Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
Lời nói đầu
Chưa bao giờ vấn đề thương hiệu lại trở thành một chủ đề thời sự
được các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội thương
mại quan tâm một cách đặc biệt như hiện nay. Nhiều hội thảo, hội nghị đã
được tổ chức, hàng trăm bài báo và cả những trang website thường xuyên
đề cập đến các khía cạnh khác nhau của vấn đề này.
Một trong những khía cạnh được đề cập nhiều nhất có lẽ là tình trạng
các doanh nghiệp Việt Nam bị mất thương hiệu hay nhãn hiệu hàng hoá ở thị
trường nước ngoài, đặc biệt ở thị trường Hoa Kỳ. Chúng ta có thể kể ra
hàng loạt các vụ tranh chấp thương hiệu gần đây như cuộc chiến Catfish
giữa các nhà xuất khẩu cá Tra, cá Basa Việt Nam với Hiệp hội các chủ trại
cá nheo Mỹ (CFA) về việc sử dụng thương hiệu “Catfish” cho các loại cá
nói trên của Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ; cuộc chiến của Trung Nguyên đòi
lại thương hiệu từ chính đối tác là Rice Field Corp do họ đã đăng ký nhãn
hiệu này trước tại Mỹ; các nhãn hiệu Vinataba, Vinatea đều đã bị đăng ký
sở hữu tại nhiều nước trong đó có Mỹ.
Những sự kiện đó xảy ra ngay khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ
được ký kết và bắt đầu được triển khai đã nhấn mạnh với chúng ta rằng:
Hiệp định có thể mở ra nhiều cơ hội làm ăn cho các doanh nghiệp Việt
Nam, song cũng là khởi đầu của nhiều thách thức mới. Làm ăn với một đối
tác đầy tiềm năng nhưng cũng khó lường như Mỹ, các doanh nghiệp Việt
Nam sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn. Bài học kinh nghiệm đắt giá
đầu tiên mà một số doanh nghiệp Việt Nam gặp phải khi tiếp cận thị trường
Mỹ, đó là bài học về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Thực tiễn đó
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
1
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
khiến chúng ta phải đặt ra câu hỏi: Làm th
ế
nào
để
h
ỗ
tr
ợ
các doanh nghi
ệ
p
Vi
ệ
t Nam trong vi
ệ
c
đă
ng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i M
ỹ
?
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, em đã mạnh dạn
chọn đề tài: “
Đă
ng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa K
ỳ
”
làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, khoá
luận được bố cục thành 3 chương:
Chương I: Nhãn hi
ệ
u hàng hoá và
đă
ng ký nhãn hi
ệ
u hàng hoá
trong th
ươ
ng m
ạ
i qu
ố
c t
ế
Chương II:
Đă
ng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa
K
ỳ
Chương III: Gi
ả
i pháp nâng cao hi
ệ
u qu
ả
đă
ng ký nhãn hi
ệ
u hàng
hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa K
ỳ
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Giảng viên - ThS. Phạm Thị
Mai Khanh, người đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Em
cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các bạn đã giúp đỡ trong
việc thu thập tài liệu để hoàn thành khoá luận.
Do những hạn chế về thời gian nghiên cứu, về tài liệu thu thập và khả
năng của người viết, nội dung khoá luận khó tránh khỏi những sai sót và
khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự chỉ dẫn tận tình của các thầy cô
giáo cùng sự góp ý của các bạn.
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
2
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
Chương I
Nhãn hiệu hàng hoá và đăng ký nhãn hiệu hàng hoá trong thương
mại quốc tế
I. Khái quát chung về nhãn hiệu hàng hoá
1. Khái niệm nhãn hiệu hàng hoá
Trong thương mại quốc tế hiện nay có rất nhiều loại sản phẩm hàng
hoá dịch vụ được lưu thông. Mỗi loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ lại được
nhiều hãng, nhiều công ty của nhiều nước khác nhau trên thế giới sản xuất
ra, và mỗi loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ này lại có những chất lượng rất
không giống nhau. Tuy vậy, người tiêu dùng trên thế giới lại có thể phân biệt
được sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của những công ty khác nhau căn cứ
vào nhãn hiệu hàng hoá của sản phẩm hàng hoá dịch vụ đó. Thí dụ, ô tô là
mặt hàng được nhiều công ty của nhiều nước sản xuất, nhưng người tiêu
dùng có thể phân biệt được chất lượng của từng loại ô tô mang các thương
hiệu khác nhau và xác định được chủng loại xe nào là phù hợp với nhu cầu
của mình. Nhãn hiệu hàng hoá chính là chỉ dẫn ban đầu giúp người tiêu dùng
phân biệt được sản phẩm hàng hoá dịch vụ của những nhà sản xuất kinh
doanh khác nhau và đánh giá được phần nào chất lượng của sản phẩm hàng
hoá dịch vụ. Vậy nhãn hiệu hàng hoá là gì?
1.1 Định nghĩa nhãn hiệu hàng hoá
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
3
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
Trong thực tế, mỗi quốc gia trên thế giới đều có quy định khác nhau về
nhãn hiệu hàng hoá. Tuy vậy, khi thương mại quốc tế ngày càng phát triển,
chu kỳ sống của hàng hoá dịch vụ bị rút ngắn lại dẫn đến việc xuất hiện
ngày càng nhiều những hàng hoá dịch vụ mới với những chất lượng khác
nhau thì những tranh chấp, xung đột giữa các công ty liên quan đến nhãn
hiệu hàng hoá là điều khó tránh khỏi. Để hạn chế những tranh chấp, xung
đột đó cần phải có những quy định thống nhất về nhãn hiệu hàng hoá trên
phạm vi toàn thế giới.
Tại vòng đàm phán Uruguay của GATT (tiền thân của tổ chức WTO)
đã thông qua Hiệp định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) được ký
kết vào ngày 15/04/1994 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1995 cùng
với sự ra đời của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Trong Hiệp định
TRIPS, các quốc gia trên thế giới đã tiến tới một thoả thuận chung nhất về
nhãn hiệu hàng hoá trong thương mại quốc tế. Theo Hiệp định này thì nhãn
hiệu hàng hoá được coi là đối tượng có khả năng bảo hộ là: "b
ấ
t k
ỳ
m
ộ
t
d
ấ
u hi
ệ
u, ho
ặ
c s
ự
k
ế
t h
ợ
p nào c
ủ
a nh
ữ
ng d
ấ
u hi
ệ
u có kh
ả
n
ă
ng phân bi
ệ
t
hàng hoá ho
ặ
c d
ị
ch v
ụ
c
ủ
a m
ộ
t doanh nghi
ệ
p này v
ớ
i hàng hoá ho
ặ
c d
ị
ch v
ụ
c
ủ
a nh
ữ
ng doanh nghi
ệ
p khác. Nh
ữ
ng d
ấ
u hi
ệ
u
đ
ó (có th
ể
là nh
ữ
ng ký t
ự
đặ
c bi
ệ
t nh
ư
tên ng
ườ
i, ch
ữ
cái, ch
ữ
s
ố
, y
ế
u t
ố
hình và s
ự
k
ế
t h
ợ
p màu s
ắ
c
c
ũ
ng nh
ư
s
ự
k
ế
t h
ợ
p b
ấ
t k
ỳ
c
ủ
a nh
ữ
ng d
ấ
u hi
ệ
u
đ
ó) có kh
ả
n
ă
ng
đượ
c
đă
ng ký là nhãn hi
ệ
u hàng hoá". (Trích Khoản 1 Điều 15 Mục 2 Hiệp định
TRIPS). Do đó, nhãn hiệu hàng hoá là bất kỳ một dấu hiệu nào hoặc bất kỳ
sự kết hợp nào của những dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hoá hay dịch
vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hay dịch vụ của một doanh nghiệp
khác. Dấu hiệu có thể là chữ số, chữ cái, tên người, yếu tố hình và sự kết
hợp màu sắc.
