Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh kẹo của công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà trên thị trường Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.33 KB, 42 trang )

Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
Khoa Thương Mại và Kinh tế quốc tế
ĐỀ ÁN KINH TẾ THƯƠNG MẠI
Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh
kẹo của công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà trên thị
trường Việt Nam.
Họ và tên: Dương Thị Thu Trang
Lớp: QTKD Thương Mại 48A
Mã sv: CQ 483045
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Đinh Lê Hải Hà
Hà Nội, 2009
Lời mở đầu
Ngay từ khi nền kinh tế nước ta bắt đầu đổi mới, chuyển sang nền kinh tế
thị trường, thì cạnh tranh và năng lực cạnh tranh đã được các doanh nghiệp
coi như một mục tiêu quan trọng để có thể tồn tại và phát triển.
Trong điều kiện hiện nay, một bước ngoặt quan trọng đối với sự phát triển
của nền kinh tế và một môi trường cạnh tranh ngày càng khắc nghiệt hơn, thì
vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp càng
trở nên quan trọng, trở thành mục tiêu sống còn để duy trì thị phần và mở
rộng thị trường tiêu thụ.
Không nằm ngoài quy luật đó, công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà cũng là
một trong những công ty nằm trong lĩnh vực, ngành hàng chịu ảnh hưởng sâu
sắc từ hội nhập. Chuyên sản xuất kinh doanh các loại bánh kẹo, Hải Hà từ lâu
đã được người tiêu dùng biết đến như một nhãn hiệu bánh kẹo hàng đầu.
Trong những năm qua, Công ty đã biết chăm lo phát huy các nhân tố nội lực
để vượt qua các thử thách của thời kỳ chuyển đổi, phát triển sản xuất kinh
doanh ngày càng có hiệu quả. Với mục tiêu trở thành một trong những doanh
nghiệp sản xuất bánh kẹo lớn nhất tại Việt Nam.
Vậy làm thế nào để có thể tiếp tục giữ vững thị phần của mình? Biện
pháp nào giúp Hải Hà có thể cạnh tranh với các đối thủ khác? Muốn làm đựơc
như vậy, công ty cần có những chính sách nhất định trong việc hoạch định các


chiến lược để nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm.
Trên cơ sở phân tích các nhân tố tác động đến hoạt động kinh doanh của
công ty em đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản
2
phẩm bánh kẹo của công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà trên thị trường
Việt Nam” sẽ đề xuất một số biện pháp, chiến lược nhằm giải quyết vấn đề
này.
Trong quá trình tìm hiểu và phân tích thông tin, bài đề án có thể còn chưa
được chính xác và đầy đủ, rất mong sự hướng dẫn và góp ý của giáo viên
hướng dẫn Th.S Đinh Lê Hải Hà.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương 1: Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của
sản phẩm bánh kẹo
3
1.1 Khái quát về cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh
Khái niệm về cạnh tranh đã được đề cập đến từ rất lâu, theo các học giả
trường phái tư sản cổ điển: “Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi
phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên trong thị trường một dư địa
hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần xứng đáng so
với khả năng của mình”.
Qua thời gian và không gian, các quan niệm về cạnh tranh cũng khác
nhau. Theo từ điển kinh doanh Anh xuất bản năm 1992 thì cạnh tranh được
xem là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường
nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách
hàng về phía mình”.
Ở Việt Nam, đề cập đến “cạnh tranh”, một số nhà khoa học cho rằng,
cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hóa – dịch vụ và đó là
phương thức để giành lợi nhuận cao nhất cho các chủ thể kinh tế. Nói khác đi
là giành lợi thế để hạ thấp các yếu tố “đầu vào” của chu trình sản xuất kinh

