Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Luận văn Xoá đói giảm nghèo ở miền núi tỉnh Thanh Hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.46 MB, 114 trang )




1





Luận văn
Xoá đói giảm nghèo ở miền
núi tỉnh Thanh Hoá



2

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đói nghèo là một vấn đề xã hội bức xúc hiện nay trên thế giới nói
chung và ở Việt Nam cũng như ở Thanh Hoá nói riêng.
Trên thế giới hiện nay có tới 1/4 dân số đang sống trong tình trạng đói
nghèo. Đói nghèo không chỉ làm cho hàng triệu người không có cơ hội được
hưởng những thành quả văn minh tiến bộ của loài người mà còn gây ra những
hậu quả nghiêm trọng về kinh tế xã hội đối với sự phát triển, tàn phá môi
trường sinh thái. Vì vậy nếu đói nghèo không được giải quyết, thì không một
mục tiêu nào mà cộng đồng quốc tế, cũng như quốc gia đặt ra như tăng trưởng
kinh tế, cải thiện đời sống, hoà bình ổn định, bảo đảm các quyền con người
được thực hiện. Cũng như các nước trong khu vực và trên thế giới, Đảng và
Nhà nước ta luôn luôn đặt con người là vị trí trung tâm của sự phát triển, coi


XĐGN là một trong những mục tiêu cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội.
Những năm gần đây, nhờ chính sách đổi mới, kinh tế nước ta tăng
trưởng nhanh, đời sống đại bộ phận nhân dân đã được nâng lên một cách rõ
rệt. XĐGN từ chỗ là phong trào (giai đoạn 1990-1997) đến năm 1998 đã trở
thành một chương trình mục tiêu quốc gia. Qua 7 năm thực hiện phong trào
và 10 năm thực hiện chương trình XĐGN, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm đáng
kể, bình quân mỗi năm giảm 2%. Tuy nhiên một bộ phận không nhỏ dân cư,
đặc biệt là ở các vùng cao, vùng sâu, vùng xa vẫn đang chịu cảnh đói nghèo,
chưa đảm bảo được những điều kiện tối thiểu của cuộc sống.
Thanh Hoá là một tỉnh đông dân, có hơn 3,7 triệu người với 27 huyện,
thị xã, thành phố, 634 xã, phường thị trấn; có 11 huyện với 197 xã miền núi
và hơn 1 triệu dân. Trong những năm qua, thực hiện chương trình XĐGN, với
sự phấn đấu, nỗ lực không ngừng của các ngành, các cấp và nhân dân trong



3

tỉnh, Thanh Hoá đã đạt được những kết quả nhất định trong xoá đói giảm
nghèo, tỷ lệ đói nghèo giảm đáng kể, từ gần 21,94% năm 2001 đến năm 2005
còn 10,6% (theo chuẩn cũ). Tuy nhiên hộ thoát nghèo chưa thật vững chắc,
nguy cơ tái đói nghèo còn cao, số lượng hộ nghèo còn lớn. Cuối năm 2005,
theo chuẩn mực hộ nghèo mới, Thanh Hoá có gần 275.140 hộ nghèo, chiếm
gần 34,71% so với tổng số hộ, đặc biệt 11 huyện miền núi với 197 xã thì có
tới 153 xã nghèo thiếu những kết cấu hạ tầng thiết yếu, với 95.050 hộ
nghèo chiếm 53,38% trong đó có 89 xã đặc biệt khó khăn, chưa kể một bộ
phận lớn dân số ở khu vực kinh tế nông nghiệp tuy không thuộc diện hộ
nghèo, nhưng do thu nhập không ổn định, nằm giáp ranh chuẩn nghèo cũng
có nguy cơ đói nghèo. Vấn đề XĐGN bền vững để đạt được mục tiêu của

tỉnh đề ra (bình quân toàn tỉnh mỗi năm giảm tỷ lệ hộ nghèo 4,3% trở lên,
đến 2010 còn dưới 12% hộ nghèo, 100% xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn có
đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu, 100% hộ nghèo được tiếp cận đầy đủ với các
dịch vụ xã hội cơ bản) là cực kỳ khó khăn. Vì vậy việc phân tích, đánh giá
đồng thời nghiên cứu đưa ra những giải pháp đồng bộ nhằm XĐGN có hiệu
quả trên địa bàn 11 Huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá trong những năm tới là
hết sức cần thiết.
Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết của vấn đề
XĐGN của cả nước, tỉnh Thanh Hoá nói chung và miền núi Thanh Hoá nói
riêng trong quá trình hội nhập và phát triển, tác giả chọn vấn đề “Xoá đói
giảm nghèo ở miền núi tỉnh Thanh Hoá” làm đề tài luận văn thạc sỹ
kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghèo đói là một hiện trạng rất phổ biến trong phạm vi cả thế giới, cho
nên vấn đề này đã được rất nhiều người quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía
cạnh khác nhau.



4

Cho đến nay ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận
văn tốt nghiệp đã đề cập đến vấn đề xoá đói giảm nghèo (XĐGN), trong đó có
các công trình như:
Các công trình do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội làm chủ biên có:
- Đói nghèo ở Việt Nam (Hà Nội, 1993);
- Nhận diện đói nghèo ở nước ta (Hà Nội, 1993);
- Xoá đói giảm nghèo (Hà Nội, 1996);
- Xoá đói giảm nghèo với tăng trưởng kinh tế (Nxb Lao động, 1997).
Về luận văn, luận án có các công trình sau:

- Luận án Tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Hằng: Vấn đề xoá đói giảm
nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay, 1999;
- Luận án tiến sĩ kinh tế của Trần Thị Hằng: Vấn đề giảm nghèo trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 2001;
- Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Bùi Thị Lý: Vấn đề xoá đói giảm nghèo
ở tỉnh Phú Thọ hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000.
Liên quan đến vấn đề xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Thanh Hoá cũng đã có
2 đề tài:
Luận văn thạc sĩ kinh tế của Đỗ Thế Hạnh: "Thực trạng và những giải
pháp kinh tế chủ yếu nhằm xoá đói giảm nghèo ở vùng định canh định cư tỉnh
Thanh Hoá" Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1998;
Luận văn thạc sĩ kinh tế của Tào Bằng Huy: "Những giải pháp cơ bản
nhằm xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2001 - 2010" Đại học
kinh tế Quốc dân, năm 1999.
Các công trình nghiên cứu trên đề cập đến vấn đề đói nghèo dưới các
góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn nhưng chưa có công trình nghiên
cứu nào đề cập đến đói nghèo ở miền núi Thanh Hóa dưới góc độ kinh tế
chính trị. Vì vậy, đề tài mà tác giả lựa chọn để nghiên cứu không trùng với
các công trình nghiên cứu đã công bố.