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
4
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
Cũng trên tinh thần của Hiệp định TRIPS, tại Điều 785 Mục I Chương
II Phần VI của Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995 đã ghi rõ: “Nhãn hi
ệ
u hàng
hoá là nh
ữ
ng d
ấ
u hi
ệ
u dùng
để
phân bi
ệ
t hàng hoá d
ị
ch v
ụ
cùng lo
ạ
i c
ủ
a các
c
ơ
s
ở
s
ả
n xu
ấ
t kinh doanh khác nhau. Nhãn hi
ệ
u hàng hoá có th
ể
là t
ừ
ng
ữ
,
hình
ả
nh ho
ặ
c s
ự
k
ế
t h
ợ
p các y
ế
u t
ố
đ
ó
đượ
c th
ể
hi
ệ
n b
ằ
ng m
ộ
t ho
ặ
c nhi
ề
u
màu s
ắ
c”.
Theo Luật Lanham Act (Mỹ) thì nhãn hi
ệ
u hàng hoá bao g
ồ
m t
ừ
ng
ữ
,
tên, bi
ể
u t
ượ
ng, hình v
ẽ
ho
ặ
c s
ự
k
ế
t h
ợ
p c
ủ
a các y
ế
u t
ố
đ
ó nh
ằ
m phân bi
ệ
t
hàng hoá c
ủ
a m
ộ
t ng
ườ
i cung c
ấ
p v
ớ
i hàng hoá c
ủ
a nh
ữ
ng ng
ườ
i cung c
ấ
p
khác. Nhãn hi
ệ
u hàng hoá có th
ể
đượ
c áp d
ụ
ng cho hàng hoá, d
ị
ch v
ụ
và
nh
ữ
ng nhãn hi
ệ
u xác nh
ậ
n ngu
ồ
n g
ố
c, ch
ấ
t l
ượ
ng,
độ
nguyên ch
ấ
t n
ế
u chúng
tho
ả
mãn các yêu c
ầ
u c
ủ
a m
ộ
t nhãn hi
ệ
u (certification marks).
Như vậy, luật của các nước đều thống nhất rằng nhãn hiệu hàng hoá
bao gồm cả tên nhãn hiệu (brand name) và dấu hiệu của nhãn hiệu (brand
mark)
1
. Tên nhãn hiệu là bộ phận của nhãn hiệu mà ta có thể đọc được như:
“Dove”, “Tiger”... Còn dấu hiệu của nhãn hiệu là bộ phận của nhãn hiệu mà
ta có thể nhận biết được, những không thể đọc được, ví dụ như biểu tượng,
hình vẽ, màu sắc, hay kiểu chữ đặc thù. Ví dụ như hình ảnh con chim bồ
câu là biểu tượng cho sản phẩm Dove, con hổ vàng là biểu tượng cho bia
Tiger hay hình ảnh ba hình thoi chụm vào nhau là biểu tượng cho ô tô của
hãng Mitsubishi...
Việc gắn tên nhãn hiệu hiện nay đã phổ biến rộng rãi đến mức hầu
như bất kỳ hàng hoá nào cũng đều có nhãn hiệu. Ngoài ra, các nước còn có
xu hướng mở rộng việc bảo hộ đối với các yếu tố cấu thành nhãn hiệu
nhằm nâng cao tính khác biệt của sản phẩm đến mức tối đa có thể. Bất kỳ
1
Theo: “Marketing c
ă
n b
ả
n - Marketing essentials” , Philip Kotler. Nhà xuất bản Thống kê, 2002.
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
5
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
một đặc trưng nào của sản phẩm tác động vào giác quan của người tiêu
dùng cũng có thể được coi là một phần của nhãn hiệu, miễn là chúng có tính
phân biệt. Do đó, ngoài tên nhãn hiệu, dấu hiệu nhãn hiệu thì tiếng động,
mùi vị riêng biệt của sản phẩm cũng có thể được đăng ký bản quyền. Tuy
nhiên, vấn đề này sẽ gây nhiều khó khăn cho việc lưu trữ, đối chiếu, kiểm
tra khi xảy ra tranh chấp.
1.2 Phân biệt nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu thương mại và thương hiệu
Theo Hiệp hội nhãn hiệu thương mại quốc tế (International Trademark
Association) thì: “Nhãn hi
ệ
u th
ươ
ng m
ạ
i (trademark) bao g
ồ
m nh
ữ
ng t
ừ
ng
ữ
,
tên g
ọ
i, bi
ể
u t
ượ
ng hay b
ấ
t k
ỳ
s
ự
k
ế
t h
ợ
p nào gi
ữ
a nh
ữ
ng y
ế
u t
ố
trên
đượ
c
dùng trong th
ươ
ng m
ạ
i
để
xác
đị
nh và phân bi
ệ
t hàng hoá c
ủ
a các nhà s
ả
n
xu
ấ
t ho
ặ
c c
ủ
a ng
ườ
i bán v
ớ
i nhau và
để
xác
đị
nh ngu
ồ
n c
ủ
a hàng hoá
đ
ó”.
Như vậy, khi hàng hoá được lưu thông trên thị trường thì nhãn hiệu
hàng hoá trở thành nhãn hiệu thương mại. Nếu nhãn hiệu thương mại được
đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tại cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền thì người chủ sở hữu có toàn quyền sử dụng nhãn hiệu thương mại
đó dưới sự bảo hộ của luật pháp. Điều đó có nghĩa là người chủ sở hữu có
thể sử dụng, chuyển nhượng, hoặc bán nhãn hiệu thương mại, hay nói cách
khác thì chủ sở hữu có thể định giá đối với nhãn hiệu thương mại của mình.
