Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận: Mô hình du lịch cộng đồng là gì? Có mấy loại mô hình du lịch cộng đồng? Cho ví du 1 địa bàn áp dụng thành công mô hình du lịch cộng đồng tiên tiến.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.3 KB, 13 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM

TIỂU LUẬN GIỮA HỌC KÌ
(Học kỳ II năm học 2021-2022)

Học phần: DU LỊCH CĨ TRÁCH NHIỆM

Đề: Mơ hình du lịch cộng đồng là gì? Có mấy loại mơ hình du
lịch cộng đồng? Cho ví du 1 địa bàn áp dụng thành cơng mơ
hình du lịch cộng đồng tiên tiến.
Giáo viên hướng dẫn

: Đỗ Hải Yến

Sinh viên thực hiện

: Trần Thị Vân Anh

Mã Sinh Viên

: 1355010009

Lớp

: QTDL 13-04

Hà Nội - 2022
MỤC LỤC




MỞ ĐẦU
Kể từ sau chiến tranh thế giới thứ II, du lịch trên phạm vi toàn cầu đã phát
triển nhanh chóng với tốc độ bình qn về khách 6,93%/năm, về thu nhập
11,8%/năm và trở thành ngành kinh tế quan trọng hàng đầu. Theo tổ chức du lịch
thế giới (UNWTO), bất chấp tình hình kinh tế khó khăn kéo dài ở một số quốc
gia và khu vực, lượng khách du lịch quốc tế năm 2015 đã đạt hơn 1 tỷ người,
cũng là năm thứ 6 liên tiếp đạt mức tăng trưởng hàng năm từ 4% trở lên.
Ngành du lịch ở Việt Nam đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong phát
triển kinh tế-xã hội. Theo công bố vào tháng 3/2016 của hội đồng Du lịch và Lữ
hành thế giới (WTTC), du lịch ở Việt Nam đóng góp 6,6% vào GDP, xếp thứ
40/184 nước về quy mơ đóng góp trực tiếp vào GDP và xếp thứ 55/184 nước về
quy mơ tổng đóng góp vào GDP quốc gia. Cụ thể du lịch đóng góp cả trực tiếp,
gián tiếp và đầu tư cơng là 584.884 tỷ đồng (tương đương 13,9% GDP), trong đó
đóng góp trực tiếp của du lịch vào GDP là 279.287 tỷ đồng (tương đương 6,6%
GDP). Du lịch tạo ra hơn 6,3 triệu việc làm cả trực tiếp và gián tiếp (chiếm 11,2
%), số việc làm trực tiếp được tạo ra là 2,783 triệu (chiếm 5,2% tổng số việc
làm). Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã đề
ra mục tiêu: “Đến năm 2020 du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có
tính chuyên nghiệp, có hệ thống cơ sở vật chất tương đối đồng bộ, hiện đại; sản
phầm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn
hóa dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong khu vực và trên thế giới. Phấn
đấu đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển”.
Tuy nhiên ngồi những đóng góp tích cực nêu trên thì cũng tồn tại khơng
ít những tiêu cực mà du lịch mang lại. Đó là vấn đề ơ nhiễm môi trường, an ninh
trật tự, hư hại các di sản… đã được đề cập trong rất nhiều các chương trình nghị
sự của các quốc gia trên thế giới. Chính vì lẽ đó địi hỏi chúng ta phải phát triển
những mơ hình du lịch khơng chỉ vận hành hiệu quả mà cịn có thể khắc phục
được những hạn chế trên và hướng đến một mục tiêu bền vững. Du lịch dựa vào
cộng đồng hay du lịch cộng đồng (DLCĐ) là mơ hình phát triển du lịch một cách

