Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Tài liệu Luận văn " ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ TẠI THỊ TRƯỜNG HOA KỲ " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (834.32 KB, 109 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
 




KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP



Đề tài
ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ
TẠI THỊ TRƯỜNG HOA KỲ





GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : THS. PHẠM THỊ MAI
KHANH
SINH VIÊN : CHỬ THỊ MINH HIẾU
LỚP : ANH 9 - K38C - KTNT










HÀ NỘI - 12/2003
Mục lục
Lời nói đầu 1
CHƯƠNG I: NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ VÀ ĐĂNG KÝ NHÃN HIỆU HÀNG
HOÁ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 3
I. Khái quát chung về nhãn hiệu hàng hoá 3
1. Khái niệm nhãn hiệu hàng hoá 3
1.1 Định nghĩa nhãn hiệu hàng hoá 3
1.2 Phân biệt nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu thương mại và thương hiệu 5
2. Một số loại nhãn hiệu hàng hoá 6
2.1 Nhãn hiệu liên kết 6
2.2 Nhãn hiệu tập thể 7
2.3 Nhãn hiệu nổi tiếng 7
2.4 Nhãn hiệu chứng nhận 8
3. Điều kiện đối với các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá 8
3.1 Các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá được bảo hộ 8
3.2 Các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá không được bảo hộ 9
4. Chức năng, vai trò của nhãn hiệu hàng hoá 10
4.1 Đối với người tiêu dùng 10
4.2 Đối với doanh nghiệp 14
4.3 Đối với quốc gia 14
II. Tầm quan trọng của việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá trong thương
mại quốc tế 15
1. Sự hình thành và phát triển hệ thống luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá 15
2. Tác dụng của việc đăng ký nhãn hiệu trong thương mại quốc tế 16
2.1 Đối với doanh nghiệp thương mại nói chung 16
2.1.1 Chống lại hành vi giả mạo và cạnh tranh không lành mạnh 16
2.1.2 Tạo khả năng độc quyền khai thác thương hiệu 18
2.1.3 Thúc đẩy hợp tác, liên doanh liên kết và chuyển giao công nghệ 18

2.1.4 Thâm nhập thị trường nước ngoài dễ dàng 19
2.1.5 Đứng vững trước rào cản cạnh tranh không lành mạnh tại thị
trường nước ngoài 20
2.1.6 Góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế 20
2.2 Đối với các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu nói riêng 21
2.2.1 Khắc phục khả năng tài chính hạn hẹp 21
2.2.2 Khắc phục hiểu biết hạn chế về thị trường đối tác 21
2.2.3 Tạo chỗ đứng và nâng cao vị thế của hàng Việt Nam 22
III. Thực trạng nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam về việc đăng ký
nhãn hiệu hàng hoá 22
1. Thực trạng việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá trong nước 22
2. Thực trạng việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá ở thị trường nước ngoài . 25
CHƯƠNG II: ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ TẠI THỊ
TRƯỜNG HOA KỲ 27
I. Các quy định pháp lý của Hoa Kỳ về nhãn hiệu hàng hoá 27
1. Các Điều ước quốc tế về nhãn hiệu hàng hoá mà Hoa Kỳ là thành viên 27
1.1 Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp 27
1.2 Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ 30
1.3 Hiệp ước Luật nhãn hiệu hàng hoá 33
1.4 Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá trong các Hiệp định song phương 36
2. Luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của Hoa Kỳ 38
2.1 Những quy định cơ bản về nhãn hiệu hàng hoá trong Luật Liên bang 40
2.1.1 Đối tượng được bảo hộ 40
2.1.2 Phạm vi và thời hạn bảo hộ 41
2.1.3 Nguyên tắc bảo hộ 42
2.1.4 Hình thức xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá 42
2.2 Những điểm khác biệt giữa Luật riêng từng bang và Luật Liên bang 43

II. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại Hoa Kỳ 45
1. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá trực tiếp tại Hoa Kỳ 45

1.1 Nộp đơn đăng ký và thẩm tra đơn đăng ký 47
1.1.1 Cơ sở nộp đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá 47
1.1.2 Nội dung của đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá 47
1.1.3 Người có quyền nộp đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá 48
1.2 Chỉ định người đại diện 49
1.3 Xét nghiệm đơn đăng ký và công bố kết quả xét nghiệm 49
1.4 Thể thức khiếu nại 51
2. Đăng ký nhãn hiệu hàng hoá qua Internet vào thị trường Hoa Kỳ 54
2.1 Quy trình đăng ký nhãn hiệu hàng hoá qua Internet 54
2.2 Một số điểm cần lưu ý 57
CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO
HỘ NHÃN HIỆU HÀNG VIỆT NAM TẠI THỊ TRƯỜNG HOA KỲ 60
I. Một số điểm cần lưu ý đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi tiến hành
đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại Hoa Kỳ 60
1. Thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam bị mất thương hiệu trên thị trường
Hoa Kỳ 61
1.1 Cuộc chiến thương hiệu cá da trơn Catfish 61
1.2 Vụ tranh chấp thương hiệu cà phê Trung Nguyên 63
1.3 Vụ tranh chấp thương hiệu PetroVietnam 64
1.4 Các vụ tranh chấp thương hiệu khác 66
2. Những tồn tại trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị
trường Hoa Kỳ 68
2.1 Nhận thức của doanh nghiệp về nhãn hiệu và đăng ký nhãn hiệu 68
2.2 Tâm lý lo ngại thủ tục khó khăn và tốn kém 69
2.3 Hiểu biết hạn chế về luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của Hoa Kỳ 70
II. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ nhãn hiệu hàng Việt Nam
tại thị trường Hoa Kỳ 70
1. Đối với các cơ quan chức năng của Nhà nước 70
1.1 Tích cực chỉ đạo công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật về bảo hộ nhãn
hiệu hàng hoá của Hoa Kỳ 70

