Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Phát triển bền vững nông nghiệp huyện ea tân, tỉnh đăc lăk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (614.88 KB, 88 trang )

MỤC LỤC


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nơng nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội cung cấp
nhiều loại sản phẩm thiết yếu cho đời sống xã hội, là thị trường rộng lớn của
nền kinh tế, cung cấp nguồn nhân lực và tạo nên tích lũy ban đầu cho sự
nghiệp phát triển của đất nước. Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng,
nơng nghiệp đóng vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế. Hầu hết các nước
phải dựa vào sản xuất nông nghiệp để tạo sản lượng lương thực, thực
phẩm cần thiết đủ để ni sống dân tộc mình và tạo nền tảng cho các
ngành, các hoạt động kinh tế khác phát triển.
Việt Nam là một nước nông nghiệp với điểm xuất phát thấp, trên 70%
dân số sống ở nông thôn và 56% lao động xã hội làm việc trong lĩnh vực nông
nghiệp, sáng tạo ra 68% tổng giá trị kinh tế nông thơn, năng suất khai thác
ruộng đất cịn thấp, q trình sản xuất làm ảnh hưởng đến môi trường… Để
giải quyết những vấn đề này thì thực hiện phát triển bền vững nơng nghiệp có
ý nghĩa vơ cùng quan trọng với nước ta.
Phát triển bền vững nông nghiệp nhằm tạo dựng một ngành nơng
nghiệp có cơ cấu kinh tế hợp lý, qua đó phát huy mọi tiềm năng sản xuất, tăng
năng suất lao động, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện mức
sống cho người nông dân, thực hiện công bằng xã hội và bảo vệ môi trường…
Do đó, phát triển bền vững nơng nghiệp trên phạm vi cả nước cũng như với
từng địa phương là rất cần thiết.
Trên thực tế thì huyện Ea Tân với 91,42% dân cư sống ở nông thôn
và 47,31% lao động nông nghiệp, đã đạt được những thành tích quan trọng
trong việc sản xuất nông nghiệp như giải quyết công ăn việc làm, tăng thu
nhập, tăng giá trị sản xuất nơng nghiệp góp phần làm thay đổi diện mạo nông


thôn, phát triển kinh tế - xã hội huyện Ea Tân, tỉnh Đăc Lăk.


2

Tuy nhiên thực trạng phát triển nông nghiệp thời gian qua chưa
tương xứng với tiềm năng của huyện Ea Tân, đặc biệt q trình phát triển cịn
theo chiều rộng chỉ chú ý phát triển kinh tế, chưa thật sự chú ý phát triển
chiều sâu, chưa chú ý đến vấn đề môi trường cũng như vấn đề xã hội trong
nông nghiệp và nơng thơn, vì lẽ đó việc phát triển bền vững nông nghiệp
được coi là một yêu cầu cấp thiết tại huyện Ea Tân.
Từ vấn đề cấp thiết trên, tác giả chọn đề tài “Phát triển bền vững
nông nghiệp huyện Ea Tân, tỉnh Đăc Lăk” làm đề tài nghiên cứu thạc sĩ.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống các vấn đề lý luận liên quan đến phát triển bền vững nơng
nghiệp.
- Phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp huyện Ea Tân, tỉnh Đăc
Lăk thời gian qua.
- Đề xuất giải pháp phát triển bền vững nông nghiệp huyện Ea Tân, tỉnh
Đăc Lăk thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Là những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến phát triển bền
vững nông nghiệp huyện Ea Tân, tỉnh Đăc Lăk.
b. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
đến phát triển bền vững nông nghiệp huyện Ea Tân, tỉnh Đăc Lăk.
- Về không gian: Các nội dung trên được tập trung nghiên cứu tại
huyện Ea Tân, tỉnh Đăc Lăk.
- Về thời gian: Các giải pháp đề xuất trong luận văn có ý nghĩa trong