tồn diện, một trong những loại hình phát triển du lịch bền vững, với sự tham gia


trực tiếp của người dân địa phương vào các hoạt động du lịch. Vì có những lợi
ích mà du lịch mang lại nên người dân cũng có ý thức tự giác trong xây dựng và
bảo vệ địa điểm du lịch của địa phương mình. Đặc biệt điều kiện của nước ta với
hơn 70% địa hình là đồi núi, là nơi tập trung nhiều tài nguyên du lịch (hang động,
phong cảnh, rừng, suối…), nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số, cịn giữ
được bản sắc văn hóa. Những điều kiện trên vô cùng thuận lợi để phát triển du
lịch sinh thái cộng đồng và du lịch văn hóa cộng đồng.
Du lịch cộng đồng xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1997, trải qua hơn hai
thập kỷ hình thành và phát triển, du lịch cộng đồng đã đem lại nhiều lợi ích kinh
tế cho người dân địa phương tuy nhiên vẫn chưa thực sự đạt được những thành
công mong đợi. Đa số vẫn chỉ là loại hình homestay (hình thức khách du lịch đến
ở nhà người dân địa phương để cùng ăn, nghỉ, trải nghiệm cuộc sống cộng đồng),
tỷ lệ hộ dân tham gia vào du lịch cịn q ít, tổ chức tự phát, manh mún nên nên
sự chuyên nghiệp chưa cao.
1. Khái niệm mơ hình du lịch cộng đồng
Du lịch cộng đồng hay du lịch dựa vào cộng đồng đang được biết đến như
các nguyên tắc, giải pháp phát triển bền vững. Ngày nay, du lịch cộng đồng được
hiểu là một cộng đồng địa phương tham gia vào các hoạt động kinh doanh du
lịch. Ban đầu mang tính tự phát tại những nơi có tài nguyên du lịch tự nhiên và
nhân văn hấp dẫn các tuyến, điểm du lịch được tổ chức chủ yếu nhằm vào mục
đích khai thác tài nguyên du lịch sẵn có của địa phương chứ chưa chú trọng
quyền lợi của cộng đồng địa phương và thu hút họ tham gia vào các hoạt động du
lịch. Trong một số trường hợp, do không thống nhất được quyền lợi của các bên
tham gia đã có những tác động không tốt tới môi trường du lịch và giảm sức hấp
dẫn đối với du khách.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, cộng đồng được hiểu là “một tập đoàn
người rộng lớn có những dấu hiệu, những đặc điểm xã hội nói chung về thành

phần giai cấp, về nghề nghiệp, về địa bàn cư trú. Cũng có những cộng đồng xã
hội bao gồm một dòng giống, một sắc tộc, một dân tộc”. Như vậy khi nói đến
cộng đồng xã hội bao gồm mang tính phổ quát nổi bật: Kinh tế, địa lý, ngôn ngữ,


văn hóa, tín ngưỡng, tơn giáo và lối sống. Thuật ngữ du lịch cộng đồng xuất phát
từ hình thức du lịch làng bản ngay từ những năm 1970 ở các nước thuộc khu vực
châu Âu, châu Mỹ và châu Úc. Mục đích khái niệm này đầu tiên do du khách đưa
ra. Khách du lịch tham quan các làng bản, tìm hiểu về đời sống sinh hoạt, phong
tục, tập quán, khám phá hệ sinh thái của vùng núi non, các cuộc du ngoạn này
thường được tổ chức tại các vùng rừng núi. Phần lớn cịn mang tính chất hoang
dã, địa hình hiểm trở, nhưng lại rất thưa dân cư, các điều kiện đi lại, sinh hoạt
gặp rất nhiều khó khăn. Những lúc như vậy, du khách cần tới sự giúp đỡ của
những người dân bản địa như: Dẫn đường khỏi bị lạc, nơi nghỉ qua đêm …
Khách du lịch thường gọi những chuyến đi đó là những chuyến đi có sự hỗ trợ
của người dân địa phương. Đây chính là tiền đề cho sự phát triển các loại hình du
lịch cộng đồng như hiện nay. Du lịch cộng đồng chính thức được hình thành và
phát triển mạnh mẽ tại các nước Châu Phi, Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Úc những
năm 80 – 90 của thế kỷ trước. Sau đó lan rộng sang khu vực châu Á trong đó có
các nước khu vực ASEAN như Inđônêxia, Philippin, Thái Lan, Việt Nam …
Ngày nay, du lịch cộng đồng được hiểu là cộng đồng địa phương tham gia
vào các hoạt động kinh doanh mang tính tự phát tại những nơi có tài ngun du
lịch tự nhiên và nhân văn hấp dẫn, các tuyến, điểm du lịch sẵn có của địa phương
chứ chưa chú trọng tới quyền lợi cộng đồng địa phương và thu hút họ tham gia
vào hoạt động du lịch. Trong nhiều trường hợp quyền lợi của các bên tham gia du
lịch xấu đi và làm giảm sức hấp dẫn cho du khách. Đến nay một số nhà nghiên
cứu đã đưa ra các khái niệm cho thuật ngữ du lịch cộng đồng.
Những khái niệm về Du lịch cộng đồng:
- Theo Rest - Thailand (1997): Du lịch cộng đồng là phương thức tổ chức
du lịch đề cao sự bền vững về môi trường, văn hóa xã hội. Du lịch cộng đồng do

cộng đồng sở hữu và quản lý, vì cộng đồng và cho phép du khách nâng cao nhận
thức và học hỏi về cộng đồng, về cuộc sống đời thường của họ.
- Theo quỹ bảo tồn thiên nhiên thế giới WNF: Du lịch cộng đồng là loại
hình du lịch mà ở đó cộng đồng địa phương có sự kiểm sốt và tham gia chủ yếu
vào sự phát triển và quản lý hoạt động du lịch và phần lớn lợi nhuận thu được từ
hoạt động du lịch được hoạt động du lịch giữ cho cộng đồng.