Với ý nghĩa đó, khái niệm thương hiệu của hàng hoá ra đời và được hiểu
là nhãn hiệu hàng hoá sau khi đã được thương mại hoá, được mua bán trên
thị trường. Khi đó, nhãn hiệu sẽ được gắn thêm biểu tượng đ (registered
trademark - nhãn hiệu thương mại đã được đăng ký).
Ngoài khía cạnh thương mại, thương hiệu của một sản phẩm còn bao
hàm nhiều giá trị khác bởi thương hiệu là cảm nhận tổng thể về chất lượng,
uy tín và giá trị đằng sau một cái tên, một cái logo của doanh nghiệp. Do
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
6
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
vậy, thương hiệu có thể là bất cứ cái gì được gắn liền với sản phẩm hoặc
dịch vụ nhằm làm cho chúng được nhận diện dễ dàng và khác biệt hoá với
các sản phẩm cùng loại.
Thông thường, người ta dùng từ trademark để gọi chung cho nhãn hiệu
thương mại hàng hoá (trademark -
TM
) và nhãn hiệu thương mại dịch vụ
(servicemark -
SM
).
2. Một số loại nhãn hiệu hàng hoá
Hiện nay chưa có một văn bản pháp luật nào đưa ra một bảng phân
loại nhãn hiệu hàng hoá một cách đầy đủ với ranh giới xác định rõ ràng.
Tuy nhiên, có thể kể ra đây một số loại nhãn hiệu hàng hoá điển hình nhất:
2.1 Nhãn hiệu liên kết
Theo quy định tại Khoản 8 Điều 2 Nghị định 06/2001/NĐ-CP sửa đổi
bổ sung một số điều của Nghị định 63/1996/NĐ-CP quy định chi tiết về sở
hữu công nghiệp thì nhãn hiệu liên kết được hiểu là “các nhãn hiệu hàng
hoá tương tự nhau do cùng một chủ thể đăng ký để dùng cho các sản phẩm,
dịch vụ cùng loại, tương tự nhau hay có liên quan đến nhau, và các nhãn
hiệu hàng hoá trùng nhau do cùng một chủ thể đăng ký để dùng cho các sản
phẩm, dịch vụ tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau”.
2.2 Nhãn hiệu tập thể
Nghị định 63/1996/NĐ-CP đã quy định như sau: “Nhãn hiệu tập thể là
nhãn hiệu hàng hoá được tập thể các cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể
khác cùng sử dụng, trong đó mỗi thành viên sử dụng một cách độc lập theo
quy chế do tập thể đó quy định.”
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ cũng nêu lên rằng nhãn hiệu tập thể là
nhãn hiệu dùng chung cho các thành viên của một tổ chức, một nhóm, ví dụ
như Saigon Times Group hay Coop Mart,...
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
7
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
2.3 Nhãn hiệu nổi tiếng
“Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hoá được sử dụng liên tục cho
những sản phẩm, dịch vụ có uy tín làm cho nhãn hiệu đó được biết đến
rộng rãi”. (Khoản 10 Điều 2 Nghị định 06/2001/NĐ-CP).
Định nghĩa nêu trên không quy định rõ ràng căn cứ xác định “biết đến
rộng rãi”. Luật pháp quốc tế và Luật của các nước trên thế giới cũng không
có các tiêu chuẩn mang tính “công thức” để xác định nhãn hiệu nổi tiếng.
Trên thực tế, để xác định một nhãn hiệu có nổi tiếng hay không, phải xem
xét từng trường hợp cụ thể dựa trên nhiều căn cứ khác nhau như thời điểm
nhãn hiệu được đăng ký, giá trị thương mại của nhãn hiệu, thị phần của
nhãn hiệu,...
Khoản 6 Điều 6 trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ cũng đã đề cập
đến vấn đề này như sau: “Để xác định một nhãn hiệu hàng hoá có phải là
nổi tiếng hay không phải xem xét đến sự hiểu biết về nhãn hiệu hàng hoá
đó trong bộ phận công chúng có liên quan, gồm cả sự hiểu biết đạt được
trong lãnh thổ của Bên liên quan do kết quả của hoạt động khuếch trương
nhãn hiệu hàng hoá này. Không Bên nào được yêu cầu rằng sự nổi tiếng của
nhãn hiệu hàng hoá phải vượt ra ngoài bộ phận công chúng thường tiếp xúc
với hàng hoá hoặc dịch vụ liên quan hoặc yêu cầu rằng nhãn hiệu hàng hoá
đó phải được đăng ký”. Tuy vậy, khái niệm “bộ phận công chúng có liên
quan” lại chưa được nêu rõ trong Hiệp định này.
2.4 Nhãn hiệu chứng nhận
Hiện nay, do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường đã xuất
hiện một loại nhãn hiệu mới là nhãn hiệu chứng nhận. Khái niệm nhãn hiệu
chứng nhận đã được công nhận là nhãn hiệu do người chủ sở hữu cho phép
người khác dùng, chẳng hạn như nhãn hiệu “Hàng Việt Nam chất lượng
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
8
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
cao”.
3. Điều kiện đối với các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá
Nhãn hiệu của một hàng hoá, dịch vụ là tên gọi tượng trưng của hàng
hóa dịch vụ đó. Cách thiết kế nhãn hiệu cho một loại hàng hoá dịch vụ rất
phong phú. Không thể kể hết được các loại hình của các loại nhãn hiệu,
song điều đó không có nghĩa là cấu tạo của nhãn hiệu có thể tùy tiện.
3.1 Các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá được bảo hộ
Phù hợp với tập quán thương mại quốc tế, trong Khoản 1 Điều 6 Nghị
định 63/1996/NĐ-CP đã quy định rõ các dấu hiệu được công nhận dùng làm
nhãn hiệu hàng hoá nếu đáp ứng được đầy đủ các điều kiện sau đây:
a) được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố độc đáo, dễ nhận biết
hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể độc đáo, dễ nhận biết;
b) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn
hiệu hàng hoá của người khác đang được bảo hộ tại Việt Nam (kể cả các
nhãn hiệu hàng hoá đang được bảo hộ theo các Điều ước quốc tế mà Việt
Nam tham gia);
c) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn
hiệu hàng hoá nêu trong đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hàng
hoá đã nộp cho Cơ quan có thẩm quyền với ngày ưu tiên sớm hơn (kể cả các
đơn về nhãn hiệu hàng hoá được nộp theo các Điều ước quốc tế mà Việt
Nam tham gia);
d) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn
hiệu hàng hoá của người khác đã hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ hiệu lực bảo
hộ nhưng thời gian tính từ khi hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ hiệu lực chưa
quá 5 năm, trừ trường hợp hiệu lực bị đình chỉ vì nhãn hiệu hàng hoá không
được sử dụng theo quy định tại điểm c)
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
9
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
e) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn
hiệu hàng hoá của người khác được coi là nổi tiếng (theo điều 6 bis Công
ước Pari) hoặc với nhãn hiệu hàng hoá của người khác đã được sử dụng và
đã được thừa nhận một cách rộng rãi;
f) không trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với tên
thương mại được bảo hộ với tên gọi xuất xứ hàng hoá được bảo hộ;
g) không trùng với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ hoặc đã được
nộp đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ với ngày ưu tiên sớm hơn;
h) không trùng với một hình tượng, nhân vật đã thuộc quyền tác giả
của người khác trừ trường hợp được người đó cho phép.