doanh và nâng cao giá trị của “đầu ra” sao cho mức chi phí thấp nhất.
Như vậy, trên quy mô toàn xã hội, cạnh tranh là phương thức phân bổ các
nguồn lực một cách tối ưu và do đó trở thành động lực bên trong thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Mặt khác, đồng thời với tối đa hóa lợi nhuận của các chủ
thể kinh doanh, cạnh tranh cũng là quá trình tích lũy và tập trung tư bản
không đồng đều ở các doanh nghiệp. Và từ đó, cạnh tranh còn là môi trường
phát triển mạnh mẽ cho các chủ thể kinh doanh thích nghi được với điều kiện
thị trường.
1.1.2 Phân loại
Có nhiều tiêu thức phân loại cạnh tranh, tuy nhiên, một số cách phân loại
cơ bản đó là:
- Xét theo phạm vi ngành kinh tế, cạnh tranh được chia thành 2 loại:
+ Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng
sản xuất, kinh doanh một loại hàng hóa, dịch vụ. Trong đó, các doanh nghiệp
4
yếu kém phải thu nhỏ hoạt động kinh doanh, thậm chí bị phá sản, các doanh
nghiệp mạnh sẽ chiếm ưu thế. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cuộc cạnh
tranh tất yếu xảy ra, tất cả đều nhằm vào mục tiêu cao nhất là lợi nhuận của
doanh nghiệp.
+ Cạnh tranh giữa các ngành: Là cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm
mục tiêu lợi nhuận, vị thế và an toàn. Cạnh tranh giữa các ngành tạo ra xu
hướng di chuyển của vốn đầu tư sang các ngành kinh doanh thu được lợi
nhuận cao hơn và tất yếu sẽ dẫn tới sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
- Xét theo mức độ cạnh tranh:
+ Cạnh tranh hoàn hảo: Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà ở
đó có rất nhiều người bán sản phẩm tương tự nhau về phẩm chất, quy cách,
chủng loại, mẫu mã. Giá cả sản phẩm là do cung – cầu trên thị trường quyết
định. Các doanh nghiệp được tự do gia nhập, rút lui khỏi thị trường. Do đó,
trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, các doanh nghiệp tham gia kinh doanh

muốn thu được lợi nhuận tối đa phải tìm mọi biện pháp giảm chi phí đầu vào,
cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu
của người tiêu dùng.
+ Cạnh tranh không hoàn hảo: Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là loại
thị trường phổ biến nhất hiện nay. Sức mạnh thị trường thuộc về một số
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn. Các doanh nghiệp trên thị trường này
kinh doanh những loại hàng hóa và dịch vụ khác nhau. Sự khác biệt giữa các
loại hang hóa, dịch vụ này ở nhãn hiệu. Có những loại hang hóa, dịch vụ chất
lượng như nhau song sự lựa chọn của người tiêu dùng lại căn cứ vào uy tín,
nhãn hiệu sản phẩm. Các hình thức của cạnh tranh không hoàn hảo đó là độc
quyền, độc quyền tập đoàn, cạnh tranh mang tính độc quyền.
1.1.3 Vai trò cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có vai trò vô cùng quan trọng, nó
được coi là động lực của sự phát triển không chỉ của mỗi cá nhân, mỗi doanh
nghiệp mà cả nền kinh tế nói chung.
5
- Đối với nền kinh tế
Cạnh tranh được coi như là “linh hồn” của nền kinh tế, vai trò của cạnh
tranh đối với nền kinh tế quốc dân thể hiện ở những mặt sau:
+ Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển của mọi thành
phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường, góp phần xóa bỏ những độc quyền,
bất hợp lý, bất bình đẳng trong kinh doanh.
+ Cạnh tranh bảo đảm thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phân
công lao động xã hội ngày càng sâu sắc.
+ Cạnh tranh thúc đẩy sự đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của xã hội, kích thích nhu cầu phát triển, làm nảy sinh những nhu cầu
mới, góp phần nâng cao chất lượng đời sống và phát triển nền kinh tế.
+ Cạnh tranh làm nền kinh tế quốc dân vững mạnh, tạo khả năng cho doanh
nghiệp vươn ra thị trường nước ngoài.
+ Cạnh tranh giúp cho nền kinh tế có nhìn nhận đúng hơn về kinh tế thị

