BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------
BÀI TẬP LỚN
ĐỀ TIỂU LUẬN:VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI
KINH TẾ-XÃ HỘI VÀO THỰC TIỄN ĐỔI MỚI NGƯỜI
LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
GV hướng dẫn: Nghiêm Thị Châu Giang
Người thực hiện: Phùng Tấn Dũng
Lớp: 63D Kinh Doanh Quốc Tế CLC
Mã SV: 11211510
HÀ NỘI, NĂM 2021
MỞ ĐẦU
Đất nước Việt Nam đang ngày càng phát triển về mọi mặt, đặc biệt là tốc độ hội
nhập nhanh chóng của nền kinh tế trong những năm gần đây. Mặc dù chịu sự
gián đoạn và ảnh hưởng ít nhiều do dịch bệnh Covid 19 và sự biến động của
tình hình thế giới, nhưng nhìn chung nền kinh tế nước ta vẫn có những sựu đột
phá khá mạnh mẽ - đó ln là một trong những mục tiêu hàng đầu của đất nước.
Muốn phát triển được nền kinh tế đất nước trước hết phải đẩy mạnh đổi mới
nguồn nhân lực. Do đó, đổi mới người lao động ln đóng một vai trò quan
trọng và thiết yếu, nhất là trong quá trình Việt Nam đang trên đà hội nhập và
phát triển. Phát triển và đổi mới người lao động luôn là vấn đề được đặt ra hàng
đầu và được quan tâm đối với các nhà lãnh đạo. Trong phiên thảo luận Quốc
hội khóa XV, phiên họp thứ hai, đại biểu Nguyễn Minh Tâm (Quảng Bình) đã
phát biểu: “Thị trường lao động Việt Nam có khoảng 75% lao động khơng được
đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Đây là hạn chế lớn của nền kinh tế Việt Nam
trong bối cảnh đại dịch vẫn đang cịn lan rộng và cuộc cách mạng cơng nghiệp
4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên tồn thế giới. Vì thế, tôi đề nghị Bộ Lao động Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo đổi mới, triển
khai các chính sách đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực thích ứng với yêu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế, đào tạo đáp ứng với
nhu cầu thực tiễn, tránh việc đào tạo tràn lan, tốn kém nhưng lại không đáp ứng
yêu cầu thực tiễn”. Như vậy, để phát triển và đổi mới người lao động cần kết
hợp vận dụng sáng tạo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa MácLênin trong thực tiễn của đất nước, phù hợp với nguồn lực người lao động Việt
Nam hiện nay cách toàn diện và hiệu quả nhất.
1
MỤC LỤC
I, Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội:
1.
2.
3.
4.
Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội
Kết cấu hình thái kinh tế - xã hội
Sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên
Hình thái kinh tế - xã hội bao hàm sự bỏ qua như thế nào?
II, Vận dụng:
1.
2.
3.
4.
Yếu tố con người ảnh hưởng đến hình thái kinh tế - xã hội như thế nào?
Yếu tố khoa học xã hội
Thực tiễn đổi mới người lao động ở Việt Nam hiện nay
Công cuộc đổi mới người lao động phù hợp với thực tiễn đất nước và vận
dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào công cuộc đổi mới
III, Kết luận chung
IV, Tài liệu tham khảo
2
I, Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
Trong kho tàng lý luận của Mác để lại cho loài người, Học thuyết hình thái kinh
tế - xã hội của ông được coi là "cơ sở phương pháp luận của các khoa học xã
hội, là hòn đá tảng cho mọi nghiên cứu về xã hội" (1), là cơ sở khoa học để giải
thích tính phong phú, đa dạng trong sự phát triển của các quốc gia, dân tộc. Xã
hội loài người nói chung phải trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến
cao, là một quá trình lịch sử - tự nhiên do những mâu thuẫn trong lịng của mỗi
hình thái kinh tế - xã hội quy định. Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất; giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.... Những mâu
thuẫn này được giải quyết sẽ dẫn đến hình thái kinh tế - xã hội cũ mất đi, hình
thái kinh tế - xã hội mới ra đời thay thế, làm cho xã hội phát triển lên một trình
độ mới cao hơn. Tuy nhiên, điều này khơng có nghĩa là tất cả các quốc gia, dân
tộc đều lần lượt, nhất loạt phải trải qua đầy đủ các nấc thang phát triển đó. Do
vậy, có sự phát triển không đồng đều giữa các quốc gia, dân tộc. 1, Khái niệm
hình thái kinh tế - xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay
còn gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng
giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội
đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến
trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó
chính là các xã hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa các
mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp,
trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động
qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
2, Kết cấu hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, một chỉnh thể tồn vẹn có cơ cấu
phức tạp, trong đó có những mặt cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng. Ba yếu tố đó tác động qua lại nhau tạo thành sự
vận động tổng hợp của hai quy luật cơ bản, chung nhất của sự tồn tại và phát
triển xã hội.