Đối với Việt Nam, vấn đề phát triển du lịch cộng đồng lần đầu tiên được
đưa ra tại“Hội thảo chia sẻ bài học kinh nghiệm phát triển du lịch cộng đồng Việt
Nam – 2003”. Hội thảo được tổ chức tại Hà Nội, các chuyên gia trong và ngoài
nước đã thảo luận các vấn đề cơ bản về loại hình du lịch cộng đồng tại việt Nam.
Theo đó Viện nghiên cứu phát triển miền núi đã đưa ra khái niệm về du lịch cộng
đồng như sau: “Du lịch cộng đồng là nhằm bảo tồn tài nguyên du lịch tại điểm
đón khách. Vì sự phát triển du lịch bền vững dài hạn, du lịch cộng đồng khuyến
khích sự tham gia cộng đồng địa phương trong du lịch và có cơ chế tạo các cơ
hội cho cộng đồng. du lịch cộng đồng là một quá trình tương tác giữa cộng đồng
và khách du lịch mà sự tham gia có ý nghĩa của cả hai phía, mang lại lợi ích, bảo
tồn cho cộng đồng địa phương.” Như vậy du lịch cộng đồng nhấn mạnh đến tính
tự chủ, vai trị chủ thể tham gia hoạt động du lịch là cộng đồng địa phương.
2. Các mô hình du lịch cơng đồng và ví dụ
2.1. Du lịch sinh thái
Ngày nay, những ứng xử của con người với tự nhiên đang được thay đổi
với ý thức quan tâm hơn tới tự nhiên và có nhiều nỗ lực trong việc bảo vệ chúng.
Bởi vậy, đảm bảo du lịch hòa nhập với môi trường là cần thiết và nên được quan
tâm đầy đủ. Nghĩa là, du lịch sẽ rất nhạy cảm với mơi trường – cơ sở cho chính
sự tồn tại và phát triển của ngành này, đó chính là du lịch sinh thái.
Du lịch sinh thái là một hình thức du lịch diễn ra trong khu vực tự nhiên
(đặc biệt là trong các khu vực cân được bảo vệ và mơi trường xung quanh nó) và
kết hợp tìm hiểu bản sắc văn hóa - xã hội của địa phương có sự quan tâm đến vấn

đề mơi trường. Nó thúc đẩy một hệ sinh thái bền vững thông qua một q trình
quản lý mơi trường có sự tham gia của tất cả các bên liên quan.
Theo Luật du lịch, 2005: Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào
thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương, với sự tham gia của cộng đồng
nhằm phát triển bền vững. Có thể nói, du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa
vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương, có sự tham gia của cộng
đồng địa phương. Du lịch sinh thái thường được diễn ra ở những khu, điểm du


lịch có tài nguyên hoang sơ, nhạy cảm, có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống
như: tại các vườn quốc gia - nơi có những cảnh đẹp, khí hậu mát mẻ, trong lành,
có sự đa dạng sinh học cao, giàu tài nguyên du lịch tự nhiên, có dân cư sinh sống,
vẫn bảo tồn được nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc; các vùng núi và cao
nguyên có độ cao trung bình trở lên, có nhiều phong cảnh đẹp, có các cộng đồng
ít người sinh sống với những giá trị văn hóa đặc sắc; các vùng hồ biển có phong
cảnh đẹp, giàu tài nguyên thủy sản, người dân địa phương có thể tham gia vào
các hoạt động du lịch; ở những vùng có nhiều sơng ngịi, thác nước, có phong
cảnh đẹp kết hợp với tài nguyên du lịch nhân văn hấp dẫn khách du lịch; các
vùng có nguồn nước nóng hoặc nước khống. Hiện tại, xu hướng du lịch thế giới
là con người muốn trở về thiên nhiên, được hịa mình vào thiên nhiên, tìm hiểu
bản sắc văn hóa của cộng đồng và bảo tồn thiên nhiên, du lịch sinh thái là loai
hình du lịch đáp ứng được mong muốn của du khách. Do đó nó trở thành một
loại hình du lịch được phổ biến nhanh chóng trong ngành du lịch.
2.2. Du lịch văn hóa
Du lịch văn hóa là một trong những thành phần quan trọng nhất của du
lịch dựa vào cộng đồng từ khi văn hóa, lịch sử, khảo cổ học, là yếu tố thu hút
khách chủ yếu của cộng đồng địa phương. Ví dụ về du lịch dựa vào văn hóa bao
gồm khám phá các di tích khảo cổ học, địa điểm tơn giáo nổi tiếng hay trải
nghiệm cuộc sống địa phương tại một ngôi làng dân tộc thiểu số. Bản sắc văn hóa
của cộng đồng địa phương chính là “cực hút’’ du khách, đặc biệt là khách quốc