trường, rút ra được những bài học thực tiễn, bổ sung vào lý luận kinh tế thị
trường của nước ta.
- Đối với doanh nghiệp
Đối với mỗi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường, cạnh tranh có những vai trò sau:
+ Cạnh tranh được coi như là cái “sàng” để lựa chọn và đào thải những
doanh nghiệp.
+ Cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Cạnh
tranh tạo ra động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh
nghiệp tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
+ Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải đưa ra các sản phẩm có chất lượng
cao hơn để đáp ứng được nhu cầu thường xuyên thay đổi của người tiêu dung.
Muốn vậy, các doanh nghiệp phải áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật
mới vào quá trình sản xuất kinh doanh, tăng cường công tác quản lý, nâng cao
trình độ tay nghề của công nhân… từ đó làm cho doanh nghiệp ngày càng
phát triển hơn.
- Đối với người tiêu dùng:
Có cạnh tranh, hàng hóa sẽ có chất lượng ngày càng tốt hơn, mẫu mã
ngày càng đẹp, phong phú đa dạng hơn để đáp ứng các yêu cầu của người tiêu
6
dùng trong xã hội. Vì vậy, đối với người tiêu dùng, cạnh tranh có các vai trò
sau:
+ Người tiêu dùng có thể thoải mái, dễ dàng trong việc lựa chọn các sản
phẩm phù hợp với túi tiền và sở thích của mình.
+ Những lợi ích mà họ thu được từ hàng hóa ngày càng được nâng cao, thỏa
mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu của họ nhờ các dịch vụ kèm theo được
quan tâm nhiều hơn.
Bên cạnh những tác dụng tích cực, cạnh tranh cũng làm xuất hiện những
hiện tượng tiêu cực như làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế… gây nên sự bất ổn
trên thị trường, làm thiệt hại đến lợi ích của nhà nước và của người tiêu dùng.

Phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của cạnh
tranh không chỉ là nhiệm vụ của nhà nước, doanh nghiệp mà là nhiệm vụ
chung của toàn bộ cá nhân.
1.2 Năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh kẹo
1.2.1 Khái niệm năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh, khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ
cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị
phần của đồng nghiệp (theo từ điển thuật ngữ kinh tế học, 2001, NXB Từ điển
Bách Khoa Hà Nội, trang 349)
Các cấp độ của năng lực cạnh tranh:
Năng lực cạnh tranh có thể được phân biệt thành bốn cấp độ: Năng lực
cạnh tranh cấp quốc gia, cấp ngành, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp,
của sản phẩm hàng hóa. Chúng có mối tương quan mật thiết với nhau, phụ
thuộc lẫn nhau.
- Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
Trong một báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể của Diễn đàn kinh tế thế
giới (WEF) năm 1997 đã nêu ra: “năng lực cạnh tranh của một quốc gia là
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức
tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối và các
đặc trưng kinh tế khác”.
7
Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể hiểu là việc xây dựng
một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bố có hiệu quả các
nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là tổng hợp sức mạnh từ các
nguồn lực hiện có và có thể huy động được với doanh nghiệp. Khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp được thể hiện chủ yếu qua nguồn nhân lực, nguồn lực
vật chất, nguồn lực tài chính tổ chức, kinh nghiệm.
Nguồn nhân lực

