tư,
nhà đầu tư lập một danh mục đầu tư bao gồm các tài sản khác nhau. Trên
nguyên tắc là “không bỏ trứng vào một giỏ”, các nhà đầu tư tạo ra một danh
mục có rủi ro thấp nhất, đó là rủi ro của thị trường (rủi ro hệ thống). Khi đó,
nhà đầu tư vẫn đạt được ở tại mức lợi nhuận kỳ vọng. Vì vậy, nhà đầu tư luôn
cố gắng tạo ra một danh mục tối ưu.
Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hiện nay đã mang đế cho thị
trường bất động sản một vị thế mới, một diện mạo mới. Chính vì vậy mà trên
thị trường chứng khoán hiện nay thì các cổ phiếu của ngành bất động sản
đang khá được quan tâm và đầu tư với những tên tuổi có thương hiệu của các
công ty bất động sản mạnh. Tuy nhiên với sự biến động chung của thì trường
thì cổ phiếu bất động sản là loại cổ phiếu ”nhạy cảm” đầu tư vào các loại
chứng khoán các công ty ngành bất động sản cũng mang lại nhiều rủi ro cho
các nhà đầu tư.
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tầm quan trọng đối với lập và quản lý danh mục đầu tư đối với nhà đầu
tư chính là bí quyết để thành công. Vì vậy mà qua thời gian thực tập tại Công


ty Chứng khoán APEC, và những thông tin tìm hiểu thêm cùng sự hướng dẫn
của thầy Nguyễn Quang Dong em đã chọn đề tài “ Lập danh mục đầu tư các
cổ phiếu ngành bất động sản trên thị trường Việt Nam”
Chuyên đề gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về đầu tư chứng khoán và danh mục đầu tư chứng
khoán và lý thuyết xây dựng danh mục đầu tư. Chương này bao gồm các kiến
thức tổng quan về chứng khoán, thị trường chứng khoán, các kiến thức về đầu
tư chứng khoán và lý thuyết xây dựng danh mục đầu tư
Chương 2: Phân tích các chỉ số tài chính của các công ty trong danh mục
đầu tư. Chương này bao gồm tóm tắt các chỉ số tài chính của các công ty,
bảng số liệu các chỉ số tài chính đã được tính toán cho các công ty trong năm
2007.
Chương 3: Xây dựng danh mục đầu tư của ngành bất động sản. Trong
chương này em thực hiện xây dựng danh mục đầu tư cho cổ phiếu ngành Bất
động sản.
Để hoàn thành được đề tài này, em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo,
cô giáo trong Khoa Toán Kinh tế đã giúp đỡ em trong thời gian học tập và
thực tập vừa qua. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn
Quang Dong đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, giúp đỡ.
Và trong thời gian thực tập qua, nhờ sự giúp đỡ của các anh chị cô chú
trong Công ty chứng khoán APEC, em đã tìm hiểu được nhiều kiến thức và
kinh nghiệm đầu tư thực tế của Công ty. Từ đó, em có cơ sở thực tiễn để thực
hiện đề tài này. Vì vậy, em xin chân thành cảm ơn các anh chị, cô chú trong
Công ty đã giúp đỡ em.
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
I. Tổng quan về thị trường chứng khoán
1. Khái niệm thì trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng trong thị trường Tài
chính, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các chứng khoán và các giấy tờ
ghi nợ chung hoặc dài hạn thường từ một năm trở lên. Thị trường chứng
khoán cũng chính là thị trường vốn mà mối quan hệ về giao lưu vốn dài hành
trên TTCK được thể hiện tập trung bằng các hoạt động kinh doanh các loại
chứng khoán đã được phát hành và đang lưu hành trên thị trường.
Việc mua bán các loại chứng khoán này được diễn ra trên thị trường sơ
cấp khi trao đổi các loại chứng khoán lần đầu được phát hành và ở thị trường
trao đổi thứ cấp khi có sự mua bán lại các loại chứng khoán đã được phát
hành trên thị trường thứ cấp.
Như vậy xét về mặt hình thức thì thị trường chứng khoán chỉ là nơi
diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán các loại chứng khoán, qua đó thay đổi
các chủ thể nắm giữ chứng khoán. Nhưng xét về mặt bản chất thì:
- TTCK là nơi tập trung và phân phối các nguồn tiết kiệm. Tập trung các
nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho những người sử dụng sẵn sàng trả
và theo phán doán của thì trường về khả năng sinh lời từ các dự án của
người sử dụng. Chuyển tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
- TTCK là định chế tài chính trực tiếp cả chủ thể cung và cầu đều tham
gia vào thị trường một cách trực tiếp. TTCK thực chất là quá trình vận
động của tư bản tiền tệ, là nơi mua bán các quyền sở hữu tư bản, là
hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hóa.
Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của TTCK là tất
yếu khách quan. Hoạt động trên TTCK có tác động, hiệu ứng trực tiếp tới
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
33
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hiệu quả đầu tư của các cá nhân, của các doanh nghiệp và hành vi của người
tiêu dùng, và tới động thái chung của toàn bộ nền kinh tế.
Như vậy việc hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán là
bước phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường. Việt Nam với nền kinh tế

vận hành theo cơ chế thị trường cùng với các bước phát triển để hội nhập
cũng đòi hỏi phải hình thành và phát triển TTCK. Sự ra đời của TTCK Việt
Nam đuợc đánh dấu bằng sự thành lập của Trung tâm Giao dịch chứng khoán
tại thành phố Hồ Chính Minh (HoSTC) ngày 20/07/2000. Đến ngày
08/03/2005 sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội ra đời (HaSTC) đánh dấu sự
phát triển nhanh chóng của TTCK Việt Nam.
Đến nay, sau hơn 8 năm hoạt động tính đến 31/12/2007, trung tâm giao
dịch chứng khoán Hồ Chí Minh đã có 141 loại cổ phiếu được niêm yết, hai
quỹ đầu tư VFMVF1 và PRUBF1 và hơn 400 loại trái phiếu, với tổng giá trị
hơn 80.000 tỷ đồng. Ngoài ra còn hơn 2000 công ty có cổ phiếu được trao đổi
trên thị trường OTC. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội cũng tham gia
với 112 cổ phiếu. Theo thống kê về khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch
trên thị trường thì năm 2007 là một năm khá thành công. Năm 2007 cũng là
năm đánh dấu sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Tính cả trên thị
trường không chính thức thì giá trị danh mục đầu tư của NĐTNN đạt gần 20
tỷ USD, tăng gấp 3 lần quy mô năm 2006. Ta có thống kê giao dịch trên 2 sàn
chứng khoán như sau:
2006 2007 Tăng trưởng
Vn-index 752 927.02 23.3%
Tổng KLDG 643,281,249 2,008,535,798 2 lần
Tổng GTGD 38,175,024,441 205,732,389,629 2.8 lần
Hastc-index 242.89 323.55 33.2%
Tổng KLGD 95,606,426 3,917,384,521 6 lần
Tổng GTGD 3,917,384,521 63,422,391,065 15.8 lần
2. Chức năng của thị trường chứng khoán và phân loại thị trường
2.1. Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế

- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
- Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
- Đánh giá các hoạt động của doanh nghiệp
- Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô
2.2. Phân loại thị trường
2.2.1. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
Căn cứ vào sự luân chuyển các luồng vốn, TTCK được chia thành thị
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
• Thị trường sơ cấp là thị trường mia bán các loại chứng khoán mới
phát hành. Trên thị trường này, vốn từ các nhà đầu tư sẽ được chuyển sang
nhà phát hành thông qua việc các nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát
hành.
- Vai trò của thị trường sơ cấp:
+ Chứng khoán hóa nguồn vốn cần huy động vốn của công ty được huy
động qua việc phát hành chứng khoán.
+ Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính, trực tiếp đưa các khoản tiền
nhàn rỗi sang dạng vốn dài hạn.
• Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các loại chứng khoán đã phát
hành trên thị trường sơ cấp. Thì trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho
các chứng khoán đã phát hành.
2.2.2. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường, TTCK được phân thành
thị trường tập trung (sở giao dịch chứng khoán ) và phi tập trung ( thị trường
OTC)
• Sở giao dịch chứng khoán: Tại sở giao dịch chứng khoán các giao
dịch tập trung tại một địa điểm, các lệnh được truyền tới sàn giao dịch và
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
55
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tham gia giao dịch và tham gia vào quá trịnh ghép lệnh để hình thành nên giá

giao dịch.
• Thì trường OTC (Over the Counter market) : các giao dịch và sơ cấp
và thứ cấp đều được diễn ra trên mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán
trên khắp quốc gia và được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá cả của thị
trường này được hình thành theo phương thức thỏa thuận.
Đối với thị trường thứ cấp, cấu trúc thị trường cơ bản đều được hình thành
dựa trên cơ sở đấu giá và đấu lệnh. Trên thị trường đấu giá thì các nhà tạo
dựng thị trường đưa ra gí đặt mua và giá chào bán các loại chứng khoán được
ấn định của họ. Trên thị trường đấu lệnh, lệnh của các nhà đầu tư được ghép
với nhau không có sự tham gia của các nhà tạo lập thị trường.
2.2.3. Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường
Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường thì TTCK có thể phân thành: Thị
trường cổ phiếu, Thị trường trái phiếu, Thị trường các công cụ chứng khoán
phái sinh.
• Thị trường cổ phiếu là thì trường giao dịch và mua bán các loại cổ
phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cô phiếu ưu đãi.
• Thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các laoij trái
phiếu đã được phát hành bao gồm trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị, trái
phiếu chính phủ.
• Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh là thị trường phát
hành và mua đi bán lại các chứng khoán phái sinh đã được phát hành như việc
mua bán các giấy tờ tài chính khác như: chứng quyền, quyền mua, hợp đồng
quyền chọn. Đây là loại thị trương cao cấp chuyên giao dịch các loại chứng
khoán cao cấp.
3. Hàng hóa của thị trường chứng khoán
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
66
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
3.1. Cổ phiếu
Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ

hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ
phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần.
Khi mua cổ phiếu những người đàu tư (các cổ đông) sẽ trở thành nhữn chủ
sở hữu đối với các công ty. Mức độ sở hữu đó tùy thuộc vào tỷ lệ cổ phần mà
cổ đông đó nắm giữ. Là chủ sở hữu, các cổ đông cùng nhau chia sẻ lợi nhuận
cũng như tổn thất trong quá trình hoạt động của công ty, và chỉ nhận lại những
gì còn lại sau khi thực hiện các khoản nghĩa vụ trong trường hợp công ty phá
sản. Cổ phiếu là công cụ không có thời hạn.
Theo tính chất của các quyền mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông thì có 2
loại cổ phiếu cơ bản:
- Cổ phiếu phổ thông: là loại cổ phiếu mang lại cho người chủ sở hữu
quyền hưởng cổ tức, quyền mua cổ phiếu mới và quyền bỏ phiếu.
- Cổ phiếu ưu đãi: là loại cổ phiếu dành cho cổ đông những ưu đãi so với
cổ phiếu cổ đông phổ thông.
Cổ phiếu là tài sản có tác dụng giảm biến động lợi tức của danh mục cao
nhất do độ giao động của tài sản này không trùng khớp với chu kỳ hay thời
gian với các loại tài sản khác. Vì thế cổ phiếu là loại tài sản được đầu tư phổ
biến trên thị trường nhưng thu nhập có độ biến động cao nên đây là loại tài
sản này cũng có rủi ro cao.
Lợi ích của đầu tư cổ phiếu thông thường bao gồm: tính thanh khoản cao
của cổ phiếu, nguồn tăng trưởng dài hạn, lợi ích về thuế. Rủi ro của nhà đầu tư
trong đầu tư cổ phiếu bao gồm: cổ tức không ổn định, rủi ro phá sản công ty
phát hành , các rủi ro về ngoại hối …
3.2. Trái phiếu
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
77
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành
(người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay)
một khoản tiền nhất định, thường là trong khoản thời gian cụ thể, và phải

hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
Trái phiểu là một công cụ nợ đòi hỏi người phát hành hoàn trả cho người
cho vay (người đầu tư) khối lượng vốn đã vay cộng với tiền lãi trong một
khoản thời gian nhất định.
Trái phiếu cũng là tài sản quan trọng thứ hai sau cổ phiếu trong việc xác
định danh mục đầu tư. Đầu tư trong trái phiếu là loại đầu tư có tỷ lệ rủi ro
thấp. Rủi ro trong đầu tư trái phiếu bao gồm rủi ro về lãi suất, kỳ hạn của trái
phiếu, rủi ro ngoại hối, rủi ro tín dụng… Trái phiếu bao gồm: trái phiếu chính
phủ, trái phiếu công ty, trái phiếu đảm bảo và trái phiếu không đảm bảo.
3.3. Chứng chỉ quỹ đầu tư
Chứng chỉ quỹ đầu tư là quỹ hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư để đầu
tư vào chứng khoán. Việc huy động vốn vào quỹ đầu tư chứng khoán được
thực hiện theo 2 cách là phát hành cổ phần ra công chúng hoặc phát hành dưới
dạng chứng chỉ quỹ.
3.4. Chứng khoán có thể chuyển đổi
Chứng khoán có thể chuyển đổi là các loại chứng khoán cho phép người
nắm giữ nó, tùy theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định, có thể đổi
nó lấy một chứng khoán khác.
3.5. Các loại chứng khoán phái sinh
Có nhiều loại chứng khoán phái sinh như:
- Quyền mua cổ phần
- Chứng quyền
- Hợp đồng kỳ hạn
- Hợp đồng tương lai
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
88
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Quyền lựa chọn
Chứng khoán là hàng hóa của thị trường chứng khoán và là tài sản chính vì
nó mang lại thu nhập chính cho nhà đầu tư và khi cần thị có thể bán để thu

tiền về. Theo sự phát triển của thị trường thì hàng hóa ngày càng đa dạng và
phong phú. Trên thị trường chứng khoán hiện nay, phát triển mạnh nhất vẫn là
thị trường cổ phiếu và trái phiếu.
4. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được
chia thành các nhóm sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên
quan đến chứng khoán.
4.1. Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị
trường chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán -
hàng hoá của thị trường chứng khoán.
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu
Chính phủ và trái phiếu địa phương.
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái
phiếu, chứng chỉ thụ hưởng... phục vụ cho hoạt động của họ.
4.2. Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị
trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá
nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
- Các nhà đầu tư cá nhân.
- Các nhà đầu tư có tổ chức.
4.3. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
- Công ty chứng khoán.
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
99
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Quỹ đầu tư chứng khoán.
- Các trung gian tài chính.
4.4. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán

- Cơ quan quản lý Nhà nước.
- Sở giao dịch chứng khoán.
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán.
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán.
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán.
- Các tổ chức tài trợ chứng khoán.
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm...
5. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản
5.1. Nguyên tắc công khai
Thị trường chứng khoán được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông
tin tốt. Việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán phải thảo mãn các
yêu cầu: Chính xác, kịp thời và dễ tiếp cận.
Nguyên tắc công khai nhằm bảo vệ người đầu tư, song đồng thời cũng
hàm chứa rằng, khi người đầu tư đã được cung cấp thông tin đầy đủ và kịp
thơi và chính xác thì nhà đầu tư phải chịu trách nhiệm về các quyết định của
mình.
5.2. Nguyên tắc trung gian
Theo nguyên tắc này, trên thị trường chứng khoán, các giao dịch được thực
hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán.
5.3. Nguyên tắc đấu giá
Nguyên tắc đấu giá dựa trên mối quan hệ cung cầu trên thị trường quyết
định. Có các loại đấu giá:
- Đấu giá trực tiếp
- Đấu giá gián tiếp
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
1010
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Đấu giá tự động
- Đấu giá định kỳ
- Đấu giá liên tục

Khi thực hiện nguyên tắc đấu giá bao giờ cũng tuân theo các thứ tự ưu tiên
về giá, về thời gian, về khác hàng và về quy mô.
II. Phân tích chứng khoán
Phân tích chứng khoán được nhà đầu tư tiến hành nhằm trả lời câu hỏi
trước khi đưa ra quyết định đầu tư
1. Phân tích vĩ mô và thị trường chứng khoán
1.1. Môi trường chính trị - xã hội và pháp luật
Đối với bất kỳ một quốc gia nào, môi trường xã hội và chính trị luôn có
những tác động đến thị trường chứng khoán nước đó.
Tình hình chính trị ảnh hưởng rất lớn đến thị trường chứng khoán. Các yếu
tố chính trị bao gồm những thay đổi về chính phủ và các hệ thống chính trị.
Thay đổi chính trị làm cho nhiều quy định và sự kiểm soát của chính phủ đối
với một số ngành được thắt chặt và một số quy định trong các ngành khác
được nới lõng. Chúng đều có tác động lớn tới kết quả kinh doanh của mỗi
ngành, mỗi công ty.
Môi trường pháp luật cũng là yếu tố cơ bản gây ra tavs động tới thị trường
chứng khoán, các cơ quan Chính phủ tác động đến thị trường chứng khoán
bằng luật. Như các quy định bằng giá cả, dịch vụ sẽ gây tác động trực tiếp đến
các ngành dịch vụ công cộng. Luật chống độc quyền thường làm giảm giá
chứng khoán của các công ty bị điều chỉnh bởi chính nó. Chính sách tiền tệ tín
dụng của Ngân hàng trung ương có thể gây tác động to lớn tới thị trường.
1.2. Ảnh hưởng kinh tế vĩ mô
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
1111
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Các điều kiện kinh tế vĩ mô sẽ quyết didnhj rủi ro chung của thị trường mà
trong lý thuyết gọi là rủi ro hệ thống. Rủi ro này tác động đến toàn bộ thị
trường, đến tất cả mọi chứng khoán mà bản thân doanh nghiệp hay từng
ngành không thể tránh được. Đối với từng người đầu tư hay từng tổ chức phát
hành thì đây được coi là rủi ro khách quan. Do các điều kiện kinh tế vĩ mô