3
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thể hiện trình
độ chinh phục tự nhiên của con người, trình độ của các quá trình sản xuất vật
chất khác nhau trong xã hội. Theo một nghĩa chung nhất lực lượng sản xuất là
mặt tự nhiên của phương thức sản xuất hoặc là sức sản xuất vật chất của xã hội.
Lực lượng sản xuất mang tính khách quan độc lập với ý thức của con người. Xét
về kết cấu lực lượng sản xuất bao gồm hai yếu tố, đó là: tư liệu sản xuất và
người lao động. Tư liệu sản xuất: Bao gồm có tư liệu lao động và đối tượng lao
động. Tư liệu lao động bao gồm có cơng cụ lao động và phương tiện lao động.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người và con người trong quá trình
sản xuất vật chất. Theo một nghĩa chung nhất thì quan hệ sản xuất là một yếu tố
của phương thức sản xuất, là mặt xã hội của phương thức sản xuất. Quan hệ sản
xuất là quan hệ kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Mối quan hệ
giữa con người và con người trong quan hệ sản xuất bao giờ cũng thể hiện tính
chất, bản chất của quan hệ lao động và dưới góc độ chung nhất nó thể hiện bản
chất kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Quan hệ sản xuất mang
tính khách quan độc lập với ý thức của con người. Kết cấu của quan hệ sản xuất
bao gồm ba mặt quan hệ cơ bản sau: Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Xét về
mặt lịch sử quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đã được thể hiện dưới hai hình
thức cơ bản, đó là sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất. Quan hệ
tổ chức quản lý sản xuất. Quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Quan hệ này
phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Bới vì, chủ thể xã hội
nào nắm tư liệu sản xuất thì đồng thời họ là người có mức hưởng thụ nhiều hơn,
và là người có quyền quyết định phân phối sản phẩm vật chất của xã hội. Trong
ba mặt quan hệ của quan hệ sản xuất đều có sự tác động qua lại lẫn nhau.
Nhưng quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan hệ giữ vai trò quyết định trong
quan hệ sản xuất. Đồng thời quan hệ sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội là sự khác
nhau về bản chất và có tính chất đối lập. Đặc điểm chung nhất của sản xuất vật
chất xã hội, là nó ln trong q trình vận động và phát triển ngày một cao và
tiến bộ hơn.
Lực lượng sản xuất là yếu tố động và cách mạng nhất của phương thức sản xuất,
là nội dung của phương thức sản xuất. Còn quan hệ sản xuất là cái tương đối ổn
định, là hình thức của phương thức sản xuất. Trong mối quan hệ này thì nội
dung quyết định hình thức. Nội dung thay đổi trước, hình thức thay đổi sau và
phụ thuộc vào nội dung. Cùng với sự thay đổi và phát triển của lực lượng sản
xuất thì quan hệ sản xuất cũng thay đổi và phát triển cho phù hợp với tính chất
4
và trình độ của lực lượng sản xuất. Nhưng lực lượng sản xuất thường có khuynh
hướng phát triển nhanh hơn quan hệ sản xuất. Cho nên, lực lượng sản xuất phát
triển đến một giới hạn nhất định nào đó thì mâu thuẫn với quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất khơng cịn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất nữa, trở thành kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển
khách quan đó tất yếu dẫn đến sự xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế một kiểu
quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất,
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Như vậy, quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp vơí tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật chung nhất
của xã hội. Nó dẫn đến sự thay đổi và chuyển hóa các hình thái kinh tế xã hội
khác nhau trong lịch sử . Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một quy luật chung nhất của sự phát
triển xã hội. Sự tác động của quy luật này đã khẳng định tính tất yếu khách quan
của sự phát triển xã hội loài người từ phương thức sản xuất xã hội Nguyên thủy,
Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, Tư bản chủ nghĩa và phương thức Cộng sản chủ
nghĩa tương lai.
