Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Những giải pháp hỗ trợ của Nhà nước nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Kon Tum

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 107 trang )



1





Luận văn
Những giải pháp hỗ trợ của Nhà nước
nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
trên địa bàn tỉnh Kon Tum


2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Đảng, Nhà
nước cũng như của các chính quyền địa phương là phát triển kinh tế và giải
quyết việc làm cho người dân. Muốn phát triển kinh tế và tạo việc làm thì
phải huy động được vốn, phát triển hệ thống doanh nghiệp. Trong điều kiện
hiện nay, giữ vai trò quyết định là vốn trong nước, trong đó nguồn vốn quan
trọng là từ nhân dân.
Làm thế nào thu hút được vốn đầu tư trong nước từ nhân dân để phát
triển kinh tế và tạo việc làm là đề tài đã được nhiều người nghiên cứu. Nhiều
chính sách của Nhà nước cũng đã được ban hành để giải quyết hai vấn đề
trên, song kết quả còn nhiều hạn chế. Số vốn trong nước huy động được, số
doanh nghiệp được thành lập, số việc làm đã được tạo ra tuy ngày càng nhiều
nhưng vẫn bất cập so với khả năng tiềm tàng trong dân cư, so với yêu cầu phát
triển của đất nước và nhu cầu việc làm ngày càng tăng của người lao động.


Đối với tỉnh Kon Tum, một trong những vấn đề nổi cộm là số doanh
nghiệp được thành lập còn ít so với dân số đô thị, số doanh nghiệp làm ăn có
hiệu quả, mở rộng quy mô, tăng thêm vốn và lao động cũng chưa nhiều. Hiện
nay, đại bộ phận các doanh nghiệp ở tỉnh Kon Tum là doanh nghiệp nhỏ và
vừa, là loại hình doanh nghiệp được đánh giá là có quy mô tổ chức kinh
doanh thích hợp, có nhiều ưu thế về tính năng động, linh hoạt, thích ứng
nhanh với yêu cầu của thị trường và là phương tiện rất hiệu quả trong việc
huy động vốn đầu tư trong nước và tạo việc làm cho người dân. Việc khuyến
khích thành lập và phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa là rất cần thiết, phù
hợp với điều kiện về vốn, về công nghệ và trình độ quản lý của tỉnh. Tuy
nhiên, sự phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở tỉnh trong nhiều năm qua
còn chậm và chưa ổn định. Điều đó xuất phát từ những hạn chế và khó khăn
của bản thân doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam nói chung và tỉnh Kon
Tum nói riêng; mặt khác tỉnh cũng chưa có các biện pháp để hỗ trợ doanh


3

nghiệp nhỏ và vừa, nhất là chưa triển khai thực hiện tốt trên thực tế những
chính sách, giải pháp đã đề ra.
Để góp phần thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp nhỏ
và vừa trên địa bàn tỉnh nhằm huy động tối đa tiềm năng về vốn, lao động, tài
nguyên, cần thiết phải làm rõ thực trạng doanh nghiệp nhỏ và vừa của tỉnh và
các biện pháp chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp này, qua đó đưa ra
được một số giải pháp chủ yếu nhằm hỗ trợ thành lập và phát triển có hiệu
quả cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của tỉnh Kon Tum. Vì vậy, tôi chọn đề
tài luận văn thạc sỹ với tiêu đề: "Những giải pháp hỗ trợ của Nhà nước
nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Kon Tum".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được nghiên cứu

từ lâu và đã được các chính phủ ứng dụng thành công trong việc phát triển
kinh tế xã hội của nước mình. Ở Việt Nam, thời gian gần đây (trong thời kỳ
đổi mới) vấn đề này mới được quan tâm đúng mức. Đã có những công trình
nghiên cứu về mặt lý luận, về mặt tổng kết và cũng có những công trình
nghiên cứu cụ thể về vấn đề này ở các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng,
Hồ Chí Minh, Bình Dương Tuy nhiên trước tình hình phát triển mới của đất
nước, trước sự thay đổi nhanh chóng của cơ chế quản lý và chính sách phát
triển, luôn đòi hỏi phải nghiên cứu cập nhật các vấn đề về chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đối với Kon Tum, chưa có công trình nào nghiên
cứu về đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa
và vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với sự phát triển kinh tế- xã hội
của một địa phương.
- Đánh giá đúng thực trạng và nêu ra được những hạn chế, những nguyên
nhân cản trở việc thành lập và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa
bàn tỉnh Kon Tum.


4

- Luận chứng, đề xuất những giải pháp chủ yếu và kiến nghị với Trung
ương, với tỉnh về cơ chế, chính sách chung và những biện pháp của tỉnh để có
thể hỗ trợ một cách có hiệu quả nhất cho sự ra đời và phát triển các doanh
nghiệp nhỏ và vừa của tỉnh Kon Tum trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các biện pháp chính sách của Nhà
nước cấp tỉnh. Đối tượng khảo sát là các doanh nghiệp nhỏ và vừa và những
khó khăn, vướng mắc của nó trên địa bàn tỉnh Kon Tum.

- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian, khảo sát các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Kon Tum.
+ Về thời gian, nghiên cứu các số liệu, văn bản hỗ trợ thành lập và phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian 5 năm (2001-2005)
+ Đề xuất các giải pháp chính nhằm thúc đẩy việc ra đời và phát triển
nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút mạnh vốn đầu tư trong nước và tạo ra
nhiều việc làm cho người dân của tỉnh phù hợp với quy hoạch phát triển kinh
tế- xã hội của tỉnh đến năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Trước hết, tiến hành tham khảo các giáo trình, tài liệu,
báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa để làm cơ sở lý luận và rút ra các kinh nghiệm cần thiết.
Tiếp đến, sẽ nghiên cứu các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
cấp Trung ương, cấp tỉnh thông qua các văn kiện, văn bản pháp luật, tài liệu
có liên quan đến đề tài nhằm củng cố các tiền đề, làm cơ sở cho việc nghiên
cứu tiếp theo.
- Các phương pháp cụ thể: Sử dụng các phương pháp phân tích và tổng
hợp, so sánh, thống kê. Trong đó, đặc biệt sử dụng nhiều các phương pháp
thống kê: sẽ sử dụng các số liệu thống kê để phân tích, đánh giá thực trạng


5

của vấn đề, phát hiện các mối quan hệ có tính quy luật của quá trình phát triển
các doanh nghiệp nhỏ và vừa
6. Đóng góp của đề tài
Các vấn đề hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa được hệ thống, đánh giá,
phân tích chi tiết lần đầu tiên trên địa bàn Tỉnh Kon Tum, đưa ra dự báo một
cách khoa học, giúp cho địa phương điều hành có hiệu quả trong việc ban
hành, thực hiện các biện pháp hỗ trợ thành lập và phát triển doanh nghiệp nhỏ

và vừa trên địa bàn nhằm phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập của người dân
trên địa bàn.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có kết cấu 3 chương, 9 tiết.
Chương 1: Doanh nghiệp nhỏ và vừa - sự cần thiết hỗ trợ của Nhà nước
đối với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chương 2: Thực trạng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và những giải
pháp hỗ trợ của Nhà nước trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong thời gian qua.
Chương 3: Những giải pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong thời gian tới.