tế. Các hoạt đồng du lịch này thường được tổ chức ở: những địa bàn nông thôn
đồng bằng, các khu phố cổ, các vùng ngoại ô, nơi tập trung nhiều di tích lịch sử,
văn hóa có giá trị cao và giàu tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể, những
cộng đồng địa phương miền núi – nơi bảo tồn được nhiều giá trị văn hóa truyền
thống vật thể và phi vật thể đặc sắc, giao thông không q cách trở.
2.3. Du lịch nơng nghiệp
Đây là một hình thức du lịch tại các khu vực nông nghiệp như vườn cây
ăn trái, trang trại nông lâm kết hợp, trang trại thảo dược và các trang trại động
vật, đã được chuẩn bị phục vụ cho khách du lịch. Khách du lịch xem hoặc tham


gia vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp như làm việc với dụng cụ của nhà nông
hoặc thu hoạch mùa mà không làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái hoặc năng suất
của gia đình chủ nhà. Một sản phẩm mới đặc biệt là nghỉ ngơi ở các trang trại
hữu cơ, nơi du khách có thể tìm hiểu thêm về thiên nhiên và học tập các phương
pháp canh tác không dùng thuốc trừ sâu.
2.4. Du lịch bản địa
Du lịch bản địa/Dân tộc đề cập đến một loại du lịch, nơi đồng bào dân tộc
thiểu số hoặc người dân bản địa tham gia trực tiếp vào hoạt động du lịch, nền văn
hóa vốn có của họ chính là yếu tố chính thu hút khách du lịch.
2.5. Du lịch làng
Khách du lịch chia sẻ các hoạt động trong cuộc sống thôn bản, và các làng
nơng thơn thu được lợi ích kinh tế từ các hoạt động du lịch. Dân làng cung cấp
các dịch vụ ăn ở, nhà trọ cho khách nghỉ ngơi qua đêm. Nhà trọ chính chính là
các điểm kinh doanh du lịch, trong đó du khách ở lại qua đêm trong những ngơi
nhà làng, cùng với một gia đình. Khách du lịch có thể chọn nhà nghỉ, các nhà
nghỉ này được hoạt động bởi một hợp tác xã, làng, hoặc cá nhân, cung cấp cho du
khách không gian riêng tư hơn, thoải mái cho cả họ và đôi khi cũng là thoải mái
hơn cho chủ nhà.
2.6. Nghệ thuật và Thủ công mỹ nghệ:

Nghệ thuật và sản xuất thủ công mỹ nghệ ở địa phương có một lịch sử lâu
dài. Nó khơng phải là một hình thức độc lập của du lịch, mà chính là một thành
phần của các loại hình khác nhau của du lịch. Du lịch không chỉ mang lại cơ hội
kinh doanh tốt hơn cho ngành công nghiệp thủ công mỹ nghệ của khu vực, doanh
số bán hàng của hàng thủ cơng mỹ nghệ cũng có thể giúp người dân địa phương
để tìm hiểu thêm về di sản văn hóa và nghệ thuật phong phú và độc đáo của họ.
3. Ví dụ về 1 địa bàn áp dụng thành cơng mơ hình du lịch cộng đồng tiên
tiến