05 năm tới.
4. Phương pháp nghiên cứu


3

Để thực hiện các mục đích nghiên cứu nói trên đề tài sử dụng
các phương pháp sau đây:
- Phương pháp phân tích thực chứng, phương pháp phân tích chuẩn tắc,
- Phương pháp điều tra, khảo sát, chuyên gia,
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái qt hóa,
- Các phương pháp khác.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mục lục, mở đầu danh mục tài liệu tham khảo … đề tài
được chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phát triển bền vững nông nghiệp
Chương 2: Thực trạng phát triển bền vững nông nghiệp huyện Ea Tân,
tỉnh Đăc Lăk thời gian qua
Chương 3: Giải pháp phát triển bền vững nông nghiệp huyện Ea Tân,
tỉnh Đăc Lăk thời gian tới.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
a. Nghiên cứu ngoài nước
Phát triển bền vững nông nghiệp là sự phát triển đòi hỏi phải kết hợp
chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triên là kinh tế, xa hội và
môi trường nhằm thỏa mãn môi trường nhu cầu hiện tại của xã hội mà không
làm ảnh hưởng tới nhu cầu của thế hệ tương lai. Tuy nhiên khái niệm về phát
triển bền vững nói chung và phát triển bền vững nơng nghiệp nói riêng được
tiếp cận ở những gốc độ khác nhau, những quan điểm khác nhau của các tổ
chưc quốc tế, các nhà khoa học trong và ngoài nước.
Từ thế kỷ 18 David Ricacdo đã cho rằng do đất đai có giới hạn trong

khi dân số nông thôn tăng nhanh do vậy phát triển nông nghiệp dựa vào khai
thác loại tư liệu sản xuất chủ yếu này sẽ gặp phải khó khăn như chi phí tăng
cao và năng suất giảm; và do vậy muốn phát triển nơng nghiệp thì phải sử


4

dụng tiệt kiệm và có hiệu quả đất đai. Như vậy, theo ông đất đai là tư liệu sản
xuất và là nguồn lực quan trọng nhất cho phát triển nông nghiệp và con đường
phát triển phải dựa vào nâng cao năng suất.
- Phát triển nông nghiệp theo Torado (1990) là quá trình phát triển tuần
tự ba giai đoạn từ thấp đến cao: nền nông nghiệp tự cung cấp; chuyển dịch cơ
cấu nơng nghiệp theo hướng đa dạng hố; nơng nghiệp hiện đại. Nghĩ là phát
triển nông nghiệp phải thay đổi cả tổ chức sản xuất và kỹ thuật sản xuất. Năm
1992 Sung Sang Park đưa ra mơ hình sản xuất, theo đó q trình phát triển
nơng nghiệp trải qua ba giai đoạn: sơ khai, đang phát triển và phát triển. Park
chỉ ra sự chênh lệch trong thu nhập bình quân của lao động nông nghiệp ở các
nước đang phát triển và các nước phát triển là do năng suất lao động, theo ông
để thu hẹp khoảng cách này cần dịch chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp
sang khu vực công nghiệp và để tăng thu nhập cho lao động nơng nghiệp thì
phải tăng đầu tư vốn cho nơng nghiệp.
b. Nghiên cứu trong nước
Nơng nghiệp có vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế
Việt Nam, vấn đề phát triển nông nghiệp luôn được sự quan tâm nghiên cứu
của các nhà khoa học, các nhà làm chính sách. Đặc biệt trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế sâu sắc, chiến lược phát triển bền vững, phát triển bền
vững nông nghiệp được Đảng, Nhà nước hết sức chú trọng và quan tâm, có rất
nhiều nhà khoa học trong nước nghiên cứu, đưa ra quan điểm về phát triển
bền vững nông nghiệp.
Theo Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nguyễn Kim Sơn (2008) đã khẳng định

nông nghiệp là ngành bảo đảm an ninh, lương thực cho đất nước, tạo ra việc
làm và thu nhập cho đại bộ phận người dân lao động, cung cấp đầu vào cho
công nghiệp, tạo ra tích luỹ vốn cho q trình cơng nghiệp hố, là thị trường
tiêu thụ sản phẩm cơng nghiệp. Cho thấy tính tất yếu phải phát triển bền vững