1.2 Tuyên truyền về vai trò của thương hiệu và bảo hộ thương hiệu 71
1.3 Tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp về vấn đề thông tin 72
1.4 Xây dựng hệ thống luật thương mại điện tử 73
1.5 Các biện pháp khác 74
2. Đối với các doanh nghiệp 74
2.1 Nâng cao nhận thức về sức mạnh thương hiệu và bảo hộ thương hiệu 74
2.2 Chủ động tiếp cận các thông tin, đặc biệt là các thông tin pháp lý 76
2.3 Quan tâm đến việc đăng ký bảo hộ thương hiệu ở nước ngoài 77
2.4 Lưu trữ đầy đủ bằng chứng sử dụng thương hiệu trong hoạt động thương mại 77
2.5 Các biện pháp ngăn ngừa tranh chấp nhãn hiệu hàng hoá 78
2.6 Nâng cao trình độ ngoại ngữ, vi tính của các doanh nhân 80
Kết luận 81
Phụ lục 82
Tài liệu tham khảo 90
Lời nói đầu
Chưa bao giờ vấn đề thương hiệu lại trở thành một chủ đề thời sự được
các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội thương mại
quan tâm một cách đặc biệt như hiện nay. Nhiều hội thảo, hội nghị đã được tổ
chức, hàng trăm bài báo và cả những trang website thường xuyên đề cập đến
các khía cạnh khác nhau của vấn đề này.
Một trong những khía cạnh được đề cập nhiều nhất có lẽ là tình trạng các
doanh nghiệp Việt Nam bị mất thương hiệu hay nhãn hiệu hàng hoá ở thị
trường nước ngoài, đặc biệt ở thị trường Hoa Kỳ. Chúng ta có thể kể ra hàng
loạt các vụ tranh chấp thương hiệu gần đây như cuộc chiến Catfish giữa các
nhà xuất khẩu cá Tra, cá Basa Việt Nam với Hiệp hội các chủ trại cá nheo Mỹ
(CFA) về việc sử dụng thương hiệu “Catfish” cho các loại cá nói trên của Việt
Nam nhập khẩu vào Mỹ; cuộc chiến của Trung Nguyên đòi lại thương hiệu từ
chính đối tác là Rice Field Corp do họ đã đăng ký nhãn hiệu này trước tại Mỹ;
các nhãn hiệu Vinataba, Vinatea đều đã bị đăng ký sở hữu tại nhiều nước
trong đó có Mỹ.

Những sự kiện đó xảy ra ngay khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được
ký kết và bắt đầu được triển khai đã nhấn mạnh với chúng ta rằng: Hiệp định
có thể mở ra nhiều cơ hội làm ăn cho các doanh nghiệp Việt Nam, song cũng
là khởi đầu của nhiều thách thức mới. Làm ăn với một đối tác đầy tiềm năng
nhưng cũng khó lường như Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt
với không ít khó khăn. Bài học kinh nghiệm đắt giá đầu tiên mà một số doanh
nghiệp Việt Nam gặp phải khi tiếp cận thị trường Mỹ, đó là bài học về đăng
ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Thực tiễn đó khiến chúng ta phải đặt ra câu
hỏi: Làm thế nào để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam trong việc đăng ký
bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại Mỹ?
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, em đã mạnh dạn chọn
đề tài: “Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa Kỳ” làm đề
tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận
được bố cục thành 3 chương:
Chương I: Nhãn hiệu hàng hoá và đăng ký nhãn hiệu hàng hoá trong
thương mại quốc tế
Chương II: Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại thị trường Hoa
Kỳ
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả đăng ký nhãn hiệu hàng
hoá tại thị trường Hoa Kỳ
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Giảng viên - ThS. Phạm Thị
Mai Khanh, người đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Em cũng
xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các bạn đã giúp đỡ trong việc thu
thập tài liệu để hoàn thành khoá luận.
Do những hạn chế về thời gian nghiên cứu, về tài liệu thu thập và khả
năng của người viết, nội dung khoá luận khó tránh khỏi những sai sót và
khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự chỉ dẫn tận tình của các thầy cô
giáo cùng sự góp ý của các bạn.










 CHƯƠNG I 
NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ VÀ ĐĂNG KÝ NHÃN HIỆU HÀNG
HOÁ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ
1. Khái niệm nhãn hiệu hàng hoá
Trong thương mại quốc tế hiện nay có rất nhiều loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ được lưu thông. Mỗi loại sản phẩm hàng
hoá dịch vụ lại được nhiều hãng, nhiều công ty của nhiều nước khác nhau trên thế giới sản xuất ra, và mỗi loại sản phẩm hàng hoá
dịch vụ này lại có những chất lượng rất không giống nhau. Tuy vậy, người tiêu dùng trên thế giới lại có thể phân biệt được sản
phẩm hàng hoá và dịch vụ của những công ty khác nhau căn cứ vào nhãn hiệu hàng hoá của sản phẩm hàng hoá dịch vụ đó. Thí dụ,
ô tô là mặt hàng được nhiều công ty của nhiều nước sản xuất, nhưng người tiêu dùng có thể phân biệt được chất lượng của từng
loại ô tô mang các thương hiệu khác nhau và xác định được chủng loại xe nào là phù hợp với nhu cầu của mình. Nhãn hiệu hàng
hoá chính là chỉ dẫn ban đầu giúp người tiêu dùng phân biệt được sản phẩm hàng hoá dịch vụ của những nhà sản xuất kinh doanh
khác nhau và đánh giá được phần nào chất lượng của sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Vậy nhãn hiệu hàng hoá là gì?
1.1 Định nghĩa nhãn hiệu hàng hoá
Trong thực tế, mỗi quốc gia trên thế giới đều có quy định khác nhau về
nhãn hiệu hàng hoá. Tuy vậy, khi thương mại quốc tế ngày càng phát triển,
chu kỳ sống của hàng hoá dịch vụ bị rút ngắn lại dẫn đến việc xuất hiện ngày
càng nhiều những hàng hoá dịch vụ mới với những chất lượng khác nhau thì
những tranh chấp, xung đột giữa các công ty liên quan đến nhãn hiệu hàng
hoá là điều khó tránh khỏi. Để hạn chế những tranh chấp, xung đột đó cần
phải có những quy định thống nhất về nhãn hiệu hàng hoá trên phạm vi toàn
thế giới.