6

Chương 1
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA - SỰ CẦN THIẾT HỖ TRỢ
CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA

1.1. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong nền kinh tế thị trường, bất cứ một hoạt động hợp pháp nào trong
sản xuất kinh doanh, tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ để bán, cung ứng cho
khách hàng và thu lợi nhuận, dù hoạt động đó chỉ là của một cá nhân, một hộ
gia đình, đều có thể được coi là một doanh nghiệp (DN). Cùng cách hiểu này,
Viện Thống kê và nghiên cứu kinh tế Pháp định nghĩa: "DN là một tổ chức
kinh tế mà chức năng chính của nó là sản xuất ra của cải vật chất và dịch vụ
để bán" [2]. Ở nước ta, Luật Doanh nghiệp 2005 cũng đã nêu rõ: "Doanh
nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định,

được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện các hoạt động kinh doanh” [17]. Tiếp theo đó, Luật cũng đã định nghĩa
kinh doanh như sau: "Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả
các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” [17]. Như vậy,
chính trong văn bản luật cũng đã để một khoảng trống, rằng có hoạt động kinh
doanh nhưng chưa hẳn đã là doanh nghiệp. Bởi vì, muốn trở thành doanh
nghiệp thì phải có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định và tất yếu
phải có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Như vậy, theo quy định của Luật Doanh nghiệp, các hộ kinh doanh cá
thể nếu không có đăng ký kinh doanh, không được gọi là DN, mặc dù số hộ
này vẫn thực hiện các hoạt động kinh doanh hợp pháp, được thực hiện các
quyền và nghĩa vụ dân sự giống như DN. Do đó, ở nước ta, quan niệm về DN
có hai phạm vi rõ rệt: phạm vi hẹp chỉ bao gồm các DN chính thức đã đăng ký
với tư cách tên gọi là DN; phạm vi rộng bao gồm cả các hộ gia đình kinh


7

doanh hợp pháp và các tổ chức, cá nhân tham gia kinh doanh dưới danh nghĩa
các tổ chức sự nghiệp có thu
Trong một nền kinh tế, tùy theo các tiêu chí khác nhau mà người ta
phân ra các loại DN khác nhau. Theo ngành kinh tế có thể chia ra DN công
nghiêp, DN nông nghiệp, DN thương mại dịch vụ; theo tính chất hoạt động
thì có DN hoạt động công ích (phi lợi nhuận) và DN kinh doanh (vị lợi); theo
hình thức sở hữu thì có DNNN, DNDD và DN có vốn đầu tư nước ngoài; theo
quy mô, mà chủ yếu là quy mô về vốn và lao động thì có DN lớn, DNNVV.
Các DNNVV là loại hình DN có số lượng áp đảo ở hầu hết các nước.
Có khá nhiều cách định nghĩa khác nhau về DNNVV. Các định nghĩa này có
những điểm giống nhau và khác nhau, vì vậy khó mà tìm được một định nghĩa

thống nhất, mặc dù ai cũng thống nhất rằng kinh doanh nhỏ và vừa thì khối
lượng công việc ít hơn, đơn giản hơn là kinh doanh ở các DN lớn.
Hiện nay, không có một tiêu chuẩn chung cho việc phân định ranh giới
quy mô DN ở các nước. Ở mỗi nước, tùy theo điều kiện và hoàn cảnh phát triển
kinh tế cụ thể mà có cách xác định quy mô DN trong từng giai đoạn nhất định.
Bảng 1.1 dưới đây cho thấy tình hình này.
Bảng 1.1: Tiêu thức phân loại DNNVV của một số nước:
Lĩnh vực

Các nước
Công nghiệp Thương mại - Dịch vụ
DN vừa DN nhỏ DN vừa DN nhỏ
M



ới 3,5 triệu USD

Dưới 500 lao động


ới 3,5 triệu USD

Dưới 500 lao động

Nh
ật bản


ới 100 triệu Y

ê
n

Dưới 300 lao động

Dưới 20 lao động
10
-
30 tri
ệu Y
ê
n

Dưới 100 lao động

Dưới 5 lao động
CHLB Đ
ức


ến<100triệu DM

10-<500 lao động

ới 1 triệu DM

Dưới 9 lao động
1
-
100 tri

ệu DM

10-<500 lao động

ới 1 triệu DM

Dưới 9 lao động
Philippin

15
-
60 tri
ệu Peso

Không quy định lđ
< 15 tri
ệu Peso

Không q/định lđ
15
-
60 tri
ệu Peso

Không quy định lđ
< 15 tri
ệu Peso

Không q/định lđ
Đài Loan


1,6 tri
ệu USD

4-10 lao động

1,6 tri
ệu USD

4-10 lao động

Nguồn: [8].


8

Ngoài ra, còn có định nghĩa chung của EU, có hiệu lực áp dụng từ
tháng 6/1996:
DNNVV là các DN tư nhân và độc lập, trong khu vực phi sơ
cấp, không bao gồm các ngành như nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp, sử dụng dưới 200 công nhân. Trong khu vực DNNVV có sự
phân loại như sau theo quy mô:
DN siêu nhỏ: sử dụng dưới 10 công nhân;
DN nhỏ: sử dụng từ 10 đến 49 nhân công và có doanh thu hàng
năm dưới 7 triệu ECU;
DN vừa: sử dụng từ 50 đến 249 nhân công và có doanh thu
hàng năm dưới 40 triệu ECU [8].
Về tiêu chí DNNVV ở Việt Nam:
Từ nhiều năm trước, khi Chính phủ chưa ban hành chính thức tiêu chí
quy định DNNVV, một số cơ quan và nhà nghiên cứu đã đưa ra các tiêu chí

và tiêu chuẩn cụ thể khác nhau để phân loại DNNVV. Có thể kể ra các cách
phân loại tiêu biểu sau:
- Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) căn cứ vào 2
tiêu chí lao động và vốn của các ngành để phân biệt:
+ Trong ngành công nghiệp: DNNVV là tổ chức kinh tế có số vốn từ 5
- 10 tỷ đồng và có số lao động 200-500 người. Trong đó DN nhỏ có số vốn
dưới 5 tỷ đồng và có số lao động nhỏ hơn 200 người.
+ Trong ngành thương mại- dịch vụ: DNNVV là tổ chức có số vốn từ
5-10 tỷ đồng và có số lao động từ 50-100 người.
- Ngân hàng Công thương hoạt động cho vay tín dụng đối với các DN quy
định rằng: DN vừa là DN có vốn từ 5-10 tỷ đồng và số lao động từ 500-1000
người, DN nhỏ là DN có vốn dưới 5 tỷ đồng và lao động dưới 500 người [23];
- Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, trong lĩnh vực sản xuất, xây dựng,
DN có vốn dưới 1 tỷ đồng và dưới 100 lao động được xếp là DN nhỏ, DN có
vốn từ 1-10 tỷ đồng và có từ 100-500 lao động là DN vừa. Trong lĩnh vực
thương mại-dịch vụ, DN có vốn từ 500 triệu đến 5 tỷ đồng, lao động từ 50-
250 người là DN vừa…