3.2 Các dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu hàng hoá không được bảo hộ
Khoản 2 Điều 6 Nghị định 63/1996/NĐ-CP đã quy định những dấu
hiệu sau không được bảo hộ với danh nghĩa là nhãn hiệu hàng hoá:
a) dấu hiệu không có khả năng phân biệt, như các hình và hình hình
học đơn giản, các chữ số, chữ cái, các chữ không có khả năng phát âm như
một từ ngữ, chữ nước ngoài thuộc ngôn ngữ không thông dụng trừ trường
hợp các dấu hiệu này đã được sử dụng và đã được thừa nhận một cách
rộng rãi;
b) dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường
của hàng hoá thuộc bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường
xuyên, nhiều người biết đến;
c) dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại,
số lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị mang tính mô
tả hàng hoá, dịch vụ và xuất xứ của hàng hoá, dịch vụ;
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
10
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
d) dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa đảo
người tiêu dùng về xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị của
hàng hoá hoặc dịch vụ;
e) dấu hiệu giống hoặc tương tự với dấu chất lượng, dấu kiểm tra, dấu
bảo hành ... của Việt Nam, nước ngoài cũng như của các tổ chức quốc tế;
g) dấu hiệu, tên gọi (bao gồm cả ảnh, tên, biệt hiệu, bút danh), hình vẽ,
biểu tượng giống hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ,
quốc huy, lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân, địa danh, các tổ chức của
Việt Nam cũng như của nước ngoài nếu không được các cơ quan, người có
thẩm quyền tương ứng cho phép.
4. Chức năng, vai trò của nhãn hiệu hàng hoá
4.1 Đối với người tiêu dùng
Mục tiêu của việc xây dựng nhãn hiệu là nhằm tạo dựng lòng tin và sự
chung thủy của khách hàng đối với các sản phẩm của công ty. Vậy nhãn
hiệu hàng hoá có vai trò như thế nào đối với người tiêu dùng?
Với người tiêu dùng, nhãn hiệu hàng hoá xác định nguồn gốc của sản
phẩm hoặc nhà sản xuất của một sản phẩm và giúp khách hàng xác định nhà
sản xuất cụ thể hoặc nhà phân phối nào phải chịu trách nhiệm
2
. Nhãn hiệu
hàng hoá có ý nghĩa đặc biệt đối với khách hàng. Nhờ những kinh nghiệm
đối với một sản phẩm và chương trình tiếp thị của sản phẩm đó qua nhiều
năm, khách hàng biết đến các nhãn hiệu. Họ tìm ra được nhãn hiệu nào
2
Theo: “T
ạ
o d
ự
ng và qu
ả
n tr
ị
th
ươ
ng hi
ệ
u. Danh ti
ế
ng -L
ợ
i nhu
ậ
n” - Viện nghiên cứu và đào tạo về quản
lý, Nhà xuất bản Lao động xã hội, 2003
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
11
Hình 1: Chu trình ra quy
ế
t
đị
nh mua s
ắ
m c
ủ
a khách hàng
Đánh giá
các lựa chọn
Quyết định
mua
Hành vi sau
khi mua
Nhận thức
vấn đề
Tìm kiếm
thông tin
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
thoả mãn được nhu cầu của mình còn nhãn hiệu nào thì không. Kết quả là,
các nhãn hiệu là một công cụ nhanh chóng hoặc là cách đơn giản hoá đối
với quyết định mua sản phẩm của khách hàng (xem Hình 1). Đây chính là
điều quan trọng nhất mà một thương hiệu cũng như công ty được gắn với
thương hiệu đó cần vươn tới.
Nếu khách hàng nhận ra một nhãn hiệu và có một vài kiến thức về nhãn
hiệu đó, họ không phải suy nghĩ nhiều hoặc tìm kiếm, xử lý nhiều thông tin
để đưa ra quyết định về tiêu dùng sản phẩm. Như vậy, từ khía cạnh kinh tế,
thương hiệu cho phép khách hàng giảm bớt chi phí tìm kiếm sản phẩm. Dựa
vào những gì họ đã biết về nhãn hiệu - chất lượng, đặc tính của sản phẩm...
- khách hàng hình thành những giả định và kỳ vọng có cơ sở về những gì mà
họ còn chưa biết về nhãn hiệu.
Mối quan hệ giữa thương hiệu và khách hàng có thể được xem như
một kiểu cam kết hay giao kèo. Khách hàng đặt niềm tin và sự trung thành
của mình vào thương hiệu và ngầm hiểu rằng bằng cách nào đó, thương
hiệu sẽ đáp lại và mang lại lợi ích cho họ thông qua tính năng hợp lý của
sản phẩm, giá cả phù hợp, các chương trình tiếp thị, khuyến mại và các hỗ
trợ khác. Nếu khách hàng nhận thấy những ưu điểm và lợi ích từ việc mua
thương hiệu cũng như họ cảm thấy thoả mãn khi tiêu thụ sản phẩm thì
khách hàng có thể tiếp tục mua sản phẩm thương hiệu đó.
Thực chất, các lợi ích này được khách hàng cảm nhận một cách rất đa
dạng và phong phú. Các thương hiệu có thể xem như một biểu tượng mà
khách hàng tự khẳng định giá trị bản thân. Một số thương hiệu gắn liền với
một con người hoặc một mẫu người nào đó để phản ánh những giá trị khác
nhau hoặc những nét khác nhau. Do vậy tiêu thụ sản phẩm được gắn với
những thương hiệu này là một cách để khách hàng có thể giao tiếp với
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
12
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
những người khác, thậm chí với chính bản thân họ - tuýp người mà họ đang
hoặc muốn trở thành. Chẳng hạn, các khách hàng trẻ tuổi trở nên sành điệu,
hợp mốt hơn trong các sản phẩm của Nike, với một số người khác lại mong
muốn hình ảnh một thương nhân năng động và thành đạt với chiếc xe
Mercedes đời mới,...
Thương hiệu còn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc báo
hiệu những đặc điểm và thuộc tính của sản phẩm tới người tiêu dùng. Các
nhà nghiên cứu đã phân loại các sản phẩm và các thuộc tính hoặc các lợi ích
kết hợp của chúng thành ba loại chính: hàng hoá tìm kiếm, hàng hoá kinh
nghiệm và hàng hoá tin tưởng.