Tại vòng đàm phán Uruguay của GATT (tiền thân của tổ chức WTO) đã
thông qua Hiệp định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) được ký kết vào
ngày 15/04/1994 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1995 cùng với sự ra đời
của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Trong Hiệp định TRIPS, các quốc gia
trên thế giới đã tiến tới một thoả thuận chung nhất về nhãn hiệu hàng hoá
trong thương mại quốc tế. Theo Hiệp định này thì nhãn hiệu hàng hoá được
coi là đối tượng có khả năng bảo hộ là: "bất kỳ một dấu hiệu, hoặc sự kết hợp
nào của những dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của
một doanh nghiệp này với hàng hoá hoặc dịch vụ của những doanh nghiệp
khác. Những dấu hiệu đó (có thể là những ký tự đặc biệt như tên người, chữ
cái, chữ số, yếu tố hình và sự kết hợp màu sắc cũng như sự kết hợp bất kỳ của
những dấu hiệu đó) có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hoá". (Trích
Khoản 1 Điều 15 Mục 2 Hiệp định TRIPS). Do đó, nhãn hiệu hàng hoá là bất
kỳ một dấu hiệu nào hoặc bất kỳ sự kết hợp nào của những dấu hiệu có khả
năng phân biệt hàng hoá hay dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hay
dịch vụ của một doanh nghiệp khác. Dấu hiệu có thể là chữ số, chữ cái, tên
người, yếu tố hình và sự kết hợp màu sắc.
Cũng trên tinh thần của Hiệp định TRIPS, tại Điều 785 Mục I Chương II
Phần VI của Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995 đã ghi rõ: “Nhãn hiệu hàng hoá
là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá dịch vụ cùng loại của các cơ
sở sản xuất kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hoá có thể là từ ngữ, hình
ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu
sắc”.
Theo Luật Lanham Act (Mỹ) thì nhãn hiệu hàng hoá bao gồm từ ngữ,
tên, biểu tượng, hình vẽ hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó nhằm phân biệt
hàng hoá của một người cung cấp với hàng hoá của những người cung cấp
khác. Nhãn hiệu hàng hoá có thể được áp dụng cho hàng hoá, dịch vụ và
những nhãn hiệu xác nhận nguồn gốc, chất lượng, độ nguyên chất nếu chúng
thoả mãn các yêu cầu của một nhãn hiệu (certification marks).
Như vậy, luật của các nước đều thống nhất rằng nhãn hiệu hàng hoá bao

gồm cả tên nhãn hiệu (brand name) và dấu hiệu của nhãn hiệu (brand mark)
1
.
Tên nhãn hiệu là bộ phận của nhãn hiệu mà ta có thể đọc được như: “Dove”,
“Tiger” Còn dấu hiệu của nhãn hiệu là bộ phận của nhãn hiệu mà ta có thể
nhận biết được, những không thể đọc được, ví dụ như biểu tượng, hình vẽ,
màu sắc, hay kiểu chữ đặc thù. Ví dụ như hình ảnh con chim bồ câu là biểu

1
Theo: “Marketing cn bn - Marketing essentials” , Philip Kotler. Nhà xut bn Thng kê, 2002.
tượng cho sản phẩm Dove, con hổ vàng là biểu tượng cho bia Tiger hay hình
ảnh ba hình thoi chụm vào nhau là biểu tượng cho ô tô của hãng Mitsubishi
Việc gắn tên nhãn hiệu hiện nay đã phổ biến rộng rãi đến mức hầu như
bất kỳ hàng hoá nào cũng đều có nhãn hiệu. Ngoài ra, các nước còn có xu
hướng mở rộng việc bảo hộ đối với các yếu tố cấu thành nhãn hiệu nhằm
nâng cao tính khác biệt của sản phẩm đến mức tối đa có thể. Bất kỳ một đặc
trưng nào của sản phẩm tác động vào giác quan của người tiêu dùng cũng có
thể được coi là một phần của nhãn hiệu, miễn là chúng có tính phân biệt. Do
đó, ngoài tên nhãn hiệu, dấu hiệu nhãn hiệu thì tiếng động, mùi vị riêng biệt
của sản phẩm cũng có thể được đăng ký bản quyền. Tuy nhiên, vấn đề này sẽ
gây nhiều khó khăn cho việc lưu trữ, đối chiếu, kiểm tra khi xảy ra tranh chấp.
1.2 Phân biệt nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu thương mại và thương hiệu
Theo Hiệp hội nhãn hiệu thương mại quốc tế (International Trademark
Association) thì: “Nhãn hiệu thương mại (trademark) bao gồm những từ ngữ,
tên gọi, biểu tượng hay bất kỳ sự kết hợp nào giữa những yếu tố trên được
dùng trong thương mại để xác định và phân biệt hàng hoá của các nhà sản
xuất hoặc của người bán với nhau và để xác định nguồn của hàng hoá đó”.
Như vậy, khi hàng hoá được lưu thông trên thị trường thì nhãn hiệu
hàng hoá trở thành nhãn hiệu thương mại. Nếu nhãn hiệu thương mại được
đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tại cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền thì người chủ sở hữu có toàn quyền sử dụng nhãn hiệu thương mại đó
dưới sự bảo hộ của luật pháp. Điều đó có nghĩa là người chủ sở hữu có thể sử
dụng, chuyển nhượng, hoặc bán nhãn hiệu thương mại, hay nói cách khác thì
chủ sở hữu có thể định giá đối với nhãn hiệu thương mại của mình. Với ý
nghĩa đó, khái niệm thương hiệu của hàng hoá ra đời và được hiểu là nhãn