5

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích:
Luận văn tập trung phân tích thực trạng và nguyên nhân đói nghèo của
miền núi Thanh Hoá hiện nay, từ đó đề xuất các quan điểm, phương hướng và
giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh xoá đói giảm nghèo trên địa bàn miền núi

tỉnh Thanh Hoá.
Nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá các quan niệm, tiêu chí về đói nghèo của quốc tế và
trong nước.
- Nghiên cứu kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo ở một số nước và một
số tỉnh, rút ra những bài học kinh nghiệm đối với công tác xoá đối giảm
nghèo ở Thanh hoà nói chung và ở khu vực miền núi Thanh Hoá nói riêng.
- Tập trung phân tích thực trạng đói nghèo của 11 huyện miền núi tỉnh
Thanh Hoá hiện nay và chỉ ra những nguyên nhân cơ bản gây nên đói nghèo.
- Đề xuất các quan điểm, phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm
từng bước xoá đói giảm nghềo ở khu vực miền núi tỉnh Thanh Hoá.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là xã nghèo, hộ nghèo đói thuộc 11
huyện Miền núi tỉnh Thanh Hoá thông qua việc điều tra khảo sát tình hình
thực tiễn và các số liệu hiện có trong các báo cáo tổng kết về xoá đói giảm
nghèo và số liệu thống kê của địa phương.
Luận văn nghiên cứu vấn đề xoá đói giảm nghèo dưới góc độ kinh tế
chính trị và tập trung nghiên cứu thực trạng tình hình đói nghèo của khu vực
miền núi tỉnh Thanh Hoá giai đoạn từ 2001 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận kinh tế chính trị Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách về xoá đói giảm
nghèo của Đảng, Nhà nước để nghiên cứu.



6

- Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử và khoa học kinh tế chính trị Mác-Lênin và kết hợp

các phương pháp khác để nghiên cứu như điều tra, khảo sát, phân tích thống
kê, so sánh, tổng hợp, khái quát, hệ thống và nghiên cứu báo cáo tổng kết xoá
đói giảm nghèo của tỉnh Thanh Hoá.
6. Những đóng góp của luận văn
- Phân tích, đánh giá thực trạng đói nghèo ở miền núi Thanh Hoá, tìm
ra những nguyên nhân, các giải pháp chủ yếu nhằm góp phần giải quyết vấn
đề đói nghèo của miền núi tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch
định chính sách xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và chỉ
đạo thực tiễn công tác xoá đói giảm nghèo ở các địa bàn có đặc thù tương tự như
miền núi Thanh Hoá; làm tư liệu giảng dạy và nghiên cứu môn kinh tế chính trị.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.






7

Chương 1
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về đói nghèo và xoá đói giảm nghèo ở miền núi

1.1. đặc điểm, vai trò của đói nghèo và xoá đói giảm nghèo ở miền núi
1.1.1. Bản chất và tiêu chí xác định đói nghèo
1.1.1.1. Quan niệm về đói nghèo

Đói nghèo là một hiện tượng xã hội bức xúc hiện nay trên thế giới nói
chung và ở Việt Nam nói riêng, không những có thể gây ra thảm hoạ về nhân
đạo, mà còn có nguy cơ gây bất ổn xã hội. Nghèo đói thể hiện ở tình trạng
kiệt quệ của một bộ phận dân cư bao gồm nhiều khía cạnh, từ thu nhập kém
tới tình trạng dễ bị tổn thương khi phải đối mặt với những tai ương bất ngờ,
hoặc ít có khả năng tham gia vào quá trình ra quyết định của cộng đồng.
Nghèo đói là một phạm trù lịch sử và có tính tương đối. Tính chất và đặc trưng
của nghèo đói phụ thuộc vào điều kiện địa lý tự nhiên, hoàn cảnh chính trị,
trình độ phát triển kinh tế - xã hội và văn hoá của vùng, miền, quốc gia, khu
vực trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong các xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến,
đói nghèo có nguyên nhân chủ yếu và trước hết là do trình độ lực lượng sản
xuất còn thấp kém, sản phẩm thặng dư trong xã hội không nhiều, thêm vào đó
là tình trạng áp bức giai cấp nặng nề trong các xã hội có giai cấp, nên quyền
phân phối sản phẩm lao động làm ra thuộc về một ít người - về giai cấp thống
trị. Xã hội phân chia thành hai cực đối lập, trong đó “ Kẻ ăn chẳng hết, người
lần không ra”:
Chủ nghĩa tư bản với nền sản xuất lớn và nền đại công nghiệp, đã tạo ra
một năng suất lao động cao hơn hẳn các xã hội trước và với một lực lượng sản
xuất khổng lồ “bằng tất cả các thế hệ trước cộng lại”, đã mở ra khả năng to



8

lớn để con người có thể đáp ứng được các nhu cầu phát triển của mình. Tuy
nhiên, do sự thống trị của chế độ sở hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất, sự
phân hoá và áp bức giai cấp, sự khác biệt về năng lực và cơ hội của các cá
nhân…, trong xã hội này nghèo đói vẫn tồn tại song hành cùng với sự phát
triển kinh tế - xã hội.

Khi nghiên cứu, phân tích xã hội tư bản để chỉ ra những quy luật vận
động và phát triển của nó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập một cách toàn
diện và sâu sắc tình cảnh nghèo đói và bị bóc lột đến cùng cực của giai cấp vô
sản và những người lao động làm thuê trong chủ nghĩa tư bản. Tiêu biểu là
các tác phẩm “ Bản thảo kinh tế - triết học” (1844), “Tình cảnh giai cấp công
nhân Anh” và sau này là trong bộ “Tư bản”.
ở đây, hai ông đã mô tả cặn kẽ, tỷ mỹ tình cảnh của những người nông
dân bị mất hết tư liệu sản xuất, bị xua ra thành phố, những người phụ nữ và
trẻ em bị vắt sức lao động trong các xưởng thợ Họ góp phần trở thành đội
quân những người vô sản, là nạn nhân của sự bóc lột giá trị thặng dư tương
đối và tuyệt đối của các ông chủ tư bản.
Những người công nhân đó bản thân không có chút tài sản gì
đáng kể và chỉ sống bằng tiền lương và hầu hết là luôn luôn chỉ vừa
đủ ăn, cái xã hội gồm những nguyên tử rời rạc ấy hoàn toàn không
quan tâm đến họ, để mặc cho họ tự lo lấy việc nuôi mình và nuôi gia
đình nhưng lại không cấp cho họ phương tiện để có thể thường
xuyên và thật sự giải quyết nhưng nhu cầu ấy, cho nên mỗi người
công nhân, thậm chí là công nhân giỏi nhất cũng luôn luôn có thể bị
mất việc và do đó cũng sẽ không có ăn, [18, tr.418-419].
Sự bóc lột tàn bạo đó đã dẫn đến sự phân hoá xã hội thành hai cực đối
lập: tích luỹ sự giàu có đến tột độ về phía giai cấp tư sản và tích tích luỹ sự
nghèo khổ về phía giai cấp công nhân. C.Mác viết: “Như vậy, tích luỹ của cải



