Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp được hình thành từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (814.92 KB, 99 trang )





1




Luận văn
Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp
được hình thành từ cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước ở Nghệ An




2
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cạnh tranh kinh tế xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển của
sản xuất và trao đổi hàng hoá. Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế
bằng các biện pháp, thủ đoạn khác nhau nhằm đạt mục tiêu tối đa lợi ích trong quá
trình sản xuất - kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cạnh tranh vừa là môi
trường vừa là động lực của sự phát triển.
Trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước đã chủ trương phát triển
kinh tế nhiều thành phần, phát huy mọi nguồn lực nhưng kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng, là công cụ để nhà nước định
hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo thành công trong hội nhập kinh


tế quốc tế. Để kinh tế nhà nước làm tròn vai trò chủ đạo, việc nâng cao sức
cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hoá là
rất quan trọng. Việc nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp này sẽ
góp phần quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong những năm qua, các doanh nghiệp nhà nước - bộ phận nòng cốt
của kinh tế nhà nước đã đóng góp rất lớn trong quá trình xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu
lao động và quá trình đô thị hoá. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, các
doanh nghiệp nhà nước đã bộc lộ nhiều mặt hạn chế, quy mô nhỏ, công nghệ
lạc hậu, sản xuất - kinh doanh kém hiệu quả, năng lực cạnh tranh thấp, tư
tưởng bảo hộ nặng nề, làm ăn thua lỗ kéo dài.
Thực hiện chủ trương đổi mới doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Nhà
nước. Tỉnh Nghệ An đã đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.
Tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Nghệ An đã đảm
bảo đúng lộ trình chính phủ phê duyệt. Vấn đề cấp bách hiện nay là đưa ra




3
phương hướng, giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp cổ
phần hoá từ doanh nghiệp nhà nước.
Với ý nghĩa và tính cấp thiết như vậy, tôi chọn đề tại "Sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp được hình thành từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước ở Nghệ An" làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nâng cao sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường của quốc gia,
các địa phương, các doanh nghiệp, các ngành hàng, sản phẩm là chủ điểm được
giới học thuật rất quan tâm nghiên cứu khá kỹ lưỡng, bình luận khá nhiều.
Có thể nêu ra một số đề tài nghiên cứu về cạnh tranh như:

+ GS - TS Chu Văn Cấp (chủ biên): Nâng cao sức cạnh tranh của nền
kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. (Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia - Hà Nội 2003).
+ TS Phạm Thu Hồng: Chiến lược cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở Việt Nam hiện nay. (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Hà Nội 2004)
+ Thạc sỹ Đỗ Thị Oanh: Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt
Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp.
+ Dự án VIE 01/2005: Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia (Nhà
xuất bản giao thông vận tải 2003).
+ Tạp chí Cộng sản số 22/2004 của GS - TS Lê Hữu Nghĩa - Tổng biên tập
Tạp chí Cộng sản, Phó chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương, về Cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay - mấy vấn đề lý luận và thực tiễn.
Tuy nhiên việc nghiên cứu cạnh tranh của các doanh nghiệp được hình
thành từ cổ phần hoá DNNN dưới góc độ kinh tế chính trị chưa có nhiều. Vì
vậy, đề tài này vẫn cần thiết và có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở các tri thức cấu thành sức cạnh tranh của doanh nghiệp, luận
văn nghiên cứu, đánh giá thực trạng cạnh tranh của các doanh nghiệp được




4
hình thành từ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Nghệ An, từ đó đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh và phát triển doanh nghiệp này
trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa lý luận về sức cạnh tranh và nâng cao sức cạnh tranh của

doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, từ đó làm rõ đặc điểm cạnh tranh của
các doanh nghiệp từ DNNN cổ phần hoá.
+ Đánh giá thực trạng hoạt động và hiệu quả sản xuất - kinh doanh, sức
cạnh tranh của các doanh nghiệp cổ phần hoá từ DNNN ở Nghệ An, từ đó rút ra
thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của thành tựu hạn chế và những vấn đề mới nảy
sinh rào cản cần được giải quyết.
+ Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp được hình thành từ cổ phần hoá DNNN ở Nghệ
An trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn chú trọng đi sâu nghiên cứu sức cạnh tranh kinh tế dưới góc
độ lý luận, làm rõ phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao sức
cạnh tranh, của các doanh nghiệp được hình thành từ cổ phần hoá DNNN ở
Nghệ An.
+ Thời gian nghiên cứu từ năm 2001 - 2006.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài thuộc chuyên ngành kinh tế chính trị nên phương pháp nghiên
cứu là trừu tượng hoá khoa học và sử dụng phương pháp thống kê phân tích,
tổng hợp, nghiên cứu tổng kết thực tiễn, kế thừa những thành tựu liên quan
đến đề tài.




5
6. Đóng góp của luận văn
Thông qua hệ thống lý luận và thực tiễn, đề tài tìm thêm khái niệm, nội
dung và sự cần thiết nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp được hình
thành từ cổ phần hoá DNNN ở Nghệ An. Từ đó đề xuất phương hướng, giải

pháp cơ bản nhằm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp được hình thành
từ cổ phần hoá DNNN ở Nghệ An trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình tác giả, danh
mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


















6
Chương 1
SỨC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN
ĐƯỢC HÌNH THÀNH TỪ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC -
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. SỨC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VÀ NHỮNG NHÂN TỐ

ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỨC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1. Cạnh tranh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Các học thuyết kinh tế thị trường dù thuộc trường phái nào đều thừa
nhận rằng cạnh tranh chỉ tồn tại gay gắt trong nền kinh tế thị trường, nơi mà
một nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao nhất.
Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp và do cách tiếp
cận khác nhau về cạnh tranh, nên thuật ngữ này có thể hiểu dưới nhiều góc độ
khác nhau.
Theo Adam Smith, cạnh tranh có thể phối hợp một cách nhịp nhàng, có
lợi cho xã hội. Nhờ sự cạnh tranh các quốc gia sẽ giàu lên chủ yếu diễn ra
thông qua thị trường và giá cả. Do đó cạnh tranh có quan hệ chặt chẽ với cơ
chế thị trường.
Adam Smith cho rằng, nếu tự do cạnh tranh, các cá nhân chèn ép nhau,
thì cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm công việc của mình một
cách chính xác, cạnh tranh và thi đua thường tạo ra sự cố gắng lớn nhất.
Ngược lại, chỉ có mục đích lớn lao nhưng lại không có động cơ thúc đẩy thực
hiện mục đích ấy thì rất ít có khả năng tạo ra được bất kỳ sự cố gắng lớn hơn.
Trong lý luận cạnh tranh của mình, quan điểm nghiên cứu của C.Mác
trước hết chú ý đến sự cạnh tranh giữa những người sản xuất với người tiêu
dùng. Cạnh tranh kinh tế có thể xét khái quát dưới 3 góc độ: cạnh tranh giá
thành, thông qua năng suất lao động, các nhà tư bản nhằm thu được giá trị
thặng dư siêu ngạch; cạnh tranh chất lượng, thông qua nâng cao giá trị sử




7
dụng hàng hoá, hoàn thiện chất lượng hàng hoá để thực hiện giá trị hàng hoá
có lợi hơn; Cạnh tranh giữa các ngành, thông qua việc gia tăng tích luỹ
chuyển đầu tư của tư bản, nhằm chia nhau giá trị thặng dư có lợi. Ba góc độ

cạnh tranh cơ bản này diễn ra xoay quanh sự quyết định giá trị, sự thực hiện
giá trị và sự phân phối giá trị thặng dư, chúng tạo nên nội dung cơ bản trong
lý luận cạnh tranh của Mác.
Theo C.Mác, cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các
nhà tư bản để dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ
hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch:
Theo từ điển bách khoa của Việt Nam thì cạnh tranh (trong kinh
doanh) là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa
các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối
bởi quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị
trường có lợi nhất.
Theo cuốn kinh tế học của Samuwelson thì: Cạnh tranh là sự kình địch
giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để dành khách hàng, thị trường.
Theo các tác giả của cuốn "Các vấn đề pháp lý và thể chế chính sách
cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh" thì: Cạnh tranh có thể được
hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc dành một số nhân tố sản
xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt
được mục tiêu kinh doanh cụ thể.
Ngoài ra, còn có thể dẫn ra nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm
cạnh tranh qua các định nghĩa nêu trên, có thể tiếp cận về cạnh tranh như sau:
Thứ nhất: Khi nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua nhằm lấy phần
thắng của nhiều chủ thể cùng tham dự.
Thứ hai: Mục đích trực tiếp là một đối tượng cụ thể nào đó mà các bên
đều muốn dành giật (một cơ hội, một sản phẩm, dự án) Một loạt điều kiện có
lợi (một thị trường, một khách hàng).




8

Thứ ba: Cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể có các ràng
buộc chung mà các bên tham gia phải tuân thủ như: đặc điểm sản phẩm, thị
trường, các điều kiện pháp lý, các thông lệ kinh doanh
Thứ tư: Trong quá trình cạnh tranh các chủ thể tham gia cạnh tranh có
thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau: cạnh tranh bằng đặc tính và chất lượng
sản phẩm, cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm (chính sách định giá thấp; chính
sách định giá cao; chính sách ổn định giá, định giá theo thị trường; chính sách
giá phân biệt; bán phá giá); cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm (tổ
chức các kênh tiêu thụ); cạnh tranh nhờ dịch vụ bán hàng tốt; cạnh tranh
thông qua hình thức thanh toán
Với cách tiếp cận trên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn khái
niệm cạnh tranh có thể hiểu như sau: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó
các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm một biện pháp, cả kỹ thuật lẫn thủ đoạn
để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành
lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích
cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích.
Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi
ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
Cạnh tranh là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường, có
kinh tế thị trường thì có cạnh tranh. Thông qua sự cạnh tranh mà các doanh
nghiệp tự hoàn thiện quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Nền sản xuất
hàng hoá trên thế giới ngày càng phát triển, thì cạnh tranh kinh tế cũng ngày
càng phát triển. Những thành tựu mà nhân loại đạt được ngày hôm nay, có sự
đóng góp to lớn của nhân tố cạnh tranh.
Khi nghiên cứu về cạnh tranh các nhà nghiên cứu còn sử dụng khái
niệm: Sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh (trong thực
tế thì cạnh tranh, sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh được sử dụng như là
khái niệm đồng nghĩa). Tuy nhiên, đây là khái niệm phức hợp, bao gồm các





9
yếu tố ở tầm vĩ mô, đồng thời cũng bao gồm năng lực, sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Ở đây có thể tiếp cận các
khái niệm về sức cạnh tranh/năng lực cạnh tranh như sau:
Năng lực cạnh tranh quốc gia được định nghĩa là năng lực của một nền
kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư bảo đảm ổn định
kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân.
Năng lực cạnh tranh/sức cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy
trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường
cạnh tranh trong nước và nước ngoài. Một doanh nghiệp có thể kinh doanh
một hay nhiều sản phẩm và dịch vụ, vì vậy người ta còn phân biệt năng
lực/sức cạnh tranh của doanh nghiệp với năng lực/sức cạnh tranh của sản
phẩm và dịch vụ.
Năng lực cạnh tranh/sức cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ được đo
bằng thị phần của sản phẩm hay dịch vụ cụ thể trên thị trường.
Ba cấp độ năng lực cạnh tranh có mối quan hệ qua lại mật thiết với
nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền
kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia cao phải có nhiều doanh nghiệp có
năng lực cạnh tranh/sức cạnh tranh, ngược lại để tạo điều kiện cho doanh
nghiệp có sức cạnh tranh, môi trường kinh doanh của nền kinh tế phải thuận
lợi, các chính sách kinh tế của vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự báo được, nền
kinh tế phải ổn định; bộ máy nhà nước phải trong sạch, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả, có tính chuyên nghiệp.
Mặt khác, tính năng động, nhạy bén trong quản lý doanh nghiệp cũng
là yếu tố quan trọng, vì trong cùng một môi trường kinh doanh có doanh
nghiệp rất thành công trong khi doanh nghiệp khác lại thất bại. Năng lực
cạnh tranh/sức cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp được đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh

nghiệp, thể hiện qua chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Là tế bào