Du lịch cộng đồng Mai Châu Hịa Bình
Mai Châu Hịa Bình là một trong những điểm đến du lịch cộng đồng nổi
tiếng nhất cả nước. Đây là các bản làng của dân tộc Thái, Mường với khoảng các
hộ dân sinh sống chủ yếu bằng nghề làm nương, trồng lúa, dệt thổ cẩm.
Mơ hình du lịch cộng đồng tại Mai Châu được đông đảo du khách biết đến
với nhiều dịch vụ độc đáo và những homestay đạt chất lượng cao. Nơi đây cịn có
khung cảnh núi non hùng vĩ, bản sắc văn hóa độc đáo và nhiều món ngon hấp
dẫn như: xơi nếp nướng, gà đồi,... Du khách cịn được tham gia chương trình biểu
diễn văn nghệ và nhiều hoạt động hào hứng như: đốt lửa trại, giao lưu tập thể,...
Hiện tại du lịch công đồng tại Mai Châu đã khá phát triển với 103 nhà
nghỉ, 7 bản DLCĐ, gồm: Bản Lác - xã Chiềng Châu, bản Bước - xã Xăm Khòe,
bản Văn, bản Pom Coọng - thị trấn Mai Châu, bản Hịch - xã Mai Hịch, bản Pà
Cò - xã Pà Cò, bản Hang Kia - xã Hang Kia. Huyện Lạc Sơn có 12 hộ, chủ yếu ở
xã Tự Do - Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn - Ngổ Lng. Huyện Đà Bắc có
15 hộ ở xóm Ké - xã Hiền Lương, xóm Đức Phong, Đồn Kết - xã Tiền Phong,
bản Sưng - xã Cao Sơn. Huyện Cao Phong có 15 hộ ở bản Giang Mỗ - xã Bình
Thanh, xóm Tiện - xã Thung Nai. Huyện Tân Lạc có gần 20 hộ tại xóm Ngịi - xã
Suối Hoa, xóm Lũy Ải - xã Phong Phú, xóm Chiến - xã Nam Sơn, xóm Bưởi Cại
- xã Phú Cường…
Bên cạnh đó, chất lượng phục vụ của các nhà nghỉ DLCĐ ngày càng được

nâng cao, đáp ứng tiêu chí, giá cả phù hợp cho mọi du khách. Các điểm DLCĐ
đang hoạt động được quản lý theo một số mơ hình cụ thể, như mơ hình HTX tại
bản Lác (Mai Châu); chi hội tại xóm Mu, Khướng, Mịn, Sát Thượng (Lạc Sơn);
cơng ty cổ phần tại xóm Ké, Đức Phong, Sưng (Đà Bắc); doanh nghiệp liên kết
hợp đồng thống nhất phân chia lợi nhuận với các hộ gia đình khai thác, kinh
doanh DLCĐ tại xóm Lũy Ải (Tân Lạc).... Hiện nay, ngồi dịch vụ lưu trú ăn
uống, các dịch vụ kèm theo như biểu diễn văn nghệ, sản xuất, cung cấp hàng thổ
cẩm, lưu niệm, cho thuê thuyền, bè, mảng, xe đạp, cộng tác hướng dẫn, thuyết
minh, giới thiệu cho khách thăm quan bản làng, tìm hiểu truyền thống lịch sử,


văn hóa, đời sống Nhân dân, tham gia các trị chơi dân gian... đã được các điểm
DLCĐ khai thác.
Mơ hình kinh tế ở Mai Châu là hợp tác nông-lâm nghiệp chăn ni và
dịch vụ (trong đó nổi lên là dịch vụ du lịch). Trên cơ sở đó vận hành theo phương
thức khốn gọn đến từng hộ gia đình, điều tiết sản xuất, phân phối nhằm mục
đích nâng cao mức sống của nhân dân, đảm bảo cân đối giữa lợi ích của người
lao động và lợi ích tập thể, nhờ đó kinh tế hộ gia đình tại bản ngày càng được
nâng cao.
Theo thống kê của Sở VH-TT&DL, khách quốc tế đến các điểm DLCĐ
chiếm tỷ lệ khá cao, chủ yếu tập trung vào dịp đầu năm, cuối năm, thời điểm nghỉ
cuối tuần, các ngày nghỉ lễ, học tập, nghiên cứu. Giai đoạn 2015-2019, số khách
DLCĐ đến Hịa Bình chiếm bình qn khoảng 13,9% so với tổng số khách du
lịch của tỉnh. Đến năm 2019, các điểm DLCĐ đã đón 471.000 lượt khách đến
khám phá, trải nghiệm văn hóa bản địa của cộng đồng các dân tộc, tăng 180.000
lượt so với năm 2015. Trong đó, có 243.000 lượt khách quốc tế, thị trường khách
chủ yếu từ Pháp, Úc, Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha.
Về cơ cấu tổng thu từ khách du lịch của tỉnh, khách quốc tế đóng góp
21,9%, khách nội địa đóng góp 70,9%. Trong cơ cấu thu từ khách DLCĐ, khách
quốc tế đóng góp 34,7%, khách nội địa đóng góp 65,3%. Doanh thu từ dịch vụ

