1
Luận văn
Doanh nghiệp tư nhân trong
ngành du lịch ở tỉnh Thanh Hóa
2
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế của
nước ta trong những năm qua đã có một bước phát triển vượt bậc và tương đối
toàn diện. Trong quá trình phát triển đó, cùng với các thành phần kinh tế
khác, doanh nghiệp tư nhân đã được pháp luật thừa nhận và phát triển mạnh,
rộng khắp trong mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực kinh tế. Đặc biệt trong những
năm gần đây khi Luật Doanh nghiệp ra đời và có hiệu lực (1/1/2000) thì
doanh nghiệp tư nhân càng phát triển mạnh mẽ hơn cả về quy mô và tốc độ.
Ngành du lịch cũng là một ngành được các doanh nghiệp tư nhân quan tâm
đầu tư phát triển với nhịp độ cao và chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong cơ
cấu nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch đã góp
phần quan trọng trong việc huy động các nguồn lực xã hội vào hoạt động kinh
doanh du lịch, tạo thêm việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống nhân
dân, tăng ngân sách cho nhà nước.
Thanh Hóa là một tỉnh có tiềm năng du lịch lớn. Do có những ưu thế về
địa lý tự nhiên như bãi biển đẹp, nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch
sử nên đã thu hút được nhiều doanh nghiệp tư nhân quan tâm đầu tư vào
hoạt động kinh doanh du lịch và đã tạo ra một nguồn thu to lớn cho ngân sách
tỉnh nhà, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, góp phần đáng kể
vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên, quá trình phát triển doanh nghiệp tư nhân trong ngành du
lịch ở tỉnh Thanh Hóa đã và đang gặp phải không ít những khó khăn, hạn chế.
Do chưa có những hình thức tổ chức hợp lý nên hoạt động kinh doanh du lịch
tư nhân còn mang nặng tính tự phát và ở một số nơi các doanh nghiệp tư nhân
còn hoạt động mang tính thời vụ, chụp giật. Việc đầu tư của các doanh nghiệp
3
tư nhân cho việc xây dựng các cảnh quan, các giá trị văn hóa, nơi vui chơi
giải trí, cũng như tạo sự hấp dẫn độc đáo của các sản phẩm du lịch còn thiếu
tính đồng bộ; chất lượng các dịch vụ còn hạn chế. Cơ chế chính sách đối với
sự mở rộng và phát triển doanh nghiệp tư nhân còn nhiều mặt bất cập. Tình
hình an ninh trật tự trong các hoạt động dịch vụ du lịch còn có nhiều biểu hiện
chưa tốt. Tất cả những điều đó đang làm giảm vai trò, đóng góp của doanh
nghiệp tư nhân trong phát triển ngành du lịch Thanh Hóa. Nhiều tiềm năng du
lịch chưa được khai thác phục vụ nhu cầu của xã hội, đóng góp của doanh
nghiệp tư nhân ngành du lịch vào giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của
nhân dân tỉnh Thanh Hóa còn khiêm tốn.
Vì vậy, nghiên cứu sự phát triển doanh nghiệp tư nhân trong ngành du
lịch ở Thanh Hóa đang là một trong những vấn đề bức xúc đòi hỏi có sự luận
giải cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đồng thời, việc nghiên cứu này còn đóng
góp bổ sung nhận thức về sự vận động, phát triển của doanh nghiệp tư nhân ở
ngành du lịch cả nước nói chung. Xuất phát từ những vấn đề trên mà đề tài "
Doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở tỉnh Thanh Hóa " được tác
giả chọn làm đề tài nghiên cứu cho luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay về doanh nghiệp tư nhân đã có rất nhiều công trình khoa
học trên các bình diện khác nhau. Điển hình là một số công trình nghiên cứu
khoa học của các tác giả như sau:
- "Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở nước
ta". GS.TS Hồ Văn Vĩnh (Đề tài cấp bộ năm 2001). Tác giả đã khẳng định vai
trò to lớn của kinh tế tư nhân nêu ra những định hướng phát triển kinh tế tư
nhân và đưa ra các giải pháp về pháp luật, về chính sách, về tổ chức để
khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển.
4
- "Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập". PGS.TS Trịnh
Thị Hoa Mai, Nxb Thế giới, Hà Nội - 2005. Tác giả đưa ra những vấn đề
chung về khu vực kinh tế tư nhân; Phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam trong
điều kiện hội nhập; trong đó tác giả có đưa ra một số danh mục hộp như: các
loại hình doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam, vốn thực tế của doanh nghiệp tư
nhân như thế nào, số lượng doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam
- "Các doanh nghiệp tư nhân ở Trung Quốc: Những đặc trưng" của
SEUNG - WOOK BAEK (Kinh tế tư nhân trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện
nay. Viện thông tin khoa học xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội - 2003). ở
đây, tác giả đã nói lên sự tái xuất hiện các chủ doanh nghiệp tư nhân Trung
Quốc, trong đó nói đến chính sách cải cách kinh tế và việc hình thành khu vực
kinh tế tư nhân, tình trạng hiện nay của các doanh nghiệp tư nhân; Cung cấp
các doanh nghiệp tư nhân thông qua hệ thống hiện tại, các hợp tác xã giả hiệu;
Ba đặc trưng của doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc đó là: Quản lý gia
trưởng, quản lý mang tính gia đình, đầu tư rất ít vào phát triển công nghệ.
- "Doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình hiện nay". Luận văn thạc sĩ Kinh
tế của Bùi Việt Hưng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội - 2006.
Về doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch có ít người nghiên cứu
hơn. Tác giả xin đưa ra một số công trình nghiên cứu khoa học của một số tác
giả về vấn đề kinh tế du lịch và doanh nghiệp tư nhân trong du lịch như sau:
- "Kinh tế du lịch Thừa Thiên - Huế, tiềm năng và phương hướng phát
triển". Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Nguyễn Thị Hóa, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh (1997). Trong luận văn này tác giả đã đánh giá đúng những
tiềm năng to lớn của ngành du lịch Thừa Thiên Huế và chỉ ra những phương
hướng để khai thác có hiệu quả tiềm năng này.