10
của nền kinh tế, sức cạnh tranh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho năng lực
cạnh tranh quốc gia.
Đồng thời năng lực cạnh tranh/sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng
thể hiện qua năng lực cạnh tranh/sức cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ
mà doanh nghiệp kinh doanh. Sức cạnh tranh của sản phẩm do nhiều yếu tố
cấu thành như: chất lượng hàng hoá, giá cả hợp lý, dịch vụ sau bán hàng tốt,
thương hiệu sản phẩm
1.1.2. Các tiêu chí để xem xét đánh giá sức canh tranh của doanh nghiệp
Thứ nhất: Doanh nghiệp phải nắm đầy đủ các thông tin, bao gồm các
thông tin về khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ cùng loại; Thông
tin về tình hình cung - cầu và giá cả; Thông tin về công nghệ mới thích hợp;
Thông tin về hoạt động và cả thủ đoạn của các đối thủ cạnh tranh.
Thứ hai: Khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Điều
không thể thiếu đối với một doanh nghiệp có sức cạnh tranh là biết cách tiếp
thị, chủ động xông ra thị trường, tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại,
tiến hành đàm phán ký kết hợp đồng có lợi nhất.
Thứ ba: Khả năng hợp tác, liên doanh, liên kết hữu hiệu với các doanh
nghiệp hữu quan.
Thứ tư: Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt thì việc đảm bảo "chữ
tín" có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Những hành động bất tín, gian lận,
chỉ có thể đem lại lợi ích nhỏ nhoi trước mắt, nhưng nhất định sẽ làm cho
doanh nghiệp thiệt hại nhiều và lâu dài, mất bạn hàng và chỗ đứng trên
thị trường.
Thứ năm: Chất lượng cao (đương nhiên mỗi mặt hàng và loại hình dịch

vụ có chuẩn mực riêng về chất lượng): yêu cầu đẹp, bền, mới, tiện dụng, phù
hợp với thói quen tiêu dùng và văn hoá của mỗi dân tộc, mẫu mã bao bì hấp
dẫn, thương hiệu hàng hoá tin cậy.




11
Thứ sáu: Một tiêu chuẩn không thể thiếu được trong thời đại hiện nay
là: đảm bảo vệ sinh môi trường, văn hoá, đạo đức trong kinh doanh (đối với
hàng hoá), an toàn và nhanh chóng tiện lợi (đối với dịch vụ).
Thứ bảy: Giá thành phải đủ sức cạnh tranh với hàng hoá và dịch vụ
cùng loại của các nước, chỉ ít là các nước trong khu vực và đối với những đối
thủ cạnh tranh với doanh nghiệp.
1.1.3. Những nhân tố cấu thành và ảnh hưởng đến sức cạnh tranh
của doanh nghiệp
Sức cạnh tranh/khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy
trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường
cạnh tranh trong và ngoài nước.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp do nhiều yếu tố cấu thành và chịu
tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Tuy nhiên có thể chia làm hai nhóm: các
yếu tố bên trong doanh nghiệp và các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp.
1.1.3.1. Các nhân tố bên trong cấu thành năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp
Chìa khoá để hiểu và phân tích năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
nói chung là phải xác định được các yếu tố cấu thành của chúng. Đây là vấn
đề sống còn đối với từng doanh nghiệp. Vấn đề này được bàn luận trong thời
gian khá dài trên cả hai lĩnh vực hoạt động nghiên cứu và hoạt động thực tiễn.
Khái quát lại năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một tập hợp bao gồm
các yếu tố như: Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp; năng suất lao động;

tiềm lực tài chính của doanh nghiệp; chất lượng nguồn nhân lực và trình độ
quản lý doanh nghiệp; trình độ khoa học công nghệ của doanh nghiệp; hệ
thống phân phối và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Thứ nhất: Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp bị chi phối bởi chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp đúng hay sai. Nếu có chiến lược đúng và trình độ khoa học công
nghệ cao (đặc biệt là công nghệ quản lý thì sức cạnh tranh sẽ được nâng cao)




12
Theo Albert, J.Dunlap, "Chiến lược của doanh nghiệp phải hội tụ như
tia la de, không toả rộng như viên đạn ghém".
Theo Raymon Alain Thretart, trong cuốn chiến lược doanh nghiệp, nhà
xuất bản Thanh niên Hà Nội năm 1999 thì: Chiến lược là tổng thể các quyết
định, các hành động liên quan tới việc lựa chọn các phương tiện và phân bổ
nguồn nhân lực đạt được mục tiêu nhất định.
M.Porter, giáo sư nổi tiếng về chiến lược kinh doanh của Trường đại
học Haward, đã phát biểu những quan niệm của mình về chiến lược qua bài
báo "chiến lược là gì?" năm 1996:
Một là: Chiến lược là sự sáng tạo ra vị thế có giá trị và độc đáo bao
gồm các hoạt động khác biệt.
Hai là: Chiến lược là sự lựa chọn, đánh đổi trong kinh doanh.
Ba là: Chiến lược là việc tạo ra sự phù hợp giữa tất cả các hoạt động
của công ty.
Hội tụ chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại
chiến lược khác nhau, được phân loại theo cấp độ chiến lược và phạm vi
chiến lược bao gồm: Chiến lược kinh doanh tổng hợp và chiến lược các yếu
tố, bộ phận hợp thành đặc thù cho từng lĩnh vực, giải quyết từng vấn đề kinh

doanh để thực hiện chiến lược tổng quát.
Chiến lược kinh doanh tổng quát, đề cập những vấn đề quan trọng nhất,
bao trùm nhất và có ý nghĩa quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp
như: Phương thức kinh doanh, chủng loại hàng hoá, dịch vụ được lựa chọn
sản xuất kinh doanh, thị trường tiêu thụ, các mục tiêu về tài chính và các chỉ
tiêu tăng trưởng
Dưới đây là khái quát một số chiến lược quan trọng trong chiến lược
kinh doanh của doanh nghiệp:
- Chiến lược mặt hàng và dịch vụ: Chiến lược này chỉ rõ doanh nghiệp
chọn những mặt hàng nào để sản xuất kinh doanh: đa dạng hoá mặt hàng, hay