bán hàng, ăn uống, cho thuê phòng chiếm tỷ trọng cao nhất (82%), dịch vụ còn
lại chiếm 18%. Trong 6 tháng đầu năm 2019, huyện Mai Châu đã đón trên 18 vạn
lượt khách đến tham quan du lịch, trong đó có 77.621 lượt khách quốc tế và
104.438 lượt khách nội địa. Tổng doanh thu từ du lịch đạt 70,1 tỷ đồng.
Thành công nhờ du lịch cộng đồng tại Mai Châu được thể hiện ở việc vào
năm 2003, thu nhập bình quân của người dân trong bản chỉ đạt 3 triệu
đồng/người/năm. Từ du lịch và nhờ du lịch, hết năm 2019, thu nhập bình quân
của người dân làm du lịch cộng đồng tại Mai Châu đã đạt 27 triệu
đồng/người/năm; có nhiều gia đình chun hoạt động du lịch cịn có doanh thu
trên dưới 300 triệu đồng/năm. Ngồi ra, người dân trong bản cịn sản xuất một số
sản phẩm nông nghiệp khác như: chăn nuôi gia súc, gia cầm, thả cá, trồng
nấm…. Đặc biệt từ nhiều năm nay, học tập các hộ đi đầu làm du lịch hiện nay số


đơng các hộ gia đình đã đăng ký kinh doanh du lịch, làm thêm nhà nghỉ, mua
sắm thêm các tiện nghi tốt hơn để phục vụ khách du lịch nghỉ ngơi, ăn uống, bán
quà lưu niệm, hàng thổ cẩm, mỹ nghệ... tạo nguồn thu đáng kể, góp phần nâng
cao mức sống của nhân dân. Từ đây đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo
việc làm và nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người dân, bảo tồn bản sắc văn
hóa các dân tộc giữ vừng vị thế của một trong những điểm sáng về mơ hình du
lịch cộng đồng tại Việt Nam.


KẾT LUẬN
Du lịch ngày càng đóng vai trị quan trọng trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của nước ta. Mối quan hệ giữa phát triển du lịch và cộng đồng dân cư
địa phương tại các điểm đến du lịch ngày càng trở nên khăng khít, có tác động
tương hỗ. Ngày nay, loại hình du lịch cộng đồng đã được nhà nước và các cấp
chính quyền địa phương Việt Nam quan tâm và đạt được các thành tựu triển
vọng. Chính vì thế cần có một số giải pháp để tăng cường sự tham gia của cộng

đồng địa phương vào hoạt động phát triển du lịch: Tạo điều kiện thuận lợi để
người dân có thể tham gia vào quá trình quy hoạch và giám sát thực hiện quy
hoạch phát triển du lịch tại những nơi mà cuộc sống của cộng đồng gắn liền;
Nâng cao nhận thức của họ về trách nhiệm bảo vệ môi trường và các giá trị tự
nhiên để đảm bảo cuộc sống của họ; Xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp với
đặc thù của từng địa phương để đảm bảo một phần từ thu nhập du lịch sẽ “quay
lại” hỗ trợ cho cộng đồng và cho công tác bảo tồn, phát triển tài nguyên, môi
trường du lịch tại địa phương đó; Xây dựng một số mơ hình và cơ chế cụ thể
nhằm tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho sự tham gia của cộng đồng để hoạt
động phát triển du lịch ngày càng lớn mạnh hơn nữa.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SNV Việt Nam và Đại học Tổng hợp Hawaii, Trường Đào tạo quản lý Du
lịch. Bộ công cụ quản lý và giám sát du lịch cộng đồng, mạng lưới du lịch bền
vững vì người nghèo.
2. Trần Thi Mai (2005), Du lịch cộng đồng và du lịch sinh thái.
3. Võ Quế (2006), Du lịch cộng đồng lý thuyết và vận dụng, NXB Khoa
học và Kỹ thuật.
6. Bùi Thị Hải Yến (2006), Tuyến điểm du lịch Việt Nam, NXB Giáo dục
5. Viện nghiên cứu và phát triển du lịch, Hội thảo chia sẻ bài học kinh
nghiệm phát triển du lịch Cộng đồng ở Việt Nam.



×