Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Luận văn Xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp nhà nước đó cổ phần hóa ở tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.99 KB, 116 trang )





1







Luận văn
Xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở
đảng trong doanh nghiệp nhà nước
đó cổ phần hóa ở tỉnh Quảng Bình
trong giai đoạn hiện nay




2


mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển
nền tảng kinh tế - xã hội của đất nước để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội và củng cố khối liên minh công nông. Tuy vậy, bước sang
thời kỳ đổi mới, các doanh nghiệp nhà nước đã dần dần bộc lộ những yếu


kém về phương thức tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh, chất lượng sản
phẩm, năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh tế.
Trong quá trình đổi mới đất nước đòi hỏi phải đổi mới các doanh
nghiệp nhà nước. Cổ phần hoá (CPH) là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước ta nhằm sắp xếp, đổi mới hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Đi
cùng với cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước (DNNN), các tổ chức chính trị,
xã hội trong doanh nghiệp, mà trước hết là tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) trong
các doanh nghiệp đã cổ phần hoá cần phải có sự chuyển đổi, củng cố, nâng
cao năng lực để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các doanh nghiệp
nhà nước đã cổ phần hoá.
Quảng Bình là tỉnh nghèo ở miền Trung, còn gặp nhiều khó khăn về
kinh tế. Khi bước vào đổi mới có 150 doanh nghiệp nhà nước do tỉnh và
huyện quản lý, đến nay còn lại hơn 50 doanh nghiệp nhà nước. Đã có 30
doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá. Trong đó: 02 doanh nghiệp có vốn
nhà nước chi phối trên 50%, 01 doanh nghiệp có vốn nhà nước 49%, 27
doanh nghiệp không có vốn nhà nước và có 02 doanh nghiệp đang tiếp tục cổ
phần hoá, cùng với 1.103 doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn.
Thời gian qua, một số tổ chức đảng trong các doanh nghiệp này đã tìm
cách đổi mới tổ chức, hoạt động cho phù hợp với tình hình sau khi thực hiện
cổ phần hoá, bước đầu củng cố và bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức đảng




3


trong doanh nghiệp. Nhưng nhìn chung, tổ chức đảng trong các doanh nghiệp
nhà nước sau khi cổ phần hoá ở Quảng Bình vẫn còn lúng túng về tổ chức,
nội dung, phương thức hoạt động; đảng viên nắm giữ cổ phần ít, bị hạn chế về

quyền sở hữu nên không được tham gia trong hội đồng quản trị, hoặc tiếng
nói ít trọng lượng trong các cuộc họp đại hội đồng cổ đông. Nhiều nơi vai trò
lãnh đạo của tổ chức đảng bị giảm sút.
Thực tế đó đòi hỏi các cấp ủy đảng có trách nhiệm ở Quảng Bình phải
quan tâm xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp
nhà nước sau khi thực hiện cổ phần hoá, đồng thời phải có những nghiên cứu
khoa học về loại hình tổ chức cơ sở đảng đó để làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc củng cố, tăng cường vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong
doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá.
Xuất phát từ tình hình trên, việc nghiên cứu đề tài: “Xây dựng, củng cố
tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp nhà nước đó cổ phần hóa ở tỉnh
Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay " có tính cấp thiết cả về lý luận và thực
tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp nhà n-
ước sau khi thực hiện cổ phần hoá là một thực tiễn mới mẻ, đặt ra nhiều vấn
đề phải được làm rõ về nhận thức, quan điểm, giải pháp. Bởi vậy, trong những
năm gần đây đã có một số cơ quan và nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn
quan tâm nghiên cứu về vấn đề này, một số công trình, bài viết đã được công
bố, như:
- Phạm Đạo (2000), Tổ chức đảng trong các công ty cổ phần, Báo
Nhân dân, 9-6-2000;




4


- Ngô Tùng Chinh (2005), Củng cố tổ chức cơ sở đảng trong các doanh

nghiệp cổ phần hoá, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5 năm 2005;
- Hội thảo khoa học: "Phát huy vai trò lãnh đạo của đảng đối với tiến
trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước", Tạp chí cộng sản số: 104
năm 2006;
- Nguyễn Phi Long (2005), Nâng cao hiệu lực lãnh đạo của tổ chức đảng
trong các công ty cổ phần có vốn Nhà nước, Báo Nhân dân, ngày 29-3-2005;
- Đặng Thuỳ Dương (2005), Nâng cao chất lượng tổ chức đảng trong
các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá tại thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.
Từ các cách tiếp cận khác nhau, những công trình nêu trên đã nghiên
cứu và đề xuất nhiều giải pháp củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp nhà nước cổ phần
hoá. Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu vẫn chỉ là bước đầu và chưa có
công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu về tổ chức cơ
sở đảng trong doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở Quảng Bình.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục tiêu
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn xây dựng, củng cố tổ chức
cơ sở đảng trong các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở Quảng Bình.
Từ đó, đề xuất phương hướng, giải pháp kiện toàn, đổi mới hoạt động của tổ
chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở Quảng
Bình trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ




5



- Làm rõ vai trò, đặc điểm và quan niệm xây dựng, củng cố tổ chức cơ
sở đảng trong doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở Quảng Bình.
- Đánh giá đúng thực trạng tổ chức cơ sở đảng và công tác xây dựng,
củng cố tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá
ở Quảng Bình, rút ra nguyên nhân và kinh nghiệm.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp kiện toàn, đổi mới hoạt động để xây
dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp nhà nước đã cổ
phần hoá ở Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác xây dựng, củng cố tổ
chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở tỉnh Quảng
Bình.
- Đề tài tập trung nghiên cứu tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp
nhà nước đã cổ phần hoá do Đảng uỷ khối doanh nghiệp tỉnh Quảng Bình
quản lý từ năm 2000 đến nay (kể từ khi có Phương án 812/UB ngày 8-8-2000
về sắp xếp doanh nghiệp nhà nước) và công tác xây dựng, củng cố các tổ
chức đảng. Phương hướng và giải pháp xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng
này đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận và thực tiễn của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta qua các nghị
quyết của Đảng từ Đại hội VI đến nay, đặc biệt là quan điểm của Đảng trong
Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX “về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”. Luận văn kế thừa kết quả nghiên
cứu của các công trình khoa học đã công bố.