13
khác biệt hoá sản phẩm cần phải tiến hành các hoạt động dịch vụ nào đúng
nhu cầu thị trường. Đây là chiến lược quan trọng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
- Chiến lược thị trường và khách hàng: Xác định ai là khách hàng của
doanh nghiệp, thị trường nào là trọng điểm để doanh nghiệp dồn mọi công
sức nhằm đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng và bằng cách nào để lôi kéo
khách hàng đến với doanh nghiệp.
- Chiến lược vốn kinh doanh: Xác định nhu cầu vốn kinh doanh cần
cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức huy động vốn để
đảm bảo đủ vốn và cách phân phối, sử dụng vốn có hiệu quả.
- Chiến lược Maketing hỗn hợp bao gồm: Chiến lược sản phẩm, giá cả
phân phối, giao tiếp và khuyếch trương.
- Chiến lược cạnh tranh: Chiến lược này xác định các đối thủ cạnh
tranh của doanh nghiệp, tuỳ theo vị thế, hoàn cảnh môi trường kinh doanh và
sức mạnh của đối thủ cạnh tranh mà đề ra chiến lược cạnh tranh có hiệu quả.

- Chiến lược nguồn nhân lực: Chiến lược phát triển nguồn nhân lực là
yếu tố tiềm năng quan trọng nhất của doanh nghiệp và nó cũng là yếu tố quyết
định hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp qua đó ảnh hưởng đến
sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tóm lại: Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp đóng vai trò quyết
định đến việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thứ hai: Năng suất lao động: theo quan niệm truyền thống, sức cạnh
tranh phụ thuộc vào những lợi thế so sánh về nguồn tài nguyên và nhân lực.
Nhưng ngày nay không thể giải thích được đối với những nước có nguồn tài
nguyên nghèo nàn nhưng vẫn có sức cạnh tranh cao. Vì vậy sức cạnh tranh
phải được tạo ra từ năng suất cao hơn trong quản lý, sử dụng tối ưu các nguồn
nhân lực. Năng suất là cơ sở cạnh tranh lâu dài bền vững.




14
Thứ ba: Trình độ thiết bị công nghệ: Thiết bị, công nghệ sản xuất là
yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Công nghệ phù hợp cho phép rút ngắn thời gian sản xuất, giảm mức
tiêu hao năng lực, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng
sản phẩm, tạo ra lợi thế quan trọng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Công
nghệ còn tác động tới tổ chức sản xuất của doanh nghiệp, nâng cao trình độ
cơ khí hoá, tự động hoá của doanh nghiệp. Để có công nghệ phù hợp, doanh
nghiệp cần có thông tin về công nghệ, chuyển giao công nghệ, tăng cường
ứng dụng công nghệ thông tin, đầu tư đổi mới công nghệ. Đồng thời, doanh
nghiệp cần đào tạo nâng cao trình độ tay nghề để sử dụng có hiệu quả công
nghệ hiện đại.
Thứ tư: Trình độ người lao động trong doanh nghiệp: Người lao động
(nguồn nhân lực) là một yếu tố có tính quyết định của lực lượng sản xuất, có

vai trò rất quan trọng trong sản xuất - xã hội nói chung và trong cạnh tranh
kinh tế hiện nay. Các nhà kinh tế Mỹ cho rằng vũ khí cạnh tranh quyết định
trong thế kỷ XXI là giáo dục và kỹ năng của người lao động. Trong doanh
nghiệp sức lao động là yếu tố đầu vào của sản xuất, người lao động là người
trực tiếp sử dụng phương tiện, thiết bị để sản xuất ra sản phẩm hàng hoá và
dịch vụ. Người lao động còn là lực lượng tham gia tích cực vào quá trình cải
tiến kỹ thuật, hợp lý hoá quy trình sản xuất và thậm chí góp sức vào những
sáng kiến, sáng chế Do vậy, trình độ của người lao động tác động rất lớn
đến chất lượng và độ tinh xảo của sản phẩm ảnh hưởng lớn đến năng suất và
chi phí của doanh nghiệp. Đây là yếu tố quan trọng tác động đến năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp. Để nâng cao sức cạnh tranh, doanh nghiệp cần
chú trọng bảo đảm chất lượng và số lượng lao động. Để nâng cao tay nghề
của người lao động, doanh nghiệp cần chú trọng công tác đào tạo, nâng cao
tay nghề dưới nhiều hình thức, đầu tư kinh phí thoả đáng, khuyến khích người
lao động tham gia vào quá trình quản lý, sáng chế, cải tiến




15
Thứ năm: Chi phí kinh doanh trong đó bao gồm chi phí nghiên cứu và
phát triển mới (R&D); các chi phí tiện ích (điện, nước); chi phí vận tải; chi
phí thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh là những nhân tố quan trọng ảnh
hưởng đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp, chi phí nghiên cứu và phát
triển doanh nghiệp là chi phí quan trọng trong nền kinh tế hiện đại. Chi phí
cho nghiên cứu phát triển doanh nghiệp gồm nhiều yếu tố thành phần như:
nhân lực nghiên cứu, thiết bị tài chính cho hoạt động nghiên cứu phát triển
(R&D), khả năng đổi mới sản phẩm của doanh nghiệp. Năng lực nghiên
cứu và phát triển có vai trò quan trọng trong cải tiến, nâng cao chất lượng
sản phẩm, thay đổi mẫu mã, nâng cao năng suất, hợp lý hoá sản xuất, do