5

nơng nghiệp nói riêng và phát triển bền vững nói chung trong quá trình phát
triển kinh tế, xã hội hiện nay và trong tương lai.
Nguyễn Trung (2008) cần phải có khâu đột phá như khoán 10 trong
giai đoạn mới nhằm giải phóng năng lực sản xuất và mở rộng quy mơ sản
xuất nơng nghiệp qua tích tụ ruộng đất và phát triển kinh tế trang trại…
Các tiêu chuẩn bền vững trong phát triển nông nghiệp và các giải pháp
phát triển nơng nghiệp bền vững cũng được Bùi Quang Bình (2010) đề cập
rất cụ thể trong Giáo trình kinh tế phát triển. Theo Nguyễn Thế Chinh (2006)
trong “Bài giảng phát triển bền vững” đề cập đến ba nội dung cơ bản ưu tiên
trong phát triển bền vững nông nghiệp: Thứ nhất là hoàn thiện về luật pháp;
thứ hai là phát triển kinh tế khắc phục tình trạng ruộng đất manh mún, canh
tác theo những phương thức lớn hiện đại, nâng cao năng suất đất đai, sử dụng
hiệu quả nguồn nước, mở rộng sản xuất và thị trường, đầu tư cơ sở hạ tầng;
thứ ba, về kỹ thuật và công nghệ, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh
học trong phát triển những giống cây trồng và vật nuôi, nhất là nhấn mạnh vai
trò quan trọng của thể chế trong phát triển bền vững nông nghiệp, nằm trong
mối liên hệ, trong một thể thống nhất, khăng khít giữa kinh tế, xã hội, môi
trường. Trong “Phát triển chăn nuôi bền vững ở Việt Nam” Lê Viết Ly (2010)
đã đề ra những giải pháp khái quát để phát triển ngành chăn nuôi bền vững,
trong đó tác giả chú trọng đến giải pháp về năng suất, thị trường.
Trong luận án tiến sĩ, vấn đề phát triển bền vững một số ngành trong
nông nghiệp được các tác giả quan tâm nghiên cứu rất kỹ. Nghiên cứu phát

triển bền vững ở phạm vi một ngành nuôi tôm, Lê Bảo (2010), với luận án
Tiến sĩ “Phát triển bền vững nuôi tôm ở các tỉnh vùng Duyên hải Miền trung”
đã tập trung quan tâm, nghiên cứu phát triển bền vững nuôi tôm ở các tỉnh
vùng Duyên hải Miền Trung. Đối tượng nghiên cứu khá cụ thể ở một ngành


6

nuôi tôm, nhưng phạm vi nghiên cứu tương đối rộng là vùng Duyên hải Miền
trung, nơi có những điều kiện tương đối thuận lợi, tuy nhiên vấn đề phát triển
bền vững chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Nhìn chung, luận án đã
trình bày rõ ràng, cụ thể và đưa ra quan điểm phát triển bền vững nói chung
và ni tơm nói riêng một cách logic và hệ thống. Theo quan điểm của tác
giả, phát triển bền vững cần phải xem xét trên cả bốn khía cạnh: kinh tế, xã
hội, mơi trường và thể chế. Phân tích cụ thể các nhân tố thông qua việc điều
tra các chỉ số liên quan nhất là các chỉ số về môi trường sinh thái. Tác giả
nhấn mạnh đến một số giải pháp chủ yếu như: Áp dụng quy trình cơng nghệ;
phát triển mơ hình hợp tác xã; đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; các chính
sách vay vốn; tăng cường cơng tác kiểm soát, giám sát.
Trong luận văn thạc sỹ, đề tài về phát triển bền vững nông nghiệp của
một địa phương được một số tác giả hệ thống hóa các vấn đề lý luận về phát
triển bền vững nông nghiệp, đưa ra những nhận định và những giải pháp cơ
bản và chi tiết. Tác giả Đặng Thị Á, chuyên ngành kinh tế phát triển với đề tài
“Phát triển bền vững nơng nghiệp thành phố Đà Nẵng”, đã phân tích và đánh
giá khá chi tiết về thực trạng phát triển bền vững nông nghiệp của thành phố
Đà Nẵng. Tác giả đã đề ra những giải pháp khá cụ thể, trong đó nhấn mạnh
công tác quy hoạch đất đai, dự báo thị trường tiêu thụ, xây dựng thương hiệu
nông sản.
Khác với tác giả Đặng Thị Á nghiên cứu trong phạm vi một thành phố,
tác giả Lương Xuân Thành với đề tài “Phát triển bền vững nông nghiệp huyện