quyết định rủi ro hệ thống nên chúng sẽ quyết định xu thế đại thể của thu
nhập trong đầu tư chứng khoán.
Biến động của thị trường chứng khoán có mối liên quan chặt chẽ tới nền
kinh tế vĩ mô. Như giá của hầu hết trái phiếu được quyết định bởi khung lãi
suất của thị trường và khung lãi suất này lại bị tác động của các hoạt đọng
kinh tế nói chung và chính sách lãi suất của ngân hàng trung ương. Nói cách
khác chính sách tài chính – ngân hàng và chính sách tiền tệ cảu Chính phủ có
ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế của một nước. Các điều kiện về kinh tế do
các chính sách này tác động sẽ ảnh hưởng đến tất cả các ngành và các công ty
trong nền kinh tế.
Chính sách tài chính – ngân hàng như miễn giảm thuế có thể khuyến khích
tiêu dùng, ngược lại các khoản thuế bổ sung đánh vào thu nhập, xăng dầu,
thuốc lá và rượu thì có thể hạn chết tiêu dùng. TĂng hay giảm chi tiêu của
Chính phủ cho quốc phòng , bảo hiểm thất nghiệp hoặc các chương trình đào
tạo lại hay cho các xa lộ cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung. Hơn thế
nữa, chi tiêu chính phủ có ảnh hưởng cấp số nhân rất mạnh.
Chính sách tiền tệ cũng tạo ra những thay đổi tương tự. Một chính sách
tiền tệ thắt chặt với tốc độ cung tiền giảm sẽ giảm việc cung cấp vốn lưu động
và sẽ hạn chế việc mở rộng sản xuất kinh doanh đối với tát cả doanh nghiệp.
Bên cạnh đó chính sách tiền tệ thắt chặt với lãi suất định trước có thể làm tăng
lãi suất thị trường và do vậy chi phí của cấc công ty sẽ tăng.
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
1212
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Phân tích một nền kinh tế nhất thiếp phải xem xét đến lãi suất và lạm phát.
Lạm phát sẽ dẫn đến sự khác nhau giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực,
thay đổi hành vì tiêu dùng và tiết kiệm cyar dân cư và doanh nghiệp.
Như vậy, có nhiều yếu tố vĩ mô cơ bản tác động trực tiếp đến các hoạt
động đầu tư trên thị trường chứng khoán:
• Tổng sản phẩm quốc nội (GDP),

• Việc làm
• Tỷ giá hối đoái
• Thâm hụt ngân sách
• Thái độ
• Cung ứng tiền tệ và tổng chi người tiêu dùng
• Lạm phát và lãi suất
• Chu trình kinh doanh
1.3. Dự đoán tình hình kinh tế và xu hướng thị trường
Môi trường kinh tế vĩ mô quyết định xư hướng chung của thị trường chứng
khoán. Thông thường nền kinh tế phát triển tốt, thị trường chứng khoán đi lên
và ngược lại khi nền kinh tế vĩ mô sa sút, rõ nét nhất là trong khủng hoảng
kinh tế, thì thị trường xuống. Như vậy nếu ta có thể dự đoán được xu thế phát
triển của nền kinh tế thì sẽ dự đoán được xu thế phát triển chung cảu thì
trường chứng khoán. Tuy nhiên thì vì nhiều lý di kahcs nhau thi không phải
lúc nào quan hệ giữa tình hình kinh tế và diễn biến chung của thị trường
chứng khoán là diễn ra cùng chiều. Biến động giá cổ phiếu đoi khi xảy ra
trước biến động nền kinh tế. Vì vậy mà các nhà đầu tư luôn luôn cố gắn dự
đoán tình hình kinh tế để tìm ra những đỉnh điểm của chu kỳ kinh tế để tim ra
những đinihr điểm của chu kỳ kinh tế và chọn thời co tham gia hoặc rút khỏi
thị trường chứng khoán.
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
1313
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2. Phân tích ngành.
Các ngành có khả năng phản ứng khác nhau với những thay đổi kinh tế
trong chu kỳ kinh doanh. Triển vọng của một ngành trong môi trường kinh tế
quyết định kết quả mà mỗi công ty có thể đạt được vì vậy mà việc phân tích
ngành diễn ra trước việc phân tích công ty.
Quy trình phân tích:
- Xác định hệ số rủi ro β của ngành từ đó tính toán lợi suất yêu cầu theo

công thức CAPM ( sẽ trình bày trong phần Lý thuyết danh mục.
E(R) = R
f
+ β ( R
m
– R
f
)
- Phân tích chỉ số P/E của toàn ngành.
- Ước tính thu nhập trên cổ phiếu EPS hay E (thu nhập) được thực hiện
theo một phương pháp tính như phân tích chu kỳ kinh doanh, phân tích
đầu vào - đầu ra, phân tích mối quan hệ giữa ngành và nền kinh tế tổng
thể.
- Tính giá trị cuối kỳ cuả chỉ số ngành
- So sánh lợi suất đạt được r với lợi suất yêu cầu E(r)
3. Phân tích công ty
3.1. Phân tích báo cáo tài chính công ty
3.1.1. Báo cáo tài chính
Do các báo cáo là cơ sở cho việc thực hiện hoạt động phân tích tài chính
nên trước tiên chúng ta phải hiểu mọi nội dung mà báo cáo tài chính đưa ra.
Các báo cáo tài chính bao gồm:
- Bảng cân đối kế toán ( Balance Sheet)
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh ( Income Statement )
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ ( Cash Flow Statement )
- Thuyết minh báo cáo tài chính ( Notes to Financial Statements)
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
1414
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
3.1.2. Hệ số tài chính
Dựa vào các số liệu của báo cáo tài chính ta có thể tính các hệ số quan

trọng của công ty trong các năm.
Các hệ số tài chính có thể cho chúng ta thấy tiềm năng phát triển cũng như
điểm yếu của một công ty. Tuy nhiên thì những hệ số tài chính này cũng sẽ
không đưa ra những câu trả lời xác định, nó cũng không đưa ra các dự đoán.
Vì thế chúng ta cần thận trọng và chỉ sử dụng chúng vào những thời điểm
thích hợp. Tức là cần phải sử dụng các hệ số này trong mối tương quan với
các yếu tố và các phân tích khác.
Các hệ số tài chính:
- Các hệ số về khả năng thanh toán
- Các hệ số về hiệu quả hoạt động
- Các hệ số về cơ cấu vốn
- Các hệ số về khả năng sinh lời
3.2. Phân tích rủi ro
Phân tích rủi ro là chúng ta tiến hành xem xét sự bất ổn của tổng thể các
dòng thu nhập của công ty. Mức độ biến động của các dòng thu nhập càng cao
thì rủi ro đối diện với các nhà đầu tư càng lớn.
Rủi ro của công ty thường bao gồm 2 loại rủi ro: Rủi ro kinh doanh và Rủi
ro tài chính.
3.2.1 Rủi ro kinh doanh
Rủi ro kinh doanh là sự bất ổn về thu nhập mà nguyên nhân cơ bản của nó
là xuất phát từ lĩnh vực ngành mà công ty đó trực thuộc. Sự bất ổn là kết quả
sự thay đổi doanh số bán hàng của công ty. Và thu nhập của một công ty sẽ
phụ thuộc doanh số bán hàng và chi phí sản xuất. Rủi ro kinh doanh thường
được tính bằng mức độ biến động của thu nhập phát sinh từ hoạt động sản
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
1515
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
xuất của công ty. Rủi ro kinh doanh được định lượng một cách tổng quát là
một hàm số của hệ số tương quan của biến động thu nhậphoatj động.
Rủi ro kinh doanh = f (Hệ số tương quan biến động của thu nhập hoạt