vậy năng lực này càng quan trọng trong điều kiện cách mạng khoa học
công nghệ diễn ra mạnh mẽ trên thế giới hiện nay. Các chi phí điện nước
luôn là một yếu tố được xem xét khi có dự án đầu tư, nhất là đầu tư nước
ngoài. Nó cũng được xem xét đến khi so sánh sức cạnh tranh giữa các
nước. Điều này cho thấy chi phí điện nước ảnh hưởng không nhỏ tới giá
thành sản phẩm trong một số ngành và nó ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Thứ sáu: Năng lực tài chính của doanh nghiệp: Năng lực tài chính của
doanh nghiệp được thể hiện ở quy mô vốn, khả năng huy động vốn và sử
dụng vốn có hiệu quả, năng lực quản lý tài chính Trước hết, năng lực tài
chính gắn với vốn là một yếu tố sản xuất cơ bản và là một đầu vào của doanh
nghiệp. Do đó, việc sử dụng vốn có hiệu quả, quay vòng vốn nhanh có ý
nghĩa rất lớn trong việc giảm chi phí vốn, giảm giá thành sản phẩm. Đồng
thời, vốn còn là tiền đề đối với các yếu tố sản xuất khác. Việc huy động vốn
kịp thời nhằm đáp ứng nhu cầu vật tư nguyên liệu thể hiện năng lực tài chính
phản ánh sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp, là yêu cầu đầu tiên, bắt buộc
phải có nếu doanh nghiệp muốn nâng cao năng lực cạnh tranh để thành công
trong kinh doanh.




16
Để nâng cao năng lực tài chính, doanh nghiệp phải luôn củng cố và
phát triển nguồn vốn, tăng vốn tự có, mở rộng vốn vay dưới nhiều hình thức,
đồng thời điều quan trọng là doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các
nguồn vốn, để tạo uy tín đối với khách hàng, với ngân hàng và những cho
người vay vốn.
Thứ bảy: Trình độ và năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp: Năng lực
tổ chức, quản lý doanh nghiệp được coi là yếu tố có tính chất quyết định sự

tồn tại phát triển của doanh nghiệp nói chung cũng như năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp nói riêng. Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp được thể
hiện trên các mặt:
- Trình độ đội ngũ cán bộ quản lý: được thể hiện bằng những kiến thức
cần thiết để quản lý và điều hành, thực hiện các công việc đối nội và đối ngoại
của doanh nghiệp. Trình độ đội ngũ này không chỉ đơn thuần là trình độ học
vấn mà còn thể hiện những kiến thức rộng lớn và phức tạp thuộc nhiều lĩnh
vực liên quan tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ luật pháp trong
nước và quốc tế, thị trường, ngành hàng đến kiến thức xã hội, nhân văn. Ở
nhiều nước trình độ và năng lực của giám đốc doanh nghiệp nói riêng và đội
ngũ quản lý doanh nghiệp nói chung không chỉ được đo bằng bằng cấp của
các trường quản lý danh tiếng mà còn thể hiện ở tính chuyên nghiệp, ở tầm
nhìn xa trông rộng, có óc quan sát, phân tích, nắm bắt cơ hội kinh doanh, xử
lý các tình huống, giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra. Trình độ năng lực
của cán bộ quản lý tác động trực tiếp và toàn diện tới năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp - Thể hiện qua việc hoạch định và thực hiện chiến lược, lựa
chọn phương pháp quản lý, tạo động lực trong doanh nghiệp Tất cả những
việc đó không chỉ tạo ra không gian sinh tồn và phát triển của sản phẩm mà
còn tác động đến năng suất, chất lượng và giá thành, uy tín của doanh nghiệp.
- Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp thể hiện ở việc sắp xếp, bố trí
cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và phân định rõ chức năng nhiệm vụ của các
bộ phận, việc hình thành tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp theo hướng




17
tinh gọn và hiệu lực cao có ý nghĩa quan trọng không chỉ bảo đảm hiệu quả
quản lý cao, ra quyết định nhanh chóng, chính xác mà còn làm giảm tương
đối chi phí quản lý doanh nghiệp. Nhờ đó mà nâng cao năng lực cạnh tranh

của doanh nghiệp.
- Trình độ năng lực quản lý của doanh nghiệp còn thể hiện trong việc
hoạch định chiến lược kinh doanh, lập kế hoạch, điều hành tác nghiệp Điều
này có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
trong ngắn hạn và do đó có tác động mạnh tới việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, một số yếu tố khác như lợi thế về địa lý, ngành nghề kinh
doanh của doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp có ảnh hưởng tới năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp.
Mô hình chuỗi giá trị của M.Porter cho thấy các yếu tố bên trong tác
động đến năng lực cạnh tranh thông qua phát huy lợi thế cạnh tranh của doanh
nghiệp với hai loại hoạt động là hoạt động hỗ trợ và hoạt động chính như sau:
Bảng 1.1: Mô hình chuỗi giá trị của M.Porter
A E H
Các Nền tảng chung (quản trị, tài chính, kế toán, kế hoạch hoá, chiến lược)
hoạt Quản trị nhân lực (tuyển dụng, đào tạo, phát triển)
động Phát triển công nghệ (R&D, cải tiến sản phẩm/quá trình)
hỗ trợ Mua sắm (nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị đầu vào khác)
Hậu
cần
đầu
vào
(tiếp
nhận
nguyê
n vật
liệu
và lưu
kho)
Sản xuất

(gia công,
chế biến,
lắp ráp,
kiểm tra
chất
lượng)
Hậu cần
đầu ra
(lưu kho
và phân
phối)
Tiếp thị
hàng
(quảng cáo,
xúc tiến
bán, đặt giá
kênh phân
phối
Dịch vụ (lắp, đặt,
bảo dưỡng, sửa
chữa, thay thế )
B Các hoạt động chính C F
Nguồn: M.Porter 1990.
Biªn
lîi
nhuË
n