- "Kinh tế du lịch ở tỉnh Thanh Hóa - Thực trạng và giải pháp phát
triển". Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Nguyễn Thị Hồng Lâm, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2005). Trong luận văn này tác giả đã đánh giá
5
được những thành tựu và những mặt hạn chế của sự phát triển ngành du lịch
Thanh Hóa và đề ra các giải pháp để phát triển.
- "Doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực du lịch ở Hà Nội". Luận văn
thạc sĩ Kinh tế của Lê Thị Hương, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(2006). Trong luận văn tác giả làm rõ cơ sở lý luận vị trí, vai trò và xu hướng
phát triển của doanh nghiệp tư nhân nói chung và doanh nghiệp tư nhân trong
lĩnh vực du lịch ở Hà Nội nói riêng. Đánh giá xu hướng phát triển của doanh
nghiệp tư nhân trong du lịch Hà Nội. Đề ra các giải pháp khuyến khích phát
triển doanh nghiệp tư nhân trong du lịch Hà Nội.
Tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về doanh nghiệp tư
nhân ngành du lịch tỉnh Thanh Hóa trên giác độ kinh tế chính trị. Do đó,
"Doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở tỉnh Thanh Hóa" vẫn đang là
khoảng trống trong khoa học cần được nghiên cứu để vận dụng vào thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích: Trên cơ sở làm rõ đặc điểm, vai trò và các nhân tố ảnh
hưởng tới doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch; phân tích, đánh giá thực
trạng phát triển doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở Thanh Hóa thời
gian qua và từ đó đề xuất các giải pháp tiếp tục phát triển doanh nghiệp tư
nhân trong ngành du lịch ở Thanh Hóa thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ:
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong
ngành du lịch.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển doanh nghiệp tư
nhân trong ngành du lịch.
- Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp tư nhân trong ngành
du lịch ở một số tỉnh, thành và rút ra bài học cho phát triển doanh nghiệp tư
nhân trong ngành du lịch ở Thanh Hóa.
6
- Đánh giá rõ những thành công, hạn chế trong phát triển doanh nghiệp
tư nhân trong ngành du lịch ở Thanh Hóa thời gian qua cùng nguyên nhân của
những thành công và hạn chế đó.
- Đề xuất các phương hướng và giải pháp tiếp tục phát triển nhanh, có
hiệu quả các doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở Thanh Hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các doanh nghiệp tư nhân tham
gia cung cấp dịch vụ du lịch cùng các quan hệ kinh tế - xã hội có liên quan
đến lĩnh vực này.
- Phạm vi nghiên cứu gồm những doanh nghiệp tư nhân tham gia cung
cấp các dịch vụ du lịch ở tỉnh Thanh Hóa thời gian chủ yếu từ năm 2000 đến
nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và
tỉnh Thanh Hóa về phát triển các doanh nghiệp tư nhân nói chung và trong
hoạt động du lịch nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong luận văn sử
dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu truyền thống của kinh tế chính trị
như: trừu tượng hóa khoa học phân tích - tổng hợp, thống kê, so sánh,
6. Những đóng góp về khoa học luận văn
- Làm rõ thêm đặc thù của doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở
Thanh Hóa.
- Chỉ ra những thành công và hạn chế trong phát triển doanh nghiệp tư
nhân trong ngành du lịch ở Thanh Hóa.
7
- Đề ra giải pháp để hoàn thiện chính sách nâng cao vai trò doanh
nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở Thanh Hóa thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.
8
Chương 1
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch
1.1. Khái niệm, Đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong ngành du
lịch
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân trong
ngành du lịch
1.1.1.1 Doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp tư
nhân trong ngành du lịch
Doanh nghiệp là chủ thể sản xuất kinh doanh chủ yếu trong nền kinh tế
thị trường. Ngày nay, doanh nghiệp là một trong những hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh phổ biến được quy định trong khuôn khổ pháp luật hiện
hành. Theo Điều 4, chương I, Luật Doanh nghiệp của Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 60/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm
2005, “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”[29]. Hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp có mục đích chủ yếu là thu lợi nhuận.
Tùy theo tiêu chí, có thể phân loại doanh nghiệp thành các nhóm khác
nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động sản xuất - kinh doanh theo ngành,
có thể phân biệt các loại doanh nghiệp như doanh nghiệp công nghiệp, doanh
nghiệp nông nghiệp, doanh nghiệp giao thông vận tải, doanh nghiệp thương
mại ; Theo tiêu chí quy mô về vốn và lao động có thể phân biệt các cấp độ
doanh nghiệp như doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ.
Theo hình thức tổ chức hoạt động, các doanh nghiệp có thể đăng ký kinh
doanh dưới các hình thức như DN tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Theo nguồn gốc vốn đầu tư có thể phân biệt
các DN trong nước với các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Căn cứ vào tính
9
chất quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, các DN được phân chia thành DN nhà
nước và DN tư nhân…
Mặc dù DNTN được xác định là một bộ phận của hệ thống DN trong
nền kinh tế, nhưng cho đến nay vẫn đang còn những quan niệm khác nhau về
khái niệm DNTN. Theo phương diện pháp lý, DNTN được hiểu là loại hình
DN “do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp” [29]. Theo Luật Doanh nghiệp
2005, DNTN không được phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào, mỗi cá
nhân chỉ được quyền thành lập một DNTN. Cho nên DNTN theo cách hiểu
trên chỉ bao gồm những DN chủ yếu có quy mô nhỏ. Những DN loại này là
biểu hiện của hình thức sở hữu tư nhân tương đối nhỏ, tồn tại phổ biến trong
các giai đoạn hình thành kinh tế thị trường và thường là hình thức tổ chức
kinh doanh chủ yếu trong các nền kinh tế chưa phát triển. Quan niệm như trên
là đúng nhưng chưa đủ vì chưa phản ánh được sự vận động của hình thức sở
hữu tư nhân lớn trong nền kinh tế thị trường.