9

ở một cực này đồng thời cũng có nghĩa là tích luỹ sự đau khổ của lao động, sự
nô lệ, sự dốt nát, sự cục cằn và sự truỵ lạc tinh thần ở cực đối lập, tức là ở phía giai
cấp sản xuất ra bản thân sản phẩm của mình với tư cách là tư bản” [19, tr.909]. Sự

phân hoá giàu nghèo ấy ngày càng sâu sắc và đã trở thành sự phân hoá giai
cấp không thể điều hoà được.
Để làm rõ nguyên nhân của hiện tượng nghèo đói và sự bần cùng của
giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi vào lý giải vấn đề tiền công
trong xã hội tư bản. Theo Mác, tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị
hàng hoá sức lao động, tiền công gồm có tiền công danh nghĩa và tiền công
thực tế. Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do
bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Tiền công được sử dụng để sản
xuất và tái sản xuất sức lao động, do đó tiền công danh nghĩa phải được
chuyển thành tiền công thực tế.
Tiền công thực tế là tiền được biểu hiện bằng số lượng hàng hoá tư liệu
tiêu dùng và dịch vụ mà người công nhân mua được bằng tiền công danh
nghĩa của mình. Tiền công danh nghĩa là giá cả hàng hoá sức lao động, nó có
thể tăng lên hay giảm xuống tuỳ theo sự biến động trong quan hệ cung cầu về
hàng hoá sức lao động trên thị trường. Trong một thời gian nào đó, nếu tiền
công danh nghĩa vẫn giữ nguyên, nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ
tăng lên hay giảm xuống thì tiền công thực tế giảm xuống hay tăng lên.
Mác còn chỉ rõ, tính quy luật của sự vận động của tiền công trong chủ
nghĩa tư bản là: trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền công
danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều khi không
theo kịp với mức tăng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ, khi đó tiền công
thực tế của giai cấp công nhân có xu hướng hạ thấp. Đây là nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến sự bần cùng của giai cấp vô sản.



10
Như vậy, theo Mác và Ăngghen, nghèo đói của giai cấp vô sản trong xã
hội tư bản có nguyên nhân trực tiếp từ sự phân phối thu nhập của sản xuất xã
hội qua tiền công và phân phối giá trị thặng dư trên thị trường.

Trong các chế độ tư hữu và bóc lột thống trị, nghèo khổ, đối kháng giai
cấp và phân cực xã hội là những hiện tượng luôn đi liền nhau trong một tất
yếu nhân quả hữu cơ không thể tách rời. Nó thuộc về bản chất kinh tế chính
trị - xã hội của phương thức sản xuất đó. Chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay
nhờ lợi dụng được những thành quả của cách mạng khoa học - công nghệ,
sớm áp dụng những biện pháp điều chỉnh và cải cách trong quản lý nên đã đạt
được những bước tiến lớn trong sản xuất, tăng trưởng kinh tế, trở nên giàu có
phồn vinh. Song một bộ phận nhỏ bé thuộc các thế lực tư sản nắm quyền lực
đã chiếm đoạt hầu hết mọi của cải xã hội, và một bộ phận dân cư không nhỏ
sống trong thất nghiệp và nghèo đói.
Trong sáu người trên thế giới thì có một người sống nghèo khổ,
tức là cả hành tinh có một tỷ người nghèo đói, 800 triệu trẻ em bị đói;
riêng EU có 18 triệu người thất nghiệp và 50 - 70 triệu người sống bấp
bênh. Những tình trạng được coi như đã bị loại trừ hay ít nhiều bị hạn
chế cách đây 20 năm ở châu Âu hiện nay lại trở nên phổ biến. Đầu tiên
là mất việc làm, rồi không có tiền để lo cho cuộc sống, bị mất chỗ ở
hoặc phải sống chung trong những nơi chật chội v.v [11].
Các chính sách mà nhà nước tư sản đưa ra chỉ có thể làm dịu bớt mức
độ gay gắt của những xung đột, đối kháng, nghèo khổ chứ không thể xoá bỏ
tận gốc được. Chủ nghĩa tư bản từ trong bản chất của nó không thể tự giải
quyết được nghèo đói. Phân cực xã hội ngày càng gay gắt là nghịch lý của
phát triển với hệ thống các quan hệ tư bản chủ nghĩa.



11
Trong các nước xã hội chủ nghĩa trước đây với quan niệm cho rằng:
nghèo khó là hậu quả của sự bóc lột trong tăng trưởng kinh tế. Để giải quyết
nghèo đói, chúng ta đã quá thiên về chủ nghĩa bình quân trong phân phối, chia
đều sự nghèo khổ cho tất cả mọi người mà không tính đến trình độ phát triển của