G


D




18
1.1.3.2. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
Có rất nhiều yếu tố bên ngoài tác động đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, thuộc 4 nhóm yếu tố sau:
- Các điều kiện yếu tố đầu vào gồm 5 phân nhóm: kết cấu hạ tầng vật
chất - kỹ thuật; hạ tầng hành chính, nguồn nhân lực, hạ tầng công nghệ, thị
trường tài chính.
- Các điều kiện về cầu: sở thích người mua, tình hình pháp luật về tiêu
dùng, về công nghệ thông tin
- Các ngành cung ứng và các ngành liên quan: chất lượng và số lượng
các nhà cung cấp địa phương, khả năng tại chỗ về nghiên cứu chuyên biệt và
dịch vụ đào tạo, mức độ hợp tác giữa các khu vực kinh tế, khả năng cung cấp
tại chỗ các chi tiết và các phụ kiện máy móc.
- Bối cảnh đối với chiến lược và cạnh tranh của doanh nghiệp gồm hai
phân nhóm là động lực và cạnh tranh (các rào cản vô hình, sự cạnh tranh của
các nhà sản xuất địa phương, hiệu quả của công việc chống độc quyền)
Theo logic truyền thống, các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp tác động
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được phân chia thành các nhóm sau
đây: Thị trường, thể chế, chính sách, kết cấu hạ tầng, các ngành hỗ trợ.
Thứ nhất: Thị trường: Thị trường là môi trường kinh doanh rất quan
trọng đối với doanh nghiệp. Thị trường một mặt thông qua hoạt động mua,
bán hàng hoá dịch vụ để giải quyết đầu ra và các yếu tố đầu vào, mặt khác thị
trường đồng thời còn là công cụ định hướng, hướng dẫn hoạt động của doanh
nghiệp thông qua mức cầu, giá cả, lợi nhuận để định hướng chiến lược, kế
hoạch kinh doanh. Như vậy, sự ổn định của thị trường có ý nghĩa rất quan

trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp nói chung và nâng cao sức cạnh
tranh của doanh nghiệp nói riêng. Để phát huy vai trò các yếu tố thị trường
đối với doanh nghiệp, cần có sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường nhằm
ổn định thị trường (hạn chế những biến động lớn của thị trường), tạo lập môi




19
trường cạnh tranh tích cực và hiệu quả, chống gian lận thương mại, hạn chế
độc quyền kinh doanh Điều quan trọng là tạo lập môi trường cạnh tranh tích
cực, tăng sức ép đổi mới quản lý, cải tiến quy trình sản xuất, ứng dụng thành
tựu khoa học - công nghệ, đổi mới và đa dạng hoá sản phẩm tạo động lực
cho doanh nghiệp để vươn lên.
Để tạo lập và duy trì môi trường ổn định và hiệu quả, Nhà nước cần
xây dựng và thực hiện pháp luật nhằm khuyển khích cạnh tranh tích cực,
chống độc quyền, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, xử lý nghiêm các hành vi gian
lận thương mại tạo điều kiện thị trường lành mạnh và ổn định thì doanh
nghiệp mới có điều kiện để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Ngoài ra,
cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập thị trường, tạo ra nhiều nhà cung
cấp cũng như nhiều đối tác kinh doanh, nhiều khách hàng cho doanh nghiệp.
Thứ hai: Thể chế, chính sách: Thể chế, chính sách là tiền đề quan trọng
cho hoạt động của doanh nghiệp. Nội dung của thể chế chính sách bao gồm
các quy định pháp luật, các biện pháp hạn chế hay khuyến khích đầu tư, kinh
doanh đối với hàng hoá, dịch vụ, ngành nghề, địa bàn Thể chế chính sách
bao gồm: Pháp luật, chính sách về đầu tư, tài chính tiền tệ, đất đai, công nghệ,
thị trường nghĩa là các biện pháp điều tiết cả đầu vào và đầu ra cũng như
toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy, đây là nhóm yếu tố rất
quan trọng và bao quát rất nhiều vấn đề liên quan tới hoạt động của doanh
nghiệp nói chung và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng.

Thế chế, chính sách về đầu tư nhằm tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi
và an toàn, kích thích doanh nghiệp mở rộng đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào
ngành, lĩnh vực, địa bàn, sản phẩm mới. Thể chế, chính sách đầu tư có tác
dụng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, tiết kiệm thời gian, nguồn lực,
giảm chi phí đầu tư của doanh nghiệp.
Thể chế, chính sách về đất đai, vốn, công nghệ, lao động nhằm tạo
điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận thuận lợi các yếu tố đầu vào, kích thích




20
và điều tiết việc sử dụng chúng có hiệu quả hơn, đồng thời tạo tiền đề cho các
doanh nghiệp giảm chi phí sử dụng các yếu tố đầu vào.
Thể chế, chính sách về thương mại nhằm tạo điều kiện thuận lợi, tạo
môi trường bình đẳng đối với các doanh nghiệp
Các thể chế, chính sách đối với doanh nghiệp có thể được đánh giá theo
từng chính sách hoặc bằng chỉ tiêu tổng hợp với nhiều cách tiếp cận khác
nhau, chẳng hạn để đánh giá việc thực hiện thể chế chính sách đối với các
doanh nghiệp ở Việt Nam, quỹ Châu Á và phòng công nghiệp thương mại
Việt Nam (VCCI) đã tiến hành nghiên cứu đánh giá môi trường kinh doanh
với 9 chỉ tiêu thành phần: về đăng ký kinh doanh, chính sách đất đai, tình hình
thanh tra, kiểm tra, chính sách phát triển, tính minh bạch, chi phí giao dịch,
tính năng động của chính quyền.
Thứ ba: Kết cấu hạ tầng: Kết cấu hạ tầng bao gồm hạ tầng vật chất kỹ
thuật và hạ tầng xã hội bao gồm hệ thống giao thông, mạng lưới điện, hệ
thống thông tin, hệ thống giáo dục đào tạo Đây là tiền đề quan trọng, tác
động mạnh đến hoạt động của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến chất lượng và giá
cả sản phẩm. Để đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động bình thường và nâng
cao năng lực cạnh tranh, cần có hệ thống kết cấu hạ tầng đa dạng, có chất

lượng tốt. Điều đó đòi hỏi có sự đầu tư phát triển.
Thứ tư: Các ngành công nghiệp, dịch vụ hỗ trợ: Trong nền sản xuất
hiện đại, cùng với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì sự liên kết, hợp tác
cũng phát triển mạnh mẽ. Thực tế chỉ ra rằng, khi trình độ sản xuất càng hiện
đại thì sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn.
Các ngành công nghiệp hỗ trợ không những có tác động đến thời gian
sản xuất, năng suất, chất lượng mà còn ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm
của nhiều doanh nghiệp. Để phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ hỗ trợ,
cần tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển các ngành này.