Núi Thành” tuy nhiên phạm vi nghiên cứu là một huyện đồng bằng của tỉnh
Quảng Nam, địa phương có nền kinh tế phát triển khá, trình độ dân trí cao, ít
chi phối bởi yếu tố dân tộc, nhìn chung có nhiều nét tương đồng với huyện Ea
Tân.


7

Hầu hết các cơng trình trên đã đề cập khá tồn diện, khái qt hoặc đi
vào phân tích từng mặt, từng lĩnh vực của phát triển nông nghiệp và phát triển
bền vững nơng nghiệp, nơng thơn. Tuy nhiên, chưa có một cơng trình, một tác
giả nào nghiên cứu cụ thể vấn đề phát triển bền vững nông nghiệp ở những
huyện vùng chiêm trũng như huyện Ea Tân, nơi có những đặc thù riêng về
lịch sử, văn hóa, điều kiện tự nhiên cũng như những tiềm năng, thế mạnh và
cả những tồn tại thực tế riêng vốn có của huyện Ea Tân, tỉnh Đăc Lăk.


8

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG NGHIỆP
1.1. KHÁI QUÁT VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG NGHIỆP
1.1.1. Một số khái niệm phát triển bền vững nông nghiệp
a. Nông nghiệp
Nông nghiệp nếu hiểu theo nghĩa hẹp gồm có ngành trồng trọt,
ngành chăn ni. Nơng nghiệp hiểu theo nghĩa rộng nó cịn bao gồm cả ba
nhóm ngành: nông nghiệp thuần túy, lâm nghiệp và ngành thủy sản.
Nông nghiệp là ngành duy nhất tạo ra lương thực, thức phẩm, đây là
yếu tố đầu tiên có tính chất quyết định sự tồn tại phát triển của con người và

phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Như vậy nông nghiệp là ngành sản xuất
vật chất cơ bản, giữ vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế ở hầu hết các
nước, nhất là các nước đang phát triển. Ở những nước này cò nghèo, đại bộ
phận sống bằng nghề nông nghiệp. Tuy nhiên ngay cả những nước có nền
cơng nghiệp phát triển cao, mặc dù tỷ lệ GDP nông nghiệp không lớn, nhưng
khối lượng nông sản của các nước này khá lớn và không ngừng tăng lên, đảm
bảo cung cấp cho đời sống con người những sản phẩm cần thiết đó là lương
thực, thực phẩm.
Nơng nghiệp là sản xuất mà đối tượng của nó là cơ thể sống, cây trồng
và vật nuôi, bị chi phối bởi quy luật sinh học và điều kiện tự nhiên. Vì vậy,
trong q trình phát triển nơng nghiệp, con người khơng thể ngăn cản hay can
thiệp thơ bạo vào q trình sinh vật, trái lại phải nghiên cứu và nhận thức
đúng đắn quy luật sinh trưởng, phát triển của mỗi lịa cây trồng, vật nuôi và sự
biến thiên về điều kiện thời tiết, khí hậu để vận dụng vào sản xuất.
b. Phát triển kinh tế