lực lượng sản xuất và điều đó đã dẫn đến việc xem nhẹ lợi ích kinh tế của cá
nhân, hạn chế cá nhân làm giàu và triệt tiêu động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh quan điểm trên, lại có quan niệm cho rằng chỉ cần xác lập
quyền sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, quyền làm chủ xã hội của nhân dân
lao động thì nghèo đói sẽ tự động biến mất, xã hội sẽ ngay lập tức đạt tới sự
phồn thịnh, mọi người ai cũng giàu có.
Song thực tế lại không phải như vậy, mặc dù trong chủ nghĩa xã hội,
không còn đối kháng giai cấp, nhưng những sự khác biệt của người lao động
vẫn luôn tồn tại. Sự khác biệt về phẩm chất, năng lực, trí tuệ, thể lực, cơ hội
của những người lao động đã dẫn đến sự khác nhau về kết quả lao động có ích
mà họ cống hiến cho xã hội, và do đó khác nhau về thu nhập do kết quả lao
động đó mang lại.
Trong chủ nghĩa xã hội, giàu, nghèo vẫn còn tồn tại, nhất là trong cơ
chế thị trường, bình đẳng và công bằng xã hội là tương đối chứ không phải là
tuyệt đối, là hướng tới ngày một thụ hưởng đầy đủ hơn những giá trị ấy, chứ
không phải lập tức đã có ngay những giá trị ấy, nhất là khi chủ nghĩa xã hội
mới ra đời chứ chưa ở trình độ thành thục, phát triển. Như vậy, nghèo đói là
một vấn đề kinh tế - xã hội chứ không đơn thuần chỉ là vấn đề kinh tế. Tuy
nhiên, các thước đo để đánh giá ai nghèo, ai giàu lại chủ yếu và trước hết dựa
trên thước đo về kinh tế.
Hội nghị bàn về giảm nghèo đói trong khu vực châu á- Thái Bình
Dương do ESCAP tổ chức ở Băng Cốc tháng 9-1993 đã đưa ra khái niệm và
định nghĩa nghèo đói như sau:



12
"Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tuỳ
theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của các địa

phương".
Có thể xem đây là một quan niệm, một định nghĩa chung nhất về nghèo
đói, tuy nhiên, những tiêu chí về nghèo đói còn để ngỏ về mặt lượng vì ở đây
còn phải tính đến yếu tố lịch sử, đến trình độ phát triển kinh tế, phong tục tập
quán của mỗi địa phương. Song có thể nói, định nghĩa đã đề cập được đến nội
dung cơ bản của vấn đề nghèo đói đó là nhu cầu cơ bản của con người.
Nhu cầu cơ bản ở đây chính là cái thiết yếu, cái tối thiểu để duy trì sự
tồn tại sinh học của con người. Theo ý đó, đói là tình trạng nghèo khổ cùng
cực, là trạng thái con người ăn không đủ no, không đủ năng lượng để duy trì
sự sống bình thường và không đủ để lao động, tái sản xuất sức lao động.
Đói là sự nghèo nàn hiển nhiên và nghèo là một sự đói tiềm tàng và
luôn đứng trước khả năng bị đói, trong thực tế nhất là khi lâm vào tình trạng
thiên tai, rủi ro, hoạn nạn thì trạng thái nghèo khổ sẽ trở thành đói.
Nghèo có hai dạng, là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư thường trực không có
khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống. Trên thực tế
một bộ phận lớn dân cư nghèo tuyệt đối rơi vào tình trạng đói và thiếu đói.
Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức trung bình của cộng đồng tại địa phương.
Như thế, sự thiếu thốn "của cải" trong mối quan hệ với nhu cầu thiết
yếu của con người được xem là nghèo khổ tuyệt đối. Còn khi xem xét thực
trạng mức sống và vị trí (về kinh tế - xã hội) các nhóm hoặc các cá nhân khác
ở phương diện mức độ tiêu thụ và thu nhập của họ, cơ hội tiếp cận các nguồn
lực sẽ cho ta quan niệm về nghèo tương đối.



13
Ngoài ra, Liên Hợp Quốc cũng đưa ra chỉ tiêu để đánh giá mức sống
của con người bao gồm cả thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người,

thành tựu y tế - xã hội và trình độ văn hoá giáo dục, tổng hợp lại là chỉ số phát
triển con người - Human Development Index (gọi tắt là HDI).
HDI bao gồm ba yếu tố cơ bản của sự phát triển con người: tuổi thọ,
trình độ và mức sống. Tuổi thọ được phản ánh bằng số năm sống trung bình
của người dân. Trình độ được đo bằng cách kết hợp tỷ lệ biết chữ của người
trưởng thành (với trọng số là 2/3 của chỉ số trình độ) với số năm đi học trung
bình của mỗi người (với trọng số tương ứng là 1/3). Mức sống được đo lường
theo mức GDP thực tế bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương
(PPP) của mỗi quốc gia. Theo số liệu của UNDP, HDI của nước ta năm 1998 là
0,671 đứng thứ 108; các nước có chỉ số phát triển con người cao là từ 0,801 trở
lên, còn mức trung bình là từ 0,505 đến 0,797; dưới 0,506 là các nước có chỉ số
phát triển con người thấp. Chỉ số này cao nhất là 1. Năm 1989 nước có chỉ số
cao nhất là Canađa đạt 0,935.
Sự kết hợp giữa chỉ tiêu HDI và chỉ tiêu GDP/ người như đã nêu ở trên
cho phép chúng ta đánh giá, nhận diện đói nghèo một cách khách quan và
chính xác hơn.
Đói nghèo còn được nhận diện ở bốn khía cạnh là thời gian, không
gian, môi trường và giới.
Về thời gian: Phần lớn người nghèo có mức sống dưới mức được xác
định như một chuẩn thấp nhất có thể chấp nhận được trong một thời gian
dài(tuy nhiên cũng cần phải bổ sung vào số người này những người nghèo
tình thế do thất nghiệp, do thiên tai, rủi ro hay do con người gây ra).
Về giới: Phần lớn người nghèo ở các nước đều là phụ nữ. Mặc dù trong
gia đình, nam giới là chủ gia đình, nhưng phụ nữ vẫn phải gánh chịu nhiều
hơn gánh nặng của nghèo đói.