6


- Cơ sở thực tiễn của luận văn là hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng
trong doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá ở Quảng Bình và công tác xây
dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng này của các cấp uỷ đảng ở Quảng Bình.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Mác-
Lênin, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn. Luận văn sử dụng kết hợp
các phương pháp tổng kết thực tiễn, lịch sử - lôgíc, nghiên cứu tài liệu, điều
tra, chuyên gia
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Xác định rõ đặc điểm, vai trò và quan niệm xây dựng, củng cố tổ chức
cơ sở đảng trong doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở Quảng Bình.
- Đánh giá đúng thực trạng và việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở
đảng trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá ở Quảng Bình.
- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi để xây dựng, củng cố tổ chức
cơ sở đảng trong các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở Quảng Bình.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo về lý luận và thực tiễn cho
việc kiện toàn, đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp
nhà nước sau cổ phần hoá của các cấp uỷ đảng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
- Luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, học tập
môn Xây dựng Đảng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.








7
















8


Chương 1
Xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng
trong Doanh nghiệp Nhà nước đã Cổ phần hoá
ở Tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn


1.1 Doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá và tổ chức cơ sở đảng trong doanh
nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở tỉnh Quảng Bình
1.1.1. Tình hình các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở
Quảng Bình
1.1.1.1. Khái quát về quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Cuối năm 1992, số lượng doanh nghiệp nhà nước trong cả nước lên đến
12.000 doanh nghiệp. Trong tiến trình thực hiện đổi mới, doanh nghiệp nhà
nước đã dần bộc lộ nhiều yếu kém trong quản lý, sản xuất kinh doanh, trong
cạnh tranh trên thị trường quốc tế Những yếu kém của doanh nghiệp nhà
nước trở thành những thách thức gay gắt trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới
và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế.
Đảng và Nhà nước đã có hàng loạt biện pháp để tháo gỡ khó khăn cho
doanh nghiệp nhà nước. Mở đầu là Quyết định 25/CP của Chính phủ tháng 1-
1981, các xí nghiệp quốc doanh có quyền xây dựng ba kế hoạch A, B, C,
bước đầu tạo quyền chủ động cho đơn vị sản xuất kinh doanh.
Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta chủ trương đổi mới doanh nghiệp nhà
nước một cách mạnh mẽ. Quyết định 217 năm 1987 của Chính phủ đã trao
quyền tự chủ một cách toàn diện cho doanh nghiệp nhà nước.
Cuối năm 1991, Hội nghị Trung ương hai khoá VII, đã đề ra chủ trương
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Từ giữa năm 1992, Thủ tướng Chính
phủ và các bộ, ngành liên quan đã có nhiều quyết định triển khai thực hiện.




9


Tháng 1-1994, Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII đã
nhận định:

Nguyên nhân cơ bản của tình trạng nhiều doanh nghiệp nhà
nước làm ăn kém hiệu quả, tiêu cực, lãng phí lớn là do tài sản của
Nhà nước không có người làm chủ trực tiếp, có trách nhiệm và lợi
ích rõ ràng đối với việc sử dụng có hiệu quả các tài sản đó; công
nhân, viên chức làm việc tại các doanh nghiệp không có động lực
thường xuyên và bền vững để gắn bó thiết thân với sự phát triển của
doanh nghiệp, không có quyền hạn vật chất và tổ chức đủ mạnh để
tham gia công việc định đoạt các quyết sách làm ăn, ngăn chặn từ
gốc tệ tham nhũng, làm thất thoát, hư hỏng tài sản công. Phải tìm
giải pháp khắc phục cho được tình trạng đó [13, tr.37].
Từ đó, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII khẳng
định: “Cần thực hiện các hình thức cổ phần hóa có mức độ phù hợp với tính chất
và lĩnh vực xản xuất - kinh doanh” [13, tr.37].
Thực hiện chủ trương đó, ngày 17-3-1995, Bộ Chính trị ra Nghị quyết
số 10- NQ/TW: "Tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp
nhà nước”, Nghị quyết nêu rõ: “Thực hiện từng bước vững chắc việc cổ phần
hóa một bộ phận doanh nghiệp không cần Nhà nước đầu tư 100% vốn”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) tiếp tục xác định: “Triển khai
tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để huy động
thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu
quả” [14, tr.94].
Tuy nhiên, đến tháng 4-1997, mới có 10 doanh nghiệp thực hiện cổ
phần hoá.