Yếu tố nhân lực được coi là tài sản vô cùng quý báu cho sự phát triển
thành công của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp.
Với một đội ngũ nhân lực tốt sẽ làm tăng các nguồn lực khác cho doanh
nghiệp lên một cách nhanh chóng. Nó tạo ra những sản phẩm chất lượng cao,
ưu việt hơn với giá thành thấp nhất, đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng, đưa
doanh nghiệp vượt lên trên các đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó nguồn nhân
lực của một doanh nghiệp phải đồng bộ, sự đồng bộ này không chỉ xuất phát
từ thực tế đội ngũ công nghiệp của doanh nghiệp mà còn xuất phát từ năng
lực tổng hợp riêng thu được từ việc kết hợp nguồn nhân lực về mặt vật chất,
tổ chức trình độ tay nghề, ý thức kỹ luật, lòng hăng say lao động sẽ là nhân tố
quan trọng đảm bảo tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Nguồn lực vất chất
Một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cùng với một công nghệ
tiên tiến phù hợp với qui mô sản xuất của doanh nghiệp chắc chắn sẽ nâng cao
năng lực sản xuất, làm tăng khả năng của doanh nghiệp lên rất nhiều với một
cơ sở vật chất tốt , chất lượng sản phẩm sẽ được nâng lên cao hơn cùng với
việc hạ giá thành sản phẩm kéo theo sự giảm giá bán trên thị trường. Khả
năng chiến thắng trong cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ rất lớn, ngược lại
không một doanh nghiệp nào lại có khả năng cạnh tranh cao khi mà công
8
nghệ sản xuất lạc hậu, máy móc thiết bị cũ kỹ sẽ làm giảm chất lượng sản
phẩm, tăng chi phí sản xuất.
Nguồn lực tài chính
Nguồn lực tài chính là yếu tố quan trọng trong quyết định khả năng
sản xuất cũng như là chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá qui mô của doanh nghiệp.
Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm trang thiết bị , nguyên liệu hay
phân phối, quảng cáo cho sản phẩm... đều phải được tính toán dựa trên thực
trạng tài chính của doanh nghiệp, một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính
mạnh mẽ sẽ có khả năng trang bị công nghệ máy móc hiện đại. Bởi vì bất cứ
một hoạt động đầu tư mua sắm trang thiết bị nào cũng phải được tính toán dựa

trên thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy vấn đề tài chính luôn luôn
là vấn đề gây nhiều trăn trở cho nhà quản lý.
Khả năng tài chính của doanh nghiệp gồm vốn chủ sở hữu hay vốn tự
có và các nguồn vốn khác có thể huy động được. Tài chính được coi là
phương tiện chủ yếu vũ khí sắc bén để tấn công, đánh thắng các đối thủ cạnh
tranh . Doanh nghiệp nào không đủ khả năng tài chính sẽ bị thôn tính bới các
đối thủ hùng mạnh hơn hoặc tự rút lui khỏi thị trường.
Tổ chức
Mỗi doanh nghiệp phải có một cơ cấu tổ chức định hướng cho phần lớn
các công việc trong doanh nghiệp.
Nó ảnh hưởng đến phương thức thông qua quyết định của nhà quản trị,
quan điểm của họ đối với các chiến lược và điều kiện của doanh nghiệp. Cơ
cấu nề nếp tổ chức có thể là nhược điểm gây cản trở cho việc hoạt động thực
hiện chiến lược hoặc thúc đẩy các hoạt động đó không phát huy tính năng
động sáng tạo của các thành viên trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có
cơ cấu tổ chức hợp lý, năng động sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn các
doanh nghiệp khác.
Kinh nghiệm
9
Kinh nghiệm sản xuất kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp dự đoán chính
xác nhu cầu trên thị trường trong từng thời kỳ, từ đó giúp doanh nghiệp chủ
động trong việc sản xuất kinh doanh không bị ứ đọng vốn, tồn kho quá nhiều
sản phẩm tiết kiệm được nhiều chi phí khác.
Vì vậy, có thể nói, kinh nghiệm là thứ vô cùng quí giá đối với sự hoạt
động thành công của mỗi doanh nghiệp. Tất cả các hoạt động chức năng khác
của doanh nghiệp có khả năng thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào
kinh nghiệm của người lãnh đạo doanh nghiệp, của các cán bộ quản lý bộ
phận.
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa
Một sản phẩm hàng hóa được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp

ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng,
tính độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì… hơn hẳn so với những
sản phẩm cùng loại. Nhưng năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa lại
được định đoạt bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Sẽ không có năng
lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa cao khi năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó thấp.
Ở đây cũng cần phân biệt năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đó là 2 phạm trù khác nhau nhưng có
quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa có được do năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra, nhưng năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh của hàng hóa quyết định mà còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của hàng
hóa có ảnh hưởng rất lớn và thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.2 Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh kẹo
Chất lượng sản phẩm:
Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản
xuất và ngay cả sau khi tiêu thụ hàng hóa và chịu tác động của nhiều yếu tố:
công nghệ dây chuyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ tay nghề lao động,
10
trình độ quản lý… Chất lượng sản phẩm có thể được hiểu là mức độ đáp ứng
các tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật hoặc là khả năng thỏa mãn nhu cầu của người
tiêu dùng. Nâng cao chất lượng thì phải giải quyết được cả hai vấn đề trên.
Xuất phát từ quan điểm thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng, khi đời
sống của con người ngày càng cao thì việc cải thiện chất lượng sản phẩm trở
thành vấn đề cấp bách đối với mỗi hàng hóa muốn xâm nhập sâu, rộng vào thị
trường, đặc biệt là những thị trường mang tính quốc tế. Hiệp định thương mại
Việt – Mỹ được ký kết tháng 7 năm 2000 đã mở ra những cơ hội lớn cho các
doanh nghiệp Việt Nam. Song để xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ, các sản phẩm
của ta phải tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn về công nghệ, hàm lượng
dinh dưỡng, an toàn vệ sinh, cũng như về bao gói, bảo quản…

Hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, một quan niệm mới về
chất lượng đã xuất hiện: chất lượng sản phẩm không chỉ là tốt, bền, đẹp mà nó
còn do khách hàng quyết định. Quản lý chất lượng sản phẩm là yếu tố chủ
quan, còn đánh giá của khách hàng mang tính khách quan. Ở đây, nhân tố
khách quan đã tác động, chi phối yếu tố chủ quan. Quan niệm này xuất phát
từ thực tế là mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên quyết liệt
hơn.
Giá bán sản phẩm
Giá cả là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định thị phần của
doanh nghiệp và khả năng sinh lời của nó. Đồng thời, giá cả còn là công cụ
linh hoạt nhất, mềm dẻo nhất trong cạnh tranh.
Giá cả sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua thỏa thuận
giữa người bán và người mua. Nó đóng vai trò quan trọng trong quyết định
mua hay không mua của khách hang. Trong nền kinh tế thị trường, “khách
hàng là thượng đế” họ có quyền lực chọn những gì mà họ cho là tốt nhất, và
cùng một loại sản phẩm với chất lượng tương đương nhau, chắc chắn họ sẽ
lựa chọn mức giá bán thấp hơn.
Mặc dù vậy, khi thu nhập của đại bộ phận dân cư đều tăng, khoa học kỹ
thuật phát triển thì việc định giá thấp chưa hẳn là giải pháp hữu hiệu, đôi khi
còn bị đánh đồng với việc suy giảm chất lượng. Vì vậy, định giá thấp, định
11
giá ngang thị trường hay định giá cao, làm sao sử dụng giá cả như một vũ khí
cạnh tranh lợi hại là tùy thuộc vào từng loại sản phẩm, từng giai đoạn trong
chu kỳ sản phẩm hay tùy thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị trường.

Bao bì, kiểu dáng sản phẩm:
Sản phẩm có bao bì, kiểu dáng được thiết kế đẹp, bắt mắt, phù hợp với thị
hiếu người tiêu dùng thì càng dễ nâng cao tính cạnh tranh. Hơn nữa, ở những
thành phố lớn nhu cầu về sản phẩm thường dùng làm quà biếu, lễ, tết… Vì
vậy vấn đề chất lượng, bao bì mẫu mã lại rất quan trọng, còn giá cả thì không

thành vấn đề nên nó đóng vai trò quan trọng trong quyết định lựa chọn của
người tiêu dùng.