9

Tóm lại, người ta thường dùng 2 tiêu chí về vốn đăng ký và số lao động
thường xuyên để xác định DNNVV vì tất cả các DN đều có thể xác định được
2 tiêu chí này. Riêng tiêu thức doanh thu ít được sử dụng vì đối với các nước
đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam thì tiêu chí này có thể biến động do
nhiều yếu tố và cũng khó xác định.
Để thống nhất tiêu chí xác định DNNVV, ngày 20/6/1998, Chính phủ
đã ban hành công văn số 681/CP-KTN quy định tiêu chí tạm thời xác định các
DNNVV. Theo quy định này, DNNVV là các DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ
đồng và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Quy định tạm

thời này chỉ tồn tại khoảng 3 năm và ngày 23/11/2001, Chính phủ đã ban
hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV, theo quy
định tại Nghị định này,
DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh
doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.
Căn cứ vào tình hình kinh tế- xã hội cụ thể của ngành, địa phương,
trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể
linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một
trong hai chỉ tiêu nói trên [7].
Với tiêu thức phân loại mới này, DNNVV ở nước ta chiếm tỷ trọng
khoảng 90% trong tổng số DN hiện nay, trong đó phần lớn là các DN thuộc
khu vực kinh tế tư nhân. Điều này phù hợp với tình hình kinh tế của nước ta
vốn là nền kinh tế sản xuất nhỏ và vừa là chủ yếu
1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế quốc dân
Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát
triển, các DNNVV chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế, đóng một vai trò rất
quan trọng. Điều này cũng đúng với tình hình của Việt Nam, được thể hiện
qua tám vai trò sau:


10
Thứ nhất, DNNVV góp phần quan trọng tạo công ăn việc làm và tăng
thu nhập cho người lao động:
Đây là một thế mạnh rõ rệt của các DNNVV, và là nguyên nhân chủ
yếu khiến chúng ta phải đặc biệt chú trọng phát triển các loại hình DN này.
Ưu điểm của các DNNVV trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người
lao động là: các DN này có số lượng lớn, phân bố rộng rãi từ thành thị đến
nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, nên mặc dù số lao động làm việc

trong một DNNVV không nhiều nhưng theo quy luật số đông, với số lượng
rất lớn DNNVV trong nền kinh tế đã tạo ra phần lớn việc làm cho xã hội. Mặt
khác, các DN loại này mang tính tư hữu cao, dễ dàng đa dạng hóa sản phẩm,
kể cả các mặt hàng mà các DN lớn không sản xuất. Sự lớn mạnh của các
DNNVV đã làm tăng thu nhập của công nhân và giảm tỷ lệ thất nghiệp của
mỗi địa phương nói riêng và toàn lãnh thổ nói chung.
DNNVV không chỉ trực tiếp tạo việc làm cho số lao động làm việc
thường xuyên ở các DN, mà còn tạo điều kiện để lao động ngoài DN có được
việc làm thông qua các hoạt động cung ứng đầu vào, tiếp nhận đầu ra và phục
vụ sản xuất - kinh doanh. Xét trên góc độ giải quyết việc làm thì DNNVV
luôn đóng vai trò quan trọng hơn các DN lớn, đặc biệt trong thời kỳ suy thoái
kinh tế. Lịch sử phát triển kinh tế của các nước công nghiệp phát triển cũng
như ở Việt Nam trong thời kỳ đầu đổi mới đã cho thấy rằng: khi nền kinh tế
suy thoái, các DN lớn phải giảm lao động để giảm chi phí đến mức có thể tồn
tại được vì cầu của thị trường thấp hơn cung. Nhưng đối với các DNNVV do
đặc tính linh hoạt, uyển chuyển dễ thích ứng với thay đổi của thị trường nên
nó vẫn có thể hoạt động được. Do đó, các DNNVV không những không giảm
lao động mà còn có thể thu hút thêm lao động. Chính vì vậy, Hội đồng DN
nhỏ thế giới đã cho rằng: DNNVV là liều thuốc cuối cùng chữa trị bệnh thất
nghiệp khi nền kinh tế suy thoái [2]; [9].
Ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp tương đối cao và không ổn định,
sức ép dân số, lao động, việc làm ở nông thôn chính là nguyên nhân của dòng
di dân từ nông thôn ra thành phố, gây ra nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Khu


11
vực DNNVV thuộc các thành phần kinh tế hiện thu hút khoảng 26% lực
lượng lao động phi nông nghiệp của cả nước, nhưng triển vọng thu hút lao
động rất lớn vì suất đầu tư cho một chỗ làm việc ở đây thấp hơn rất nhiều so
với DN lớn, chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút được các nguồn vốn rải rác

trong dân. Các DNNVV đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số
lao động từ các DNNN dôi ra qua việc cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho
thuê, phá sản DN hiện đang được triển khai.
Do các DNNVV có thể phát triển ở khắp mọi nơi trong nước, nên
khoảng cách giữa nhà sản xuất và thị trường được rút ngắn lại, tạo nên sự phát
triển cân bằng giữa các vùng. Chênh lệch giàu nghèo không đáng kể, mỗi
người dân có thể là một ông chủ, mỗi gia đình có thể là một doanh nghiệp.
Thu nhập bình quân của người Việt Nam còn khá thấp do kinh tế chậm phát
triển. Phát triển DNNVV ở thành thị cũng như nông thôn là biện pháp chủ
yếu để tăng thu nhập, đa dạng hóa thu nhập của các tầng lớp nhân dân khắp
các vùng trong nước.
Thứ hai, các DNNVV góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu
tư trong dân cư và sử dụng tối ưu các nguồn lực tại địa phương:
Với đặc điểm phân bố nhỏ lẻ, dễ phân tán, yêu cầu số lượng vốn ban
đầu không nhiều, cho nên các DNNVV có vai trò và tác dụng rất lớn trong
việc thu hút các nguồn vốn nhỏ nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào
sản xuất kinh doanh. Mặt khác, trong quá trình hoạt động, các DNNVV có thể
dễ dàng huy động vốn dựa trên quan hệ họ hàng, bạn bè thân thuộc. Chính vì
vậy, DNNVV được coi là phương tiện có hiệu quả trong việc huy động, sử
dụng các khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư và biến nó thành các khoản vốn
đầu tư.
Sự phát triển có hiệu quả của các DNNVV đã dẫn đến quá trình tích lũy
của cải không ngừng của nhân dân. Trước đây, tiết kiệm của dân chúng không
đáng kể. Nhưng trong những năm gần đây, tiết kiệm của dân chúng đã đủ để
sản xuất. Nguồn vốn quay vòng nhanh của các DNNVV không những đã
nâng cao tích lũy tài sản trong nước, mà nguồn ngoại hối tích lũy do các
DNNVV xuất khẩu hàng hóa cũng tăng đều qua các năm.