14
Về không gian: nghèo đói diễn ra chủ yếu ở nông thôn, miền núi,vùng

sâu, vùng xa dù nền kinh tế có phát triển đến thế nào chăng nữa dân cư ở
các vùng kể trên vẫn dễ bị rơi vào nghèo đói.
Về môi trường: hầu hết những người nghèo đói đều phải sống trong môi
trường khắc nghiệt và xuống cấp nghiêm trọng, bởi vì những người nghèo đói
không đủ khả năng và điều kiện để gìn giữ, đảm bảo và cải thiện môi trường sống.
Tóm lại: Những quan niệm về nghèo đói do cách tiếp cận khác nhau
nên có những kiến giải khác nhau, sự nghèo đói là một khái niệm tương đối
và có tính biến đổi. Các chỉ số xác định giới hạn nghèo đói không phải là
cứng nhắc và bất biến. Nó biến đổi tuỳ theo sự chênh lệch, sự khác biệt giữa
các vùng, miền, quốc gia.
Quan niệm đói nghèo của Việt Nam: Dựa trên các khái niệm của các tổ
chức quốc tế, Việt Nam đã đưa ra các khái niệm cụ thể hơn và được nghiên cứu
ở các cấp độ, cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng. Chương trình mục tiêu quốc
gia về XĐGN giai đoạn 2001 - 2010 của Việt Nam đã đưa ra các khái niệm.
Nghèo, đói, hộ đói, hộ nghèo, vùng nghèo và có các tiêu chí xác định cho
từng loại cụ thể.
Về khái niệm nghèo của Việt Nam thì cơ bản thống nhất với khái niệm
nghèo đói của ESCAP.
Đói là tình trạng của một bộ phận cư dân nghèo có mức sống dưới mức
tối thiểu và thu nhập không đủ bảo đảm nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống.
Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng, thường
vay mượn của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả cho cộng đồng. Đói là nấc
thang thấp nhất của nghèo, đây vốn thuần tuý là đói ăn, nằm trọn trong phạm trù
kinh tế vật chất và khác với đói thông tin, đói hưởng thụ văn hoá, thuộc phạm trù
văn hoá tinh thần.
Khái niệm đói cũng có hai dạng: đói kinh niên và đói cấp tính (đói gay gắt).



15

- Đói kinh niên: là bộ phận dân cư đói nhiều năm liền cho đến thời điểm
đang xét.
- Đói cấp tính: là bộ phận dân cư rơi vào tình trạng đói đột xuất do nhiều
nguyên nhân như gặp tai nạn, thiên tai, rủi ro khác tại thời điểm đang xét.
- Hộ đói: là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không được
học hành đầy đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà cửa rách nát
- Hộ nghèo: là hộ đói ăn nhưng không đứt bữa, mặc không đủ lành,
không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất.
- Xã nghèo: là xã có tỷ lệ nghèo cao, (Có tỷ lệ nghèo từ 25% trở lên)
không có hoặc rất thiếu những cơ sở hạ tầng thiết yếu như: Điện, đường,
trường, trạm y tế, nước sạch vv trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao.
- Vùng nghèo: là địa bàn tương đối rộng, nằm ở những khu vực khó
khăn hiểm trở, giao thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao.
1.1.1.2. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo
Theo từ điển tiếng Việt thì tiêu chí và chuẩn có các nghĩa sau đây:
Tiêu chí có nghĩa là: Tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại
một sự vật, một khái niệm [30, tr.990]. Như vậy, tiêu chí mang tính định tính.
Chuẩn có nghĩa là: cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng
theo đó mà làm cho đúng, vật được chọn làm mẫu để thể hiện một đơn vị đo
lường, cái được công nhận là đúng theo quy định hoặc đúng theo thói quen
trong xã hội [30, tr.181]. Như vậy, chuẩn mang tính định lượng. Từ đó ta có
thể hiểu chuẩn nghĩa là mốc giới hạn do nhà nước hay tổ chức quốc tế quy
định về mức thu nhập mà nếu ai có thu nhập thấp hơn mức này gọi là nghèo,
còn ai vượt qua giới hạn đó thì họ không phải là người nghèo. Chuẩn là công
cụ để phân biệt giữa người nghèo và người không nghèo. Giữa chuẩn nghèo
và tỉ lệ hộ nghèo có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau, nếu chuẩn nghèo cao thì tỷ
lệ hộ nghèo cao và ngược lại




16
a. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của thế giới
Để đánh giá nghèo đói, UNDP dùng cách tính dựa trên cơ sở phân phối
thu nhập theo đầu người hay theo nhóm dân cư. Thước đo này tính phân phối
thu nhập cho từng cá nhân hoặc hộ gia đình nhận được trong thời gian nhất
định, nó không quan tâm đến nguồn mang lại thu nhập hay môi trường sống
của dân cư mà chia đều cho mọi thành phần dân cư. Phương pháp tính là:
Đem chia dân số của một nước, một châu lục hoặc toàn cầu ra làm 5 nhóm,
mỗi nhóm có 20% dân số bao gồm: Rất giàu, giàu, trung bình, nghèo và rất
nghèo. Theo cách tính này, vào những năm 1990 thì 20% dân số giàu nhất
chiếm 82,7% thu nhập toàn thế giới, trong khi 20% nghèo nhất chỉ chiếm
1,4%. Như vậy nhóm giàu nhất gấp 59 lần nhóm nghèo nhất [32, tr.11].
Hiện nay, Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra các chỉ tiêu đánh giá mức
độ giàu, nghèo của các quốc gia dựa vào mức thu nhập quốc dân bình quân
tính theo đầu người trong một năm với 2 cách tính đó là: Phương pháp Atlas
tức là tính theo tỷ giá hối đoái và tính theo USD. Phương pháp PPP
(purchasing power parity), là phương pháp tính theo sức mua tương đương và
cũng tính bằng USD.
Theo phương pháp Atlas, năm 1990 người ta chia mức bình quân của
các nước trên toàn thế giới làm 6 loại.
+ Trên 25.000 USD/người/năm là nước cực giàu.
+ Từ 20.000 đến dưới 25.000 USD/người/năm là nước giàu.
+ Từ 10.000 đến dưới 20.000 USD/người/năm là khá giàu.
+ Từ 2.500 đến dưới 10.000 USD/người/năm là nước trung bình.
+ Từ 500 đến 2.500 USD/người/năm là nước nghèo.
+ Dưới 500USD/người/năm là nước cực nghèo.
Theo phương pháp thứ hai: WB muốn tìm ra mức chuẩn nghèo đói chung
cho toàn thế giới. Trên cơ sở điều tra thu nhập, chi tiêu của hộ gia đình và giá cả