hiệu hàng hoá sau khi đã được thương mại hoá, được mua bán trên thị trường.
Khi đó, nhãn hiệu sẽ được gắn thêm biểu tượng đ (registered trademark -
nhãn hiệu thương mại đã được đăng ký).
Ngoài khía cạnh thương mại, thương hiệu của một sản phẩm còn bao
hàm nhiều giá trị khác bởi thương hiệu là cảm nhận tổng thể về chất lượng, uy
tín và giá trị đằng sau một cái tên, một cái logo của doanh nghiệp. Do vậy,
thương hiệu có thể là bất cứ cái gì được gắn liền với sản phẩm hoặc dịch vụ
nhằm làm cho chúng được nhận diện dễ dàng và khác biệt hoá với các sản
phẩm cùng loại.
Thông thường, người ta dùng từ trademark để gọi chung cho nhãn hiệu
thương mại hàng hoá (trademark -
TM
) và nhãn hiệu thương mại dịch vụ
(servicemark -
SM
).
2. Một số loại nhãn hiệu hàng hoá
Hiện nay chưa có một văn bản pháp luật nào đưa ra một bảng phân loại
nhãn hiệu hàng hoá một cách đầy đủ với ranh giới xác định rõ ràng. Tuy
nhiên, có thể kể ra đây một số loại nhãn hiệu hàng hoá điển hình nhất:
2.1 Nhãn hiệu liên kết
Theo quy định tại Khoản 8 Điều 2 Nghị định 06/2001/NĐ-CP sửa đổi bổ
sung một số điều của Nghị định 63/1996/NĐ-CP quy định chi tiết về sở hữu

công nghiệp thì nhãn hiệu liên kết được hiểu là “các nhãn hiệu hàng hoá
tương tự nhau do cùng một chủ thể đăng ký để dùng cho các sản phẩm, dịch
vụ cùng loại, tương tự nhau hay có liên quan đến nhau, và các nhãn hiệu hàng
hoá trùng nhau do cùng một chủ thể đăng ký để dùng cho các sản phẩm, dịch
vụ tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau”.
2.2 Nhãn hiệu tập thể
Nghị định 63/1996/NĐ-CP đã quy định như sau: “Nhãn hiệu tập thể là
nhãn hiệu hàng hoá được tập thể các cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể
khác cùng sử dụng, trong đó mỗi thành viên sử dụng một cách độc lập theo
quy chế do tập thể đó quy định.”
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ cũng nêu lên rằng nhãn hiệu tập thể là
nhãn hiệu dùng chung cho các thành viên của một tổ chức, một nhóm, ví dụ
như Saigon Times Group hay Coop Mart,
2.3 Nhãn hiệu nổi tiếng
“Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hoá được sử dụng liên tục cho
những sản phẩm, dịch vụ có uy tín làm cho nhãn hiệu đó được biết đến
rộng rãi”. (Khoản 10 Điều 2 Nghị định 06/2001/NĐ-CP).
Định nghĩa nêu trên không quy định rõ ràng căn cứ xác định “biết đến
rộng rãi”. Luật pháp quốc tế và Luật của các nước trên thế giới cũng không có
các tiêu chuẩn mang tính “công thức” để xác định nhãn hiệu nổi tiếng. Trên
thực tế, để xác định một nhãn hiệu có nổi tiếng hay không, phải xem xét từng
trường hợp cụ thể dựa trên nhiều căn cứ khác nhau như thời điểm nhãn hiệu
được đăng ký, giá trị thương mại của nhãn hiệu, thị phần của nhãn hiệu,
Khoản 6 Điều 6 trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ cũng đã đề cập
đến vấn đề này như sau: “Để xác định một nhãn hiệu hàng hoá có phải là nổi
tiếng hay không phải xem xét đến sự hiểu biết về nhãn hiệu hàng hoá đó trong
bộ phận công chúng có liên quan, gồm cả sự hiểu biết đạt được trong lãnh thổ
của Bên liên quan do kết quả của hoạt động khuếch trương nhãn hiệu hàng
hoá này. Không Bên nào được yêu cầu rằng sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng
hoá phải vượt ra ngoài bộ phận công chúng thường tiếp xúc với hàng hoá

hoặc dịch vụ liên quan hoặc yêu cầu rằng nhãn hiệu hàng hoá đó phải được
đăng ký”. Tuy vậy, khái niệm “bộ phận công chúng có liên quan” lại chưa
được nêu rõ trong Hiệp định này.
2.4 Nhãn hiệu chứng nhận
Hiện nay, do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường đã xuất hiện
một loại nhãn hiệu mới là nhãn hiệu chứng nhận. Khái niệm nhãn hiệu
chứng nhận đã được công nhận là nhãn hiệu do người chủ sở hữu cho phép
người khác dùng, chẳng hạn như nhãn hiệu “Hàng Việt Nam chất lượng
cao”.
3. Điều kiện đối với các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá
Nhãn hiệu của một hàng hoá, dịch vụ là tên gọi tượng trưng của hàng hóa
dịch vụ đó. Cách thiết kế nhãn hiệu cho một loại hàng hoá dịch vụ rất
phong phú. Không thể kể hết được các loại hình của các loại nhãn hiệu,
song điều đó không có nghĩa là cấu tạo của nhãn hiệu có thể tùy tiện.
3.1 Các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá được bảo hộ
Phù hợp với tập quán thương mại quốc tế, trong Khoản 1 Điều 6 Nghị định
63/1996/NĐ-CP đã quy định rõ các dấu hiệu được công nhận dùng làm
nhãn hiệu hàng hoá nếu đáp ứng được đầy đủ các điều kiện sau đây:
a) được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố độc đáo, dễ nhận biết hoặc từ
nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể độc đáo, dễ nhận biết;
b) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
hàng hoá của người khác đang được bảo hộ tại Việt Nam (kể cả các nhãn
hiệu hàng hoá đang được bảo hộ theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia);
c) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
hàng hoá nêu trong đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá
đã nộp cho Cơ quan có thẩm quyền với ngày ưu tiên sớm hơn (kể cả các
đơn về nhãn hiệu hàng hoá được nộp theo các Điều ước quốc tế mà Việt
Nam tham gia);
d) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu

hàng hoá của người khác đã hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ hiệu lực bảo hộ
nhưng thời gian tính từ khi hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ hiệu lực chưa quá
5 năm, trừ trường hợp hiệu lực bị đình chỉ vì nhãn hiệu hàng hoá không
được sử dụng theo quy định tại điểm c)
e) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
hàng hoá của người khác được coi là nổi tiếng (theo điều 6 bis Công ước
Pari) hoặc với nhãn hiệu hàng hoá của người khác đã được sử dụng và đã
được thừa nhận một cách rộng rãi;
f) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với tên thương
mại được bảo hộ với tên gọi xuất xứ hàng hoá được bảo hộ;
g) không trùng với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ hoặc đã được nộp
đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ với ngày ưu tiên sớm hơn;
h) không trùng với một hình tượng, nhân vật đã thuộc quyền tác giả của
người khác trừ trường hợp được người đó cho phép.
3.2 Các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá không được bảo hộ
Khoản 2 Điều 6 Nghị định 63/1996/NĐ-CP đã quy định những dấu hiệu
sau không được bảo hộ với danh nghĩa là nhãn hiệu hàng hoá:
a) dấu hiệu không có khả năng phân biệt, như các hình và hình hình học
đơn giản, các chữ số, chữ cái, các chữ không có khả năng phát âm như một
từ ngữ, chữ nước ngoài thuộc ngôn ngữ không thông dụng trừ trường hợp
các dấu hiệu này đã được sử dụng và đã được thừa nhận một cách rộng rãi;
b) dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của
hàng hoá thuộc bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên,
nhiều người biết đến;
c) dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại, số
lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị mang tính mô tả
hàng hoá, dịch vụ và xuất xứ của hàng hoá, dịch vụ;
d) dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa đảo
người tiêu dùng về xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị của hàng
hoá hoặc dịch vụ;

e) dấu hiệu giống hoặc tương tự với dấu chất lượng, dấu kiểm tra, dấu
bảo hành của Việt Nam, nước ngoài cũng như của các tổ chức quốc tế;
g) dấu hiệu, tên gọi (bao gồm cả ảnh, tên, biệt hiệu, bút danh), hình vẽ,
biểu tượng giống hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ,
quốc huy, lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân, địa danh, các tổ chức của
Việt Nam cũng như của nước ngoài nếu không được các cơ quan, người có
thẩm quyền tương ứng cho phép.
4. Chức năng, vai trò của nhãn hiệu hàng hoá
4.1 Đối với người tiêu dùng
Mục tiêu của việc xây dựng nhãn hiệu là nhằm tạo dựng lòng tin và sự
chung thủy của khách hàng đối với các sản phẩm của công ty. Vậy nhãn
hiệu hàng hoá có vai trò như thế nào đối với người tiêu dùng?
Với người tiêu dùng, nhãn hiệu hàng hoá xác định nguồn gốc của sản
phẩm hoặc nhà sản xuất của một sản phẩm và giúp khách hàng xác định
nhà sản xuất cụ thể hoặc nhà phân phối nào phải chịu trách nhiệm
2
. Nhãn
hiệu hàng hoá có ý nghĩa đặc biệt đối với khách hàng. Nhờ những kinh
nghiệm đối với một sản phẩm và chương trình tiếp thị của sản phẩm đó
qua nhiều năm, khách hàng biết đến các nhãn hiệu. Họ tìm ra được nhãn
hiệu nào thoả mãn được nhu cầu của mình còn nhãn hiệu nào thì không.
Kết quả là, các nhãn hiệu là một công cụ nhanh chóng hoặc là cách đơn

2
Theo: “To dng và qun tr thng hiu. Danh ting -Li nhun” - Vin nghiên cu và ào to v qun
lý, Nhà xut bn Lao ng xã hi, 2003
Hình 1: Chu trình ra quyết định mua sắm của khách hàng
Đánh giá

các la chn

Quy
ết
định
mua

Hành vi
sau

Nhận thức
vấn đề
Tìm ki
ếm

thông tin
giản hoá đối với quyết định mua sản phẩm của khách hàng (xem Hình 1).
Đây chính là điều quan trọng nhất mà một thương hiệu cũng như công ty
được gắn với thương hiệu đó cần vươn tới.
Nếu khách hàng nhận ra một nhãn hiệu và có một vài kiến thức về nhãn
hiệu đó, họ không phải suy nghĩ nhiều hoặc tìm kiếm, xử lý nhiều thông
tin để đưa ra quyết định về tiêu dùng sản phẩm. Như vậy, từ khía cạnh
kinh tế, thương hiệu cho phép khách hàng giảm bớt chi phí tìm kiếm sản
phẩm. Dựa vào những gì họ đã biết về nhãn hiệu - chất lượng, đặc tính của
sản phẩm - khách hàng hình thành những giả định và kỳ vọng có cơ sở
về những gì mà họ còn chưa biết về nhãn hiệu.
Mối quan hệ giữa thương hiệu và khách hàng có thể được xem như một
kiểu cam kết hay giao kèo. Khách hàng đặt niềm tin và sự trung thành của
mình vào thương hiệu và ngầm hiểu rằng bằng cách nào đó, thương hiệu
sẽ đáp lại và mang lại lợi ích cho họ thông qua tính năng hợp lý của sản
phẩm, giá cả phù hợp, các chương trình tiếp thị, khuyến mại và các hỗ trợ
khác. Nếu khách hàng nhận thấy những ưu điểm và lợi ích từ việc mua