Những quan hệ sản xuất là bộ xương của cơ thể xã hội hợp thành cơ sở hạ tầng
và trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng tương ứng mà chức năng xã hội
của nó là bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó. Kiến trúc thượng
tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những
quan hệ nội tại của nó được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định. Mỗi bộ
phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều có đặc điểm và qui luật riêng,
nhưng chúng đều có sự tác động biện chứng qua lại lẫn nhau khi phản ánh cơ sở
hạ tầng. Trong các bộ phận khác nhau đó thì nhà nước, pháp luật và hệ tư tưởng
của giai cấp thống trị là các bộ phận quan trọng nhất. Trong xã hội có giai cấp
thì kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp, phản ánh tính giai cấp ở trong cơ
sở hạ tầng. Trong đó ln thể hiện cuộc đấu tranh về mặt hệ tư tưởng của các
giai cấp đối kháng. Đặc trưng của một kiến trúc thượng tầng do quan hệ sản
xuất thống trị quy định. Xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho
hành động và nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngồi các quan hệ cơ bản: lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng, trong mỗi hình thái
kinh tế-xã hội cịn có những quan hệ dân tộc, gia đình,..
3, Sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên
5
Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp
đến cao. Tương ứng với q trình đó là lịch sử của các hình thái kinh tế - xã hội
theo những qui luật, đó là q trình lịch sử tự nhiên của xã hội.C.Mác viết: “Tơi
coi sự phát triển của những hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên” (3) Hình thái kinh tế-xã hội được xem như là một cơ thể, một hệ thống
hồn chỉnh ln ln vận động và phát triển. Đó là hệ thống các quan hệ xã hội,
bao gồm những quan hệ vật chất và quan hệ tư tưởng. Quan hệ tư tưởng được
xây dựng trên những quan hệ vật chất-quan hệ hình thành ngồi ý chí và ý thức
của con người, như một kết quả của sự hoạt động của con người để đảm bảo sự
sinh tồn của mình. Học thuyết hình thái kinh tế–xã hội cho phép đi sâu vào bản
chất của quá trình lịch sử, hiểu được logic khách quan của quá trình đó, nhìn
thấy sự phát triển của xã hội lồi người như là một quá trình lịch sử tự nhiên,
một quá trình diễn ra nhiều mặt và chứa đầy mâu thuẫn, quá trình vận động hợp
với quy luật khách quan. Đó là những quy luật nội tại, tự thân trong cấu trúc của
hình thái kinh tế-xã hội, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến
trúc thượng tầng. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã và đang trải qua
năm hình thái kinh tế-xã hội khác nhau: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
cho rằng, mỗi hình thái kinh tế-xã hội đều có những quy luật riêng của nó khi
nó phát sinh, phát triển và chuyển sang một hính thái khác cao hơn. Đồng thời
cũng khẳng định đến sự tồn tại của những quy luật phản ánh những đặc điểm
chung của mọi hình thái kinh tế-xã hội, những quy luật phổ biến phát huy tác
dụng trong tất cả các giai đoạn phát triển của lịch sử, trong tất cả các hình thái
kinh tế-xã hội.
Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động phát triển của các hình thái
kinh tế-xã hội, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất có vai trị quyết định nhất. Lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Mối liên hệ tác động qua lại của các
nhân tố này thể hiện sự tác động của các qui luật chung vào trong các giai đoạn
của sự phát triển của lịch sử làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát triển như
một tiến trình lịch sử tự nhiên. Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội
có nguồn gốc sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất đã qui định một cách khách quan tính chất và
trình độ của quan hệ sản xuất. Mặt khác, sự tác động đến quá trình phát triển
6
của các hình thái kinh tế - xã hội như một q trình lịch sử tự nhiên cịn thể hiện
sự tác động trực tiếp, quan trọng của qui luật về mối quan hệ biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Có nhiều nguyên nhân tác động dẫn đến
quá trình thay đổi các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau trong sự phát triển
của lịch sử. Trong đó điều kiện của mơi trường địa lý, tính độc đáo của các nền
văn hóa, của truyền thống, tư tưởng, tâm lý xã hội và vấn đề dân tộc đều có ý
nghĩa quan trọng nhất định. Tính chất của tác động lẫn nhau giữa các dân tộc
tồn tại ở các giai đoạn khác nhau đều phụ thuộc vào tính chất của chế độ xã hội.
Để xác định tính đặc trưng và phân biệt sự khác nhau giữa các giai đoạn, phù
hợp với khuynh hướng chủ đạo đó, người ta dùng khái niệm thời đại.Con người
làm ra lực lượng sản xuất bằng năng lực thực tiễn của mình. Tuy nhiên, năng
lực thực tiễn lại bị quy định bởi nhiều điều kiện khách quan. Mỗi thế hệ làm ra
lực lượng sản xuất của mình phải dựa trên những lực lượng sản xuất đã đạt
được của thế hệ trước ở hình thái kinh tế-xã hội trước đó. Vì vậy, bản thân các
lực lượng sản xuất không phải là sản phẩm riêng của thời đại nào, mà là sản
phẩm của cả một quá trình phát triển liên tục từ thấp lên cao qua các hình thái
kinh tế-xã hội. Chính tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã quy định
một cách khách quan tính chất và trình độ của quan hệ sản xuất, do đó, xét đến
cùng lực lượng sản xuất quyết định quá trình vận động phát triển của hình thái
kinh tế-xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên.
Sự vận động phát triển thay thế nhau của các hình thái kinh tế-xã hội từ thấp lên
cao trước hết được giải thích bằng sự tác động của quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản
xuất, một mặt của phương thức sản xuất, là yếu tố đảm bảo tính kế thừa trong sự
phát triển tiến lên của lịch sử. Quan hệ sản xuất là mặt thứ hai của phương thức
sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử.
Lịch sử loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh
tế-xã hội, nhưng lịch sử cụ thể vô cùng phong phú, không thể xem q trình lịch
sử là một cơng thức hoặc như một đường thẳng. Thực tế lịch sử diễn ra những
hình thức quá độ khác nhau của các dân tộc, một số dân tộc phải trải qua tuần tự
các hình thái kinh tế-xã hội, một số dân tộc lại bỏ qua một số hình thái để đạt
được những bước phát triển nhanh hơn. Nhân loại hiện nay đang và sẽ trải qua
hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa. Hình thái kinh tế-xã hội cộng sản
chủ nghĩa có ba giai đoạn phát triển: Thời kỳ quá độ từ tư bản chủ nghĩa lên chủ
nghĩa xã hội, Chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa Cộng Sản.
7
4, Hình thái kinh tế - xã hội bao hàm sự bỏ qua như thế nào?
Con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật
chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền
thống văn hóa, về điều kiện quốc tế. Chính vì vậy, lịch sử phát triển của nhân
loại hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng trong lịch
sử phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao, nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số
hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo
một q trình lịch sử - tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Như
vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra
bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những
điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Rõ
ràng việc “bỏ qua” một hình thái kinh tế - xã hội nào đó trong trật tự phát triển
của một quốc gia là không thể tùy tiện, mà phải tuân theo quy luật khách quan.