17
hàng hoá, thực hiện phương pháp tính “rỗ hàng hoá” sức mua tương đương để
tính được mức thu nhập dân cư giữa các quốc gia có thể so sánh. WB đã tính
mức năng lượng tối thiểu cần thiết cho một người để sống là 2.100 calo/ngày.
Với mức giá chung của thế giới để đảm bảo mức năng lượng đó cần khoảng 1
USD/người/ngày. Từ đó, năm 1995 WB đã đưa ra chuẩn mực nghèo khổ chung
của toàn cầu là thu nhập bình quân đầu người dưới 370USD/người/năm. Với
mức trên WB ước tính có trên 1,2 tỷ người trên thế giới đang sống trong nghèo
đói.
Tuy nhiên, theo quan điểm chung của nhiều nước, hộ nghèo là hộ có
thu nhập dưới 1/3 mức trung bình của xã hội. Do đặc điểm của nền kinh tế -
xã hội và sức mua của đồng tiền khác nhau, chuẩn nghèo đói theo thu nhập
(tính theo USD) cũng khác nhau ở từng quốc gia. ở một số nước có thu nhập
cao, chuẩn nghèo được xác định là 14USD/người/ngày. Trong khi đó chuẩn
nghèo của Malaixia là 28USD/người/tháng. Srilanca là 17USD/người/tháng.
Bangladet là 11USD/người/tháng. ở Việt Nam, GDP bình quân đầu người
hiện nay (năm 2006) khoảng 720 USD/người/năm, nên trên bình diện chung
của thế giới nước ta là nước nghèo khó, do đó không thể lấy chuẩn nghèo đói
của WB để xác định nghèo đói của Việt Nam.
Chỉ tiêu thu nhập quốc dân tính theo đầu người là chỉ tiêu chính mà
hiện nay nhiều nước và nhiều tổ chức quốc tế đang dùng để xác định giàu
nghèo. Nhưng cũng cần thấy rằng nghèo đói còn chịu tác động của nhiều yếu
tố khác như văn hoá, chính trị, xã hội. Trong thực tế nhiều nước phát triển có
thu nhập bình quân theo đầu người cao nhưng vẫn chưa đạt được sự phát triển
toàn diện. Tình trạng thất nghiệp, nghèo đói, thiếu việc làm, ô nhiễm môi
trường và những bất công khác vẫn còn phổ biến, khoảng cách nghèo ngày
càng tăng lên, xu hướng này không chỉ xảy ra ở những nước nghèo mà còn
xảy ra ở những nước khá và giàu. Qua đó có thể thấy rằng: Nghèo khổ trong




18
xã hội không chỉ là hậu quả của mức thu nhập thấp hay cao mà còn là kết quả
của phân phối thu nhập và thực hiện công bằng xã hội. Vì vậy, để đánh giá
vấn đề nghèo đói, bên cạnh tiêu chí thu nhập quốc dân bình quân, UNDP còn
đưa ra chỉ số phát triển con người (HDI) bao gồm hệ thống ba chỉ tiêu; tuổi
thọ, tình trạng biết chữ của người lớn, thu nhập bình quân đầu người trong
năm. Đây là chỉ tiêu cho phép đánh giá đầy đủ và toàn diện về sự phát triển và
trình độ văn minh của mỗi quốc gia, nhìn nhận các nước giàu nghèo tương đối
chính xác và khách quan.
b. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của Việt Nam
Trong những năm qua nước ta tồn tại song song một số phương pháp xác
định chuẩn nghèo phục vụ mục đích khác nhau. Đó là cách xác định chuẩn nghèo
của Chính phủ do Bộ Lao động - Thương binh và xã hội công bố. Chuẩn nghèo
của Tổng cục thống kê và Ngân hàng thế giới đưa ra để đánh giá nghèo đói trên
giác độ vĩ mô.
* Phương pháp xác định chuẩn nghèo của Tổng cục thống kê và Ngân
hàng thế giới
Tổng Cục thống kê với vai trò thu thập, công bố và đánh giá số liệu cấp
quốc gia và có thể so sánh quốc tế đã cùng Ngân hàng thế giới áp dụng
phương pháp xác định chuẩn nghèo theo phương pháp đo lường mức sống của
Ngân hàng thế giới được thực hiện trong các cuộc khảo sát mức sống dân cư ở
Việt Nam (các năm 1992 – 1993 và 1997 – 1998) để xây dựng đường đói nghèo.
Đường đói nghèo ở mức thấp là đường đói nghèo về lương thực, thực
phẩm, được xác định bởi chi phí cần thiết để mua rỗ lương thực, thực phẩm
cung cấp đủ lượng calo tiêu dùng bình quân 1 người/ngày (2.100 calo).
Đường đói nghèo ở mức cao hơn gọi là đường đói nghèo chung (bao gồm các
mặt hàng lương thực, thực phẩm và phi lượng thực, thực phẩm). Trên cơ sở




19
xây dựng đường đói nghèo thì Tổng cục thống kê và WB đưa ra chuẩn nghèo
đói của Việt Nam như sau:
- Chuẩn nghèo đói về lương thực, thực phẩm năm 1993 là 750 nghìn
đồng/ngày/năm và năm 1998 là 1.287 nghìn/người/năm tương đương 92
USD.
- Chuẩn nghèo đói chung năm 1993 là 1.160 nghìn/người/năm và năm
1998 là 1.788 nghìn/người/năm tương đương 128 USD.
Tuy nhiên, phương pháp này có một số hạn chế sau:
Phương pháp này sử dụng rổ hàng hoá từ năm 1993 đến nay hơn 15
năm nên không thể phản ánh được thực tế tiêu dùng hiện tại của đại đa số
người dân Việt Nam.
Sử dụng một chuẩn nghèo duy nhất áp dụng cho cả khu vực thành thị,
nông thôn và chỉ cho phép đánh giá thực trạng nghèo đói của cả nước, không
thể xác định và lập danh sách hộ nghèo cụ thể cho từng địa phương (xã,
huyện, tỉnh).
* Phương pháp xác định chuẩn nghèo đói theo tiêu chuẩn quốc gia
Bộ Lao động – Thương binh và xã hội là cơ quan thường trực của
chương trình XĐGN đã tiến hành rà soát chuẩn nghèo qua các thời kỳ. Lúc
đầu chuẩn nghèo được xác định dựa vào nhu cầu chi tiêu, sau đó chuyển sang
mức thu nhập, kết quả là đã 4 lần công bố chuẩn nghèo đói cho từng giai đoạn
khác nhau (Biểu 1.1).
Biểu 1.1: Quy định về chuẩn nghèo đói quốc gia
Chuẩn nghèo đói
qua các giai đoạn
Phân loại người nghèo đói
Mức thu nhập
BQ/người/tháng

1993 – 1995 (Mức
thu nhập qui ra gạo)
Đói (KV nông thôn) Dưới 8Kg
Đói (KV thành thị) Dưới 13 kg
Nghèo (KV nông thôn) Dưới 15 kg
Nghèo (KV thành thị) Dưới 20 kg