thương hiệu cũng như họ cảm thấy thoả mãn khi tiêu thụ sản phẩm thì
khách hàng có thể tiếp tục mua sản phẩm thương hiệu đó.
Thực chất, các lợi ích này được khách hàng cảm nhận một cách rất đa
dạng và phong phú. Các thương hiệu có thể xem như một biểu tượng mà
khách hàng tự khẳng định giá trị bản thân. Một số thương hiệu gắn liền với
một con người hoặc một mẫu người nào đó để phản ánh những giá trị khác
nhau hoặc những nét khác nhau. Do vậy tiêu thụ sản phẩm được gắn với
những thương hiệu này là một cách để khách hàng có thể giao tiếp với
những người khác, thậm chí với chính bản thân họ - tuýp người mà họ
đang hoặc muốn trở thành. Chẳng hạn, các khách hàng trẻ tuổi trở nên
sành điệu, hợp mốt hơn trong các sản phẩm của Nike, với một số người
khác lại mong muốn hình ảnh một thương nhân năng động và thành đạt
với chiếc xe Mercedes đời mới,
Thương hiệu còn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc báo hiệu
những đặc điểm và thuộc tính của sản phẩm tới người tiêu dùng. Các nhà
nghiên cứu đã phân loại các sản phẩm và các thuộc tính hoặc các lợi ích
kết hợp của chúng thành ba loại chính: hàng hoá tìm kiếm, hàng hoá kinh
nghiệm và hàng hoá tin tưởng.
Với hàng hoá tìm kiếm, các thuộc tính của sản phẩm có thể được đánh giá
qua sự kiểm tra bằng mắt (Ví dụ: sự cứng cáp, kích cỡ, màu sắc, kiểu
dáng, trọng lượng, và thành phần cấu tạo của một sản phẩm )
Với hàng hoá kinh nghiệm, các thuộc tính của sản phẩm không thể dễ
dàng đánh giá bằng việc kiểm tra, mà việc thử sản phẩm thật và kinh
nghiệm là cần thiết (Ví dụ: độ bền, chất lượng dịch vụ, độ an toàn, dễ dàng
xử lý hoặc sử dụng )
Với hàng hoá tin tưởng, các thuộc tính của sản phẩm rất khó có thể biết
được (Ví dụ: chi trả bảo hiểm ) Do việc đánh giá, giải thích các thuộc tính
và lợi ích của sản phẩm là hàng hoá kinh nghiệm và hàng hoá tin tưởng rất
khó nên các thương hiệu có thể là dấu hiệu đặc biệt quan trọng về chất
lượng và các đặc điểm khác để người tiêu dùng nhận biết rõ ràng hơn.

Thương hiệu có thể làm giảm các loại rủi ro khi quyết định mua và tiêu
dùng một sản phẩm như:
 Rủi ro chức năng: Sản phẩm không được như mong muốn.
 Rủi ro vật chất: Sản phẩm đe dọa sức khỏe hoặc thể lực của người sử
dụng hoặc những người khác.
 Rủi ro tài chính: Sản phẩm không tương xứng với giá đã trả.
 Rủi ro xã hội: Sản phẩm không phù hợp với văn hóa, tín ngưỡng,
hoặc chuẩn mực đạo đức xã hội.
 Rủi ro tâm lý: Sản phẩm ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần của người
sử dụng.
 Rủi ro thời gian: Sản phẩm không như mong muốn dẫn đến mất chi
phí cơ hội để tìm sản phẩm khác.
Mặc dù khách hàng có những cách khác nhau để xử lý những rủi ro này,
nhưng chắc chắn có một cách mà họ sẽ chọn, đó là chỉ mua những thương
hiệu nổi tiếng, nhất là những thương hiệu mà họ đã có những kinh nghiệm
tốt trong quá khứ. Vì vậy, thương hiệu có thể là một công cụ xử lý rủi ro
rất quan trọng (xem thêm Hộp 1).
Như vậy, với khách hàng, ý nghĩa đặc biệt của thương hiệu là có thể làm
thay đổi nhận thức và kinh nghiệm của họ về các sản phẩm. Sản phẩm
giống hệt nhau có thể được khách hàng đánh giá khác nhau tùy thuộc vào
sự khác biệt và uy tín của thương hiệu hoặc các thuộc tính của sản phẩm.
Với người tiêu dùng, thương hiệu làm cho sinh hoạt hàng ngày cũng như
cuộc sống của họ trở nên thuận tiện và phong phú hơn.

Khách hàng
 Xác định nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm
 Quy trách nhiệm cho nhà sản xuất sản phẩm
 Giảm thiểu rủi ro trong tiêu dùng
 Tiết kiệm chi phí tìm kiếm
 Khẳng định giá trị bản thân

 Yên tâm về chất lượng
Nhà sản xuất
 Công cụ để nhận diện và khác biệt hoá sản phẩm
 Là phương tiện bảo vệ hợp pháp các lợi thế và đặc điểm riêng có của
sản phẩm
 Khẳng định đẳng cấp chất lượng trước khách hàng
 Đưa sản phẩm ăn sâu vào tâm trí khách hàng
 Là nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh


Là ngu

n g

c c

a l

i nhu

n

Hộp 1: Tầm quan trọng của nhãn hiệu hàng hoá
đối với khách hàng và nhà sản xuất
4.2 Đối với doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp, thương hiệu đóng những vai trò quan trọng. Về
cơ bản, thương hiệu đáp ứng mục đích nhận diện để đơn giản hóa việc xử
lý sản phẩm hoặc truy tìm nguồn gốc sản phẩm cho công ty. Về mặt hoạt
động, thương hiệu giúp tổ chức kiểm kê, tính toán và thực hiện các ghi
chép khác. Thương hiệu đã được bảo hộ cho phép các doanh nghiệp bảo

vệ hợp pháp những đặc điểm và/hoặc hình thức đặc trưng, riêng có của sản
phẩm. Điều đó đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể đầu tư một cách an
toàn cho thương hiệu và thu lợi nhuận từ một tài sản đáng giá.
Ngoài việc mang lại cho sản phẩm những đặc điểm và thuộc tính riêng có
thể phân biệt với các sản phẩm khác, thương hiệu cũng có thể cam kết một
tiêu chuẩn hay đẳng cấp chất lượng của sản phẩm. Lòng trung thành của
khách hàng đối với thương hiệu cho phép các doanh nghiệp dự báo và
kiểm soát thị trường. Hơn nữa, nó tạo nên một rào cản, gây khó khăn cho
các doanh nghiệp khác muốn xâm nhập thị trường. Mặc dù các quy trình
sản xuất và thiết kế sản phẩm có thể dễ dàng bị sao chép lại, nhưng những
ấn tượng ăn sâu trong đầu người tiêu dùng qua nhiều năm về sản phẩm thì
không thể dễ dàng sao chép lại như vậy. Về khía cạnh này, thương hiệu có
thể được coi như một cách thức hữu hiệu để đảm bảo lợi thế cạnh tranh, là
tài sản vô giá đối với các doanh nghiệp. Chính vì thế, các công ty và các
tập đoàn lớn trên thế giới đều đưa ra khẩu hiệu: “The Brand’s the Thing” -
“Có thương hiệu là có tất cả”.
4.3 Đối với quốc gia
Khi nói đến Thuỵ Sỹ, người ta nghĩ ngay đến đồng hồ, nói đến Nhật Bản
người ta nghĩ ngay đến Sony, Honda, Toyota mặc dù đồng hồ không phải là
tất cả nước Thuỵ Sỹ cũng như Sony, Honda, Toyota không phải là tất cả nước
Nhật. Như vậy, việc xây dựng thương hiệu không chỉ thúc đẩy sản phẩm của
doanh nghiệp mà còn góp phần tạo nên diện mạo quốc gia. Những thương
hiệu mạnh đã quảng bá hình ảnh và trình độ phát triển của nước Nhật, Thuỵ
Sỹ, đến toàn thế giới .
Những thương hiệu mạnh sẽ đóng vai trò sứ giả để sản phẩm các quốc gia
chiếm lĩnh thị trường thế giới, tạo nên những bước đệm vững chắc góp
phần đưa đất nước hội nhập kinh tế quốc tế.
II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN
HIỆU HÀNG HOÁ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1. Sự hình thành và phát triển hệ thống luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá

Như đã đề cập ở trên, thương hiệu là một tài sản vô hình có giá trị của
doanh nghiệp.Việc sử dụng đúng đắn chức năng của thương hiệu theo đúng
pháp luật sẽ tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, phát triển sản
xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống,
mọi việc không hoàn toàn diễn ra một cách lành mạnh như vậy. Để đạt được
lợi nhuận nhanh chóng và bằng chi phí rẻ nhất, người ta đã làm giả, hoặc làm
nhái theo các thương hiệu được ưa chuộng, mặc dù các loại này có chất lượng
thấp hơn hàng thật, thậm chí hoàn toàn không có chức năng sử dụng. Điều
này đã xảy ra từ xa xưa, khi bắt đầu xuất hiện việc trao đổi hàng hoá trên trái
đất và cùng với sự phát triển của xã hội, tệ nạn đó ngày càng phát triển về quy
mô và độ tinh vi. Các vụ tranh chấp, kiện cáo về nhãn hiệu tại các tòa án ngày
càng nhiều.
Ban đầu, vấn đề mà các toà án cần phải phán quyết là quyền sở hữu đối
với nhãn hiệu thuộc về ai. Trong các trường hợp này, nguyên tắc thường được
áp dụng là: quyền sở hữu sẽ thuộc về người đầu tiên sử dụng nhãn hiệu hàng
hoá đó. Để xác định ai là người sử dụng đầu tiên, các toà án lập sổ ghi nhãn
hiệu hàng hoá. Lúc đầu các sổ đó chỉ dùng để theo dõi các nhãn hiệu bị tranh
chấp, sau đó ghi các nhãn hiệu khác chưa bị tranh chấp để đề phòng các tranh
chấp sẽ có trong tương lai. Cuối cùng ngay cả các nhãn hiệu chưa được sử
dụng nhưng chủ nhãn hiệu có ý định sử dụng cũng được ghi nhận vào sổ. Sổ
theo dõi nhãn hiệu hàng hoá dần dần trở thành sổ đăng bạ nhãn hàng, từ đó
hình thành phương thức đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại toà án (thường gọi là
“Nhãn hiệu trình toà”). Tuy nhiên, lúc đó việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
như vậy được thực hiện theo thông lệ chứ không theo quy định của một văn
bản pháp luật nào.
Luật nhãn hiệu hàng hoá đầu tiên dược hình thành tại Pháp năm 1857.
Tiếp theo là các nước: Italia (1868), Anh (1875), Bỉ (1879), Mỹ (1881), Đức
(1894), Nga (1896) Đến nay hầu hết các nước đều đã có luật về nhãn hiệu
hàng hoá. Tuy nhiên, các quy phạm pháp luật này chỉ điều chỉnh vấn đề bảo
hộ thương hiệu trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Trong khi đó, việc tham gia