Với hàng hoá tìm ki
ế
m, các thuộc tính của sản phẩm có thể được đánh
giá qua sự kiểm tra bằng mắt (Ví dụ: sự cứng cáp, kích cỡ, màu sắc, kiểu
dáng, trọng lượng, và thành phần cấu tạo của một sản phẩm...)
Với hàng hoá kinh nghi
ệ
m, các thuộc tính của sản phẩm không thể dễ
dàng đánh giá bằng việc kiểm tra, mà việc thử sản phẩm thật và kinh
nghiệm là cần thiết (Ví dụ: độ bền, chất lượng dịch vụ, độ an toàn, dễ dàng
xử lý hoặc sử dụng...)
Với hàng hoá tin t
ưở
ng, các thuộc tính của sản phẩm rất khó có thể biết
được (Ví dụ: chi trả bảo hiểm...) Do việc đánh giá, giải thích các thuộc tính
và lợi ích của sản phẩm là hàng hoá kinh nghi
ệ
m và hàng hoá tin t
ưở
ng rất
khó nên các thương hiệu có thể là dấu hiệu đặc biệt quan trọng về chất
lượng và các đặc điểm khác để người tiêu dùng nhận biết rõ ràng hơn.
Thương hiệu có thể làm giảm các loại rủi ro khi quyết định mua và tiêu
dùng một sản phẩm như:
R
ủ
i ro ch
ứ
c n
ă
ng: Sản phẩm không được như mong muốn.
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
13
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
R
ủ
i ro v
ậ
t ch
ấ
t: Sản phẩm đe dọa sức khỏe hoặc thể lực của người
sử dụng hoặc những người khác.
R
ủ
i ro tài chính: Sản phẩm không tương xứng với giá đã trả.
R
ủ
i ro xã h
ộ
i: Sản phẩm không phù hợp với văn hóa, tín ngưỡng,
hoặc chuẩn mực đạo đức xã hội.
R
ủ
i ro tâm lý: Sản phẩm ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần của
người sử dụng.
R
ủ
i ro th
ờ
i gian: Sản phẩm không như mong muốn dẫn đến mất chi
phí cơ hội để tìm sản phẩm khác.
Mặc dù khách hàng có những cách khác nhau để xử lý những rủi ro
này, nhưng chắc chắn có một cách mà họ sẽ chọn, đó là chỉ mua những
thương hiệu nổi tiếng, nhất là những thương hiệu mà họ đã có những kinh
nghiệm tốt trong quá khứ. Vì vậy, thương hiệu có thể là một công cụ xử lý
rủi ro rất quan trọng (xem thêm H
ộ
p 1).
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
14
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
Như vậy, với khách hàng, ý nghĩa đặc biệt của thương hiệu là có thể
làm thay đổi nhận thức và kinh nghiệm của họ về các sản phẩm. Sản phẩm
giống hệt nhau có thể được khách hàng đánh giá khác nhau tùy thuộc vào sự
khác biệt và uy tín của thương hiệu hoặc các thuộc tính của sản phẩm. Với
người tiêu dùng, thương hiệu làm cho sinh hoạt hàng ngày cũng như cuộc
sống của họ trở nên thuận tiện và phong phú hơn.
4.2 Đối với doanh nghiệp
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
15
Khách hàng
Xác định nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm
Quy trách nhiệm cho nhà sản xuất sản phẩm
Giảm thiểu rủi ro trong tiêu dùng
Tiết kiệm chi phí tìm kiếm
Khẳng định giá trị bản thân
Yên tâm về chất lượng
Nhà sản xuất
Công cụ để nhận diện và khác biệt hoá sản phẩm
Là phương tiện bảo vệ hợp pháp các lợi thế và đặc điểm riêng có của sản
phẩm
Khẳng định đẳng cấp chất lượng trước khách hàng
Đưa sản phẩm ăn sâu vào tâm trí khách hàng
Là nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh
Là nguồn gốc của lợi nhuận
H
ộ
p 1: T
ầ
m quan tr
ọ
ng c
ủ
a nhãn hi
ệ
u hàng hoá
đố
i v
ớ
i khách hàng và nhà s
ả
n xu
ấ
t
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
Đối với các doanh nghiệp, thương hiệu đóng những vai trò quan trọng.
Về cơ bản, thương hiệu đáp ứng mục đích nhận diện để đơn giản hóa việc
xử lý sản phẩm hoặc truy tìm nguồn gốc sản phẩm cho công ty. Về mặt hoạt
động, thương hiệu giúp tổ chức kiểm kê, tính toán và thực hiện các ghi chép
khác. Thương hiệu đã được bảo hộ cho phép các doanh nghiệp bảo vệ hợp
pháp những đặc điểm và/hoặc hình thức đặc trưng, riêng có của sản phẩm.
Điều đó đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể đầu tư một cách an toàn cho
thương hiệu và thu lợi nhuận từ một tài sản đáng giá.
Ngoài việc mang lại cho sản phẩm những đặc điểm và thuộc tính riêng
có thể phân biệt với các sản phẩm khác, thương hiệu cũng có thể cam kết
một tiêu chuẩn hay đẳng cấp chất lượng của sản phẩm. Lòng trung thành
của khách hàng đối với thương hiệu cho phép các doanh nghiệp dự báo và
kiểm soát thị trường. Hơn nữa, nó tạo nên một rào cản, gây khó khăn cho
các doanh nghiệp khác muốn xâm nhập thị trường. Mặc dù các quy trình sản
xuất và thiết kế sản phẩm có thể dễ dàng bị sao chép lại, nhưng những ấn
tượng ăn sâu trong đầu người tiêu dùng qua nhiều năm về sản phẩm thì
không thể dễ dàng sao chép lại như vậy. Về khía cạnh này, thương hiệu có
thể được coi như một cách thức hữu hiệu để đảm bảo lợi thế cạnh tranh, là
tài sản vô giá đối với các doanh nghiệp. Chính vì thế, các công ty và các tập
đoàn lớn trên thế giới đều đưa ra khẩu hiệu: “The Brand’s the Thing” - “Có
thương hiệu là có tất cả”.
4.3 Đối với quốc gia
Khi nói đến Thuỵ Sỹ, người ta nghĩ ngay đến đồng hồ, nói đến Nhật
Bản người ta nghĩ ngay đến Sony, Honda, Toyota mặc dù đồng hồ không
phải là tất cả nước Thuỵ Sỹ cũng như Sony, Honda, Toyota không phải là tất
cả nước Nhật. Như vậy, việc xây dựng thương hiệu không chỉ thúc đẩy sản
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
16
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
phẩm của doanh nghiệp mà còn góp phần tạo nên diện mạo quốc gia. Những
thương hiệu mạnh đã quảng bá hình ảnh và trình độ phát triển của nước
Nhật, Thuỵ Sỹ,... đến toàn thế giới .