II, Vận dụng
1, Yếu tố con người:
Con người còn là sản phẩm của lịch sử xã hội và chính lao động là nhân tố giữ
vai trị quyết định cho quá trình hình thành hình thái kinh tế - xã hội. Không thể
xuất phát từ ý thức, tư tưởng, từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các
hiện tượng đời sống mà phải từ phương thức sản xuất. Trong đó con người giữ
vị trí trung tâm, là chủ thể của lịch sử, người lao động là nhân tố đóng vai trị
quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất. Không thể phủ nhận được ngày
nay những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại với sự ra đời của người
máy đã thay thế không chỉ những công việc nặng nhọc, những hoạt động cơ bắp
mà cịn có thể thay thế cho cả những hoạt động tinh vi, phức tạp của con người.
Tuy nhiên, điều đó khơng có nghĩa là khoa học - công nghệ hiện đại trở thành
yếu tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ đó người lao động trở
thành yếu tố thứ yếu, đứng bên ngồi q trình sản xuất. Về thực chất, khoa học
- cơng nghệ là sản phẩm của q trình nhận thức, sản phẩm của sự phát triển trí
tuệ của con người. Có thể nói, do yêu cầu của sản xuất mà con người đã sáng
tạo và quyết định khuynh hướng, tốc độ phát triển của khoa học - công nghệ,
đồng thời quyết định việc sử dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất theo mục
đích của mình. Thực tế cho thấy, kỹ thuật, công nghệ hiện đại với tư cách là
phần vật chất trong các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất dù năng động
8
và cách mạng đến mấy cũng chỉ là sản phẩm do bàn tay và khối óc của con
người làm ra và chịu sự điều khiển, giám sát của con người. Do đó, trí tuệ nhân
tạo dù được mệnh danh là tiên tiến đến đâu cũng chỉ là sản phẩm của con người,
hoạt động của nó phụ thuộc vào những chương trình mà con người đã lập ra, đã
cài đặt vào máy tính điện tử và người máy cơng nghiệp. Chính vì thế, khoa học
- cơng nghệ là của con người, gắn liền với con người, phụ thuộc vào con người
và phải thơng qua hoạt động của con người mới có thể được vật hóa vào q
trình sản xuất. Nếu khơng xuất phát từ con người, được tiến hành bởi con người
và khơng hướng về mục đích phục vụ con người, khơng có q trình sản xuất
nào có đủ lý do để tồn tại và phát triển. Do vậy, trong bất cứ thời đại nào, kể cả
thời đại của khoa học - công nghệ hiện đại, người lao động vẫn là nhân tố đóng
vai trị quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất.
2, Yếu tố khoa học xã hội
Trong các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và cơng nghệ là một
thành tố đóng vai trò rất quan trọng, xét về lý thuyết cũng như thực tiễn cho
thấy khoa học - công nghệ luôn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tác động
đến tổng cung và tổng cầu. Khoa học - cơng nghệ góp phần mở rộng khả năng
phát hiện và khai thác có hiệu quả các nguồn lực, sản phẩm khoa học - cơng
nghệ đóng góp trực tiếp vào GDP, đồng thời quyết định tăng trưởng trong dài
hạn và chất lượng tăng trưởng, tạo điều kiện chuyển đổi từ chiều rộng sang
chiều sâu. Khoa học - công nghệ phát triển với sự ra đời hàng loạt công nghệ
mới, hiện đại như: vật liệu mới, công nghệ nano, công nghệ sinh học, điện tử,
viễn thông… làm tăng các yếu tố của sản xuất - kinh doanh, tăng thu nhập, điều
đó dẫn đến sự gia tăng chi tiêu cho tiêu dùng dân cư và tăng đầu tư cho cả nền
kinh tế. Khoa học - công nghệ phát triển làm tăng khả năng tiếp cận của con
người với tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ qua các phương tiện thông tin và dịch vụ
vận chuyển. Do vậy, trong thời đại ngày nay, phần đóng góp vào tăng trưởng và
phát triển kinh tế của nhiều nước từ khoa học - công nghệ là rất cao.