20
1996 – 2000 (Mức thu
nhập qui ra gạo tương
đương với số tiền)
Đói (Tính cho mọi khu vực) Dưới 13 kg (45.000 đồng)
Nghèo (KV nông thôn miền
núi, hải đảo)
Dưới 15kg(55.000đồng)
Nghèo (KV nông thôn, đồng
bằng trung du)
Dưới 20kg (70.000đồng)
Nghèo (KV thành thị) Dưới 25kg (90.000 đồng)
2001 – 2005 (Mức thu
nhập tính bằng tiền)
Nghèo (KV nông thôn miền
núi, hải đảo)
Dưới 80.000đồng
Nghèo (KV nông thôn đồng
bằng trung du)
Dưới 100.000 đồng
Nghèo (KV thành thị) Dưới 150.000 đồng

2006 – 2010 (Mức thu
nhập tính bằng tiền)
Nghèo (KV nông thôn) Dưới 200.000 đồng
Nghèo (KV thành thị) Dưới 260.000 đồng
Nguồn: Bộ LĐ - TB và XH, chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN
giai đoạn 1998 - 2000 và Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg.
Đầu năm 1998, cả nước có 2,65 triệu hộ (khoảng 14 triệu dân) nghèo
đói, chiếm 17,7% dân số (theo chuẩn chung của quốc tế là 37%). Trong đó có
300.000 hộ thường xuyên nghèo đói. Có 1.498 xã có tỷ lệ hộ nghèo đói từ
40% trở lên và 1.168 xã thiếu hạ tầng cơ sở thiết yếu (điện, đường, trường,
trại xá, chợ, nước sạch), 2/3 số xã nghèo là các xã miền núi, khoảng 1,2 triệu
người ở 978 xã cần được định canh định cư và 15 vạn đồng bào dân tộc thiểu
số đặc biệt khó khăn cần được hỗ trợ phát triển. Đến cuối năm 2000, tỉ lệ hộ
nghèo ở thành thị còn 6% và nông thôn là 11,2%. Đầu năm 2001 khi thay đổi
chuẩn nghèo đói, nước ta còn khoảng 2,8 triệu hộ nghèo (chiếm 17,2%), đến
cuối năm 2005 còn khoảng 1,1 triệu hộ nghèo, chiếm 7,0%.
Ưu điểm của phương pháp này là: Đảm bảo từng bước thoả mãn nhu
cầu của con người (ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, văn hoá ). Chuẩn nghèo đói
được điều chỉnh gắn với tăng trưởng kinh tế, mức độ cải thiện điều kiện sống
của người dân, tình hình thay đổi cơ cấu chi tiêu, thu nhập của người dân. Mặt
khác theo phương pháp này, tạo điều kiện cho cơ sở có thể triển khai được
việc lập danh sách hộ nghèo và xác định các hỗ trợ cần thiết.



21
Tuy nhiên, phương pháp tiếp cận này có hạn chế là chưa tính toán đầy
đủ nhu cầu tiêu dùng (chỉ chú ý một số nhu cầu lương thực, thực phẩm và một
số nhu cầu phi lương thực, thực phẩm). Độ tin cậy chưa cao do không có điều
kiện điều tra diện rộng, thu nhập thông tin về thu nhập của người dân nông

thôn và miền núi rất khó chính xác.
Mặc dù có một số hạn chế nhưng cách tính chuẩn nghèo của Bộ lao
động - Thương binh và Xã hội là tương đối phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam
hiện nay.
* Về tiêu chí xác định xã nghèo
Năm 1998, uỷ ban Dân tộc và Miền núi đã ban hành quy định xã đặc
biệt khó khăn (thuộc chương trình 135) là xã có đủ 5 tiêu chí sau:
- Các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới cách thành phố, thị xã, khu
công nghiệp, trung tâm thương mại, quốc lộ, tỉnh lộ trên 10 km.
- Không có đường ô tô vào xã, các công trình điện, thuỷ lợi, nước sạch,
trường học, bệnh xá, các dịch vụ khác rất thấp kém hoặc không có.
- Môi trường XH chưa phát triển, trình độ dân trí quá thấp, tỷ lệ mù chữ
và thất học trên 50%, bệnh tật nhiều, hủ tục lạc hậu, không có thông tin.
- Điều kiện sản xuất rất khó khăn, thiếu thốn, số hộ không có đất và
thiết đất sản xuất trên 20% số hộ có người làm thuê trên 20%.
- Số hộ nghèo đói trên 30%. Đời sống còn nhiều khó khăn, còn tình
trạng đói giáp hạt.
Năm 2002, Bộ lao động - Thương binh và Xã hội có Quyết định số:
587/2002/QĐ-BLĐTBXH quy định xã nghèo (ngoài chương trình 135) là xã
có đủ 2 tiêu chí sau:
- Có tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên.
- Chưa có đủ 3 trong 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu, cụ thể như sau:
+ Dưới 30% số hộ được sử dụng nước sạch.



22
+ Dưới 50% số hộ được sử dụng điện sinh hoạt.
+ Chưa có đường ô tô tới trung tâm xã, ô tô không đi lại được cả năm.
+ Số phòng học mới đáp ứng dưới 70% nhu cầu của học sinh hoặc

phòng tam bằng tranh, tre, nứa, lá.
+ Chưa có trạm y tế hoặc có nhưng nhà tạm.
+ Chưa có chợ hoặc chợ tạm thời.
Theo tiêu chí nêu trên thì hiện nay nước ta có khoảng 1 780 xã đặc biệt
khó khăn (ĐBKK), và 639 xã nghèo (năm 2005).
1.1.2. Quan niệm về xoá đói giảm nghèo
1.1.2.1. Khái niệm xoá đói giảm nghèo
Giảm nghèo hay (xoá đói giảm nghèo) chính là làm cho bộ phận dân
cư nghèo nâng cao mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu
hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người nghèo giảm xuống. Nói một cách
khác, xoá đói giảm nghèo là một quá trình chuyển một bộ phận dân cư nghèo
lên một mức sống cao hơn.
ở khía cạnh khác, xoá đói giảm nghèo là chuyển từ tình trạng có ít điều
kiện lựa chọn sang tình trạng có đầy đủ điều kiện lựa chọn để cải thiện đời
sống mọi mặt của mỗi người.
Nói giảm nghèo trong đó luôn bao hàm xoá đói và cũng giống như
khái niệm nghèo, khái niệm giảm nghèo chỉ là tương đối. Bởi nghèo có thể
tái sinh, hoặc khi khái niệm nghèo và chuẩn nghèo thay đổi. Do đó, việc
đánh giá mức độ giảm nghèo phải được đánh giá trong một thời gian, không
gian nhất định.
Giảm nghèo là một phạm trù cũng mang tính lịch sử, do đó chỉ có thể
từng bước giảm nghèo, chứ chưa thể xoá sạch được nghèo. Chỉ khi nào xã hội
loài người đạt tới trình độ xã hội cộng sản như chủ nghĩa Mác- Lênin dự đoán
thì hiện tượng nghèo sẽ không còn nữa và giảm nghèo cũng không cần.