Những thương hiệu mạnh sẽ đóng vai trò sứ giả để sản phẩm các quốc
gia chiếm lĩnh thị trường thế giới, tạo nên những bước đệm vững chắc góp
phần đưa đất nước hội nhập kinh tế quốc tế.
II. Tầm quan trọng của việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá
trong thương mại quốc tế
1. Sự hình thành và phát triển hệ thống luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá
Như đã đề cập ở trên, thương hiệu là một tài sản vô hình có giá trị của
doanh nghiệp.Việc sử dụng đúng đắn chức năng của thương hiệu theo
đúng pháp luật sẽ tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, phát triển
sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, trong thực tế cuộc
sống, mọi việc không hoàn toàn diễn ra một cách lành mạnh như vậy. Để
đạt được lợi nhuận nhanh chóng và bằng chi phí rẻ nhất, người ta đã làm
giả, hoặc làm nhái theo các thương hiệu được ưa chuộng, mặc dù các loại
này có chất lượng thấp hơn hàng thật, thậm chí hoàn toàn không có chức
năng sử dụng. Điều này đã xảy ra từ xa xưa, khi bắt đầu xuất hiện việc trao
đổi hàng hoá trên trái đất và cùng với sự phát triển của xã hội, tệ nạn đó
ngày càng phát triển về quy mô và độ tinh vi. Các vụ tranh chấp, kiện cáo về
nhãn hiệu tại các tòa án ngày càng nhiều.
Ban đầu, vấn đề mà các toà án cần phải phán quyết là quyền sở hữu
đối với nhãn hiệu thuộc về ai. Trong các trường hợp này, nguyên tắc thường
được áp dụng là: quyền sở hữu sẽ thuộc về người đầu tiên sử dụng nhãn
hiệu hàng hoá đó. Để xác định ai là người sử dụng đầu tiên, các toà án lập
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
17
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
sổ ghi nhãn hiệu hàng hoá. Lúc đầu các sổ đó chỉ dùng để theo dõi các nhãn
hiệu bị tranh chấp, sau đó ghi các nhãn hiệu khác chưa bị tranh chấp để đề
phòng các tranh chấp sẽ có trong tương lai. Cuối cùng ngay cả các nhãn hiệu
chưa được sử dụng nhưng chủ nhãn hiệu có ý định sử dụng cũng được ghi
nhận vào sổ. Sổ theo dõi nhãn hiệu hàng hoá dần dần trở thành sổ đăng bạ
nhãn hàng, từ đó hình thành phương thức đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại
toà án (thường gọi là “Nhãn hiệu trình toà”). Tuy nhiên, lúc đó việc đăng ký
nhãn hiệu hàng hoá như vậy được thực hiện theo thông lệ chứ không theo
quy định của một văn bản pháp luật nào.
Luật nhãn hiệu hàng hoá đầu tiên dược hình thành tại Pháp năm 1857.
Tiếp theo là các nước: Italia (1868), Anh (1875), Bỉ (1879), Mỹ (1881), Đức
(1894), Nga (1896) ... Đến nay hầu hết các nước đều đã có luật về nhãn
hiệu hàng hoá. Tuy nhiên, các quy phạm pháp luật này chỉ điều chỉnh vấn đề
bảo hộ thương hiệu trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Trong khi đó, việc
tham gia thương mại quốc tế là một đòi hỏi tất yếu hiện nay đối với các
doanh nghiệp muốn vươn xa và chiếm lĩnh thị trường. Điều đó không chỉ
gây khó khăn cho các doanh nghiệp mà còn cho các quốc gia trong việc
kiểm soát việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá.
Trước thực tế đó, các Điều ước quốc tế và Điều ước khu vực lần lượt
được ra đời như: Công ước Paris, Thoả ước Madrid, Nghi định thư Madrid,
Quy chế thiết lập nhãn hiệu thương mại cộng đồng Châu Âu... Một mặt, đó
là những căn cứ pháp lý cơ sở để xây dựng và hoàn chỉnh luật bảo hộ nhãn
hiệu hàng hoá ở các nước thành viên, nhưng quan trọng hơn, đó là những
đóng góp để tạo dựng một Hệ thống đăng ký nhãn hiệu trong thương mại
quốc tế, từ đó thúc đẩy tiến trình hội nhập và hình thành nên một thị trường
toàn cầu.
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
18
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
2. Tác dụng của việc đăng ký nhãn hiệu trong thương mại quốc tế
2.1 Đối với các doanh nghiệp thương mại nói chung
2.1.1 Chống lại hành vi giả mạo và cạnh tranh không lành mạnh
Động cơ làm giàu bất hợp pháp, kiến thức pháp luật hạn chế cộng với
những kẽ hở trong khung pháp luật đã dẫn đến một thực tế: Hàng giả hầu
như đã len lỏi vào tận các ngóc ngách của xã hội hay nói cách khác là không
có lĩnh vực nào, ngành hàng nào mà không có đồ giả. Ngay khi một hàng
hoá có uy tín nhất định trên thị trường thì lập tức xuất hiện một loạt các
thương hiệu tương tự, na ná nhằm gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng.
Không chỉ vậy, nhiều khi các đối thủ cạnh tranh còn sao chép toàn bộ
thương hiệu, cả nhãn sản phẩm của doanh nghiệp để gắn lên hàng hoá của
họ. Không chỉ những hàng hoá tiêu dùng thông thường bị làm giả, còn nhiều
thứ giả khác mà hậu quả gây ra cho người tiêu dùng khó lường hết được
như dược phẩm, thực phẩm, vật liệu xây dựng,... Các loại hàng giả đó xuất
hiện trong mọi lĩnh vực của hoạt động thương mại, từ sản xuất, tiêu thụ
hàng hoá và dịch vụ trong nước đến hàng hoá xuất nhập khẩu.
Hiện nay, nạn làm hàng giả đang chiếm tỷ lệ lớn, tới 5- 7% giá trị
thương mại toàn cầu, hàng năm gây thiệt hại về mặt kinh tế khoảng 2-3 tỷ
Euro
3
. Tại Việt Nam, theo thống kê của Cục quản lý thị trường, cứ một mặt
hàng mới ra đời sẽ có 10 mặt hàng cùng loại trên thị trường xuất hiện với
mẫu mã giống hệt hoặc tương tự như thế với chất lượng kém hơn và đương
nhiên giá cả cũng thấp hơn giá của hàng chính hiệu. Không chỉ có các sản
phẩm hàng hoá bị làm giả mà ngay cả sản phẩm dịch vụ cũng bị làm giả.