3, Thực tiễn đổi mới người lao động ở Việt Nam hiện nay
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề lao động có vai trị quan trọng,
mang tính cấp thiết, lâu dài đối với sự phát triển bền vững nền kinh tế. Việt
Nam là nước có quy mơ dân số lớn, tháp dân số tương đối trẻ và bắt đầu bước
vào thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” với nguồn nhân lực dồi dào nhất từ trước đến
nay. Tính đến hết năm 2017, dân số nước ta đạt 96,02 triệu người, trong đó nữ
9
chiếm khoảng 48,94%. Gia tăng dân số trong những năm qua kéo theo gia tăng
về lực lượng lao động. Nhìn chung, mỗi năm Việt Nam có khoảng gần 1 triệu
người bước vào độ tuổi lao động, đây là một lợi thế cạnh tranh quan trọng của
Việt Nam trong việc thu hút đầu tư nước ngồi góp phần phát triển kinh tế - xã
hội. Tuy nhiên, mặc dù lực lượng lao động tăng cả về số lượng và trình độ
chun mơn, song vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra đối với lực lượng lao động Việt
Nam hiện nay. Thứ nhất, lao động phân bổ không đều giữa các vùng. Thứ hai,
chất lượng lao động thấp, chủ yếu là lao động nông nghiệp, nông thôn, chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển. Bên cạnh đó, cịn nhiều rào cản, hạn chế trong dịch
chuyển lao động: Phần lớn lao động di cư chỉ đăng ký tạm trú, khơng có hộ
khẩu, gặp khó khăn về nhà ở, học tập, chữa bệnh... trình độ học vấn của lao
động di cư thấp và phần đông chưa qua đào tạo nghề.
4, Đổi mới người lao động
Xuất phát từ đặc trưng về trình độ của lực lượng sản xuất ở Việt Nam là hiện
đại, bán hiện đại, thô sơ đan xen, kết hợp nên quan hệ sản xuất ở Việt Nam nhất
định phải là đa dạng, nhiều thành phần; kiến trúc thượng tầng của chúng ta cũng
chưa thể có đặc trưng thuần nhất xã hội chủ nghĩa ngay được. Vận dụng Lý luận
hình thái kinh tế-xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam chúng ta cần:
đào tạo người lao động có kỹ năng và phong cách làm việc đổi mới, sáng tạo để
xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại; cùng với giải pháp từ kiến trúc thượng
tầng phải có giải pháp từ cơ sở hạ tầng để dần hình thành đặc trưng xã hội chủ
nghĩa của kiến trúc thượng tầng - củng cố quan hệ sản xuất, quan hệ trao đổi
trong kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. ý luận hình thái kinh tế - xã hội của
chủ nghĩa Mác(4) đã có 172 năm tồn tại, phát triển. Thực tiễn chính trị - xã hội
có nhiều đổi thay, khoa học cơng nghệ phát triển nhanh như vũ bão. Nhưng học
thuyết này về cơ bản vẫn giữ nguyên giá trị khoa học. Trong điều kiện thực tiễn
hiện nay vận dụng học thuyết này vào Việt Nam chúng ta cần lưu ý một số điểm
sau: Trình độ lực lượng sản xuất của Việt Nam hiện nay rất không đồng đều.
Đây là đặc trưng rất rõ nét. Sự khơng đồng đều của trình độ lực lượng sản xuất
thể hiện ở cả hai yếu tố cấu thành là người lao động và công cụ lao động. Về
trình độ của người lao động ở nước ta rất rõ là vừa có người lao động với trình
độ cao ở cấp độ quốc tế vừa có người lao động với trình độ lao động giản đơn
bằng chân tay, vừa có người lao động vừa có trình độ tay nghề cao ở lĩnh vực
này nhưng lại có tay nghề thủ công ở công đoạn khác của chuỗi sản xuất. Đối
với cơng cụ lao động cũng tương tự, có sự đan xen của công cụ lao động thủ
10
cơng, cơ khí, hiện đại, tự động hóa. Đầu vào của sản xuất vật chất cũng vậy, vừa
hiện đại, vừa khơng hiện đại, vừa có đầu vào vật thể, vừa có đầu vào phi vật thể.