Theo phương diện quan hệ sở hữu, DNTN được hình thành, vận động
và phát triển trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Theo phương diện
này có thể phân biệt DNNN và DNTN. Tuy nhiên, từ đây cũng đã xuất hiện
quan niệm cho rằng, DNTN gồm toàn bộ những DN hoạt động chủ yếu dựa
vào sở hữu ngoài nhà nước như sở hữu cá nhân, gia đình, tập thể hay đoàn thể
chung vốn…, tồn tại dưới các hình thức công ty hợp danh, công ty trách
nhiệm hữu hạn, DNTN dựa trên cơ sở sở hữu ngoài nhà nước và các công ty
cổ phần mà nhà nước hoặc không có cổ phần hoặc không giữ cổ phần chi
phối. Quan niệm này chủ yếu dựa vào sự phân biệt các DN theo tiêu chí vị trí
chi phối của sở hữu nhà nước, vì vậy chưa phản ánh rõ những khác biệt giữa
sở hữu tư nhân với các hình thức sở hữu khác ngoài nhà nước khác như sở
hữu tập thể. Theo giác độ kinh tế chính trị, DNTN là hình thức biểu hiện của
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, vì vậy mọi DN hoạt động trên cơ sở sở
10
hữu tư nhân dù lớn hay nhỏ đều thuộc nhóm DNTN, trong đó bao gồm cả các
công ty cổ phần mà sở hữu tư nhân giữ vị trí chi phối.
ở nước ta kể từ sau Đại hội VI (năm 1986) đến nay, Đảng và Nhà nước
đã chủ trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, nhờ
vậy kinh tế tư nhân được khôi phục và phát triển mạnh, đặc biệt dưới hình
thái DNTN. DNTN được khuyến khích phát triển không những về số lượng,
quy mô, mà cả về lĩnh vực, địa bàn hoạt động, và được phép kinh doanh
những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Trong bối cảnh đó, DNTN được
thành lập và đi vào hoạt động ngày càng nhiều, không những trong lĩnh vực
công nghiệp, nông nghiệp, mà còn ngày càng mở rộng hoạt động sang các
lĩnh vực dịch vụ, trong đó có dịch vụ du lịch.
Từ việc nghiên cứu về DNTN trong lĩnh vực du lịch ở Hà Nội tác giả
Lê Thị Hương đã nêu ra định nghĩa: “Doanh nghiệp tư nhân trong ngành du
lịch là các doanh nghiệp được thành lập trên cơ sở sở hữu tư nhân, hoạt động
tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ nhằm đáp
ứng các nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, tham quan, tìm hiểu, giải trí và
các nhu cầu khác của khách du lịch” [24]. Định nghĩa này đã khái quát được
nội hàm chủ yếu của DNTN trong lĩnh vực du lịch, vì vậy, khái niệm DNTN
trong ngành du lịch của luận văn sẽ được sử dụng theo định nghĩa này.
Trong nền kinh tế nước ta ngày nay, DNTN trong ngành du lịch, cũng
như các DNTN hoạt động trong các lĩnh vực khác của nền kinh tế, vận động
dưới sự chi phối của các quy luật của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đồng
thời được chế định bởi định hướng xã hội chủ nghĩa, cho nên bản chất kinh tế -
xã hội của loại hình DN này vừa mang tính là tư nhân, vừa chịu tác động của
định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự vận động phát triển của chúng với tư
cách là bộ phận quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung của đất
nước.
1.1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch
11
DNTN trong ngành du lịch là những DN dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân,
cho nên mang những đặc điểm chung của DNTN, đồng thời hoạt động chủ
yếu của các DN này được thực hiện trong lĩnh vực du lịch, cho nên chúng
cũng chịu ảnh hưởng từ những đặc điểm của ngành du lịch với tư cách là một
lĩnh vực dịch vụ đặc thù. Do vậy, những đặc điểm chủ yếu của DNTN trong
ngành du lịch bao gồm:
Thứ nhất, những đặc điểm chung thể hiện sự khác biệt của DNTN
trong ngành du lịch so với các DN dựa trên cơ sở các hình thức sở hữu khác
về tư liệu sản xuất trong ngành du lịch và trong toàn bộ nền kinh tế. Những
đặc điểm này bao gồm:
Một là, về quan hệ sở hữu và mục tiêu kinh doanh. DNTN trong ngành
du lịch hoạt động dựa trên hình thức sở hữu tư nhân về vốn và các điều kiện
kinh doanh, có mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu là lợi nhuận.
Xuất phát từ bản chất của sở hữu tư nhân, lợi ích kinh tế căn bản mà DNTN
trong ngành du lịch là thực hiện quyền sở hữu tư nhân, thể hiện mục đích,
động cơ hoạt động vì lợi nhuận. Để bảo tồn và phát triển nguồn vốn của mình
các DNTN trong ngành du lịch cũng như các DNTN thuộc các lĩnh vực hoạt
động khác đều phải cố gắng thu được lợi nhuận tối đa. Hoạt động trong ngành
du lịch chỉ là phương tiện để đạt được mục tiêu này.
Mặc dù hoạt động của DNTN trong ngành du lịch phải hướng vào đáp
ứng nhu cầu xã hội, song so với các loại hình DN không dựa trên cơ sở sở
hữu tư nhân như các DNNN, DN tập thể, hiệu quả xã hội không phải là mục
tiêu trực tiếp của DNTN trong ngành du lịch. Trong điều kiện nền kinh tế
cạnh tranh, nếu hoạt động trong ngành du lịch không mang lại hiệu quả kinh
tế, hoặc không có hiệu quả kinh tế cao, thì các DNTN trong ngành du lịch sẽ
có xu hướng thu hẹp hoạt động đầu tư, tìm cách chuyển vốn sang kinh doanh
trong ngành khác có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Ngược lại, nếu tỷ suất lợi
12
nhuận trong ngành du lịch cao hơn so với trong các ngành kinh tế khác, thì
DNTN sẽ có xu hướng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh không những
bằng các nguồn vốn tự tích luỹ được, mà còn thu hút thêm các nguồn vốn đầu
tư khác kể cả trong và ngoài ngành du lịch. Trong khi đó, các DNNN hoặc
DN tập thể thường không thể nhanh chóng chuyển hướng đầu tư do yêu cầu
thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội nhất định hướng vào lợi ích xã hội hoặc
lợi ích tập thể. Đặc điểm này cho phép luận giải được một phần sự phát triển
của các DNTN trong ngành du lịch trong những bối cảnh kinh tế - xã hội cụ
thể. Tỷ suất lợi nhuận thấp so với các ngành khác là một trong những nguyên
nhân cản trở sự phát triển nhanh của DNTN trong ngành du lịch.