Theo ông Hồ Huy, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Mai Linh cho biết
“sự xuất hiện của hãng giả taxi Mai Linh" đã khiến hãng bị thiệt hại tới 2,7
33
Theo: “H
ộ
i th
ả
o v
ề
th
ự
c thi quy
ề
n S
ở
h
ữ
u trí tu
ệ
” tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh:
27/05/2002-31/05/2002.
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
19
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
tỷ đồng trong một năm. Không riêng taxi Mai Linh mà nhiều hãng taxi có uy
tín khác cũng bị treo biển giả như Festival, Vina, Saigon Tourist,...
Nạn hàng giả ngày càng trở thành nỗi ám ảnh của các doanh nghiệp làm
ăn chân chính, là một trong những thách thức lớn trên con đường khẳng
định uy tín và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.
Trước tình hình đó, việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá chính là công cụ
hiệu quả để chống lại hành vi giả mạo và cạnh tranh không lành mạnh. Một
nhãn hiệu hàng hoá đã được pháp luật công nhận bảo hộ sẽ cho phép doanh
nghiệp căn cứ vào các công cụ pháp lý có liên quan để bảo vệ quyền lợi của
mình, ngăn chặn có hiệu quả hành vi vi phạm nhãn hiệu hàng hoá đã được
bảo hộ. Vì vậy, để tránh rơi vào tình trạng “ mất bò mới lo làm chuồng”, hay
việc đổ tiền bạc, thời gian cho các vụ kiện tụng, các doanh nghiệp hãy biến
việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu thương mại thành việc làm đầu tiên mỗi khi
có ý định gây dựng một nhãn hiệu hay một mặt hàng nào đó bởi bảo hộ
thương hiệu là bảo vệ chính mình.
2.1.2 Tạo khả năng độc quyền khai thác thương hiệu
Nguyên tắc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá là cho phép chủ sở hữu được
độc quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá đã được bảo hộ nhằm mục đích
kinh doanh. Do đó, một khi chủ sở hữu đăng ký và được bảo hộ nhãn hiệu
thì họ sẽ có quyền gắn nhãn hiệu đó lên hàng hoá, bao bì, giấy tờ giao dịch
trong hoạt động kinh doanh và quảng cáo nhãn hiệu của mình thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, truyền hình, biển quảng cáo...
Độc quyền khai thác nhãn hiệu tạo cho doanh nghiệp khả năng lập chiến
lược phân phối và kiểm soát thị trường cho sản phẩm của mình một cách
hợp lý. Tất cả những hoạt động này sẽ đảm bảo cho quá trình kinh doanh
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
20
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
của doanh nghiệp diễn ra một cách trôi chảy, lành mạnh và đạt hiệu quả cao
nhất.
Mặt khác, việc bảo hộ quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá với nội dung
đảm bảo tính độc quyền sử dụng nhãn hiệu sẽ tạo cho doanh nghiệp tâm lý
an toàn. Đồng thời, nó cũng khuyến khích các doanh nghiệp không ngừng
hoàn thiện sản phẩm, nghiên cứu và phát triển những sản phẩm mới đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
2.1.3 Thúc đẩy hợp tác, liên doanh liên kết và chuyển giao công
nghệ
Nhờ giá trị có được từ tiềm năng khai thác thương mại của thương
hiệu trên thị trường mà quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá được xác định giá
trị và trở thành tài sản góp vốn khi liên doanh, liên kết sản xuất, phân phối
sản phẩm. Một số nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam đã được xác định
giá trị tới vài triệu USD và dùng để góp vốn liên doanh như nhãn hiệu Viso
cho sản phẩm bột giặt, P/S cho kem đánh răng,...
Không chỉ được định giá cao trong liên doanh, liên kết, quyền sở hữu
nhãn hiệu hàng hoá còn gắn liền với việc chuyển giao công nghệ. ở Việt
Nam, rất nhiều trường hợp người nước ngoài đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
hàng hoá nhằm mục đích chào bán quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá mà
họ được bảo hộ cho các tổ chức sản xuất, kinh doanh của Việt Nam (mua
bán Lixăng). Hiện nay, việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo Lixăng đã
bắt đầu hình thành và đang trở thành một biện pháp hữu hiệu để thúc đẩy
sản xuất, đổi mới công nghệ, đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa và xuất
khẩu ở các nước, nhất là ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Thái Lan.
Năm 1997, số hợp đồng lixăng đã được đăng ký là 221, trong đó có 26
hợp đồng được ký giữa các doanh nghiệp Việt Nam, 23 hợp đồng được ký
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
21
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
kết giữa các doanh nghiệp nước ngoài và 172 hợp đồng giữa doanh nghiệp
Việt Nam với nước ngoài
4
. Điều đó chứng tỏ hoạt động sở hữu công nghiệp
đã có tác động trực tiếp đến việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào
Việt Nam và giữa các cơ sở trong nước với nhau.
Ngoài ra, trong th
ươ
ng m
ạ
i qu
ố
c t
ế
, vi
ệ
c
đă
ng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u
hàng hoá còn có thêm các tác d
ụ
ng sau:
2.1.4 Thâm nhập thị trường nước ngoài dễ dàng
Nền kinh tế toàn cầu đang tiến đến một sân chơi chung với luật lệ hài
hoà và thống nhất. Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong hoạt động
xuất nhập khẩu, hoạt động thương mại quốc tế ngày càng trở nên thông
thoáng. Tuy nhiên, để bảo hộ nền sản xuất nội địa, các nước đều dựng lên
các tiêu chuẩn khéo léo nhằm hạn chế sự xâm nhập của hàng hoá nước
ngoài. Xuất phát từ thực tế đó cộng với ý nghĩa quan trọng của bảo hộ
thương hiệu mà quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá trở thành một trong
những rào cản để thông quan hàng hoá. Các Giấy chứng nhận thương hiệu
chỉ có giá trị trong phạm vi một lãnh thổ nhất định, thông thường là lãnh thổ
quốc gia. Khi xuất, nhập hàng hoá vào một lãnh thổ quốc gia khác, nếu các
doanh nghiệp không quan tâm đến việc mở rộng phạm vi bảo hộ của văn
bằng hoặc đăng ký bảo hộ thương hiệu của mình trên lãnh thổ quốc gia đó,
việc lưu thông hàng hoá có thể bị ngăn cấm hoặc chỉ suôn sẻ sau khi doanh
nghiệp đã tốn nhiều công sức và chi phí. Khi đó, cơ hội kinh doanh và các
khoản lợi nhuận có thể đã tuột khỏi tay doanh nghiệp.