Nhãn mác, uy tín sản phẩm:
Cùng một loại sản phẩm, cùng chất lượng tương đương nhau nhưng người
tiêu dùng có xu hướng lựa chọn những mặt hàng có tiếng trên thị trường để
tiêu dùng. Vì theo họ, độ tin cậy của các sản phẩm đó sẽ cao hơn. Ngoài ra,
một số thương hiệu sản phẩm còn thể hiện được phong cách, cá tính của
người tiêu dùng.
1.3 Khái quát về thị trường bánh kẹo Việt Nam
Trong xu thế toàn cầu hoá, các sản phẩm của Việt Nam đã và đang xuất
hiện ngày càng nhiều trên thị trường thế giới, trong đó có thực phẩm, bánh
kẹo. Theo nhận định của ông Perter Becker, Chủ tịch Hiệp hội các nhà sản
xuất bánh kẹo Cộng hoà Liên bang Đức, bánh mỳ, bánh nướng đang dần trở
thành những đồ ăn quen thuộc, thường xuyên của nhiều người dân Việt Nam.
Vì vậy, thị trường bánh kẹo của Việt Nam đang có tiềm năng phát triển hàng
đầu Đông Nam Á và trên thế giới.
12
Theo ước tính của Công ty Tổ chức và điều phối IBA (GHM), sản lượng
bánh kẹo tại Việt Nam năm 2008 đạt khoảng 476.000 tấn, đến năm 2012 sẽ
đạt khoảng 706.000 tấn, tổng giá trị bán lẻ bánh kẹo ở thị trường Việt Nam
năm 2008 khoảng 674 triệu USD, năm 2012 sẽ là 1.446 triệu USD. Tỉ lệ tăng
trưởng doanh số bán lẻ bánh kẹo ở thị trường Việt Nam trong giai đoạn từ
năm 2008-2012 tính theo USD ước tính khoảng 114,71%/năm, trong khi con
số tương tự của các nước trong khu vực như Trung Quốc là 49,09%,
Philippines 52,35%; Indonesia 64,02%; Ấn Độ 59,64%; Thái Lan 37,3%;
Malaysia 17,13%…
Thị trường bánh kẹo Việt Nam phát triển kéo theo nhu cầu sản xuất, tiêu
thụ tăng, đòi hỏi phải có công nghệ, máy móc, thiết bị phù hợp để sản xuất ra
các sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng

trong và ngoài nước. Theo Hiệp hội các nhà sản xuất bánh kẹo Đức. Sẽ là rất
tốt nếu như có sự hợp tác liên kết, liên doanh phát triển sản xuất, kinh doanh
bánh kẹo giữa các doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp của Đức và châu
Âu.
Trước đây trên thị trường, bánh kẹo Việt Nam luôn là mặt hàng “lép vế”
so với các sản phẩm cùng loại vì mẫu mã đơn điệu, bao bì xấu và chất lượng
không cao. Thế nhưng chỉ một thời gian ngắn, bánh kẹo Việt Nam đã tăng tốc
và giành lại ưu thế trên sân nhà. Vượt qua những khó khăn về nguồn vốn,
công nghệ sản xuất và chiến lược kinh doanh, với thế mạnh về hương vị đậm
đà, phù hợp với khẩu vị của người tiêu dùng, những thương hiệu uy tín như:
Kinh Đô, Bibica, Hải Hà nối nhau ra đời, khẳng định đẳng cấp của mặt hàng
bánh kẹo Việt Nam so với các mặt hàng cùng loại của Trung Quốc và các
nước Âu, Mỹ.
Liên tục cho ra đời những sản phẩm mới chất lượng cao được sản xuất
với công nghệ hiện đại như: Cookies, Cracet, kẹo xốp mềm nhiều hương vị;
Hải Hà, Kinh Đô đã trở thành cái tên quen thuộc với mọi lứa tuổi, mọi gia
13
đình. Rất nhiều khách hàng trước đây chỉ chọn bánh kẹo ngoại để làm quà
biếu, tặng người thân vào dịp lễ, tết, giỗ thì nay đã quay lại với bánh kẹo Việt
Nam vì mẫu mã, bao bì đẹp, sang trọng không thua hàng ngoại nhưng giá cả
lại phù hợp với túi tiền và quan trọng nhất là niềm tự hào người Việt dùng
hàng Việt.
Bên cạnh việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, bao bì, các doanh
nghiệp bánh kẹo còn mở rộng mạng lưới đại lý, cửa hàng bán lẻ khắp các
tính, thành, vào dịp lễ, tết sẽ có những chương trình khuyến mãi hấp dẫn. Áp
dụng chiến lược kinh doanh, sản xuất theo dây chuyền, công nghệ tiên tiến,
quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, thiết kế mẫu mã bắt mắt, giá cả
phù hợp, ngành hàng bánh kẹo Việt Nam đang từng bước làm chủ thị trường
nội địa.
Việt Nam được đánh giá là một thị trường tiêu thụ hấp dẫn với dân số