Ngoài ra, hoạt động kinh doanh theo mục tiêu lợi nhuận của các DNTN
trong ngành du lịch cũng có thể gây ra tình trạng không lành mạnh như làm
mất cân đối giữa cung và cầu, gây lãng phí nguồn lực xã hội; gây nên tình
trạng phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng trong xã hội; làm hàng giả, hàng
lậu, nâng giá, ép giá, gây ô nhiễm môi trường sinh thái Vì vậy, công tác
quản lý nhà nước đối với các DNTN nói chung và DNTN trong ngành du lịch
nói riêng cần phải hướng vào việc lành mạnh hoá hoạt động của các DN này.
Hoạt động của chúng có tác động tới sự ổn định kinh tế vĩ mô và nguồn thu
ngân sách nhà nước.
Hai là, về quan hệ tổ chức quản lý. DNTN trong ngành du lịch hoạt
động vì lợi ích của các chủ sở hữu tư nhân, có thể được tổ chức dưới nhiều
hình thức khác nhau trên cơ sở giải quyết mối quan hệ giữa quyền sở hữu và
quyền quản lý kinh doanh. Theo quy định của pháp luật hiện hành của Việt
Nam, các hình thức tổ chức DNTN trong ngành du lịch ngày nay bao gồm
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, DNTN.
+ Công ty cổ phần với tư cách là hình thức DNTN trong ngành du lịch
vừa mang đặc điểm chung của công ty cổ phần vừa thể hiện những đặc điểm
13
riêng của sở hữu tư nhân. Đây là hình thức tổ chức DN dựa trên cơ sở tách
bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh, nhưng vị trí chi phối
thuộc về chủ thể tư nhân. DNTN dưới hình thái công ty cổ phần được thành
lập trên cơ sở vốn cổ phần của các thành viên với mục tiêu cùng chia nhau lợi
nhuận, cùng chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp. Cổ đông của công ty có
thể gồm cả nhà nước và các chủ thể đại diện cho sở hữu nhà nước, song cổ
phần khống chế thuộc về các chủ thể tư nhân, vì vậy nhà nước không thể chi
phối trực tiếp hoạt động của công ty. Theo quy định của pháp luật, các cổ
đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Số thành viên gọi là
cổ đông mà công ty phải có trong suốt thời gian hoạt động ít nhất là 3, không
hạn chế số lượng tối đa. Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau
gọi là cổ phần. Chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi
sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó gọi là
cổ phiếu. Những người sở hữu các cổ phần được gọi là cổ đông, là những
người góp vốn để thành lập công ty và có quyền tham gia điều hành việc
quản lý và sử dụng vốn, cũng như tham gia điều hành doanh nghiệp. Việc
tham gia điều hành doanh nghiệp của các cổ đông được tiến hành thông
qua các quyết định của Đại hội cổ đông. Quyền bỏ phiếu các quyết định
trong Đại hội cổ đông, cũng như việc tham gia Hội đồng quản trị công ty
phụ thuộc vào số lượng cổ phiếu mà các cổ đông nắm giữ. Điều hành công
việc hàng ngày của công ty do Ban Giám đốc điều hành được Hội đồng
quản trị công ty chỉ định. Thành viên của Ban giám đốc điều hành có thể là
cổ đông hoặc không phải là cổ đông, nhưng đều hoạt động theo nguyên tắc
thuê mướn thông qua hợp đồng nhằm mang lại lợi ích tối đa cho cổ đông.
Các cổ phần của các công ty có thể được mua bán trên thị trường chứng
khoán chính thức nếu đủ điều kiện niêm yết, hoặc trên thị trường không chính
thức nếu không đủ điều kiện niêm yết.
14
+ Công ty TNHH có hai thành viên trở lên là DN trong đó các thành
viên là chủ thể sở hữu tư nhân cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng
chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ
và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào
doanh nghiệp. Phần vốn góp của tất cả các thành viên phải được đóng góp đủ
ngay khi thành lập công ty. Các phần vốn góp được ghi rõ trong điều lệ công
ty. Công ty không được phép phát hành cổ phiếu.
+ Đối với Công ty TNHH có một thành viên là DN do một tổ chức dựa
trên cơ sở sở hữu tư nhân, hoặc cá nhân tư nhân làm chủ sở hữu, chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn
điều lệ của công ty. Giống như công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên
trở lên, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cũng không được phép
phát hành cổ phiếu.
+ Công ty hợp danh trong tổ chức quản lý về cơ bản giống công ty
TNHH (có hai thành viên trở lên). Trong điều hành hoạt động công ty, các
thành viên tư nhân hợp danh phân công nhau đảm nhiệm các chức trách quản
lý và kiểm soát công ty. Mọi hạn chế đối với thành viên hợp danh trong thực
hiện công việc kinh doanh hàng ngày của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên
thứ ba khi người đó được biết về hạn chế đó [40].
+ DNTN theo quy định tại điều 141 và 143 - Luật Doanh nghiệp 2005,
chủ DNTN có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các
nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật. Chủ DNTN có thể trực
tiếp hoặc thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Cơ cấu tổ
chức của DNTN đơn giản hơn, không có hội đồng thành viên, không được
quyền phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
15
Tất cả các hình thức tổ chức DNTN trong ngành du lịch kể trên đều dựa
vào sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, hoạt động quản lý trực tiếp có thể được thực
hiện bởi các chủ thể sở hữu DN, hoặc được thực hiện bởi bộ máy quản lý theo
hình thức thuê mướn. Bộ máy quản lý thuê mướn trong các DNTN ngành du
lịch được hình thành trên cơ sở tách bạch quyền quản lý kinh doanh và quyền
sở hữu trong quan hệ sở hữu tư nhân. Mặc dù sự tách bạch hai nhóm quyền
này cũng có thể được thực hiện trong các hình thức sở hữu nhà nước và sở
hữu tập thể, nhưng trong sở hữu tư nhân bộ máy quản lý kinh doanh thường
có tính linh hoạt cao hơn và gắn với các chủ thể sở hữu chặt chẽ hơn do bộ
máy này được thành lập và hoạt động nhằm thực hiện lợi ích kinh tế của các
chủ sở hữu tư nhân. Sự chi phối của sở hữu tư nhân đối với bộ máy quản lý
kinh doanh trong các DNTN nói chung và trong các DNTN ngành du lịch nói
riêng thể hiện thông qua khả năng nhanh chóng thay thế bộ máy quản lý hiện
hành bằng một bộ máy quản lý khác, nếu bộ máy quản lý hiện hành đó có
biểu hiện không đáp ứng được các yêu cầu của các chủ thể sở hữu tư nhân. Sự
chi phối của lợi ích tư nhân đã tạo ra sức ép lớn đối với bộ máy quản lý, buộc
các chủ thể quản lý kinh doanh phải không ngừng vươn lên để tránh bị đào
thải.