21
Thứ năm: Trình độ nguồn nhân lực của quốc gia: Trình độ nguồn nhân
lực của quốc gia nói chung có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển
doanh nghiệp. Trong nền sản xuất hiện đại, đặc biệt là trong xu hướng chuyển
sang nền kinh tế tri thức thì chất lượng nguồn nhân lực mà một quốc gia hay
một vùng lãnh thổ được quan tâm nhất khi các doanh nghiệp lựa chọn đầu tư.
Trình độ và các điều kiện về nguồn nhân lực thể hiện ở kỹ năng của nguồn
nhân lực, mức lương, hệ thống lương, điều kiện làm việc, sức khoẻ và an
toàn, đầu tư cho đào tạo, vai trò của công đoàn. Để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, cần chú trọng giáo dục và đào tạo, tạo điều kiện để các cơ sở
đào tạo, các hoạt động đào tạo phát triển thông qua cơ chế, chính sách và các
biện pháp khác của nhà nước.
- Các đối thủ cạnh tranh: Hiểu về các đổi thủ cạnh tranh là điều rất
quan trọng đối với các doanh nghiệp. Khi xem xét yếu tố này cần xác định rõ
5 vấn đề sau đây:
+ Những ai là đối thủ cạnh tranh ? Trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp có thể là các doanh nghiệp

trong nước và ngoài nước cùng tham gia sản xuất hàng hoá cung cấp cho thị
trường. Chẳng hạn, một doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt kim vào thị trường
Nhật Bản, cần phải biết rõ trên thị trường Nhật có bao nhiêu nhà xuất khẩu
đã và đang xuất khẩu hàng dệt kim vào thị trường Nhật, bao nhiêu doanh
nghiệp của nước khác và bao nhiêu doanh nghiệp của Việt Nam.
+ Chiến lược của đối thủ cạnh tranh ? Những đối thủ cạnh tranh gần
nhất của doanh nghiệp là những đối thủ cùng theo đuổi những thị trường mục
tiêu giống nhau. Việc phát hiện được chiến lược của đối thủ cạnh tranh thế nào ?
Họ sử dụng chiến lược gì trong mô hình chiến lược sản phẩm, giá cả, phân phối,
xúc tiến thương mại là rất quan trọng và có ý nghĩa "biết người, biết ta".
+ Mục tiêu của đối thủ cạnh tranh là gì ? Thông thường các doanh
nghiệp đều có mục tiêu cao nhất là tối đa hoá lợi nhuận. Nhưng trong các thời




22
điểm khác nhau, điều kiện hoàn cảnh khác nhau thì mục tiêu này bị "che phủ"
bởi những hoạt động như: duy trì giá ở mức cao hay giảm giá, giảm sản
lượng Do đó, doanh nghiệp phải hiểu được các loại mục tiêu của đối thủ
cạnh tranh, kể cả mục tiêu trước mắt và lâu dài.
+ Những điểm yếu, điểm mạnh của đối thủ cạnh tranh? Hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường gặp nhiều cơ hội và rủi ro, phân
tích các điểm mạnh, yếu của đối thủ cạnh tranh là nhằm khai thác các cơ hội
và hạn chế rủi ro.
+ Cách thức phản ứng của đối thủ cạnh tranh? Trước sự biến động của
môi trường kinh doanh và thị trường, các doanh nghiệp có thể gặp cơ may
hay hiểm hoạ, rủi ro. Rủi ro có thể là thị hiếu của người tiêu dùng đã chuyển
sang các mặt hàng khác, đối thủ cạnh tranh mới xuất hiện, hoặc hiểm hoạ của
sự suy thoái kinh tế Đứng trước cơ may hay hiểm hoạ các doanh nghiệp

khác nhau sẽ có những phản ứng không giống nhau. Chẳng hạn trước hiểm
hoạ doanh nghiệp có thể tìm cách "rút khỏi thị trường" hoặc chủ động "lật lại"
tình thế thị trường. Một nguy cơ xuất hiện, có thể đối thủ cạnh tranh sẽ tập
trung toàn bộ sức lực để tập trung vào khai thác.
Nói tóm lại, khi đánh giá các yếu tố tác động đến sức cạnh tranh của
một doanh nghiệp cần phải xem xét đầy đủ các yếu tố tác động, từ đó mà "gạn
đục, khơi trong" tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao sức cạnh tranh
của doanh nghiệp.
1.2. DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN TỪ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ
SỨC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN ĐƯỢC HÌNH THÀNH TỪ
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.2.1. Doanh nghiệp cổ phần được hình thành từ doanh nghiệp nhà
nước và những đặc trưng của nó
* Doanh nghiệp cổ phần từ doanh nghiệp nhà nước:
Trong lịch sử, có 3 con đường hình thành công ty cổ phần: (1) Con
đường truyền thống: bắt đầu từ doanh nghiệp một chủ sang hình thức công ty




23
(có 2 chủ trở lên) rồi lên công ty cổ phần theo trình tự tự nhiên; (2) Liên
doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với tư nhân trong và ngoài nước (3)
Chuyển doanh nghiệp nhà nước sang cổ phần, con đường này gọi là cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nước.
Để xác định thực chất doanh nghiệp cổ phần từ doanh nghiệp nhà nước,
trước hết phải phân biệt 2 quá trình: cổ phần hoá và tư nhân hoá.
Trong đời sống kinh tế ở nhiều nước đã diễn ra quá trình tăng cường
vai trò của khu vực tư nhân bằng cách giảm thiểu khu vực nhà nước thông
qua chương trình tư nhân hoá. Ví dụ như tư nhân hoá ở nước Anh, tư nhân