12

Với quy mô nhỏ và vừa, lại được thành lập phân tán ở hầu khắp các địa
phương, các khu vực, nên DNNVV có khả năng tận dụng các tiềm năng về
lao động, về nguyên vật liệu với trữ lượng hạn chế, không đáp ứng nhu cầu
sản xuất quy mô lớn, nhưng sẵn có ở địa phương, sử dụng sản phẩm phụ hoặc
phế liệu, phế phẩm của các DN lớn.
Thứ ba, các DNNVV chiếm tỷ trọng cao trong tổng số các cơ sở SX-KD
và ngày càng gia tăng mạnh, tạo hiệu quả trong sản xuất thầu phụ.
Phần lớn các nước trên thế giới, số lượng các DNNVV chiếm khoảng
90% tổng số doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng số lượng các DNNVV nhanh hơn
số lượng các DN lớn. Các DNNVV hoạt động phổ biến trong tất cả các ngành
công nghiệp, dịch vụ, từ công nghiệp thủ công truyền thống đến các ngành
công nghiệp kỹ thuật cao, tạo khả năng gia công, thầu phụ cho các doanh
nghiệp lớn.
Thứ tư, các DNNVV có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền
kinh tế.
Chúng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các
nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng 50% GDP ở mỗi nước. Riêng ở
Việt Nam, nếu chỉ tính các DN chính thức, mỗi năm các DNNVV đóng góp
khoảng 25% GDP của cả nước. Các DN này có nhiều thuận lợi trong việc
khai thác những tiềm năng phong phú trong dân… Nhiều sản phẩm thủ công
mỹ nghệ đặc trưng của từng địa phương đã nổi tiếng trong cả nước, một số đã
được xuất khẩu, được nước ngoài đánh giá cao. Nhiều ngành nghề truyền
thống đã được khôi phục và phát triển trong từng hộ gia đình, từng dòng họ,
hình thành tập trung trong các làng nghề, phát huy truyền thống dòng họ, làng
xã đặc trưng của nông thôn nước ta.
Thứ năm, các DNNVV là nhân tố tạo sự năng động nền kinh tế trong cơ
chế thị trường, đóng góp quan trọng trong việc làm tăng lưu thông và xuất
khẩu hàng hóa:
Do lợi thế của quy mô nhỏ là năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh
doanh cùng với hình thức tổ chức kinh doanh, sự kết hợp chuyên môn hóa và



13
đa dạng hóa mếm dẻo, hòa nhịp với những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường
nên các DNNVV có vai trò to lớn góp phần làm năng động nền kinh tế trong
cơ chế thị trường, DNNVV có nhiều khả năng thay đổi mặt hàng, chuyển
hướng sản xuất, đổi mới công nghệ.
Các DNNVV luôn có sự phối hợp chặt chẽ giữa công việc sản xuất và
chiến lược thị trường phù hợp. Trong thời gian qua, các loại hình DN này đa
phần lấy mục tiêu phục vụ thị trường trong nước làm chính, đáp ứng nhu cầu
trong nước và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Tuy nhiên, khi nền kinh tế
phát triển, tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh hơn, sức mua tăng lên, nhu cầu lớn
hơn, các DNNVV rất nhạy bén trong việc điều chỉnh cơ cấu, tăng doanh thu.
Điều này rất khó thực hiện ở các DN lớn khi muốn đa dạng hóa mặt hàng sản
xuất. DNNVV còn có thể làm đại lý, vệ tinh tiêu thụ hàng hóa hoặc cung cấp
các vật tư đầu vào với giá rẻ hơn cho các DN lớn, do đó góp phần hạ giá
thành, nâng cao hiệu quả sản xuất cho DN lớn.
Thứ sáu, các DNNVV có vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế.
Đặc biệt đối với khu vực nông thôn, sự phát triển của các DNNVV sẽ
thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp
phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại, dịch vụ. Sự phát
triển của DNNVV ở thành thị cũng góp phần làm tăng tỷ trọng khu vực công
nghiệp, dịch vụ và làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu
kinh tế quốc dân. Các DNNVV còn đóng vai trò quan trọng trong việc làm
thay đổi và đa dạng hóa cơ cấu công nghiệp.
Thứ bảy, các DNNVV góp phần dân chủ hóa nền kinh tế, duy trì sự tự
do cạnh tranh và có khả năng ứng biến nhanh nhạy.
DNNVV chiếm một tỷ trọng lớn và đóng vai trò quan trọng trong việc
tập trung lực lượng kinh tế, lực lượng lao động. Sự phát triển không ngừng

của các DNNVV góp phần phân phối theo chiều hướng tương đối công bằng,
mặt khác huy động được nguồn sức lao động lớn trong xã hội vào hoạt động
sản xuất theo quy trình phân công lao động xã hội.


14
Tự do kinh doanh là con đường tốt nhất để phát huy tiềm lực. Một quốc
gia muốn tạo nên các DNNVV đều phải có môi trường tự do cạnh tranh. Các
DN lớn thường cần những thị trường lớn, thường đòi hỏi phải có sự bảo hộ
của chính phủ và có xu hướng độc quyền. Còn ở DNNVV, tình trạng độc
quyền không xảy ra, họ sẵn sàng chấp nhận tự do kinh doanh. So với các DN
lớn, các DNNVV có tính tự chủ cao, không ỷ lại vào sự trợ cấp, bảo hộ của
Nhà nước, sẵn sàng khai thác các cơ hội để phát triển.
Thứ tám, các DNNVV là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp.
Các DNNVV góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện một đội ngũ
doanh nhân, ươm mầm các tài năng kinh doanh. Kinh doanh quy mô nhỏ sẽ là
nơi đào tạo, rèn luyện các nhà DN làm quen với môi trường kinh doanh. Bắt
đầu từ kinh doanh qui mô nhỏ và thông qua điều hành quản lý kinh doanh quy
mô vừa và nhỏ, một số nhà DN sẽ trưởng thành lên thành những nhà DN lớn,
tài ba, biết đưa DN của mình nhanh chóng phát triển. Các tài năng kinh doanh
sẽ được ươm mầm từ trong các DNNVV
1.1.3. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa (những ưu thế và hạn chế)
Những ưu thế:
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi loại hình DN có những ưu thế và hạn
chế riêng. Có thể thấy các DNNVV có những ưu thế chủ yếu sau đây:
- Năng động, nhạy bén và dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường:
Đây là một ưu thế nổi trội của DNNVV. Do có mối liên hệ trực tiếp với thị
trường và người tiêu thụ nên DNNVV có thể phản ứng nhanh nhạy với những
biến động của thị trường. Với cơ sở vật chất kỹ thuật không lớn, DNNVV dễ
dàng chuyển đổi sản xuất, chuyển hướng kinh doanh, tăng giảm lao động