23
Do cách đánh giá và nhìn nhận nguồn gốc khác nhau nên cũng có nhiều
quan niệm về giảm nghèo khác nhau:

Nếu hiểu nghèo là dạng đình đốn của phương thức sản xuất đã bị lạc
hậu song vẫn còn tồn tại thì giảm nghèo chính là quá trình chuyển đổi sang
phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn.
Nếu hiểu nghèo là do phân phối thặng dư trong xã hội một cách bất
công đối với người lao động, do chế độ sở hữu TBCN thì giảm nghèo chính là
quá trình xoá bỏ chế độ sở hữu và chế độ phân phối này.
Nếu hiểu nghèo là hậu quả của tình trạng chủ nghĩa thực dân đế quốc
kìm hãm sự phát triển ở các nước thuộc địa, phụ thuộc thì giảm nghèo là quá
trình các nước thuộc địa, phụ thuộc giành lấy độc lập dân tộc để trên cơ sở đó
phát triển kinh tế - xã hội.
Nếu hiểu nghèo là do sự bùng nổ gia tăng dân số vượt quá tốc độ phát
triển kinh tế thì phải tìm mọi cách để giảm gia tăng dân số, tất nhiên không
phải bằng cách của Malthus đã làm.
Còn nếu hiểu nghèo là do tình trạng thất nghiệp gia tăng hoặc rơi vào
tình trạng khủng hoảng kinh tế thì giảm nghèo chính là tạo việc làm, tạo xã
hội ổn định và phát triển.
ở nước ta hiện nay nghèo đói không phải là bóc lột của giai cấp tư sản
và địa chủ đối với lao động như trước đây mà do nền kinh tế nước ta đang
trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu kém phát triển
sang nền kinh tế phát triển hiện đại. Trong nền kinh tế này tồn tại và đan xen
nhiều trình độ sản xuất khác nhau. Có trình độ sản xuất cũ, lạc hậu vẫn còn
trong khi đó trình độ sản xuất mới, tiên tiến lại chưa đóng vai trò chủ đạo,
thay thế các trình độ sản xuất cũ. Do đó, dẫn đến có sự khác nhau trong các
tầng lớp dân cư.



24
Như vậy, giảm nghèo (XĐGN) ở nước ta chính là từng bước thực hiện
quá trình chuyển đổi các trình độ sản xuất cũ, lạc hậu còn tồn đọng trong xã

hội sang trình độ sản xuất mới cao hơn.
ở góc độ người nghèo: Giảm nghèo (XĐGN) là quá trình tạo điều kiện
giúp đỡ người nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một
cách nhanh nhất, trên cơ sở đó họ có nhiều khả năng lựa chọn tốt hơn giúp họ
từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo đói.
1.1.2.2. Nội dung của xoá đói giảm nghèo
Thứ nhất là, tăng thu nhập cho người nghèo, vùng nghèo: Khi đánh
giá vấn đề nghèo đói, các tổ chức quốc tế cũng như các nước khác nhau lựa
chọn phương pháp và chỉ tiêu đánh giá cơ bản giống nhau. Song cách xác
định và mức độ cụ thể có những khía cạnh khác nhau.
Để làm căn cứ tính toán mức nghèo đói người ta đều thống nhất dựa
vào hai loại chỉ tiêu sau:
- Chỉ tiêu chính: Thu nhập bình quân người/tháng hoặc năm và được đo
bằng chỉ tiêu giá trị hoặc hiện vật quy đổi.
- Chỉ tiêu phụ: Dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc, y tế, giáo dục và các
điều kiện đi lại.
Như vậy, tăng thu nhập cho đối tượng nghèo là nội dung cần được quan
tâm nhất đối với công tác xoá đói giảm nghèo.
Phần lớn người nghèo ở các nước đang phát triển phụ thuộc vào thu
nhập từ sức lao động, từ công việc trên mảnh đất của họ, từ tiền lương hay từ
những hình thức lao động khác. Tình trạng thiếu việc làm và năng suất lao
động thấp dẫn đến thu nhập của người lao động thấp là khá phổ biến đối với
người nghèo. Vì vậy, để tăng thu nhập cho người nghèo phải có giải pháp



25
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất để hỗ trợ tăng năng suất lao
động và tạo việc làm cho người nghèo là cơ bản nhất.
Thứ hai là, tăng khả năng tiếp cận các nguồn lực phát triển đối với

người nghèo, vùng nghèo
- Phần lớn người nghèo tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, nhất là
vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Những nơi này thường xa các trung tâm
kinh tế và dịch vụ xã hội. Hệ thống cơ sở hạ tầng thiếu và yếu hơn so với
những vùng khác. Phổ biến là tình trạng thiếu điện, thiếu nước tưới, nước sinh
hoạt, thiếu thông tin, thiếu chợ đầu mối, giao thông đi lại khó khăn vv Do
đó, năng suất lao động thấp, trong khi đó giá cả của sản phẩm do người sản
xuất bán lại rẻ do vận chuyển khó khăn. Cơ hội tự vươn lên của người nghèo
ở những vùng này lại càng khó khăn hơn. Điều đó cho thấy rằng: Nhà nước
phải tích cực đầu tư cơ sở hạ tầng cho vùng nghèo, tạo điều kiện cho người
nghèo được tiếp cận hệ thống cơ sở hạ tầng tốt hơn là một nội dung quan
trọng trong công tác XĐGN, nhất là ở nước ta hiện nay.
- Nghèo thường gắn liền với dân trí thấp, do nghèo mà không có điều
kiện đầu tư cho con cái học hành. Dân trí thấp thì không có khả năng để tiếp
thu tiến bộ của khoa học kỹ thuật để áp dụng vào sản xuất và không có khả
năng tiếp cận với những tiến bộ văn minh của nhân loại nên dẫn đến nghèo về
mọi mặt (kinh tế và tinh thần, chính trị). Vì vậy, để giảm nghèo cần phải nâng
cao trình độ dân trí, nâng cao sự hiểu biết cho người nghèo là giải pháp có
tính chiến lược lâu dài.
- Một nội dung quan trọng nữa của công tác XĐGN là phải tạo điều
kiện để giúp người nghèo tiếp cận có hiệu quả với các dịch vụ y tế, dịch vụ tài
chính, tín dụng và tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ vv

×