9

Phát triển được định nghĩa khái quát trong từ điển Oxford là: "Sự gia
tăng dần của một sự vật theo hướng tiến bộ hơn, mạnh hơn…" (The gradual
grow of sth. so that it become more advanced, stronger…). Hay trong từ điển
Bách khoa của Việt Nam, phát triển được định nghĩa là: "Phạm trù triết học
chỉ ra tính chất của những biến đổi đang diễn ra trong thế giới". Con người và
mọi sự vật đều thay đổi theo thời gian, nhưng sự phát triển được bao hàm cả
khía cạnh thay đổi theo hướng đi lên, hướng tốt hơn tương đối. Sự phát triển
đi lên như vậy trong sinh học được gọi đó là phát triển tiến bộ hay tiến hóa, và
ngược lại là phát triển thối bộ - thối hóa.
Phát triển là một quá trình thay đổi liên tục làm tăng trưởng mức sống
của con người và phân phối công bằng những thành quả tăng trưởng trong xã

hội.
Phát triển là xu hướng tự nhiên, đồng thời là quyền của mỗi một cá
nhân, mỗi cộng đồng hay quốc gia. Phát triển là một q trình thay đổi theo
hướng hồn thiện về mọi mặt của kinh tế.
Phát triển kinh tế là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát
triển kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất; nó là
sự kết hợp một cách chặt chẽ q trình hồn thiện của hai vấn đề về kinh tế và
xã hội ở mỗi quốc gia; là sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế và
mức gia tăng thu nhập bình quân trên một đầu người; là sự biến đổi theo đúng
xu thế của cơ cấu kinh tế và là sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề
xã hội.
Mục tiêu của sự phát triển là không ngừng cải thiện chất lượng cuộc
sống vật chất, văn hóa, tinh thần của con người. Nói cách khác phát triển là
tạo điều kiện cho con người được thỏa mãn các nhu cầu sống, được hưởng
những thành tựu về văn hóa và tinh thần, có đủ tài nguyên cho một cuộc sống
sung túc, được sống trong một môi trường trong lành, được hưởng các quyền


10

cơ bản của con người và được bảo đảm an ninh, an tồn, khơng bạo lực.
c. Phát triển bền vững
Giữa mơi trường và phát triển có mối quan hệ rất chặt chẽ. Môi trường
là tổng hợp các điều kiện sống của con người, là địa bàn và đối tượng của sự
phát triển, phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của mơi trường.
Phát triển ln ln có hai mặt lợi và hại, phát triển được đặt lên hàng
đầu, lấn át các yếu tố như: môi trường, xã hội…tạo ra những nguy hại cho
môi trường lẫn xã hội. Ngược lại, lý thuyết khơng tưởng về "đình chỉ phát
triển", cụ thể là cho tốc độ phát triển bằng không hoặc âm để bảo vệ nguồn tài
nguyên hữu hạn không tái tạo của trái đất. Vì vậy, trong suốt mấy thập kỷ qua,

đã có rất nhiều quan điểm, định nghĩa về phát triển bền vững của các tổ chức
quốc tế, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu nước ngoài và Việt Nam nhằm
giải quyết mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển.
Năm 1980, các tổ chức như Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên thế giới
(IUCN), chương trình mơi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) và Quỹ bảo vệ
Thiên nhiên Thế giới (WWF) đã đưa ra "Chiến lược bảo tồn thế giới". Và lần
đầu tiên thuật ngữ phát triển bền vững được xuất hiện, tuy nhiên, khái niệm
này mới chỉ đề cập một nội dung hạn hẹp, nhấn mạnh tính bền vững về mặt tài
nguyên sinh thái nhằm kêu gọi việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật. Và nó
được phổ biến rộng rãi trong báo cáo Brundtland "Tương lai chúng ta" (1987,
đã được đề cập chi tiết trong báo cáo "Chăm lo cho trái đất" và "Chương
trình Nghị sự 21" (1992).
Ủy ban Môi trường và phát triển thế giới (WCED) đã đưa ra khái niệm
đầy đủ về phát triển bền vững: "Phát triển bền vững là một quá trình của sự
thay đổi mà trong đó sự khai thác tài nguyên, phương hướng đầu tư, định
hướng phát triển kĩ thuật và sự thay đổi về luật pháp đều làm hài hòa và gia
tăng khả năng đáp ứng nhu cầu và khát vọng của nhân loại trong cả hiện tại