Quyền tự chủ quyết định lựa chọn ngành nghề và phương án kinh
doanh, tuyển dụng lao động, tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh cho phép DNTN trong ngành du lịch có thể đưa ra quyết đinh
nhanh chóng trong việc điều chỉnh các hành vi kinh tế của mình, việc lựa
chọn hình thức, quy mô hoạt động kinh doanh cũng hết sức linh hoạt. Chủ
doanh nghiệp có thể chủ động lựa chọn các yếu tố đầu vào như vốn, sức lao
động, khoa học - công nghệ phù hợp với năng lực của mình. Việc sử dụng
các nguồn lực một cách linh hoạt sẽ giúp cho doanh nghiệp đạt được hiệu quả
kinh tế tối đa. Dù chủ thể sở hữu của DNTN có trực tiếp tham gia quản lý
16
doanh nghiệp hay thuê người quản lý thì DNTN vẫn tìm mọi cách để sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực của mình, nhất là trong việc sử dụng nguồn nhân
lực với chế độ trả lương hợp lý. Nhờ đó DNTN có thể thu hút được nguồn lao
động có chất lượng. Ngược lại, đối với những lao động chất lượng kém thì
chủ DNTN có toàn quyền sa thải, những mức lương do DNTN áp dụng về cơ
bản do thị trường lao động tự điều tiết trong khuôn khổ của Bộ luật lao động.
Đồng thời, DNTN dễ dàng tiếp cận với các nguồn nguyên liệu và tài
nguyên sẵn có trong nước, có khả năng đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa
dạng và phong phú của thị trường, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, nâng
cao sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, vừa tạo khả năng liên kết chặt chẽ
giữa các doanh nghiệp với nhau, tăng khả năng tích tụ và tập trung vốn. Đặc
biệt trong xu thế hội nhập WTO hiện nay, những vấn đề cơ bản đó làm tăng
khả năng cạnh tranh lớn của các DNTN trong nước với các doanh nghiệp
nước ngoài, và xu thế độc quyền trong kinh doanh sẽ bị hạn chế, từ đó buộc
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải cạnh tranh với nhau để
tìm ra chỗ đứng trên thị trường.
Ba là, về quan hệ phân phối. Thu nhập của DNTNDL được hình thành
trên cơ sở hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Xuất phát từ sự
chi phối của sở hữu tư nhân về các điều kiện sản xuất kinh doanh, các hình
thức phân phối thu nhập cơ bản trong các DNTN ngành du lịch bao gồm phân
phối theo vốn và tài sản đóng góp đối với các chủ thể sở hữu, theo giá trị sức
lao động đối với những người lao động làm thuê. So với các DNNN và DN
tập thể, cơ chế phân phối trong các DNTN ngành du lịch được quyết định trực
tiếp bởi các chủ thể sở hữu và kinh doanh tư nhân trên cơ sở hiệu quả kinh
doanh thực tế đạt được. Trong phạm vi những quy định của hệ thống pháp
luật hiện hành, các DNTN ngành du lịch có thể sử dụng linh hoạt công cụ,
hình thức phân phối để thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
17
Phân phối theo vốn và các tài sản đóng góp bao gồm phân phối cho các
chủ thể sở hữu DN và trả lợi tức đối với các khoản vốn đi vay. Phân phối đảm
bảo thực hiện lợi ích của chủ sở hữu trong các DNTN là động lực thúc đẩy sự
năng động, sáng tạo, biết chấp nhận mạo hiểm và rủi ro trong kinh doanh của
các doanh nhân để doanh nghiệp của họ có thể tồn tại, phát triển và đạt được
lợi nhuận tối đa.
Phân phối theo giá trị sức lao động đối với những người làm việc được
thực hiện thông qua việc quy lao động phức tạp thành lao động giản đơn. So
với các DN dựa trên cơ sở các hình thức sở hữu nhà nước và tập thể, việc quy
lao động phức tạp thành lao động giản đơn trong các DNTN được thực hiện
nhanh chóng và rõ ràng hơn, do đó cơ chế phân phối thu nhập đối với người
lao động trong các DNTN linh hoạt hơn, từ đó kích thích được động cơ hoạt
động tích cực sáng tạo của đội ngũ người lao động có trình độ chuyên môn
tay nghề cao. Tuy nhiên, vì bản chất tư nhân, phân phối thu nhập trong các
DNTN chủ yếu nhằm mục tiêu thực hiện lợi ích của các chủ DN, nên lợi ích
của người lao động, đặc biệt là đối với đội ngũ người lao động có trình độ
chuyên môn thấp, thường bị vi phạm, từ đó có thể dẫn tới những bức xúc
trong mối quan hệ giữa chủ thể sử dụng lao động và người lao động. Do vậy,
trong lĩnh vực này sự điều tiết quản lý của nhà nước là rất cần thiết.
Bên cạnh đó, các DNTN nói chung và trong ngành du lịch nói riêng có
thể không chấp hành đầy đủ, nghiêm túc chế độ kế toán và báo cáo tài chính
theo các quy định của pháp luật hiện hành, thường tìm cách khai báo giảm thu
nhập để giảm đóng góp vào ngân sách nhà nước. Vì vậy, cần thiết phải tiếp
tục tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chế độ kế
toán trong các DNTN, vừa phải tuyên truyền, phổ biến những quy định của
Nhà nước về công tác này nhằm nâng cao nhận thức của các DNTN, hỗ trợ
trong đào tạo đội ngũ kế toán trưởng và kế toán viên, vừa phải củng cố bộ
máy quản lý nhà nước đối với DNTN.