2.1.5 Đứng vững trước rào cản cạnh tranh không lành mạnh tại
thị trường nước ngoài
4
Theo C
ụ
c S
ở
h
ữ
u công nghi
ệ
p Vi
ệ
t Nam, nay là C
ụ
c S
ở
h
ữ
u trí tu
ệ
Vi
ệ
t Nam
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
22
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
Trong bất kỳ một môi trường kinh doanh nào, hàng hoá của doanh
nghiệp đều phải cạnh tranh với vô vàn hàng hoá cùng loại do các doanh
nghiệp trong nước sản xuất cũng như được nhập khẩu từ nhiều nước khác
nhau. Song mỗi môi trường cạnh tranh có đặc điểm riêng chịu sự điều chỉnh
của một hành lang pháp lý riêng. Quy tắc “đào thải” sẽ dễ dàng loại bỏ
doanh nghiệp nào lơ là với những quy tắc riêng đó. Bởi vậy, thích ứng và
đối phó thành công với hoạt động cạnh tranh không lành mạnh trên thị
trường ngoài nước là một thách thức với doanh nghiệp ngay cả khi doanh
nghiệp đã tạo dựng được một thương hiệu uy tín với những sản phẩm có
năng lực cạnh tranh cao.
Pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của các nước có thể khác nhau
nhưng đều đảm bảo quyền lợi chính đáng của chủ sở hữu hợp pháp nhãn
hiệu hàng hoá, đó là quyền yêu cầu bảo vệ quyền lợi khi bị người khác xâm
phạm, quyền sử dụng nhãn hiệu và quyền chuyển giao quyền sở hữu nhãn
hiệu hàng hoá. Do đó, bảo hộ thương hiệu trong thương mại quốc tế mà cụ
thể là bảo hộ thương hiệu trên các thị trường doanh nghiệp hoạt động hoặc
có ý định kinh doanh là một lá chắn vững chắc bảo vệ doanh nghiệp trước
những đòn tấn công khó lường của các đối thủ cạnh tranh.
2.1.6 Góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế
Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đã tham gia các Điều ước
quốc tế về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Thay vì phải đăng ký bảo hộ thương
hiệu tại mỗi nước mà doanh nghiệp có ý định kinh doanh, doanh nghiệp của
các nước thành viên chỉ cần đăng ký tại một địa điểm quy định và Giấy
chứng nhận bảo hộ thương hiệu sẽ có giá trị trong phạm vi lãnh thổ mà Điều
ước quốc tế đó có hiệu lực. Ngoài ra, các Điều ước còn cho phép được bảo
hộ nhãn hiệu hàng hoá ngay cả ở những nước mà doanh nghiệp chưa sẵn
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
23
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
sàng kinh doanh. Khi ấy, bảo hộ thương hiệu trong thương mại quốc tế
chính là một trong những yếu tố gợi mở nhu cầu mở rộng và phát triển kinh
doanh trong phạm vi các quốc gia.
Ngoài ra, việc bảo hộ thương hiệu trong thương mại quốc tế thông qua
các Điều ước quốc tế còn đảm bảo cho quá trình lưu thông hàng hoá giữa
các quốc gia được thông suốt, khắc phục tâm lý e ngại và tạo dựng sự tự tin
cho các doanh nghiệp khi thâm nhập thị trường nước ngoài.
2.2 Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nói riêng
2.2.1 Khắc phục khả năng tài chính hạn hẹp
Trong thời gian gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam hết sức bàng
hoàng trước hiện tượng một số thương hiệu hàng hoá nổi tiếng của mình bị
chính các đối tác nước ngoài chiếm đoạt bằng cách đăng ký trước nhãn
hiệu đó với cơ quan bảo hộ sở hữu công nghiệp ở nước ngoài. Việc mất
nhãn hiệu gây tổn hại trực tiếp tới tình hình sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp Việt Nam, buộc họ phải từ bỏ thị truờng đó hoặc phải mất
công gây dựng lại một nhãn hiệu khác để thâm nhập thị trường. Còn nếu
muốn giành lại nhãn hiệu của mình, chắc chắn các doanh nghiệp sẽ phải
theo đuổi các vụ kiện tụng tốn kém. Để lấy lại thương hiệu của mình tại
Mỹ, Vifon phải mất hơn 1 năm và chi phí gần 10.000 USD; Vinamilk cũng
đã mất khoảng 20.000 USD mới đòi lại được nhãn hiệu của chính mình,...
So với lệ phí đăng ký trung bình 200USD cho một thương hiệu hàng hoá
(xét mặt bằng chung trên thế giới) thì đó là những khoản tiền không nhỏ đối
với các doanh nghiệp Việt Nam.
2.2.2 Khắc phục hiểu biết hạn chế về thị trường đối tác
Tâm lý làm ăn nhỏ hẹp, làm riêng lẻ, ngày nào biết ngày đó cộng với
khả năng tài chính hạn chế khiến cho hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
24
Đăng ký b
ả
o h
ộ
nhãn hi
ệ
u hàng hoá t
ạ
i th
ị
tr
ườ
ng Hoa Kỳ
rất chậm trong việc tiếp cận thông tin và trì hoãn công việc khảo sát, thăm
dò thị trường đối tác. Trong khi đó, Nhà nước ta cũng như bản thân các
doanh nghiệp đều hy vọng tiếp cận với các thị trường xuất khẩu mạnh như
Mỹ, Nhật, Nga, EU,... Chiến đấu được trên những thị trường rộng lớn đó
chỉ với lượng thông tin rất hạn chế là một thách thức lớn với các doanh
nghiệp Việt Nam. Một trong những giải pháp cho vấn đề này chính là đăng
ký bảo hộ thương hiệu - công cụ hữu hiệu đảm bảo một môi trường lành
mạnh cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên mọi thị trường.
2.2.3 Tạo chỗ đứng và nâng cao vị thế của hàng Việt Nam
Hàng Việt Nam hiện xuất khẩu chủ yếu phải qua nước thứ ba, dưới
thương hiệu của nước trung gian. Thế giới chủ yếu biết đến Việt Nam như
là một nước xuất khẩu nông sản nhưng thế giới không thể nhận biết đâu là
sản phẩm sản xuất tại Việt Nam. Đây là một trong những lý do quan trọng
giải thích tại sao sản phẩm Việt Nam dù là đặc sản nhưng vẫn khó xuất
khẩu, giá cả bấp bênh, thu nhập của nông dân có xu hướng giảm. Khi các
doanh nghiệp quan tâm phát triển thương hiệu của riêng mình và đăng ký
bảo hộ thương hiệu đó, họ đã góp phần tạo dựng bộ mặt cho quốc gia.
III. Thực trạng nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam về việc
đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
1. Thực trạng việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá trong nước
Nhìn chung, việc bảo hộ bản quyền nhãn hiệu sản phẩm trên thị trường
Việt Nam trong những năm qua đã thu được một số thành công nhất định.
Hệ thống luật về bản quyền nhãn hiệu sản phẩm được hình thành và phát
triển một cách hoàn thiện hơn đã dần dần đáp ứng được những đòi hỏi của
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, hoạt động đăng ký nhãn
Chử Thị Minh Hiếu - A9/K38/KTNT
25