10

Ngày 4-4-1997 Bộ Chính trị ra Thông báo số 63 TB/TW về “ý kiến của

Bộ chính trị về tiếp tục triển khai tích cực và vững chắc cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước”. Thông báo đã nêu 8 việc cần thực hiện để thúc đẩy quá
trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII.
Ngày 29-8-1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP
thay thế Nghị định 28 NĐ/CP để triển khai sâu rộng những tư tưởng chỉ đạo
của Đảng về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Sau Đại hội IX, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX đã ra Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 24-9-2001, về tiếp tục sắp xếp,
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết đề
ra chủ trương sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước bằng các biện pháp lớn:
- Sát nhập, hợp nhất các doanh nghiệp nhà nước để khai thác thế mạnh,
khắc phục cái yếu của nhau, tạo “quả đấm” mạnh hơn.
- Giao bán, khoán kinh doanh và cho thuê doanh nghiệp nhà nước
nhằm thay đổi phương thức quản lý doanh nghiệp, cơ cấu lại doanh nghiệp
nhà nước. Phương thức này áp dụng cho các doanh nghiệp có số tài sản trên 1
tỷ đồng, hầu hết thua lỗ kéo dài, khó khăn trong kinh doanh.
- Giải thể, phá sản những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả.
- Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần giữ
100% vốn.
- Chuyển các doanh nghiệp mà nhà nước giữ 100% vốn sang hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, chủ sỡ hữu là nhà nước, hoặc
công ty cổ phần mà các cổ đông là doanh nghiệp nhà nước.
Trong các giải pháp lớn trên, Nghị quyết đề ra chủ trương “đẩy mạnh cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước” [17, tr.21], với mục tiêu "nhằm: tạo ra các loại




11


hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu ; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản
lý năng động, có hiệu quả cho doanh nghiệp nhà nước" [17, tr.21-22].
Thực hiện chủ trương đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước,
ngày 19-6-2002, Chính phủ ra Nghị định số 64/2002/NĐ-CP về việc chuyển
doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, tạo cơ sở pháp lý và những
hướng dẫn cụ thể để đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Ngày 22-10-2004, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 45, khẳng định việc tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện các Nghị quyết Trung ương ba, Trung ương chín
(Khoá IX) về đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước. Chỉ thị nêu rõ: “Cần đẩy mạnh tiến độ và mở rộng
hơn diện doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, kể cả một số tổng công ty lớn
trong một số ngành quan trọng” [17].
Để tạo thêm điều kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước và bổ sung các vấn đề trong Nghị định 64, ngày 16-11-2004, Chính phủ
ban hành Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước
thành công ty cổ phần.
Thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết của Trung ương Đảng và
Chính phủ, việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước từng bước được đẩy
mạnh và thu được kết quả tích cực. Theo số liệu chưa đầy đủ, thì tính từ năm
2001 đến tháng 12 năm 2005 cả nước đã sắp xếp, cổ phần hoá được 2.890
doanh nghiệp trong tổng số 5.655 doanh nghiệp nhà nước (có đầu 2001).
Trong đó cổ phần hoá được 1.831 doanh nghiệp, giao bán 246 doanh nghiệp,
sát nhập hợp nhất 410, giải thể phá sản 165, các hình thức khác 238, đồng
thời thành lập mới 65 doanh nghiệp. Riêng 2005 đã cổ phần hoá 724 doanh
nghiệp. Qua sắp xếp, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, vốn điều lệ tăng
bằng 44%, doanh thu tăng 24%, lợi nhuận tăng 140%, thu nhập người lao
động tăng 12% [25].





12

1.1.1.2. Tình hình doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở Quảng Bình
Quảng Bình là một tỉnh ở miền Trung, nằm ở vị trí từ 16,5 - 18 độ vĩ
Bắc, 105 đến 106 độ kinh đông; Dãy Hoành Sơn chạy phía Bắc tỉnh từ Tây
sang Đông dài 136,4 km, chung biên giới với tỉnh Hà Tĩnh; Phía Nam chung
địa giới với tỉnh Quảng Trị dài 78,8 km; Phía Tây giáp tỉnh Khăm Muộn -
Lào, biên giới dài 201,8 km; Phía Đông là bờ biển dài 116 km; nơi rộng nhất
là 89 km, nơi hẹp nhất 40,3 km, (hẹp nhất nước); diện tích toàn tỉnh
8.052km
2
; dân số đến 2005 là 825.000 người; có tất cả 6 huyện và 1 Thành
phố trực thuộc tỉnh; có nhiều địa danh và thắng cảnh đẹp, có di sản thiên
nhiên thế giới: Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng Nhưng là một tỉnh
nghèo, đang từng bước hội nhập với tiến trình xây dựng và phát triển của cả
nước. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một trong những nhiệm vụ quan
trọng đặt ra cho đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà.
Khi tái lập tỉnh Quảng Bình, toàn tỉnh có 150 doanh nghiệp nhà nước.
Thực hiện Nghị định 388/HĐBT, năm 1990- 1991 tỉnh đã tổ chức sắp xếp lại
còn 72 doanh nghiệp, xoá bỏ những đơn vị làm ăn thua lỗ, công nghệ lạc hậu,
chất lượng sản phẩm thấp.
Năm 1995 thực hiện Chỉ thị số 500/TTG của Thủ tướng Chính phủ,
tỉnh lại tiếp tục sắp xếp tổ chức và nâng cao năng lực các doanh nghiệp, toàn
tỉnh còn 63 doanh nghiệp.
Năm 1998, tỉnh tiến hành sắp xếp thêm một bước, sát nhập một số
doanh nghiệp, còn lại 55 doanh nghiệp nhà nước.
Tháng 8/2000, UBND tỉnh Quảng Bình xây dựng Phương án số 82/UB
về sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước do tỉnh quản lý. Phương án phân chia