động)

Độ lệch chuẩn của thu nhập hoạt động (OE)
= ------------------------------------------------

Thu nhập hoạt động bình quân
3.2.2 Rủi ro tài chính
Rủi ro tài chính là rủi ro lợi nhuận của các cổ đông khi công ty vay nợ. Khi
một công ty huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu thì các khoản thanh
toán lãi suất phải được thực hiện trước khi tính thu nhập của cổ phiếu thường,
và các khoản lãi suất được coi là nợ cố dịnh. Giống như đòn bẩy nợ thì trong
thời gian công ty hoạt động tốt thì cổ tức của cố phiếu thường sẽ tăng theo
một tỷ lệ phần trăm lớn hơn thu nhập hoạt động, nhưng khi công ty thua lỗ thì
thu nhập cổ đông sẽ giảm theo tỷ lệ lớn hơn thu nhập hoạt động do các khoản
chi phi tài chính cố định này. Công ty tăng nợ thì do các nghĩa vụ theo hợp
đồng cố định, vì lẽ đó nên họ đã làm tăng rủi ro tài chính và nguy cơ mất khả
năng thanh toán cũng cao hơn.
Để xác định được rủi ro tài chính của một công ty, người ta thường sử
dụng hai loại hệ số:
- Hệ số thanh toán nợ dài hạn
- Cấu trúc vốn
3.3. Phân tích hoạt động và khả năng tăng trưởng của công ty
3.3.1. Tầm quan trọng của việc phân tích hoạt động và khả năng tăng trưởng
Đối tượng của việc phân tích khả năng tăng trưởng lâu dài là các hệ số.
Các hệ số này sẽ cho chúng ta biết một doanh nghiệp sẽ tăng trươgnr với tốc
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
1616
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đọ nhanh như thế nào. Việc phân tích tiềm năng tăng trươgnr của một doanh
nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với cả người cho vay lẫn chủ sở hữu của

doanh nghiệp đó. Chủ doanh nghiệp hiểu rằng giá trị của doanh nghiệp phụ
thuộc vào sự tăng trưởng các khoản thu nhập và cổ tức trong tương lai.
Các nhà tín dụng rất quan tâm đến khả năng tăng trưởng của một dianh
nghiệp vì nó có ý nghĩa quan trọng đối với thành công trong tương lai của
doanh nghiệp đó và là nhân tố chủ yếu để quyết định khả năng thanh toán nợ
của doanh nghiệp đó. Cơ sở lý luận cho việc tính toán là giả định trong trường
hợp bị mất khả năng thanh toán, doanh nghiệp có thể bán các tài sản và dùng
số tiền thu được để trả nợ.
3.3.2. Các nhân tố quyết định tăng trưởng
Sự tăng trưởng của một doanh nghiệp phụ thuộc vào:
(1) Giá trị những nguồn lực được giữ lại tái đầu tư vào doanh nghiệp
(2) Tỷ lệ lợi nhuận thu được từ các nguồn lực được giữ lại
Doanh nghiệp tái đầu tư càng nhiều thì tiềm năng tăng trưởng càng lớn.
Mặt khác với một mức tái đầu tư nhất định, doanh nghiệp tăng trưởng nhanh
hơn nếu mức sinh lời từ dự án tái đầu tư cao hơn.
Mức tăng trưởng được tính theo công thức
g = b * ROE
g: tốc độ tăng trưởng
b: Tỷ lệ thu nhập giữ lại
ROE: Lợi nhuận trên vốn cổ phần của doanh nghiệp
Ngoài cách phân tích các hệ số chỉ số thì chúng ta cần đề cập đến sự phát
triển của kinh tế và của ngành cũng như các doanh nghiệp cạnh tranh khác.
Tóm lại: Việc phân tích báo cáo tài chính của bất kỳ một công ty nào là
một quá trình gồm nhiều công đoạn có quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau. Khả
năng thanh toán nợ ngăn hạn sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh lời; khả năng
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
1717
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
sinh lời lại bắt đầu từ doanh số bán hàng, và doanh số bán hàng lại lêi quan
đến tính thanh khoản của tài sản. Hiệu quả của ciệc quản lý tài sản sẽ ảnh

hưởng tới chi phí và mức độ sẵn có của tín dụng, và những điều này sẽ ảnh
hưởng tới cấu trúc vốn. Tất cả các yếu tố tài chính sẽ tác động đến giá của cổ
phiếu. Bước cuối cùng của việc phân tích đó là tập hợp tất cả các số liệu phân
tích đó để đưa ra các kết luận về công ty. Các kết luận sẽ được đưa ra dựa trên
các mục tiêu ban đầu đặt ra trước khi phân tích.
Khi đã nghiên cứu tài chính các công ty, để đầu tư tốt, hạn chế rủi ro,
chúng ta có thể đầu tư theo danh mục đầu tư các chứng khoán của các công ty
theo tỷ trọng nhất định.
III. Lý thuyết về lập và quản lý danh mục đầu tư
1. Lý thuyết về danh mục đầu tư
1.1. Khái niệm
Danh mục đầu tư chứng khoán là các khoản đầu tư của một cá nhân hoặc
tổ chức vào việc nắm giữ một hoặc nhiều loại cổ phiếu, trái phiếu, hàng hóa,
đầu tư bất động sản, tài sản tương đương tiền hoặc các tài sản khác.
Mục đích củc việc đầu tư theo danh mục là giảm thiểu rủi ro bằng việc đa
dạng hóa danh mục đầu tư. Dựa trên cơ sở các tài sản đầu tư, nhà đầu tư lập
một danh mục đầu tư bao gồm các tài sản khác nhau. Trên nguyên tắc là
“không bỏ trứng vào một giỏ”, các nhà đầu tư tạo ra một danh mục có rủi ro
thấp nhất, đó là rủi ro của thị trường (rủi ro hệ thống). Khi đó, nhà đầu tư vẫn
đạt được ở tại mức lợi nhuận kỳ vọng. Vì vậy, nhà đầu tư luôn cố gắng tạo ra
một danh mục tối ưu.
1.2. Đặc điểm của danh mục đầu tư chứng khoán
Danh mục đầu tư thực chất là tổ hợp các loại tài sản khác nhau của nhà
đầu tư. Trong danh mục các tài sản được phân bổ theo các tỷ trong khác nhau.
Và việc phân bổ các tài sản là việc lựa chọn các tài sản đầu tư nhằm đạt được
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
1818
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
mức lợi nhuận dài hạn và mức rủi ro thấp tại mức chấp nhận được. Trong quá
trình đầu tư thì nhà đầu tư có thể thay đổi các tài sản trong danh mục hay thay