hơn 80 triệu dân, cơ cấu dân số trẻ với thu nhập bình quân đầu người tăng
nhanh, tỷ lệ tăng trưởng của kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2008-2010 ước
tính đạt bình quân trên 8%. Trong khi đó, tỷ lệ tiêu thụ bánh kẹo theo bình
quân đầu người ở Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Ở thời điểm
hiện nay, dù đã được cải thiện nhưng tỷ lệ tiêu thụ bánh kẹo của Việt Nam
cũng mới chỉ ở vào khoảng 2 kg/người/năm. Chính những đặc điểm này đã
khiến thị trường bánh kẹo Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn bao giờ hết.
14
Chương 2: Phân tích năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh
kẹo của công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà
2.1 Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần bánh kẹo Hải
Hà.
2.1.1 Giới thiệu chung về công ty
Công ty cổ phần Bánh kẹo Hải Hà được thành lập ngày 25/12/1960 đã trải
qua quá trình phát triển gần nửa thế kỷ, từ một xưởng làm nước chấm và ma-
gi đã trở thành một trong những nhà sản xuất bánh kẹo hàng đầu Việt Nam
với qui mô sản xuất lên tới 20.000 tấn sản phẩm/năm.
Các thành tích trong những năm vừa qua của Công ty đã được nhà nước
đánh giá cao thông qua việc được nhận huân chương Độc lập hạng Ba và các
huân chương Lao động hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba.
Trong thời kỳ sau năm 2000 trở lại đây đứng trước những thách thức mới
15
nảy sinh trong quá
trình hội nhập, Công ty đã chủ động đầu tư máy móc thiết
bị tiên tiến sản xuất ra những sản
phẩm có giá trị dinh dưỡng cao như Kẹo
chew, Bánh kem xốp, Bánh xốp có nhân Miniwaf, Bánh dinh dưỡng dành cho
học sinh theo chương trình hợp tác với tổ chức quốc tế Gret và Viện dinh
dưỡng Bộ Y tế, các sản phẩm bổ sung canxi, vitamin hợp tác sản xuất với
hãng Tenamyd

Canada.
Hiện nay Công ty là một trong số các Nhà sản xuất Bánh kẹo hàng đầu
Việt Nam với sản lượng bình quân hàng năm trên 15.000 tấn. Công ty đã áp
dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 và Hệ thống
HACCP theo Tiêu chuẩn TCVN 5603:1998 và HACCP CODE:2003.
Công ty cổ phần Bánh kẹo Hải Hà là Doanh nghiệp đầu tiên trong lĩnh vực
sản xuất bánh kẹo được cấp chứng nhận hệ thống "Phân tích mối nguy và các
điểm kiểm soát tới hạn" (HACCP) tại Việt Nam. Điều này thể hiện cam kết của
Lãnh đạo doanh nghiệp về đảm bảo an toàn thực phẩm đối với sức khoẻ của
người tiêu dùng.
Cơ cấu tổ chức Công ty
Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà được tổ chức và hoạt động tuân thủ
theo Luật Doanh nghiệp 2005. Các hoạt động của Công ty tuân theo Luật
Doanh nghiệp, các Luật khác có liên
quan và Điều lệ Công ty. Điều lệ Công
ty bản sửa đổi đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua ngày 24/03/2007 là cơ
sở chi phối cho mọi hoạt động của Công ty.
Trụ sở, chi nhánh Công ty Cổ phần Bánh kẹo Hải Hà
- Trụ sở chính: 25 Trương Định, Quận Hai Bà Trưng Hà Nội
- Chi nhánh miền Nam: Lô 27, Đường Tân Tạo, Khu Công Nghiệp Tân Tạo,
Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh
- Chi nhánh miền Trung: 134- Ðường Phan Thanh - Quận Thanh Khê, Đà
16

×