55 doanh nghiệp thành 4 hạng:
Hạng I : có 2 doanh nghiệp




13

Hạng II : có 6 doanh nghiệp
Hạng III : có 24 doanh nhiệp
Hạng IV : có 23 doanh nghiệp
Từ năm 2001 đến 2006 đã cổ phần hoá được 30 doanh nghiệp gồm 02
công ty cổ phần, Nhà nước nắm giữ trên 51% vốn điều lệ, đó là: Công ty cổ
phần sửa chữa Đường bộ và Xây dựng tổng hợp, nhà nước chiếm 65,3%;
đoạn quản lý đường bộ 2 Quảng Bình, Nhà nước chiếm 68,4% vốn điều lệ.
Một công ty cổ phần nhà nước nắm giữ 49% vốn điều lệ đó là Công ty Cổ
phần Du lịch Quảng Bình; còn lại 27 công ty cổ phần, Nhà nước không nắm
giữ vốn điều lệ. Thực hiện bán 2 doanh nghiệp là Xí nghiệp thuỷ sản Sông
Gianh cho tập thể người lao động và công ty Kinh doanh Tổng hợp Quảng
Bình cho tập đoàn Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam, chuyển 3 doanh nghiệp
sang công ty TNHH một thành viên, đưa tổng số công ty TNHH một thành
viên lên 5 doanh nghiệp.
Sắp xếp các nông lâm trường quốc doanh theo quyết định 342/QĐ-TTg
ngày 26-12-2005 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới và phát triển các nông,
lâm trường quốc doanh.
Số doanh nghiệp nhà nước còn giữ 100% vốn đến 31-12-2006 hiện có
là 61 đơn vị, trong đó doanh nghiệp trực thuộc tỉnh là 10 đơn vị [Phụ lục 5],
doanh nghiệp trực thuộc Trung ương là 51 đơn vị.
Cùng với 1.103 doanh nghiệp ngoài Nhà nước, đó là:
+ Công ty cổ phần: 82 doanh nghiệp, chiếm 7,4%

+ Công ty TNHH hai thành viên: 663 doanh nghiệp, chiếm 60,1%
+ Công ty TNHH một thành viên: 10 doanh nghiệp, chiếm 0,9% (Tđó:
địa phương có 5 doanh nghiệp)
+ Doanh nghiệp tư nhân: 348 doanh nghiệp, chiếm 31,6%




14

Nhìn chung việc lựa chọn hình thức doanh nghiệp phù hợp với năng
lực điều hành và quy mô đầu tư đã giúp doanh nghiệp kinh doanh năng động
và làm ăn có hiệu quả trong cơ chế thị trường.
Về ngành nghề:
+ Kinh doanh thương mại dịch vụ: 612 doanh nghiệp, chiếm 55,5%
+ Tư vấn xây dựng: 347 doanh nghiệp, chiếm 31,4%
+ Công nghiệp: 111 doanh nghiệp, chiếm 10,1%
+ Nông, lâm, thuỷ sản: 33 doanh nghiệp, chiếm 3%
Các doanh nghiệp phân bố thường tập trung ở thành phố, thị trấn, một
số ít ở các huyện lỵ:
+ Thành phố Đồng Hới có: 591 doanh nghiệp, chiếm 53,6%.
+ Huyện Quảng Trạch có: 187 doanh nghiệp, chiếm 17%.
+ Huyện Bố Trạch có: 136 doanh nghiệp, chiếm 12,3%.
+ Huyện Quảng Ninh có: 40 doanh nghiệp, chiếm 3,6 %.
+ Huyện Minh Hoá có: 20 doanh nghiệp, chiếm 1,87%.
+ Huyện Lệ Thuỷ có: 76 doanh nghiệp, chiếm 6,9%.
+ Huyện Tuyên Hoá có: 53 doanh nghiệp, chiếm 4,8%.
Quy mô doanh nghiệp đa phần là nhỏ và vừa, với tổng số vốn đăng ký kinh
doanh trên 7.000 tỷ đồng, doanh nghiệp có vốn đăng ký dưới 2 tỷ chiếm 79,4%
Về lao động: Tổng số lao động làm việc thường xuyên trong các doanh

nghiệp trên 14.900 người, chưa kể lao động thời vụ. Mức thu nhập bình quân
cao nhất là 3 triệu đồng/người/tháng, mức thu nhập bình quân thấp nhất là
500 ngàn đồng/người/tháng [36].
Hoạt động các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá đã đạt được một số
kết quả tích cực, đó là các doanh nghiệp đã củng cố tổ chức, tinh giản bộ máy
quản lý, sắp xếp lao động hợp lý hơn, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của




15

người lao động, thực hiện quy chế dân chủ, công khai minh bạch hơn, bước
đầu đã đổi mới phương thức quản lý có hiệu quả.
Về doanh thu đều tăng năm sau cao hơn năm trước. Các doanh nghiệp
đã góp phần rất quan trong trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thực
hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một số dự án lớn đã tạo động lực tăng trưởng
kinh tế, có những đóng góp lớn cho GDP của tỉnh, tăng thu ngân sách, giải quyết
việc làm cho người lao động, thực hiện xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh.
Các doanh nghiệp đã tích cực sử dụng các nguồn vốn để phát triển sản
xuất kinh doanh theo hướng đa ngành, đa nghề mở rộng mặt hàng và thị
trường như: Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Bình Lợi xây dựng nhà máy
chế biến tinh bột sắn công suất 60 tấn/ngày; công ty cổ phần Bia Hà Nội -
Quảng Bình đầu tư mở rộng dây chuyền sản xuất bia 20 triệu lít/năm Một số
đơn vị đã đầu tư chiều sâu để tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm như
Công ty Cổ phần Gạch ngói 1-5, Công ty Cổ phần Vận tải ô tô, Công ty Vận
tải Thuỷ Đồng Hới Sự phát triển cả về số lượng và chất lượng các dự án đầu
tư, thúc đẩy hình thành cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ phụ trợ vừa và nhỏ
trên địa bàn tỉnh nhà.
Nhìn chung các doanh nghiệp sau khi chuyển đổi sắp xếp, tổ chức bộ