đổi tỷ trọng các loại trài sản trong danh mục khi có những thông tin ảnh
hưởng đến thị trường hay tài sản mà nhà đầu tư đang nắm giữ. Việc đó được
gọi là cơ cấu lại danh mục đầu tư. Khi nhà đầu tư cảm thấy triển vọng về một
tài sản nào đó tốt, nhà đầu tư có thể điều chỉnh danh mục đầu tư của mình
bằng cách giảm tỷ trọng vào các tài sản không có triển vọng và tăng đầu tư
vào các tài sản có triển vọng tốt hơn.
Danh mục đầu tư phụ thuộc vào các yếu tố như trình độ của các nhà đầu
tư, tâm lý của từng nhà đầu tư, mức thuế suất của từng đối tượng nhà đầu tư,
tính chất của từng nhà đầu tư, lứa tuổi của nhà đầu tư…
Thực tế thì danh mục đầu tư có trình độ khác nhau, mức độ chấp nhận rủi
ro thua lỗ là không giống nhau, thái độ cũng khác nhau. Vì vậy mà danh mục
đầu tư của các nhà đầu tư là khác nhau. Do các nhà đầu tư khác nhau thì mức
độ chấp nhận rủi ro là khác nhau. Vì vậy, rủi ro của các danh mục đầu tư phụ
thuộc vào các nhà đầu tư. Tương ứng với mức chấp nhận rủi ro khác nhau là
lợi suất kỳ vọng danh mục của từng nhà đầu tư cũng khác nhau. Các nhà đầu
tư ưa thích rủi ro thì chấp nhận một mức rủi ro cao nhưng lợi nhuận kỳ vọng
cao. Ngược lại, các nhà đầu tư là e ngại rủi ro thì mức chấp rủi ro là thấp
tương ứng với lợi nhuận kỳ vọng thấp hơn. Từ đó, các tài sản trong từng danh
mục là khác nhau. Các nhà đầu tư ưa thích rủi ro thì đầu tư vào các tài sản có
rủi ro cao như cổ phiếu. các nhà đầu tư e ngại rủi ro thì danh mục sẽ có tỷ
trọng các tài sản ít rủi ro như trái phiếu cao hơn.
Các nhà đầu tư khác nhau thì mức thuế cũng khác nhau. Các nhà đầu tư
có mức thuế cao thường không mong muốn trong danh mục của mình co
những chứng khoán giống với các nhà đầu tư có mức thuế thấp.
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
1919
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tính chất của các nhà đầu tư khác nhau thì danh mục đầu tư khác nhau.
Đó là danh mục đầu tư cá nhân hay nhà đầu tư có tổ chức. Ví dụ, các nhà đầu
trên thị trường thường tính đến đầu tư với lợi nhuận là hưởng chênh chênh

lệch giá, ít để ý tới mức cổ tức nhận được từ tổ chức phát hành. Với tư cách là
một nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư có tổ chức rất quan tâm tới mức cổ
tức được trả, chiến lược phát triển của các tổ chức phát hành trong dài hạn, từ
việc sở hữu cổ phần của tổ chức phát hành bên cạnh các yếu tố khác.
Mặt khác, các nhà đầu tư ở các lứa tuổi khác nhau, danh mục đầu tư cũng
khác nhau. Các nhà đầu tư trẻ tuổi thường hay đầu tư vào các tài sản có thời
gian đáo hạn dài. Các nhà đầu tư nhiều tuổi thường hay đầu tư vào các tài sản
có thời hạn ngắn.
2. Đầu tư chứng khoán bằng danh mục đầu tư
2.1. Xác định tài sản đầu tư
Để nhà đầu tư có thể tìm ra được các loại chứng khoán một các có hiệu
quả nhất (tức là mang lại lợi nhuận và sự an toàn về vốn cho nhà đầu tư), các
nhà đầu tư tiến hành đầu tư nhằm trả lời các câu hỏi trước khi đưa ra quyết
định đầu tư như: khi nào là thời điểm thuận lợi để đầu tư, khi nào cần phải rút
ra khỏi thị trường, đầu tư vào loại chứng khoán nào để phù hợp với mục tiêu
đề ra...
Tuy nhiên trong lĩnh vực đầu tư hấp dẫn này, dường như không có chỗ
cho những quyết định cảm tính. Muốn thành công, nhà đầu tư phải có kỹ năng
phán đoán, xem xét và phân tích về chứng khoán.
Tuỳ thuộc vào quan điểm của nhà đầu tư, việc lựa chọn chứng khoán và
phân tích chứng khoán cũng có khác nhau. Thông qua tình hình chung của
toàn bộ thị trường, nhà đầu tư chuyên nghiệp có thể tìm ra được những cổ
phiếu “tốt” trên thị trường. Tuy nhiên việc lựa chọn được cổ phiếu tốt không
phải nhà đầu tư nào cũng làm được. Do đó, một nhà đầu tư chuyên nghiệp
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
2020
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
phải thực hiện quá trình phân tích các chứng khoán để có thể thực hiện đầu tư
một cách tốt nhất.
Điều quan trọng đầu tiên, nhà đầu tư phải xác định được lượng tiền mà