hoặc thu hẹp quy mô mà không gây ra những hậu quả nặng nề cho xã hội.
- Dễ dàng khởi sự và năng động, nhậy bén với thị trường. DNNVV chỉ
cần một số vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể khởi sự doanh
nghiệp. Do qui mô nhỏ nên năng động, linh hoạt trước những thay đổi của thị
trường, đặc biệt là nhu cầu nhỏ lẻ, có tính địa phương.


15
- Dễ phát huy các mối quan hệ hợp tác. DNNVV thường chỉ tiến
hành một hoặc một vài công đoạn trong quá trình sản xuất một sản phẩm
hoàn chỉnh, mà các công đoạn sản xuất phải kết hợp với nhau để hoàn
thành một sản phẩm hoàn chỉnh đưa ra tiêu thụ trên thị trường, do đó các
DN phải tự hoàn thiện bản thân mình và tiến hành hợp tác sản xuất, nếu
không sẽ bị đào thải.
- Thu hút nhiều lao động, hoạt động có hiệu quả với chi phí cố đinh
thấp. Các DNNVV, do nguồn vốn ít nên đầu tư vào tài sản cố định cũng ít, họ
thường sử dụng lao động thay thế cho vốn, thiết bị, đặc biệt đối với các nước
có nguồn lao động dồi dào với giá rẻ như ở nước ta.
- Không có hoặc ít có xung đột giữa người sử dụng lao động và người
lao động. Do quy mô vừa và nhỏ, quan hệ giữa những người lao động và
người sử dụng lao động trong các DNNVV khá chặt chẽ, khoảng cách giữa
người sử dụng lao động và người lao động không lớn. Do vậy, nếu có xung
đột, mâu thuẫn cũng dễ dàng giải quyết.
- Có thể duy trì sự tự do cạnh tranh. Các DNNVV thường không có
tình trạng độc quyền, họ dễ dàng và sẳn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh.
- Dễ dàng tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng trong nước. Do
DNNVV có thể phát triển ở khắp mọi nơi, mọi vùng của đất nước, lấp vào
khoảng trống và thiếu vắng của các DN lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng
giữa các vùng.
- DNNVV gắn liền với các công nghệ trung gian, là cầu nối giữa công

nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại.
- Các DNNVV dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ,
thích ứng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
- DNNVV chỉ cần số vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao, thu hồi vốn nhanh.
- Hệ thống tổ chức SX và quản lý ở các DNNVV gọn nhẹ, linh hoạt,
công tác điều hành mang tính trực tiếp. Qua đó góp phần tiết kiệm chi phí
quản lý DN.


16
- Sự đình trệ, thua lỗ, phá sản của các DNNVV có ảnh hưởng rất ít hoặc
không gây nên khủng hoảng kinh tế-xã hội, đồng thời ít chịu ảnh hưởng bởi
các cuộc khủng hoảng kinh tế dây chuyền [9]; [14].
Những hạn chế của DNNVV:
Bên cạnh những ưu thế quan trọng, các DNNVV cũng có những hạn chế
so với DN lớn:
- Nguồn vốn tài chính hạn chế, đặc biệt là nguồn vốn tự có cũng như bổ
sung để thực hiện quá trình tích tụ, tập trung nhằm duy trì hoặc mở rộng SX
kinh doanh. Các DNNVV cũng rất khó khăn và ít có khả năng tiếp cận được
các nguồn vốn trên thị trường.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ thiết bị công nghệ thường yếu kém, lạc
hậu. Nhà xưởng, nơi làm việc trực tiếp và trụ sở giao dịch, quản lý của đa
phần của các DNNVV rất chật hẹp.
- Khả năng tiếp cận thông tin và tiếp thị của các DNNVV bị hạn chế rất nhiều.
- Trình độ quản lý ở các DNNVV hạn chế. Đa số các chủ DN chưa được
đào tạo cơ bản, đặc biệt những kiến thức về kinh tế thị trường, về quản trị
kinh doanh, họ quản lý bằng kinh nghiệm, thực tiễn là chủ yếu.
- Bất lợi trong việc mua nguyên vật liệu, máy móc thiết bị và tiêu thụ sản
phẩm. Do quy mô không lớn, khả năng tài chính có hạn nên các DN nhỏ
thường mua hàng với số lượng nhỏ, do đó các DNNVV thường không được

hưởng các khoản chiết khấu giảm giá. Khi phải nhập máy móc, thiết bị từ
nước ngoài, DNNVV thường thiếu ngoại tệ và không mua được trực tiếp mà
phải qua đại lý trong nước nên giá cả đắt hơn.
- Các DNNVV có năng suất lao động và sức cạnh tranh kinh tế thấp hơn
nhiều so với các DN lớn.
- Hoạt động của DNNVV thiếu vững chắc. Mặc dù có ưu thế linh hoạt,
nhưng do khả năng tài chính hạn chế, khi có biến động lớn trên thị trường, các
DNNVV dễ rơi vào tình trạng phá sản.
Cùng với những hạn chế nêu trên, trong quá trình hoạt động, các
DNNVV còn thể hiện một số mặt tiêu cực, ảnh hưởng không tốt đến đời sống