máy hợp lý hơn, triển khai có hiệu quả các dự án sản xuất kinh doanh, vừa
củng cố ngành nghề vừa mở rộng thêm những ngành nghề mới phù hợp với
năng lực hiện có và tích cực đầu tư thêm trang thiết bị sản xuất [Phụ lục 3].
Một số đơn vị doanh thu tăng khá như: Công ty Cổ phần Vận tải ô tô
doanh thu tăng 3 lần, Công ty Vận tải Thuỷ Đồng Hới doanh thu tăng 4 lần;
Về nộp ngân sách: phần lớn hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách theo kế hoạch
được giao và cao hơn trước khi cổ phần hoá như: Công ty Cổ phần Vật liệu
Xây dựng 1-5, Công ty Cổ phần Bia Hà Nội - Quảng Bình, Công ty Xây dựng




16

tổng hợp Quảng Bình; về lợi nhuận, một số doanh nghiệp đạt tương đối cao
như: Công ty Cao su Việt Trung 10 tỷ đồng, Công ty Lệ - Ninh 1,3 tỷ đồng,
Công ty Lâm công nghiệp Long Đại 1,5 tỷ đồng. Các doanh nghiệp cổ phần
cơ bản đều tăng hơn trước có đơn vị tăng đến 6 lần như Công ty Cổ phần Vật
liệu Xây dựng 1-5.
Thực hiện Nghị định 41/2002/NĐ-CP về sắp xếp lao động dư dôi, đến
hết năm 2006, cả tỉnh đã giải quyết 2.525 lao động nghỉ theo chế độ 41, với
tổng kinh phí thực hiện là 83.202 triệu đồng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp
sắp xếp lại lao động phù hợp với xu hướng phát triển của doanh nghiệp, đồng
thời tạo điều kiện cho người lao động có một khoản tiền để tìm việc làm mới
phù hợp với từng người nhằm ổn định cuộc sống.
Hoạt động các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá đã đạt được một số
kết quả tích cực. Đó là các doanh nghiệp đã củng cố tổ chức, tinh giản bộ máy
quản lý, sắp xếp lao động hợp lý hơn. Phát huy vai trò chủ động sáng tạo của
người lao động, thực hiện quy chế dân chủ, công khai minh bạch hơn. Bước
đầu đã đổi mới phương thức quản lý có hiệu quả. Trong 30 doanh nghiệp đã

cổ phần hoá, có 7 doanh nghiệp chuyển sang năm 2005, còn lại đã hoạt động
ít nhất một năm.
Sự phát triển cả về số lượng và chất lượng các dự án đầu tư, thúc đẩy
hình thành cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ phụ trợ vừa và nhỏ trên địa bàn
tỉnh nhà. Các doanh nghiệp đã góp phần rất quan trong trong việc thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một số dự án
lớn đã tạo động lực tăng trưởng kinh tế, có những đóng góp lớn cho GDP của
tỉnh, tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm cho người lao động, thực hiện
xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh.
Tuy vậy, phần lớn các doanh nhiệp sau cổ phần hoá vẫn là những
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh với quy mô nhỏ, công nghệ thiết bị sản




17

xuất lạc hậu, thiếu đồng bộ, chưa tận dụng và huy động được nhiều đồng vốn
đầu tư chiều sâu để tăng cường khả năng cạnh tranh; sản lượng và chủng loại
hàng hoá còn ít, chất lượng sản phẩm chưa cao, chưa mở rộng được thị trường
xuất khẩu. Các doanh nghiệp sau cổ phần hoá chưa thực sự là chủ lực trong
quá trình phát triển kinh tế của tỉnh.
1.1.1.3. Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở
Quảng Bình
- Khi doanh nghiệp nhà nước chuyển sang cổ phần hoá, Nhà nước chỉ
nắm giữ một phần hoặc thậm chí không còn nắm giữ vốn nhà nước trong
doanh nghiệp. Đây là đặc điểm cơ bản quyết định toàn bộ các chức năng,
nhiệm vụ và đặc điểm khác của doanh nghiệp. Từ chỗ độc tôn vốn nhà nước,
một số doanh nghiệp đã có những ngộ nhận, lấy độc quyền Nhà nước làm độc
quyền doanh nghiệp, nay có nhiều chủ thể nắm giữ và chi phối doanh nghiệp,

tạo thành doanh nghiệp đa sở hữu. Số lượng doanh nghiệp đã cổ phần hoá, có
nhiều chủ sở hữu ở Quảng Bình theo cơ cấu vốn như sau:
+ 02 công ty cổ phần, Nhà nước nắm giữ trên 51% vốn điều lệ đó là:
Công ty Cổ phần Sửa chữa Đường bộ và Xây dựng tổng hợp, Nhà nước
chiếm 65,3%; đoạn quản lý đường bộ 2 Quảng Bình, Nhà nước chiếm 68,4%
vốn điều lệ. Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì loại hình này được gọi là
doanh nghiệp nhà nước [Phụ lục 6].
+ 01 công ty cổ phần, Nhà nước nắm giữ 49% vốn điều lệ đó là Công
ty Cổ phần Du lịch Quảng Bình;
+ 27 công ty cổ phần, Nhà nước không nắm giữ vốn điều lệ.
- Sau khi cổ phần hoá, các doanh nghiệp đã tự chủ về quản lý, sản xuất
kinh doanh, lấy hiệu quả kinh tế, lợi nhuận làm mục tiêu và động lực để phấn
đấu, nó có ý nghĩa quyết định sự sống còn của doanh nghiệp.