18
Thứ hai, những đặc điểm của DNTN ngành du lịch thể hiện tính đặc
thù của hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói chung và dịch vụ du lịch
nói riêng. Kinh doanh dịch vụ du lịch bao gồm các hoạt động tổ chức hướng
dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu
về đi lại, lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm hiểu và các nhu cầu khác
của khách du lịch. Mặc dù các dịch vụ du lịch là loại hình dịch vụ được nhiều
chủ thể tham gia cung cấp, nhưng trong điều kiện hiện nay, các hoạt động này
chủ yếu được thực hiện bởi các DN kinh doanh du lịch, trong đó gồm cả các
DN dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân. Để tạo ra các dịch vụ du lịch nhằm thỏa
mãn các nhu cầu của khách du lịch, các DNTN ngành du lịch có thể thực hiện
các loại hình kinh doanh du lịch tương ứng. Theo quy định tại Điều 25,
Chương V - Pháp lệnh Du lịch Việt Nam ban hành năm 1999, các DN, trong
đó có DNTN được quyền thực hiện các hoạt động sau:
1) Kinh doanh lữ hành nội địa và kinh doanh lữ hành quốc tế;
2) Kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch;
3) Kinh doanh vận chuyển khách du lịch;
4) Kinh doanh các dịch vụ du lịch khác.
- Kinh doanh lữ hành của các DNTN ngành du lịch bao gồm các hoạt
động như giao dịch, ký kết với các tổ chức kinh doanh du lịch để xây dựng và
thực hiện các chương trình du lịch đã bán cho khách du lịch. Vì hoạt động du
lịch không bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, mà được mở rộng không
ngừng cho nên theo phạm vi hoạt động, có thể phân biệt các DNTN kinh
doanh lữ hành nội địa và DNTN kinh doanh lữ hành quốc tế.
- Kinh doanh lưu trú du lịch của các DNTN bao gồm các hoạt động tổ
chức đón tiếp, phục vụ lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, bán hàng cho khách
du lịch. Cơ sở lưu trú du lịch bao gồm các khách sạn, làng du lịch, biệt thự du
lịch, căn hộ du lịch, bãi cắm trại du lịch, nhà nghỉ du lịch, nhà ở có phòng cho
khách du lịch thuê và các cơ sở lưu trú du lịch khác.
19
- Kinh doanh vận chuyển khách du lịch của DNTN là hoạt động kinh
doanh, nhằm giúp cho du khách dịch chuyển được từ nơi cư trú của mình đến
điểm du lịch cũng như là dịch chuyển tại điểm du lịch.
- Kinh doanh các dịch vụ du lịch khác bao gồm các hoạt động kinh
doanh bổ trợ cho du lịch như kinh doanh các loại hình dịch vụ vui chơi, giải
trí; tuyên truyền, quảng cáo du lịch; tư vấn đầu tư du lịch, v.v…[17].
Như vậy, hoạt động của các DNTN trong ngành du lịch là một loại hình
hoạt động đặc thù, mang đặc tính của ngành kinh doanh dịch vụ, chịu ảnh
hưởng rất lớn của tính chất sản phẩm dịch vụ. Những tính chất chủ yếu của
sản phẩm dịch vụ du lịch có tác động tới hoạt động của DNTN ngành du lịch
bao gồm:
Một là, tính phi vật thể. Sản phẩm của các DNTN ngành du lịch cũng
giống như của các DN kinh doanh dịch vụ khác, đều là sản phẩm vô hình,
thường không tồn tại dưới dạng vật thể cụ thể như sản phẩm của các ngành
kinh tế khác. Dịch vụ du lịch thường chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng sản
phẩm du lịch (80% - 90%). Tính phi vật thể của dịch vụ du lịch làm cho du
khách không thể nhìn thấy hay thử nghiệm sản phẩm trước được. Việc đánh
giá chất lượng dịch vụ du lịch phụ thuộc chủ yếu vào sự cảm nhận chủ quan
của du khách trong quá trình thụ hưởng, do vậy đòi hỏi các DNTN kinh
doanh du lịch phải nắm vững nhu cầu của khách du lịch, từ đó lựa chọn các
phương thức phục vụ phù hợp với từng loại hình du lịch và với từng đối
tượng khách du lịch. Đây là vấn đề rất phức tạp, đòi hỏi các DNTN kinh
doanh du lịch phải không ngừng cố gắng tiếp xúc và tìm hiểu về khách hàng
của mình.
Các DNTN ngành du lịch muốn khách du lịch biết tới sản phẩm của
mình thì cần phải cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết cho du khách thông
qua các phương tiện như chương trình du lịch. Trong các chương trình du lịch
20
càng thể hiện rõ các nội dung như tuyến du lịch, phương tiện giao thông, nhà
nghỉ, các dịch vụ vui chơi giải trí, ăn uống, sản phẩm lưu niệm Việc cung
cấp thông tin cho khách du lịch có thể thực hiện trực tiếp, hoặc thông qua hoạt
động tư vấn quảng bá du lịch bằng hệ thống website. Ngoài ra, quảng bá về
chất lượng dịch vụ du lịch còn có thể thực hiện thông qua sự tuyên truyền của
các khách du lịch đã được thụ hưởng dịch vụ du lịch cho những người khác.
Để công tác quảng bá du lịch có hiệu quả, các DNTN ngành du lịch cần phải
luôn luôn tìm cách nâng cao chất lượng dịch vụ của mình theo hướng đáp ứng
những nhu cầu và thị hiếu ngày càng cao của khách du lịch trong nước và
quốc tế.
Hai là, tính đồng thời của sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du lịch. Đặc
tính này thể hiện sự khác biệt giữa dịch vụ và hàng hóa hữu hình. Đối với
hàng hóa hữu hình, quá trình sản xuất và tiêu dùng tách rời nhau, việc sản
xuất và tiêu dùng thường diễn ra ở những thời gian và địa điểm khác nhau.