thương mại quốc tế là một đòi hỏi tất yếu hiện nay đối với các doanh nghiệp
muốn vươn xa và chiếm lĩnh thị trường. Điều đó không chỉ gây khó khăn cho
các doanh nghiệp mà còn cho các quốc gia trong việc kiểm soát việc bảo hộ
nhãn hiệu hàng hoá.
Trước thực tế đó, các Điều ước quốc tế và Điều ước khu vực lần lượt
được ra đời như: Công ước Paris, Thoả ước Madrid, Nghi định thư Madrid,
Quy chế thiết lập nhãn hiệu thương mại cộng đồng Châu Âu Một mặt, đó là
những căn cứ pháp lý cơ sở để xây dựng và hoàn chỉnh luật bảo hộ nhãn hiệu
hàng hoá ở các nước thành viên, nhưng quan trọng hơn, đó là những đóng
góp để tạo dựng một Hệ thống đăng ký nhãn hiệu trong thương mại quốc tế,
từ đó thúc đẩy tiến trình hội nhập và hình thành nên một thị trường toàn cầu.
2. Tác dụng của việc đăng ký nhãn hiệu trong thương mại quốc tế
2.1 Đối với các doanh nghiệp thương mại nói chung
2.1.1 Chống lại hành vi giả mạo và cạnh tranh không lành mạnh
Động cơ làm giàu bất hợp pháp, kiến thức pháp luật hạn chế cộng với
những kẽ hở trong khung pháp luật đã dẫn đến một thực tế: Hàng giả hầu như
đã len lỏi vào tận các ngóc ngách của xã hội hay nói cách khác là không có
lĩnh vực nào, ngành hàng nào mà không có đồ giả. Ngay khi một hàng hoá có
uy tín nhất định trên thị trường thì lập tức xuất hiện một loạt các thương hiệu
tương tự, na ná nhằm gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Không chỉ vậy,
nhiều khi các đối thủ cạnh tranh còn sao chép toàn bộ thương hiệu, cả nhãn
sản phẩm của doanh nghiệp để gắn lên hàng hoá của họ. Không chỉ những
hàng hoá tiêu dùng thông thường bị làm giả, còn nhiều thứ giả khác mà hậu
quả gây ra cho người tiêu dùng khó lường hết được như dược phẩm, thực
phẩm, vật liệu xây dựng, Các loại hàng giả đó xuất hiện trong mọi lĩnh vực
của hoạt động thương mại, từ sản xuất, tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ trong
nước đến hàng hoá xuất nhập khẩu.
Hiện nay, nạn làm hàng giả đang chiếm tỷ lệ lớn, tới 5- 7% giá trị
thương mại toàn cầu, hàng năm gây thiệt hại về mặt kinh tế khoảng 2-3 tỷ
Euro

3
. Tại Việt Nam, theo thống kê của Cục quản lý thị trường, cứ một mặt
hàng mới ra đời sẽ có 10 mặt hàng cùng loại trên thị trường xuất hiện với mẫu
mã giống hệt hoặc tương tự như thế với chất lượng kém hơn và đương nhiên
giá cả cũng thấp hơn giá của hàng chính hiệu. Không chỉ có các sản phẩm
hàng hoá bị làm giả mà ngay cả sản phẩm dịch vụ cũng bị làm giả. Theo ông
Hồ Huy, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Mai Linh cho biết “sự xuất hiện

3
Theo: “Hi tho v thc thi quyn S hu trí tu” ti Hà Ni và TP. H Chí Minh: 27/05/2002-
31/05/2002.
của hãng giả taxi Mai Linh" đã khiến hãng bị thiệt hại tới 2,7 tỷ đồng trong
một năm. Không riêng taxi Mai Linh mà nhiều hãng taxi có uy tín khác cũng
bị treo biển giả như Festival, Vina, Saigon Tourist,
Nạn hàng giả ngày càng trở thành nỗi ám ảnh của các doanh nghiệp làm
ăn chân chính, là một trong những thách thức lớn trên con đường khẳng định
uy tín và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.
Trước tình hình đó, việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá chính là công cụ
hiệu quả để chống lại hành vi giả mạo và cạnh tranh không lành mạnh. Một
nhãn hiệu hàng hoá đã được pháp luật công nhận bảo hộ sẽ cho phép doanh
nghiệp căn cứ vào các công cụ pháp lý có liên quan để bảo vệ quyền lợi của
mình, ngăn chặn có hiệu quả hành vi vi phạm nhãn hiệu hàng hoá đã được
bảo hộ. Vì vậy, để tránh rơi vào tình trạng “ mất bò mới lo làm chuồng”, hay
việc đổ tiền bạc, thời gian cho các vụ kiện tụng, các doanh nghiệp hãy biến
việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu thương mại thành việc làm đầu tiên mỗi khi có
ý định gây dựng một nhãn hiệu hay một mặt hàng nào đó bởi bảo hộ thương
hiệu là bảo vệ chính mình.
2.1.2 Tạo khả năng độc quyền khai thác thương hiệu
Nguyên tắc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá là cho phép chủ sở hữu được độc
quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá đã được bảo hộ nhằm mục đích kinh

doanh. Do đó, một khi chủ sở hữu đăng ký và được bảo hộ nhãn hiệu thì họ sẽ
có quyền gắn nhãn hiệu đó lên hàng hoá, bao bì, giấy tờ giao dịch trong hoạt
động kinh doanh và quảng cáo nhãn hiệu của mình thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng như đài, báo, truyền hình, biển quảng cáo Độc quyền
khai thác nhãn hiệu tạo cho doanh nghiệp khả năng lập chiến lược phân phối
và kiểm soát thị trường cho sản phẩm của mình một cách hợp lý. Tất cả
những hoạt động này sẽ đảm bảo cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp
diễn ra một cách trôi chảy, lành mạnh và đạt hiệu quả cao nhất.


×