18

Khi còn là doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp này được thành
lập và trực thuộc cơ quan chủ quản của các ngành, hoặc UBND tỉnh, chịu sự
lãnh đạo chỉ đạo sản xuất kinh doanh và thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch do
ngành và tỉnh giao, trong đó có những chỉ tiêu chỉ mang lại hiệu quả cho xã
hội, mà không có lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong 30 doanh nghiệp đã cổ
phần hoá, trước đây có 9 doanh nghiệp (chiếm 30%) trực thuộc UBND tỉnh,
21 doanh nghiệp thuộc sở, ngành chủ quản.
Sau cổ phần hoá, các doanh nghiệp này không có đơn vị chủ quản, mà
chỉ hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và điều lệ công ty, đồng thời thực hiện
chỉ tiêu Nhà nước giao về nộp ngân sách và nộp lợi nhuận hàng năm.
- Tài sản doanh nghiệp từ sở hữu nhà nước chuyển sang nhiều chủ sở

hữu (đa sở hữu); quyền quyết định đối với doanh nghiệp thuộc về đại hội đồng
cổ đông và hội đồng quản trị do đại hội đồng cổ đông bầu ra. Sự thay đổi cơ
bản này làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức quản lý, điều hành, hoạt động, cơ
cấu tổ chức quản lý nhân sự, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thay đổi.
Vị trí, vai trò của cá nhân, tập thể trong hệ thống quản lý, điều hành doanh
nghiệp tùy thuộc vào số lượng cổ phần họ nắm giữ.
- Sau khi chuyển đổi cổ phần hoá, nhiều cán bộ, người lao động trong
doanh nghiệp vẫn giữ thói quen, tâm lý bao cấp, ỷ lại thời doanh nghiệp nhà
nước, chưa thực sự chủ động sáng tạo, vươn lên kịp thời với sự thay đổi của
doanh nghiệp. Đây là hậu quả do thời kỳ kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp
quá dài, các doanh nghiệp nhà nước trong tỉnh hầu như chỉ thực hiện nhiệm
vừa sản xuất, cung cấp, phân phối theo kế hoạch, không cần tính toán hiệu
quả kinh tế; từ cán bộ quản lý cho đến người lao động mang nặng tư duy, thói
quen thụ động, trông chờ cấp trên.
- Các đoàn thể chính trị - xã hội có sự thay đổi, điều chỉnh, điều kiện
hoạt động có những khó khăn mới, nhưng vẫn giữ được vai trò.




19

Các đoàn thể chính trị- xã hội được nói tới ở đây chủ yếu là các tổ chức
công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, cựu chiến binh Cổ phần hoá tạo ra
thành phần sở hữu trong doanh nhiệp mà người lao động là những cổ đông
vừa có quyền sở hữu tài sản vừa là người lao động là một khác biệt căn bản
với trước đây: chỉ có quyền lao động, còn quyền sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể. Tình trạng đó làm cho việc quản lý theo kiểu “cha chung không ai
khóc”. Vì vậy, sau cổ phần hoá đã có tác động tích cực tới người lao động,
làm người lao động đổi mới về nhận thức và hành động, họ thực sự làm chủ

và lo lắng cùng doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn. Chính đó là sự thay
đổi, đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức đoàn thể xuất phát của tổ
chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp. Cổ phần hoá đã tạo thêm nhiều
việc làm cho người lao động, tiền lương và thu nhập được đảm bảo; quyền,
trách nhiệm và nghĩa vụ được khẳng định rõ ràng hơn và cao hơn.
- Phần lớn các doanh nhiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở Quảng Bình là
những doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh với quy mô nhỏ, năng lực sản xuất
kinh doanh và tính cạnh tranh thấp. Quảng Bình đang là tỉnh nghèo, lại trải
qua chiến tranh tàn phá nặng nề, sau khi chia tách tỉnh trở về lại địa giới cũ,
các cơ sở kinh tế hạ tầng kỹ thuật chưa có gì, công nghiệp chưa phát triển, vì
vậy, phần lớn các doanh nhiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở Quảng Bình là
những doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh với quy mô nhỏ, năng lực sản xuất
kinh doanh và tính cạnh tranh thấp. Vốn Nhà nước mà công ty đang nắm giữ,
lớn nhất như Công ty Cao su Việt Trung cũng mới chỉ 46.283 triệu đồng,
công ty nắm giữ ít nhất là Công ty Điện tử Quảng Bình chỉ có 310 triệu đồng,
bình quân vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước trước khi cổ phần hoá
là 5.315 triệu đồng. Đây là đặc điểm cơ bản để có kế hoạch, định hướng trong




20

phát triển sản xuất kinh doanh và công tác xây dựng củng cố tổ chức cơ sở
đảng phù hợp với quy mô các doanh nghiệp đã cổ phần hoá.
Những đặc điểm của các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở
Quảng Bình có ảnh hưởng lớn đến tổ chức và hoạt động của tổ chức cơ sở đảng
ở đây. Vì vậy, trong quá trình xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng trong các
doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá phải nắm được các đặc điểm này.
1.1.2. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm của tổ chức cơ sở