Còn đối với dịch vụ thì việc sản xuất và tiêu dùng thường xảy ra đồng thời cả
về không gian và thời gian. Sản xuất ở đây không phải để lưu kho, lưu bãi hay
cất giữ như những hàng hóa thông thường khác, mà đòi hỏi sự gặp gỡ trực
tiếp, tức thời giữa những chủ thể cung ứng các dịch vụ du lịch và khách hàng,
cho nên hiệu quả hoạt động của các DNTN ngành du lịch phụ thuộc rất lớn
vào sự tiếp xúc trực tiếp với khách hàng.
Khi du khách muốn tiêu dùng dịch vụ du lịch thì các DNTN kinh doanh
du lịch không thể cung cấp dịch vụ du lịch đến tận tay du khách được, mà du
khách phải đến tận các cơ sở du lịch để thưởng thức và tận hưởng, bởi vậy
ngoài việc xúc tiến tuyên truyền, quảng bá sản phẩm của mình, DNTN ngành
du lịch cần phải không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng dịch vụ để không
những có thể tiếp tục phục vụ những khách du lịch đã được thụ hưởng dịch
vụ, mà còn mở rộng khả năng thu hút các khách du lịch tiềm năng.
21
Ba là, tính thời vụ của dịch vụ du lịch. Việc tiêu dùng sản phẩm dịch vụ
du lịch thường không thường xuyên mà có thể chỉ tập trung vào những thời
gian nhất định trong ngày đối với sản phẩm thuộc bộ phận nhà hàng, trong
tuần đối với sản phẩm của chủ thể loại du lịch cuối tuần, trong năm đối với
sản phẩm của một số loại hình du lịch như du lịch nghỉ núi, du lịch nghỉ
biển Ngoài ra, việc tiêu dùng dịch vụ du lịch còn diễn ra theo mùa, theo chu
kỳ kinh doanh mà tại đó có sự tập trung cao nhất của cung và cầu du lịch. Chính
vì vậy, hoạt động kinh doanh du lịch mang tính thời vụ cao, cho nên các DNTN
cần phải xác định thời vụ của từng loại hình du lịch như: du lịch nghỉ núi, du lịch
nghỉ biển, du lịch chữa bệnh, du lịch hội thảo hay du lịch lễ hội
Việc xác định đúng đắn tính thời vụ để bố trí đội ngũ phục vụ hợp lý,
tận dụng được thời cơ kinh doanh, khai thác sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực hiện có. Ngoài ra sự nhận thức đúng đắn và đầy đủ về tính thời vụ của
dịch vụ du lịch sẽ giúp cho các DNTN ngành du lịch tạo nên thế mạnh trong các
loại hình du lịch mà DN kinh doanh tại từng địa điểm du lịch và trong từng thời
điểm.
Ngoài những đặc điểm nổi bật nêu trên, DNTN trong ngành du lịch còn
chịu sự ảnh hưởng của một số những đặc tính khác như: sự tham gia của
khách du lịch trong quá trình tạo ra dịch vụ, tính không chuyển đổi quyền sở
hữu dịch vụ, tính không thể di chuyển của dịch vụ du lịch, tính trọn gói của
dịch vụ, tính không đồng nhất dịch vụ du lịch
Như vậy, DNTN ngành du lịch vừa mang những đặc điểm của DNTN,
vừa mang tính đặc thù của ngành du lịch. Tác động của những đặc điểm đó
không những đặt ra những vấn đề cần phải giải quyết đối với bản thân các
DNTN ngành du lịch, mà còn đòi hỏi công tác quản lý nhà nước cũng phải
căn cứ vào đó để xây dựng và thực hiện các chính sách, cơ chế nhằm vừa tạo
thuận lợi cho hoạt động của các DNTN ngành du lịch, vừa hướng hoạt động
22
của loại hình DN này vào thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội nói chung theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch
Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự nỗ
lực của mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân đã có mặt trong tất
cả các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ. Các DNTN đã có
mặt ở mọi miền của đất nước với nhiều hình thức tổ chức đa dạng, phong phú,
phương thức kinh doanh năng động, thích nghi với cơ chế thị trường và nhu
cầu của xã hội. Các DNTN được tổ chức dưới nhiều loại hình, đã đóng một
vai trò to lớn trong việc huy động các nguồn lực xã hội, tạo thêm việc làm, cải
thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định
chính trị - xã hội của đất nước. Trong đó không thể không kể đến sự phát triển
ngày càng lớn mạnh của các DNTN trong ngành du lịch. Trong quá trình phát
triển, DNTN trong ngành du lịch đã và đang thể hiện rõ những vai trò về huy
động và sử dụng vốn, khai thác tài nguyên du lịch, tạo việc làm, thu nhập cho
người lao động, đóng góp cho ngân sách
1.1.2.1. Huy động nguồn vốn trong dân cư đầu tư cho phát triển du lịch
Nhờ thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, môi
trường đầu tư sản xuất kinh doanh của các DNTN nói chung và trong ngành
du lịch nói riêng, ngày càng trở nên thông thoáng và thuận lợi. Các nguồn vốn
phân tán trong mọi tầng lớp dân cư, thành phần kinh tế được khơi dậy và đưa
vào khai thác sử dụng ngày một nhiều. Lĩnh vực du lịch ngày càng được các
chủ thể tư nhân quan tâm đầu tư. Số lượng DNTN trong ngành du lịch ngày
một gia tăng, quy mô của DNTNDL được mở rộng.
Sự gia tăng phát triển của các DNTN ngành du lịch thể hiện lượng vốn
đầu tư được huy động từ các tầng lớp nhân dân vào lĩnh vực du lịch ngày
càng lớn, khả năng huy động vốn trong nước đầu tư cho DNTN trong ngành
23
du lịch ngày một tăng, tạo ra điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển của
ngành du lịch. So với các DNNN và DN tập thể trong ngành du lịch, DNTN
có những lợi thế nhất định về huy động và khai thác sử dụng các nguồn vốn
có trong dân cư do cơ chế quản lý vốn có tính trực tiếp hơn. Trên thực tế cho
thấy, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đề ra các chỉ tiêu
định hướng về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 1010 đã đề ra mức tăng
trưởng kinh tế đạt 7,5 - 8%/năm. Để đạt được mức tăng trưởng đó, nền kinh tế
Việt Nam cần phải được đầu tư ít nhất 60 tỷ USD, trong khi đó khả năng huy
động vốn ngoài nước dự kiến không vượt quá 18 tỷ USD, chỉ đáp ứng được
30% so với nhu cầu. Phần còn lại đòi hỏi phải được bù đắp bằng nguồn vốn
trong nước, mà đến 36% là nguồn vốn của dân cư trong nước, có nghĩa là
nguồn vốn của tư nhân sẽ chiếm 25% so với tổng nhu cầu đầu tư [24].