hoá ở các nước đang phát triển, tư nhân hoá ở các nước có nền kinh tế
chuyển đổi ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu Tại các nước này, tư nhân hoá
diễn ra theo 3 mức độ "(1) Thay đổi một phần chế độ sở hữu của xí nghiệp,
chuyển một phần từ sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân; (2) Tự do hoá
việc tham gia những hoạt động mà trước đây chỉ dành cho khu vực nhà
nước; (3) Uỷ quyền kinh doanh hoặc cho phép tư nhân ký hợp đồng thực
hiện những dịch vụ công cộng hoặc cho khu vực tư nhân thuê các tài sản
công cộng" [17].
Cũng tại các nước này, tư nhân hoá còn được biểu hiện là thị trường
hoá, nới lỏng hay bớt các hạn chế pháp lý dưới nhiều hình thức khác nhau đối
với sự cạnh tranh chống lại các xí nghiệp công cộng; nó bao gồm mọi chính
sách để khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào việc cung cấp dịch vụ
công cộng và hạ tầng cơ sở và có khuynh hướng loại trừ hoặc thay đổi vị trí
độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước. Liên hiệp quốc cũng đưa ra quan
niệm: tư nhân hoá là sự biến đổi tương quan giữa nhà nước và thị trường
trong đời sống kinh tế của một nước theo hướng ưu tiên thị trường. Quan
niệm này cho thấy toàn bộ những chính sách, luật lệ, thể chế nhằm khuyến
khích, mở rộng và phát triển khu vực kinh tế tư nhân hay các thành phần kinh
tế ngoài quốc doanh, giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào các




24
hoạt động kinh doanh của các đơn vị cơ sở, giành cho thị trường điều tiết
đáng kể qua tự do hoá giá cả. Thực chất quan niệm trên mong muốn giảm bớt
vai trò của nhà nước và mở rộng khu vực tư nhân, đồng thời làm cho các
doanh nghiệp nhà nước phải chịu sức ép lớn hơn của thị trường. Việc giảm
bớt vai trò của nhà nước có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau,
trong đó có biện pháp bán cổ phần cho công chúng hay còn gọi là cổ phần hoá

doanh nghiệp nhà nước. Từ đó cho rằng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
là một nội dung của tư nhân hoá.
Song nếu hiểu dưới góc độ tính chất của các quan hệ kinh tế (quan hệ
sở hữu về tài sản, tiền vốn) thì không thể cho rằng cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước là tư nhân hoá.
Thực tế, nhiều nước đã diễn ra quá trình doanh nghiệp tư nhân thuần
tuý hoặc doanh nghiệp của một nhóm chủ thông qua phát hành cổ phiếu thu
hút thêm vốn của các chủ sở hữu khác ngoài xã hội để chuyển thành công ty
cổ phần. Sau khi trở thành công ty cổ phần, chủ sở hữu doanh nghiệp không
còn là cá nhân riêng lẻ nữa mà là tập thể các cổ đông. Quá trình này cũng diễn
ra trong các doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước (mà trực tiếp là một cơ quan
có thẩm quyền được nhà nước giao) dựa trên cơ sở giá trị thực tế của doanh
nghiệp cần được cổ phần hoá xác định số lượng cổ phần, giá trị mỗi cổ phần,
các loại cổ phiếu, phương thức phát hành phiếu, sau đó bán cổ phiếu cho các
tổ chức kinh tế - xã hội và công chúng, chuyển doanh nghiệp từ chỗ chỉ có
một chủ sở hữu là nhà nước thành doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu
Thực tế ở các nước doanh nghiệp nhà nước chuyển thành doanh nghiệp
cổ phần thông qua 2 bước:
1- Bán toàn bộ hoặc một phần tài sản hiện có thuộc sở hữu nhà nước tại
doanh nghiệp cho các tổ chức kinh tế, xã hội và cá nhân (công chúng) bằng
phương thức phát hành cổ phiếu.
2- Giữ nguyên toàn bộ giá trị vốn hiện có của nhà nước tại doanh nghiệp,
phát hành cổ phiếu ra công chúng để thu hút thêm vốn mở rộng doanh nghiệp




25
Cả hai phương thức đều là quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước - Quá trình chuyển sang một hình thức sở hữu xã hội có các chủ thể sở

hữu cụ thể. Quá trình này đồng thời chuyển việc quản lý trực tiếp doanh
nghiệp từ chủ sở hữu nhà nước thành quản lý gián tiếp của chủ sở hữu là các
cổ đông thông qua hội đồng quản trị. Với nội dung trên, không thể quan niệm
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là tư nhân hoá, cũng không nên phiến
diện cho rằng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chỉ là quá trình chuyển tài
sản thuộc sở hữu nhà nước sang sở hữu của các cổ đông. Thực chất của cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước là quá trình doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà
nước thành công ty cổ phần, là quá trình đa dạng hoá sở hữu tại doanh nghiệp
vốn thuộc sở hữu nhà nước để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường
và kinh doanh hiện đại, tạo động lực mới trong thu hút vốn, đổi mới quản lý
và phân phối sản phẩm.
* Những đặc trưng của doanh nghiệp cổ phần được hình thành từ
doanh nghiệp nhà nước:
Thứ nhất: Là doanh nghiệp đa hình thức sở hữu.
Đây là một hình thức tổ chức doanh nghiệp có nhiều chủ đồng sở hữu.
Vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là các cổ phần.
Cổ phần là phần vốn cơ bản của công ty thể hiện một lượng giá trị thực tế tính
bằng tiền. Số tiền cổ phần được ghi vào một tờ giấy gọi là cổ phiếu. Cổ phiếu
chứng minh tư cách thành viên của người góp vốn vào công ty cổ phần.
Những thành viên này gọi là cổ đông. Mỗi cổ đông có thể mua một hoặc
nhiều cổ phần ở doanh nghiệp cổ phần tuỳ theo năm công tác, xác định để
được hưởng cổ phần ưu đãi từ phần vốn nhà nước có tại doanh nghiệp. Có 2
loại cổ phiếu ghi danh và không ghi danh. Cổ phiếu có ghi tên thường được
bán cho những người sáng lập viên và thành viên của hội đồng quản trị. Cổ
phiếu không ghi tên (vô danh) được đấu giá bán cho mọi đối tượng trên thị
trường và được chuyển nhượng tự do. Còn cổ phiếu có ghi tên chỉ được

×