đảng trong doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở Quảng Bình
1.1.2.1. Vai trò của tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp nhà
nước đã cổ phần hoá ở Quảng Bình
Tổ chức cơ sở đảng có vị trí, vai trò quan trọng trong quá trình lãnh đạo
và xây dựng tổ chức đảng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định: “Tổ chức cơ sở
đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị
ở cơ sở” [22, tr.34].
Với tính cách là nền tảng của Đảng, tổ chức cơ sở đảng có vị trí, vai trò
rất quan trọng đối với sự vững mạnh của Đảng. Đây là cấp tổ chức cuối cùng
trong hệ thống tổ chức bốn cấp của Đảng, là cấp tổ chức sâu rộng nhất, gắn
với các đơn vị cơ sở trên toàn lãnh thổ và các ngành, các lĩnh vực của đời
sống xã hội, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng tới từng đảng viên, từng cơ sở và
từng người dân.
Đây là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, đồng thời cũng là nơi kiểm nghiệm và góp phần quan trọng vào
việc hình thành phát triển đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
thông qua những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của đội ngũ đảng viên
và quần chúng nhân dân.




21

Đây cũng là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động quan trọng trong xây
dựng nội bộ đảng như: kết nạp, quản lý, phân công nhiệm vụ, kiểm tra, đánh
giá đảng viên; nơi đảng viên thường xuyên thực hành các nguyên tắc tổ chức
và sinh hoạt; nơi xuất phát để cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng.
Tổ chức cơ sở đảng còn là tổ chức cầu nối Đảng với quần chúng nhân

dân, là một mắt khâu trọng yếu để duy trì mối liên hệ Đảng với dân, là tổ
chức đảng gần dân nhất, trực tiếp lãnh đạo nhân dân và nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng của quần chúng nhân dân để phản ánh với Đảng. Dân tin Đảng,
theo Đảng hay không là nhờ ở vai trò của cơ sở đảng, cán bộ đảng viên.
Với tính cách là hạt nhân chính trị ở cơ sở, tổ chức cơ sở đảng là một
bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị cơ sở, nhưng đây là tổ chức lãnh đạo
tất cả các tổ chức khác trong hệ thống đó, là tổ chức bảo đảm cho mọi hoạt
động ở cơ sở theo đúng định hướng chính trị của Đảng. Mỗi tổ chức cơ sở
đảng có vai trò là trung tâm lãnh đạo chính trị, tổ chức và qui tụ sức mạnh của
toàn đơn vị để hoàn tốt nhiệm vụ chính trị được giao.
Do vai trò quan trọng của tổ chức cơ sở đảng như vậy, từ ngày thành
lập đến nay, ở mọi thời kỳ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn coi các tổ chức cơ sở đảng là những đơn vị chiến đấu cơ
bản, những tế bào của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chi bộ là nền
móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt" và “Đảng mạnh là do chi bộ
tốt”. Việc xây dựng, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng là nhiệm vụ
thường xuyên và quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng.
Các tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần
hoá ở Quảng Bình cũng có vai trò vị trí, vai trò quan trọng của tổ chức cơ sở
đảng nói chung. Do đặc điểm của mình, vị trí, vai trò đó thể hiện rõ hơn ở
những điểm sau:




22

- Tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá
là hạt nhân chính trị bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với các các doanh
nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá. Sau khi chuyển đổi cổ phần hoá đã có một

số quan điểm cho rằng: doanh nghiệp là tổ chức kinh tế, chính đảng là tổ chức
chính trị, trong tổ chức kinh tế không nên có tổ chức chính trị, phát huy vai
trò hạt nhân chính trị của tổ chức đảng là xa rời chế độ doanh nghiệp hiện đại
(?!). Quan điểm này thể hiện lối lập luận hình thức, giản đơn, phi lịch sử. Quả
thật, cổ phần hoá tạo thay đổi căn bản nội tại doanh nghiệp do đa sở hữu tài
sản chi phối. Cổ đông, hội đồng quản trị, có thể không là đảng viên, nhận thức
về chính trị, về đảng có những mức độ, khuynh hướng khác nhau. Nhưng cần
thấy rằng, trên thế giới và nhất là ở nước ta, doanh nghiệp đương nhiên là tổ
chức kinh tế, nhưng không thể xem doanh nghiệp chỉ đơn thuần là tổ chức
kinh tế. Xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại không chỉ cần công tác kinh
tế trong nội bộ doanh nghiệp mà còn cần sự chỉ dẫn, bảo đảm của công tác
chính trị tư tưởng, dựa vào việc xây dựng văn minh tinh thần để thích ứng.
Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo,
lấy liên minh công- nông làm nền tảng, cần xây dựng doanh nghiệp thành
doanh nghiệp hiện đại có kết hợp giữa ưu thế chính trị xã hội chủ nghĩa và
chế độ quản lý xí nghiệp tiên tiến. ưu điểm vô cùng quan trọng trong loại hình
doanh nghiệp này là quyền lãnh đạo chính trị của Đảng đã phát huy vai trò hạt
nhân chính trị của tổ chức đảng trong các doanh nghiệp. Đây là tổ chức trực
tiếp đưa đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
các chủ trương, nghị quyết của cấp trên đến cán bộ, đảng viên, viên chức và
người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa và lãnh đạo đảng viên, cổ
đông và người lao động thực hiện, thông qua đó mà thúc đẩy sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp. Mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của tổ chức cơ sở đảng
là lãnh đạo để thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Sự