17
kinh tế – xã hội. Đó là các hiện tượng trốn, lậu thuế, mua bán hàng nhái, hàng
giả, mua bán hóa đơn, gây ô nhiễm môi trường,
Chính những hạn chế và tiêu cực nảy sinh trong quá trình hoạt động của
DNNVV đòi hỏi phải có sự hướng dẫn, điều chỉnh và hỗ trợ của nhà nước đối
loại DN này [14].
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ
VÀ VỪA. VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC
1.2.1. Sự cần thiết phải hỗ trợ
DNNVV, với những ưu thế và hạn chế đã nêu, nên khó có thể phát triển
nhanh và bền vững nếu thiếu sự hỗ trợ từ chính quyền và các tổ chức hỗ trợ
khác. Vì thế, để phát huy vai trò tích cực của các DNNVV nhất thiết phải có
sự hỗ trợ các DN này trong quá trình hình thành và phát triển
1.2.2. Vai trò và nội dung chính sách hỗ trợ hiện hành của Nhà nước
Việt Nam đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1988) đã đánh dấu sự
chuyển hướng trong chính sách của Đảng và Nhà nước-đó chính là sự thừa
nhận kinh tế tư nhân; thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần được tồn tại

lâu dài, được phép kinh doanh các hàng hoá dịch vụ mà Nhà nước không
cấm. Tiếp theo đó là một loạt các văn kiện ra đời như: Nghị quyết 16 của
Bộ Chính trị (1988), Nghị định 27,28,29/HĐBT năm 1988 về kinh tế cá
thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình. Nghị định 66/HĐBT và gần đây là Nghị
định 02/CP về nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định, các bộ luật như: Luật
Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp
nhà nước, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam và gần đây là Luật Doanh nghiệp 2005. Tất cả các văn bản
pháp lý đó đã tạo cơ sở pháp lý và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế phát triển SX-KD và các DNNVV được quan tâm
khuyến khích phát triển.
Nhà nước có chức năng làm tốt các công việc sau đây:


18
- Xây dựng định hướng chiến lược phát triển các loại DNNVV ở Việt
Nam trong từng thời kỳ, gắn chặt với các quy hoạch tổng thể và quy hoạch cụ
thể về phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung, từng ngành,
từng lãnh vực, từng lãnh thổ nói riêng.
- Xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách, biện pháp cụ thể nhằm
khuyến khích, hỗ trợ, phát triển các DNNVV phù hợp với định hướng mục
tiêu phát triển trong từng giai đoạn và phù hợp với dặc điểm của từng doanh
nghiệp với quy mô vừa và nhỏ của từng ngành, từng lãnh vực và ở từng địa
bàn lãnh thổ. Đặc biệt chú ý khuyến khích phát triển các DNNVV trong khu
vực nông nghiệp nông thôn, đồng thời khuyến khích phát triển các loại hình
DNNVV trong một số ngành nghề truyền thống, có khả năng sản xuất các chi
tiết của từng bộ phận thuộc các loại thiết bị, máy móc tiên tiến hiện đại …Kể
cả việc phát triển trong các lĩnh vực công nghiệp,thương mại và các ngành
dịch vụ…
- Xây dựng và ban hành các quy chế về các lãnh vực hoạt động hỗ trợ

DNNVV của các cơ quan nhà nước, các hiệp hội các trung tâm tư vấn, các tổ
chức nước ngoài (phù hợp với thông lệ quốc tế)…Phải có những biện pháp tổ
chức tiếp nhận và phân phối các quỹ hỗ trợ đó một cách trung thực công
bằng, đúng định hướng, và tổ chức chỉ đạo việc sử dụng các nguồn, các quỹ
hỗ trợ đạt hiệu quả thiết thực trong quá trình phát triển DNNVV.
- Xây dựng, ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy chế về
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý DNNVV; tổ chức cung cấp thông
tin về kinh tế, thị trường trong và ngoài nước, về chọn đối tác, tìm bạn hàng ở
trong nước và ngoài nước.
- Hoàn thiện một số chính sách nhằm tháo gỡ những khó khăn hiện nay
của DNNVV như thị trường thông qua hợp đồng phụ, tăng sức mua của dân
cư, khuyến khích xuất khẩu, chính sách đất đai với đầy đủ quyền sử dụng để
yên tâm đầu tư lâu dài, hình thành quỹ bảo lãnh tín dụng để khắc phục tình
trạng thế chấp cầm cố, ưu đãi về thuế đối với DNNVV mới khởi sự hoặc hoạt
động ở vùng khó khăn.


19
- Hướng dẫn xây dựng những điều lệ mẫu về việc tổ chức các hiệp hội
ngành nghề của DNNVV đối với từng ngành từng lãnh vực, từng loại sản
phẩm. Khuyến khích việc hình thành các trung tâm hỗ trợ DNNVV lập
nghiệp chuyển giao công nghệ,vay vốn, hỗ trợ xã hội.
- Xây dựng, ban hành và hướng dẫn thực hiện các quy chế về liên kết,
hợp tác giữa các DN lớn, các tập đoàn kinh tế mạnh với các DNNVV cùng
ngành nghề, kinh doanh cùng loại sản phẩm. Qua mối quan hệ hai chiều đó
mà nâng cao tính cộng đồng, bảo vệ được lợi ích quốc gia cũng như của từng
DN lớn và nhỏ trong hoạt động thị trường ở trong và ngoài nước, không xâm
phạm lợi ích của nhau.
- Xây dựng, ban hành quy chế về sự phối hợp với các ngành quản lý liên
quan, với các cơ quan chức năng về thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp

hành pháp luật trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các DNNVV trong
từng ngành, từng lĩnh vực cũng như các quy chế về thưởng, phạt một cách
công bằng, nghiêm minh đối với quá trình hoạt động của DNNVV theo hướng
đơn giản hoá dăng ký kinh doanh ngành nghề, nghiêm túc hậu kiểm.
- Theo dõi nắm tình hình, tổng hợp tình hình hoạt động của các DNNVV
trong phạm vi cả nước, từng ngành hoặc từng vùng lãnh thổ để chỉ đạo và báo
cáo lên cấp trên theo định kỳ những thuận kợi, khó khăn, vướng mắc cần tháo
gỡ, phát hiện những nhân tố mới, những điển hình tiên tiến để rút kinh
nghiệm chỉ đạo chung cũng như những tiêu cực trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của DNNVV.
Hiện nay, các chính sách khuyến khích DNNVV của Chính phủ tập trung
vào hai vấn đề:
Một là, không ngừng cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện
thuận lợi để cho các DNNVV hoạt động.
Hai là, hình thành và phát triển cơ chế hỗ trợ thống nhất từ Trung ương
đến địa phương nhằm cung cấp các dịch vụ hỗ trợ DNNVV phát triển.
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực mà khởi điểm từ Thái
Lan đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các khu vực kinh tế châu Á. Chính phủ đã