mình có thể đầu tư vào chứng khoán. Câu trả lời phụ thuộc vào khả năng tài
chính của nhà đầu tư, họ cần xác định được lượng vốn có thể đầu tư vào tài
sản ngắn hạn, lượng vốn để đầu tư vào tài sản dài hạn. Đối với tổ chức đầu
tư, việc xác định được khả năng tài chính lại càng quan trọng.
Cùng với đó, nhà đầu tư cần xác định mục đích đầu tư và mức độ rủi ro
của đầu tư có thể chấp nhận. Cũng như trong các lĩnh vực đầu tư khác, đầu tư
chứng khoán luôn tồn tại mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa lợi nhuận và rủi ro. Thu
nhập càng cao, mức thu nhập tiềm ẩn càng cao. Các nhà đầu tư thường kì
vọng vào hai loại thu nhập là thu nhập từ cổ tức và thu nhập từ mức tăng của
giá cổ phiếu (lãi vốn). Thu nhập từ cổ tức phụ thuộc vào tình hình kinh doanh
của doanh nghiệp của công ty và quyết định của hội đồng quản trị. Khi nhà
đầu tư kỳ vọng về tình hình phát triển của công ty, nhà đầu tư sẽ mua cổ phiếu
với hy vọng giá của cổ phiếu sẽ tăng trong tương lai. Khác với nhà đầu tư cá
nhân trên thị trường, nhà đầu tư có tổ chức đầu tư với tư cách là một nhà đầu
tư chiến lược. Do đó họ quan tâm tới tình hình kinh doanh của doanh nghiệp
trong quá khứ và tương lai thông qua các dự án dự định thực hiện trong tương
lai của công ty. Từ đó, phần thu nhập từ cổ tức sẽ cao. Khi này các nhà đầu tư
có tổ chức quan tâm tới các công ty kinh doanh trong các lĩnh vực công cộng
như điện lực, viễn thông, dầu khí… hoặc các cổ phiếu thượng hạng.
Để lựa chọn được cổ phiếu thích hợp, nhà đầu tư cần quan tâm tới tất cả
các thông tin liên quan tới công ty họ muốn đầu tư. Các thông tin này bao
gồm các thông tin quá khứ và đặc điểm của công ty, tình hình tài chính, các
chi tiết của đợt phát hành và tổ chức bảo lãnh phát hành. Nhà đầu tư có thể
tìm được các thông tin này trong bản cáo bạch, thông cáo phát hành, trong
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
2121
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
dịch vụ tư vấn đầu tư. Các quyết định về lựa chọn đầu tư khi các nhà đầu tư có
đủ cơ sở thông tin về khoản đầu tư của mình.
2.2. Quyết định quy mô đầu tư

Trước hết nhà đầu tư cần xác định phương thức đầu tư của mình, là đầu tư
ngắng hạn hay dài hạn, đầu tư thụ động hay chủ động. Từ đó quyêt định sẽ
đầu tư tổng là bao nhiêu vốn và sẽ đầu tư với tỷ trọng bao nhiêu vào cổ phiếu,
bao nhiêu phần trăm vào trái phiếu và các tài sản tài chính khác. Tỷ trọng của
danh mcuj đầu tư cũng ảnh hưởng bởi tình hình thị trường. Nếu thị trường
chứng khoán tốt, có cơ hội tìm kiếm lợi nhuận hơn các thị trường khác thì nhà
đầu tư sẽ quyết định để tỷ trọng các chứng khoán trong danh mục của mình
nhiều hơn các tài sản khác.
Trong đầu tư, nhà đầu tư nên đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác
nhau, sự thua lỗ về một loại chứng khoán chỉ có tác động nhỏ tới toàn bộ danh
mục đầu tư. Đó là nguyên tắc đa dạng hoá trong đầu tư. Đa dạng hoá danh
mục đầu tư bao gồm đa dạng hoá tổ chức phát hành và đa dạng hóa lĩnh vực
kinh doanh.
Đa dạng hoá tổ chức phát hành tức là nhà đầu tư quyết định đầu tư bao
nhiêu vào trái phiếu chính phủ, bao nhiêu vào trái phiếu công ty, bao nhiêu
vào cổ phiếu. Điều này phụ thuộc vào quan điểm của từng nhà đầu tư. Chẳng
hạn, nếu nhà đầu tư đầu tư vào danh mục cổ phiếu của 20 nhà phát hành khác
nhau và khi một nhà phát hành chẳng may bị phá sản thì danh mục đầu tư chỉ
bị suy giảm 5%. Mỗi nhà đầu tư sẽ tự đưa ra quyết định của mình dựa vào suy
nghĩ bản thân, tiềm lực tài chính cũng như mức độ rủi ro và họ có thể chịu
đựng.
Bên cạnh việc đa dạng hoá tổ chức phát hành, nhà đầu tư cũng nên đa
dạng hoá các lĩnh vực kinh doanh, đa dạng hoá nguồn thu hoặc đa dạng hoá
theo vị trí địa lý. Nhà đầu tư cần chú ý rằng, càng đa dạng hoá danh mục đầu
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
2222
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tư thì càng hạn chế được rủi ro. Tuy nhiên việc đa dạng hoá quá nhiều sẽ làm
mất nhiều chi phí giám sát và phải bỏ ra nhiều công sức để quản lý danh mục
đó. Đồng thời, đa dạng hoá cũng quá nhiều cũng có hạn chế là nhà đầu tư