23


có mặt của tổ chức cơ sở đảng không có mục tiêu cản trở hoạt động của doanh
nghiệp và cũng không có cơ sở để cho rằng có sự cản trở đó trong thực tế.
Thực hiện chủ trương của Đảng là phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung
tâm, tổ chức đảng trong doanh nghiệp đương nhiên càng phải lấy công tác xây
dựng kinh tế làm trung tâm. Tuy không trực tiếp nắm việc quản lý kinh
doanh, nhưng thông qua công tác chính trị tư tưởng của tổ chức đảng kết hợp
với việc cải tiến doanh nghiệp, phát triển sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, tổ chức đảng sẽ thể hiện vai trò hạt nhân chính trị trong quá trình này.
- Là tổ chức lãnh đạo, tập hợp, phát huy quyền làm chủ của cán bộ,
công chức, người lao động, tăng cường mối liên hệ Đảng với quần chúng
ở trong các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá. Các chi, đảng bộ cơ sở
trong các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá hoạt động trong mối quan hệ
thường xuyên với quần chúng và với thực tiễn, chủ động giải quyết những
vấn đề đặt ra hằng ngày, hàng giờ trong công tác, phát huy tính chủ động sáng
tạo của quần chúng để xây dựng Đảng, xây dựng doanh nghiệp.
- Là tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong các doanh nghiệp nhà
nước đã cổ phần hoá. Việc kiểm tra, giám sát này thông qua chế độ kiểm tra
tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tóm lại, tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp nhà nước đã cổ
phần hoá có vị trí, vai trò quan trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng và cả sự
hoạt động, phát triển của doanh nghiệp. Từ thực tế 30 doanh nghiệp cổ phần
hoá ở Quảng Bình cho thấy sự hoạt động của tổ chức cơ sở đảng ở đây mang
lại kết quả tốt cho cả việc xây dựng kinh tế và xây dựng Đảng.




24


1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng trong doanh
nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở Quảng Bình
Doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở Quảng Bình chia thành ba
loại chính: công ty cổ phần Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ (theo Luật
Doanh nghiệp năm 2005 ghi: "Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó
Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ" vì vậy, đây vẫn thuộc loại doanh nghiệp
nhà nước); công ty cổ phần Nhà nước sở hữu dưới 50% vốn điều lệ; công ty cổ
phần không có vốn Nhà nước (cổ phần hoá 100%).
Tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở
Quảng Bình, dù là loại nào cũng có chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở
đảng nói chung được quy định trong Điều lệ Đảng. Tuy nhiên, do đặc điểm của
doanh nghiệp, của tổ chức cơ sở đảng ở đó, mỗi tổ chức cơ sở đảng phải nắm
vững và thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ cụ thể được Trung ương quy định
cho từng loại tổ chức cơ sở đảng.
Tổ chức cơ sở đảng trong công ty cổ phần Nhà nước sở hữu trên 50%
vốn điều lệ công ty có chức năng, nhiệm vụ theo Quy định số 96-QĐ/TW của
Ban Chấp hành Trung ương, ngày 22-3-2004 quy định chức năng, nhiệm vụ của
đảng bộ, chi bộ cơ sở trong các doanh nghiệp nhà nước.
Tổ chức cơ sở đảng trong công ty cổ phần Nhà nước sở hữu dưới 50%
vốn điều lệ có chức năng, nhiệm vụ theo Quy định số 140-QĐ/TW của Ban
Chấp hành Trung ương, ngày 16-5-2005 quy định chức năng, nhiệm vụ của đảng
bộ, chi bộ cơ sở trong công ty cổ phần có vốn Nhà nước.
Tổ chức cơ sở đảng trong công ty cổ phần không có vốn Nhà nước có
chức năng, nhiệm vụ theo Quy định số 100- QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung
ương, ngày 4-6-2004, quy định chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở
trong công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh
nghiệp tư nhân (gọi chung là doanh nghiệp tư nhân).





25

Sau đây là những nội dung cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của 3 loại tổ
chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá ở Quảng Bình:
Thứ nhất, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng trong công ty cổ
phần Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ công ty:
Theo Quy định số 96-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương, ngày 22-
3-2004 quy định chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong các doanh
nghiệp nhà nước.
Thứ hai, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng trong công ty cổ
phần Nhà nước sở hữu dưới 50% vốn điều lệ công ty:
+ Về chức năng: đảng bộ, chi bộ trong công ty cổ phần có vốn Nhà
nước là hạt nhân chính trị, lãnh đạo cán bộ, đảng viên, quần chúng và tuyên
truyền, vận động các thành viên trong công ty thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệ và các quy chế, quy
định của công ty; tham gia xây dựng và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả nhiệm
vụ sản xuất, kinh doanh của công ty, hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước,
bảo đảm lợi ích hợp pháp của các cổ đông và người lao động; xây dựng đảng
bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh.
+ Về nhiệm vụ:
- Đối với nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh, an ninh, quốc phòng:
Căn cứ vào điều lệ và các quy chế, quy định của công ty để tham gia
với hội đồng quản trị, tổng giám đốc (giám đốc) xây dựng chiến lược đầu tư,
phát triển và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh
của công ty theo đường lối, chủ trương cảu Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; bảo tồn và phát triển vốn của công ty, của Nhà nước; hoàn thành
nghĩa vụ đối với Nhà nước, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các cổ
đông, người lao động. Lãnh đạo, vận động các thành viên trong công ty thực

×