11

và tương lai" hay "Phát triển bền vững là sự phát triển không chỉ nhằm đáp
ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà cịn khơng làm tổn hại đến khả năng đáp
ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai".
Theo FAO (1989) đưa ra định nghĩa khá đầy đủ như sau: "Phát triển
bền vững là việc quản lý và bảo tồn cơ sở tài nguyên thiên nhiên, định hướng
những thay đổi công nghệ và thể chế theo một phương thức sao cho đạt đến
sự thỏa mãn một cách liên tục những nhu cầu của con người của những thế
hệ hôm nay và mai sau. Sự phát triển bền vững như vậy trong lĩnh vực nông
nghiệp (nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản) chính là sự bảo tồn đất, nước, các

nguồn gen và thực vật, khơng bị suy thối mơi trường, kỹ thuật thích hợp,
sinh lợi kinh tế và chấp nhận về mặt xã hội".
Năm 1991, trong báo cáo "Chăm lo Trái đất" đưa ra định nghĩa: "Phát
triển bền vững là sự nâng cao chất lượng đời sống con người trong lúc đang
tồn tại, trong khuôn khổ đảm bảo của các hệ thống sinh thái".
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tại Rio de
Janeiro (Braxin) năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển
bền vững tại Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002 đã xác định: "Phát
triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài
hòa giữa ba mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế, phát triển xã hội
và bảo vệ môi trường, nhằm đáp ứng nhu cầu và đời sống con người trong
hiện tại, nhưng không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu cảu các thế
hệ tương lai". Trong đó:
- Phát triển kinh tế: đặc biệt chú trọng đến tăng trưởng kinh tế ổn định.
- Phát triển xã hội: ưu tiên trong vấn đề thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã
hội, xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm.
- Bảo vệ môi trường: chú trọng xử lý, khắc phục môi trường, phục hồi
và cải thiện chất lượng mơi trường, phịng chống cháy và chặt phá rừng, khai


12

thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
Nhận thức được tầm quan trọng và tính bức thiết về vấn đề môi trường,
ngay sau Tuyên bố Rio, Nhà nước ta đã ban hành Luật Bảo vệ môi trường
năm 1993. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội 10 năm (2001-2010) và các Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm đã
khẳng định: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi
đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường". Quan điểm
về phát triển bền vững của Đảng cơ bản tương đồng trong nhận thức, nội dung

về phát triển bền vững của thế giới. Điều này được cụ thể hóa trong Định
hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21
của Việt Nam) do Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2004. Đây là chiến
lược khung, bảo gồm những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các Bộ,
ngành, địa phương, các tổ chức và cá nhận triển khai thực hiện và phối hợp
hành động nhằm đảm bảo phát triển bền vững đất nước trong thế kỷ 21. Ngày
27 tháng 9 năm 2005, Thủ tướng có Quyết định số 1032/QĐ-TTg về việc
thành lập Hội đồng Phát triển bền vững Quốc gia, qua đó thể hiện quyết tâm
rất lớn của Việt Nam trong vấn đề phát triển bền vững toàn cầu.
Xuất phát từ vấn đề thể chế, PGS.TS Bùi Quang Bình (2010) đưa ra
quan điểm về phát triển bền vững: "Trong khái niệm này, phát triển phải là
một q trình lâu dài, ln thay đổi và sự thay đổi đó theo hướng ngày càng
hồn thiện. Do vậy, khái niệm phát triển bền vững cũng được lí giải như một
q trình thay đổi theo hướng hồn thiện về mọi mặt như: kinh tế, xã hội, môi
trường và thể chế trong một thời gian nhất định" .
Theo PGS.TS. Trần Văn Chử, “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội trong cơ chế thị trường ở Việt Nam”, thì phát triển bền vững là sự phát
triển kinh tế - xã hội với tốc ñộ tăng trưởng cao, liên tục trong thời gian
dài dựa trên việc sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên mà vẫn bảo vệ được