Các điều kiện của sản xuất vật chất như sân bay, bến cảng, đường xá, cầu cống
cũng tương tự vừa hiện đại vừa bán hiện đại và có khi cịn thơ sơ. Từ đây cho
thấy đặc trưng về trình độ lực lượng sản xuất ở Việt Nam là không đồng đều;
hiện đại, bán hiện đại và thô sơ đan xen, kết hợp.Từ đặc trưng lực lượng sản
xuất như vậy nên quan hệ sản xuất ở Việt Nam nhất định phải là đa dạng, nhiều
thành phần. Bởi lẽ, thích ứng với từng trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một
loại hình quan hệ sản xuất phù hợp. Do vậy, thực hiện nền kinh tế nhiều thành
phần ở Việt Nam là đúng quy luật và phù hợp thực tiễn. Do vậy, việc Đảng
Cộng sản Việt Nam chủ trương đa dạng hóa hình thức sở hữu, đa dạng hóa hình
thức phân phối, tổ chức quản lý sản xuất và trao đổi là đúng đắn.(1)
Cùng với việc phát huy tối đa những lực lượng sản xuất hiện có, chúng ta phải
có các biện pháp để chuyển đặc trưng về trình độ lực lượng sản xuất ở Việt
Nam là không đồng đều. Trước hết, phải bằng hợp tác quốc tế và lâu dài bằng
đổi mới căn bản giáo dục, đào tạo, dạy nghề để thực hiện cuộc cách mạng trong
đào tạo người lao động hiện đại. Kỹ năng làm việc cũng như phong cách làm
việc đổi mới sáng tạo của người lao động cũng chính là cái mà hiện nay và
tương lai sẽ đóng vai trị quyết định để làm cho lực lượng sản xuất trở thành
hiện đại. Việc đào tạo nghề cho người lao động phải trở thành chức năng của
chính doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trong thời kỳ quá độ này, một mặt chúng ta
phải từng bước thực hiện sự công bằng giữa các thành phần kinh tế, nhưng mặt
khác, Nhà nước cũng phải có những “ưu tiên” nhất định đối với kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể. Những giải pháp từ phía quan hệ sản xuất phải được chú
ý, đặc biệt là chế độ phân phối. Chúng ta nên tiếp tục thực hiện phân phối theo
kết quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh; theo đóng góp vốn và các nguồn lực
khác; theo an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Hình thức phân phối này vừa tuân
theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
thông qua an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Đặc biệt, để từng bước xây dựng
kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa, xét đến cùng, chúng ta phải từng bước
hoàn thiện được quan hệ sản xuất và quan hệ trao đổi xã hội chủ nghĩa, hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời thực
hiện những giải pháp từ phía kiến trúc thượng tầng. Các giải pháp từ phía kiến
trúc thượng tầng đối với chính các hình thái ý thức xã hội địi hỏi phải tăng
cường tri thức, tình cảm, niềm tin trong từng hình thái ý thức xã hội. Đồng thời
11
phải chú trọng phát triển đồng bộ các hình thái ý thức xã hội cả ý thức chính trị,
ý thức khoa học, ý thức thẩm mỹ, ý thức đạo đức, xã hội chủ nghĩa. Ở đây cần
chú ý lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với kẻ địch thứ nhất rất nguy
hiểm là chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc thì “Thói quen và truyền thống lạc hậu
cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại
không thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất
lâu dài”(5).
12
KẾT LUẬN
Ngày nay, Đảng và nhà nhà nước ta đang từng bước áp dụng những chính sách
hợp lí nhằm đổi mới và phát triển nguồn nhân lực – người lao động, tránh
không bị giáo điều, cứng nhắc, rập khuôn trong việc vận dụng lý luận hình thái
kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn ngày nay.
Như vậy, đổi mới người lao động là việc làm góp phần khẳng định, vận dụng,
bổ sung sáng tạo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin
trong điều kiện mới, phù hợp với thực tiễn của đất nước Việt Nam hiện nay.
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Giáo trình Triết học Mác – Lênin, 1999, Nxb CTQG, H., tr.460.
2, C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993,
tr.15-16.
3, C.Mác, Tư bản, quyển 1, T.1, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1973, tr.20.
4, V.I.Lênin toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ 1984, tr 149 – 427
5, Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1996, tr.287
14