20
thực hiện nhiều biện pháp để tiếp tục giữ vững sự ổn định của kinh tế trong
nước, bắt đầu là sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, sửa đổi Luật
Khuyến khích đầu tư trong nước, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp năm 1999 có
hiệu lực từ 1/1/2000 theo hướng mở rộng thị trường, cho phép thành lập các
doanh nghiệp tư nhân dễ dàng hơn, thời gian được rút ngắn hơn. Cơ cấu thành
phần kinh tế từ đó đã có sự thay đổi, tỷ trọng các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh tăng lên.
Từ khi Luật Doanh nghiệp được ban hành cho đến nay, Chính phủ và các
bộ, ngành đã ban hành hơn 100 văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp,

trong đó có các chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ doanh nghiệp.
Bên cạnh Luật Doanh nghiệp, việc thực hiện khuyến khích đầu tư trong
nước cũng tạo điều kiện giúp các DNNVV phát triển mạnh trong thời gian qua.
Một văn bản pháp luật quan trọng thể hiên sự khuyến khích DNNVV ở
Việt Nam thời gian qua là Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001. Đây
là văn bản chính thức của Nhà nước khẳng định vai trò quan trọng của
DNNVV trong nền kinh tế và các chính sách trợ giúp DNNVVphát triển. Văn
bản này cũng đưa ra định nghĩa rõ ràng về DNNVV và thể hiện rõ Chính phủ
sẽ trợ giúp DNNVV phát triển thông qua các chương trình khác nhau. Nghị
định này đã đánh dấu một bước phát triển mới trong chính sách của Chính
phủ trong việc khuyến khích sự phát triển của DNNVV. Chính sách này thể
hiện trên mấy khía cạnh sau đây [12].
- Khẳng định phương thức mới trong cơ chế khuyến khích DNNVV. Cụ
thể là cho các DNNVV được hưởng tất cả chính sách ưu đãi hiện hành đối với
các doanh nghiệp đầu tư SXKD theo đúng ngành nghề, kể cả ngành nghề
truyền thống, đồng thời được hưởng thêm các chính sách ưu đãi khác.
- Nhà nước đã đề cao chức năng của các hiệp hội doanh nghiệp trong
việc trợ giúp các DNNVV. Hiệp hội doanh nghiệp có vai trò là cầu nối giữa
doanh nghiệp và Nhà nước trong việc tham gia soạn thảo các văn bản qui
phạm pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.


21
- Nghị định này cũng đề cập đến việc thành lập “vườn ươm doanh
nghiệp” hình thức trợ giúp DNNVV trong bước khởi đầu, đây là nơi cung cấp
các kiến thức ban đầu về thành lập doanh nghiệp, tư vấn lựa chọn phương án
SXKD, công nghệ máy móc thiết bị, kỹ năng quản lý doanh nghiệp, đào tạo
vào một số trang bị ban đầu để doanh nhân thực hiện ý tưởng của mình trước
khi kinh doanh.
Nghị định này cũng quy định việc thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng để

bảo lãnh cho các DNNVV khi họ không đủ tài sản thế chấp, giúp doanh
nghiệp tháo gỡ một phần khó khăn về vốn. Đây là loại quỹ do cộng đồng ngân
hàng và DNVVN cùng góp vốn lập nên nhằm chia sẻ rủi ro với ngân hàng khi
cho vay vốn tín dụng và giúp doanh nghiệp thực hiện các dự án kinh doanh có
hiệu quả.
Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Quyết định số 193/2001/QĐ-
TTg ngày 20/12/2001 về viêc ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt
động các quỹ Bảo lãnh tín dụng DNNVV. Bộ Tài chính ban hành Thông tư số
42/2002/TT-BTC ngày 7/5/2002 hướng dẫn một số điểm để thực hiện Quyết
định 193. Tuy nhiên, do một số quy định trong văn bản trên chưa phù hợp với
thực tế và khó khả thi nên việc thành lập quỹ Bảo lãnh tín dụng không triển
khai được. Để khắc phục vướng mắc này, Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 115/QĐ-TTg ngày 25/6/2004 sửa đổi, bổ
sung Quyết định số 193/2001/TTg và theo quyết định này thì vốn điều lệ và
điều hành quỹ đã được quy định phù hợp hơn với thực tế.
- Bộ kế hoạch và Đầu tư đã thành lập Cục Phát triển DNNVV, có chức
năng giúp Bộ trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư quản lý nhà nước về xúc tiến phát
triển DNNVV, là đầu mối phối hợp các bộ ngành Trung ương và địa phương,
các hiệp hội doanh nghiệp nhằm trợ giúp DNNVV
- Để trợ giúp về công nghệ cho DNNVV, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban
hành Quyết định số 290/QĐ-BKH ngày 12/5/2003, thành lập 3 trung tâm hỗ
trợ tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, các trung tâm là đầu mối


22
tư vấn về công nghệ kỹ thuật, cải tiến trang bị, hướng dẫn quản lý, bảo dưỡng
trang bị, tạo điều kiện cho DNNVV tiếp cận trang bị mới.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số
143/2004/QĐ-TTg phê duyệt chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực
cho các DNNVV giai đoạn 2004-2008, triển khai xây dựng kế hoạch phát

triển DNNVV giai đoạn 2006-2010, tạo lập các mối quan hệ hợp tác với các
tổ chức, hiệp hội trong nước và ngoài nước.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định số 12/2003/QĐ-TTg ngày 17/01/2003 về chức năng nhiệm vụ của Hội
đồng và thành viên Hội đồng khuyến khích phát triển DNNVV. Hội đồng
khuyến khích phát triển DNNVV thực hiện chức năng tư vấn, giúp Thủ
Tướng chính phủ về cơ chế chính sách khuyến khích phát triển DNNVV.
- Thủ tướng ban hành Chỉ thị 27/2003/CT-TTg về tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện Luật Doanh nghiệp, khuyến khích phát triển DNNVV.
Ngoài ra, hàng loạt các văn bản pháp luật có liên quan đã được ban hành
nhằm khuyến khích sự phát triển DNNVV ở Việt Nam. Đó là:
- Luật Lao động cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có
quyền tuyển lao động trực tiếp thay cho việc phải thông qua các tổ chức trung gian.
- Các văn bản pháp luật liên quan đến việc xuất nhập khẩu hàng hoá, cải
tiến thủ tục hải quan.
- Luật và các điều khoản liên quan đất đai và thủ tục cấp quyền sử dụng
đất, quy hoạch đô thị.
- Luật và các điều khoản liên quan đến các thủ tục chuyển nhượng tài
sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
- Các quy định hướng dẫn Luật Khuyến khích đầu tư trong nước.
- Các quy định khuyến khích xuất khẩu hàng hoá.
- Các quy định và các điều khoản liên quan đến việc miễn giảm thuế và
hàng loạt các quy định khác được ban hành bởi các bộ có liên quan.
Bên cạnh đó, Chính phủ còn tạo điều kiện cho các tổ chức có khả năng
triển khai các hoạt động hỗ trợ phát triển DNNVV như trung tâm hỗ trợ