Năm 2000 vốn đầu tư của loại hình DNTN trong du lịch đạt khoảng
18.569,7 tỷ đồng. Đến năm 2005, số vốn đầu tư của DNTN vào du lịch đã
tăng lên tới 235.111,8 tỷ đồng chiếm 26,5% tổng vốn đầu tư trong ngành du
lịch. Theo sự phát triển của ngành du lịch, tỷ trọng đầu tư của các DNTN vào
du lịch sẽ có xu hướng tăng lên, tiếp tục góp phần thúc đẩy quá trình huy
động các nguồn vốn ngoài ngân sách trong nước vào phát triển kinh tế - xã
hội.
1.1.2.2. Làm tăng sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, khai thác
hiệu quả các tiềm năng, nguồn lực du lịch
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng Việt Nam
chính thức trở thành thành viên của WTO, DNTNDL ngày càng có cơ hội
thuận lợi để mở rộng thị trường cả trong nước và ngoài nước. Vì mục tiêu lợi
nhuận, nên các DNTN luôn phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình bằng
cách nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch, đầu tư cơ sở kỹ thuật, đào
24
tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực, củng cố và tăng cường nâng cao năng lực quản
lý trong các DN.
Sự lớn mạnh của các DNTN ngành du lịch không những tạo ra sức ép
cạnh tranh đối với bản thân các DNTN trong ngành du lịch, mà còn tạo ra sức
ép phải nâng cao năng lực cạnh tranh đối với các DN du lịch dựa trên cơ sở
các hình thức sở hữu khác về điều kiện sản xuất kinh doanh, từ đó không
những góp phần nâng cao sức cạnh tranh của ngành du lịch nói riêng, mà còn
góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung trong bối cảnh
hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Hoạt động của các DNTN ngành du lịch là hoạt động khai thác các tài
nguyên du lịch để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của các tầng lớp dân cư
trong và ngoài nước về du lịch. Do vậy, các nguồn tài nguyên du lịch của từng
địa phương nói riêng và cả nước nói chung có cơ hội được chuyển hoá thành
các sản phẩm du lịch thực tế phục vụ phát triển kinh tế xã hội của từng địa
phương có những nguồn tài nguyên này và góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Trong những năm qua, sự phát triển của các DNTN ngành du lịch
nước ta đã khơi dậy các tiềm năng du lịch, biến những tiềm năng đó thành
nguồn lực phát triển đất nước. Những tài nguyên du lịch như phong cảnh
thiên nhiên, di tích lịch sử, truyền thống văn hoá đã và đang từng bước được
đưa vào vòng chu chuyển kinh tế, trở thành những nguồn lực quan trọng trong
phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, hoạt động của các DNTN ngành du lịch còn
góp phần quảng bá hình ảnh của dân tộc Việt Nam với nước ngoài, thúc đẩy
giao lưu văn hoá giữa các dân tộc
Tuy nhiên, sự tham gia của các DNTN vào phát triển du lịch cũng đặt
ra vấn đề đối với việc giữ gìn và phát triển các nguồn tài nguyên du lịch. Mục
tiêu lợi nhuận có thể làm cho các DNTN ngành du lịch chỉ chú trọng vào lợi
ích trước mắt, mà không tính tới lợi ích lâu dài, lợi ích xã hội, dẫn tới hoạt
25
động đầu tư của các DNTN ngành du lịch chủ yếu hướng vào khai thác những
tài nguyên du lịch hiện có, mà không chú trọng tới đầu tư cải tạo, phát triển và
bảo vệ các tiềm năng du lịch. Do đó, có thể xuất hiện tình trạng khai thác cạn
kiệt những tài nguyên du lịch thiên nhiên, các di tích lịch sử văn hoá. Từ đó
cũng đòi hỏi phải tăng cường quản lý nhà nước đối với lĩnh vực du lịch.
1.1.2.3. Làm tăng thu nhập cho người dân, đóng góp đáng kể cho
ngân sách Nhà nước, giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp
Hoạt động cung cấp dịch vụ du lịch không những mang lại thu nhập
cho những chủ thể trực tiếp kinh doanh du lịch, mà còn tạo ra việc làm, thu
nhập cho một bộ phận dân cư tại các địa phương. Tốc độ tăng trưởng nhanh
về thu nhập có thể thấy rõ là năm 1990 thu nhập xã hội từ du lịch mới đạt
1.350 tỷ đồng, thì đến năm 2005 đã là 30.000 tỷ đồng, tăng gấp hơn 20 lần
[45].
Sự phát triển của các DNTN trong du lịch theo hướng ngày càng mở rộng
về quy mô kéo theo sự gia tăng nhu cầu về thu hút sức lao động trực tiếp, đồng
thời gián tiếp tạo ra những việc làm mới đối với các khâu có liên quan tới dịch
vụ du lịch của các DNTN ngành du lịch. Chính điều này có tác dụng to lớn đối
với việc giảm áp lực trong giải quyết công ăn việc làm cho người lao động của
chính phủ, giảm tình trạng thất nghiệp, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật
tự an toàn xã hội. Có thể nói rằng, các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN hoạt
động trong ngành du lịch đã góp phần quan trọng trong vấn đề tạo công ăn việc
làm cho người lao động, hàng năm các doanh nghiệp này thu hút hàng ngàn lao
động phục vụ trong các dịch vụ du lịch. Đồng thời, sự phát triển của các DNTN
ngành du lịch có vai trò tăng thu ngân sách nhà nước từ lĩnh vực du lịch. Mặc dù
ngày nay đóng góp trực tiếp của các DNTN ngành du lịch vào ngân sách nhà
nước còn khiêm tốn, song với sự phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình sự đóng góp này sẽ tăng lên.