không thể thu được những khoản lợi nhuận lớn. Tuy nhiên, bằng lòng với
những khoản thu nhập vừa phải để tránh những thua lỗ quá mức là hoàn toàn
hợp lý.
2.3. Quản lý danh mục đầu tư
Quản lý danh mục đầu tư là một nghiệp vụ quan trọng trong kinh doanh
chứng khoán, là công cụ hữu hiệu để hạn chế rủi ro và tối đa hoá lợi nhuận.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để quản lý danh mục đầu tư một cách tối ưu nhất.
Một danh mục đầu tư có thể bao gồm các chứng khoán được giao dịch trên thị
trường như: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền chọn….
Quản lý danh mục đầu tư là nhu cầu cần thiết của người đầu tư, có trường
hợp giá cả của mọi chứng khoán được định giá đúng nhưng mỗi chứng khoán
vẫn chứa đựng những rủi ro và những rủi ro này có thể san sẻ thông qua việc
đa dạng hoá danh mục đầu tư. Đồng thời, việc lựa chọn danh mục đầu tư phải
tính đến ảnh hưởng của thuế. Nhà đầu tư phải chịu mức thuế cao thường
không muốn trong danh mục của mình có những chứng khoán giống như danh
mục của những người chịu thuế thấp. Các nhà đầu tư ở các lứa tuổi khác nhau
thì nhu cầu đầu tư và mức chấp nhận rủi ro cũng khác nhau. Thông thường,
nhà đầu tư lớn tuổi có nhu cầu đầu tư vào các loại chứng khoán có độ an toàn
cao. Ngược lại, các nhà đầu tư trẻ tuổi lại có nhu cầu đầu tư vào các loại
chứng khoán có độ rủi ro cao nhưng mức lợi nhuận kỳ vọng cũng cao.
Do đó, sau khi tiến hành lựa chọn được một danh mục đầu tư theo nhu
cầu của mình, nhà đầu tư cần tiến hành quản lý danh mục đầu tư. Nhà đầu tư
cần theo dõi những biến động giá của các chứng khoán trên thị trường và mức
lợi nhuận mong đợi. Từ đó, trong quá trình theo dõi các biến động của danh
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
2323
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
mục, nhà đầu tư tiến hành điều chỉnh danh mục cho phù hợp với diễn biến của
thị trường và mục tiêu đã đề ra.
2.4. Sự cần thiết của đầu tư chứng khoán theo danh mục

2.4.1. Đối với nhà đầu tư cá nhân
Đối với nhà đầu tư trên thị trường, đầu tư chứng khoán là một hoạt động
đầu tư mang lại lợi nhuận cao. Tuy nhiên, đầu tư chứng khoán lại hàm chứa
rủi ro cao. Khi nhà đầu tư thực hiện đầu tư đơn lẻ vào một loại cổ phiếu, rủi ro
rất lớn. Vì vậy, nhà đầu tư cần thiết phải xác định một danh mục đầu tư cho
phù hợp với mức chấp nhận rủi ro của mình do các nhu cầu sau.
Thứ nhất, đầu tư chứng khoán theo danh mục vẫn đảm bảo được các yêu
cầu của nhà đầu tư về lợi suất đầu tư. Khi nhà đầu tư tiến hành đầu tư theo
danh mục, nhà đầu tư có thể điều chỉnh danh mục sao cho phù hợp với lợi suất
yêu cầu.
Thứ hai, đầu tư bằng danh mục đầu tư giúp nhà đầu tư có thể đa dạng
hóa rủi ro. Khi đầu tư theo hình thức đơn lẻ, cổ phiêu đó biến động tốt sẽ
mang lại lợi nhuận cao cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, khi cổ phiếu đó mất giá
hoặc doanh nghiệp phát hành bị phá sản, nhà đầu tư sẽ bị mất lớn, thậm chí bị
mất hết. Vì vậy, rủi ro là rất cao. Khi nhà đầu tư thực hiện đầu tư theo danh
mục, các rủi ro riêng của danh mục đã được đa dạng hóa. Vì vậy, nhà đầu tư
xác định được danh mục đầu tư hiệu quả, phù hợp với nhu cầu lợi nhuận của
nhà đầu tư.
Thứ ba, hình thức đầu tư thông qua các tổ chức chuyên nghiệp sẽ làm
giảm chi phí giám sát cho nhà đầu tư. Nhà đầu tư với hình thức uỷ thác cho
công ty tài chính, quỹ đầu tư sẽ không phải bỏ ra quá nhiều chi phí giám sát
đối với các chứng khoán. Đó là chi phí về tiền bạc và chi phí về thời gian,
công sức bỏ ra để giám sát chứng khoán. Vì vậy, khi chỉ mất một khoản phí uỷ
thác nhỏ cho công ty tài chính, nhà đầu tư sẽ không phải chịu những chi phí
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
2424
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trên. Khi này, các công ty được ủy thác sẽ quản lý danh mục đầu tư cho nhà
đầu tư.
2.4.2. Đối với nhà đầu tư là các tổ chức kinh doanh chứng khoán

Các tổ chức kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán nhằm
mục đích thu được nguồn lợi nhuận từ hoạt động đầu tư chứng khoán. Đó là
phần doanh thu từ hoạt động tài chính của công ty. Vì vậy, trong khi thị trường
chứng khoán ngày càng phát triển và hoàn thiện, đầu tư chứng khoán là một
lĩnh vực mà các tổ chức kinh doanh tăng nguồn lợi nhuận.
Công ty tài chính là một tổ chức kinh doanh phi ngân hàng hoạt động
trong lĩnh vực tài chính. Vì vậy, hoạt động đầu tư chứng khoán là một trong
những hoạt động chính của công ty tài chính.
Công ty tài chính là một tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động độc lập
do tổng công ty hoặc công ty mẹ lập ra. Với chức năng là thực hiện các chức
năng đầu tư, cho vay cho các công ty thuộc tổng công ty ( hoặc công ty mẹ).
Do đó trong lĩnh vực hoạt động của mình, công ty tài chính luôn phải bảo đảm
an toàn hoạt động đối với nguồn vốn của mình. Trong lĩnh các lĩnh vực hoạt
động, công ty tài chính phải được sự chấp thuận phê duyệt, giám sát của tổng
công ty sao cho bảo đảm an toàn vốn.
Đầu tư tài chính là một hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho các đối
tượng tham gia thị trường chứng khoán. Đối với công ty tài chính, đầu tư
chứng khoán mở rộng phạm vi hoạt động của công ty. Đầu tư chứng khoán
giúp công ty thu được một khoản lợi nhuận lớn, phát huy được nguồn vốn
dùng để đầu tư trong công ty ngoài đầu tư dự án và cho vay…
Đầu tư vào thị trường tài chính tạo cho công ty một khoản lợi nhuận cao,
phù hợp với yêu cầu về khả năng an toàn vốn nhờ vào việc đa dạng hoá danh
mục đầu tư. Khi đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán, với khả năng quan hệ của
công ty trên thị trường, công ty tài chính có thể đầu tư bằng cách góp vốn vào
công ty cổ phần với tư cách là cổ đông sáng lập của công ty, hoặc cũng có thể
Phạm Thị Hải Ly_Toán Tài Chính 46
2525

×