23
DNNVV của phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trung tâm hỗ trợ
khoa học công nghệ của Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Trung

tâm hỗ trợ phát triển DN ngoài quốc doanh của Liên minh các Hợp Tác xã
Việt Nam và nhiều tổ chức khác ở địa phương [2]; [24]; [15].
1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG
TRONG VIỆC HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.3.1. Kinh nghiệm của nước ngoài
+ Kinh nghiệm của Philippine
DNNVV chiếm hơn 99% tổng số DN ở Philippine, thu hút hơn 55% lực
lượng lao động của cả nước và đóng góp khoảng 28,1% tổng sản phẩm xã hội.
Khoảng 60% các công ty xuất khẩu của Philippine là DNNVV. Những con số
trên cho thấy tầm quan trọng của các DNNVV trong nền kinh tế Philippine.
Chính phủ Philippine cũng nhận thức rằng, DNNVV đóng vai trò quan
trọng trong việc phát triển những ngành mới và tạo công ăn việc làm cho
người lao động ở những khu vực ngoại ô. Do đó, hỗ trợ DNNVV trở thành
một chiến lược đối với Philippine trong việc đem lại sự cân bằng cho các
ngành công- nông nghiệp và tạo sự công bằng trong thu nhập.
Cơ cấu hệ thống tài chính hỗ trợ phát triển DNNVV:
Hệ thống tài chính của Philippine được coi là khá tự do và hoạt động của
hệ thống tài chính hầu như hoàn toàn do khu vực tư nhân kiểm soát. Trong
quá trình tư nhân hóa, Philippine cũng đang khuyến khích sự có mặt của các
tổ chức tài chính nước ngoài. Cả hai chính sách tư nhân hóa và tự do hóa đã
góp phần quan trọng trong việc tạo ra nguồn vốn cho DNNVV.
Hệ thống tài chính Philippine được chia thành hai bộ phận: một là hệ
thống các ngân hàng; hai là các tổ chức phi ngân hàng. Hệ thống ngân hàng
được chia thành 4 loại. Căn cứ vào tên gọi của chúng, người ta có thể biết
được mức độ dịch vụ và khả năng cho vay của ngân hàng đó. Đó là các ngân
hàng thương mại, ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng nông thôn và ngân hàng
nhà nước.


24

Ba loại ngân hàng đầu tiên đều do tư nhân làm chủ và điều hành. Ngân
hàng Nhà nước – như ngân hàng nhà đất và ngân hàng phát triển của Philippine
– thường cho các dự án nông nghiệp và phi nông nghiệp vay; đó là các dự án
mà các ngân hàng tư nhân thường không cho vay vì mức độ rủi ro cao.
Khu vực phi ngân hàng bao gồm các công ty bảo hiểm, các tổ chức đầu
tư, các hoạt động ủy thác và các tổ chức tài chính trung gian khác, trong số đó
có cả các nhà đầu tư dưới dạng cho vay và các cửa hàng cầm đồ. Cũng giống
như đối với khu vực ngân hàng, chính phủ chỉ trực tiếp tham gia vào các
nghiệp vụ đặc biệt như dành các hạn ngạch tín dụng cho các hoạt động tín
dụng qui mô nhỏ của các tổ chức tư nhân hay các tổ chức phi chính phủ.
Khu vực tài chính ở Philippine trong những năm thập kỷ 90 nắm giữ
khoảng 1,3 ngàn tỷ pêso (tương đương khoảng 38 tỷ USD), trong đó có một
ngàn tỷ nằm trong hệ thống ngân hàng, phần còn lại nằm trong các tổ chức
phi tài chính.
Khảo sát của các tổ chức nghiên cứu Philippine cho thấy, có khoảng 20%
trong tổng số mà khu vực này nắm giữ là dành cho các DNNVV. Con số này
chưa tính đến số vốn khá lớn do các nhà cho vay không chính thức đầu tư vào
các hộ kinh doanh.
Trong thập kỷ trước, nguồn vốn dành cho các DNNVV rất hạn chế, đặc
biệt là nguồn vốn ngân hàng. Philippine đạt được con số như vậy có lẽ là do
chính phủ Philippine đã đưa ra hàng loạt chính sách qui định các tổ chức tài
chính, đặc biệt NH phải dành một tỷ lệ nhất định trong tổng số vốn đầu tư cho
các DNNVV vay.
Trọng tâm đưa ra của các chính sách này là Luật Magna Carta. Theo Luật
này, các NH phải dành 10% trong tổng số các khoản cho vay cho DNNVV.
Một biện pháp khác của Chính phủ Philippine nhằm đóng góp vào việc
tạo ra các nguồn vốn hỗ trợ DNNVV là việc triển khai các chương trình tín
dụng đặc biệt dành cho DNNVV.
Tổng số tiền cho các chương trình trên lên tới hơn 30 tỷ pêso. Nguồn vốn
để thực hiện các chương trình này được cấp từ ngân sách quốc gia, hoặc từ



25
các nguồn vốn dư thừa của các tổ chức tài chính nhà nước như hệ thống an
sinh xã hội, hệ thống bảo hiểm và các nguồn viện trợ phát triển chính thức
(ODA). Số vốn này được dành cho các ngành nghề cụ thể thuộc khu vực tư
nhân, chủ yếu là các DNVVN [2]; [14].
Một quyết định khác của Chính phủ đã giúp nâng cao khả năng tiếp cận
của DNNVV đến các nguồn vốn là cho phép thành lập chi nhánh ngân hàng.
Không giống như trong thập kỷ trước, khi mà các ngân hàng bị hạn chế lập
thêm chi nhánh thì ngày nay các ngân hàng thương mại và tiết kiệm có thể
thành lập chi nhánh ở bất cứ nơi nào họ muốn. Chính sách này đã khuyến
khích một số ngân hàng mở chi nhánh ở các vùng nông thôn, nơi có lượng
khách hàng lớn.
Khả năng tiếp cận với các nguồn vốn trở nên dễ dàng hơn, tuy nhiên đã
hình thành sự cạnh tranh do có quá nhiều ngân hàng ở cùng một địa phương.
Các chương trình tài trợ cho DNNVV:
Ở Philippine, nhiều kế hoạch tài chính cho DNNVV đã được đưa ra.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Philippine thống kê được 156 chương
trình tín dụng cho DN nhỏ. Những chương trình tín dụng này thuộc các tổ
chức của cả Chính phủ và tư nhân, trong đó có cả các tổ chức phi Chính phủ.
Nhìn chung, các chương trình ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu nhất định
của các DNNVV. Số lượng đông đảo các chương trình như vậy đã chỉ ra mức
độ quan tâm của các tổ chức Chính phủ và tư nhân.
Dịch vụ của các chương trình này gồm cả các dự án cho vay trực tiếp đến
bảo lãnh tín dụng. Có những chương trình dành cho tất cả DNNVV; có những
chương trình chỉ dành cho doanh nghiệp nhỏ hoặc hộ kinh doanh, hoặc tổ hợp
kinh doanh
Khả năng tiếp cận của DNNVV đến các nguồn tài chính:
Hiện nay mức độ sẵn có của các nguồn vốn cho các DNNVV không còn

là vấn đề ở Philippine nữa. Điều cần quan tâm là xem xét khả năng tiếp cận
các nguồn tín dụng này của DNNVV.

×