13

môi trường, sinh thái. Phát triển kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của xã hội hiện tại, song không làm cạn kiệt tài nguyên, để lại hậu quả môi
trường cho các thế hệ tương lai.
Như vậy, với nhiều quan điểm hay góc độ tiếp cận khác nhau về phát
triển bền vững, có thể hiểu rằng: Phát triển bền vững là sự phát triển trong
đó kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển là kinh
tế, xã hội và môi trường trong nông nghiệp nông thôn nhằm thỏa mãn được

nhu cầu của xã hội hiện tại nhưng không gây tổn hại cho khả năng ấy của các
thế hệ tương lai.
d. Phát triển bền vững nông nghiệp
Cũng như phát triển bền vững, phát triển bền vững nơng nghiệp hiện có
nhiều định nghĩa khác nhau.
Phát triển bền vững nông nghiệp theo quan điểm của Bill Millison và
Remy Mia Slay (2010):
- Là việc thiết kế những hệ thống cư trú lâu bền của con người. Đó là
một triết lý và một cách tiếp cận về việc sử dụng đất tạo ra mối liên kết chặt
chẽ giữa tiểu khí hậu, cây hàng năm, cây lâu năm, súc vật, đất, nước và những
nhu cầu của con người, xây dựng những cộng đồng chặt chẽ và có hiệu quả,
bảo vệ, xây dựng một môi trường sinh thái trong lành và sử dụng một cách
hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
- Là một hệ thống trong đó con người tồn tại và sử dụng những nguồn
năng luợng không độc hại, tiết kiệm và tái sinh năng lượng, sử dụng nguồn tài
nguyên phong phú của thiên nhiên, không làm phá hoại những nguồn tài
ngun đó. Khơng chỉ bảo vệ những hệ sinh thái đã có trong tự nhiên mà cịn
tìm cách khôi phục, làm giàu những hệ sinh thái đã bị suy thối.
Mục đích của phát triển bền vững nơng nghiệp là kiến tạo một hệ thống
bền vững về mặt sinh thái, có tiềm lực về mặt kinh tế, có khả năng thỏa mãn


14

những nhu cầu của con người mà không bốc lột tài nguyên, không làm ô
nhiễm môi trường.
Yêu cầu của phát triển bền vững nông nghiệp là phải hợp tác với thiên
nhiên, tuân thủ những quy luật của thiên nhiên, không chống lại với thiên
nhiên.
Phát triển bền vững nông nghiệp theo quan điểm của Julian Dumanski:

Nền tảng của nông nghiệp bền vững là duy trì tiềm năng sản xuất sinh học đặc
biệt duy trì chất lượng đất, nước, tính đa dạng sinh học. Nông nghiệp bền
vững đạt được nhờ ba yếu tố: Quản lý đất bền vững; Công nghệ sản xuất được
cải tiến; Hiệu quả kinh tế được nâng cao. Trong đó, quản lý đất bền vững
chiếm một vị trí quan trọng hàng đầu trong nông nghiệp bền vững.
Theo tổ chức sinh thái và môi trường thế giới: nông nghiệp bền vững là
nền nông nghiệp thỏa mãn được các yêu cầu của thế hệ hiện nay, mà không
giảm khả năng ấy đối với các thế hệ mai sau. Điều đó có nghĩa là nền nông
nghiệp không những cho phép các thế hệ hiện nay khai thác tài nguyên thiên
nhiên vì lợi ích của họ mà cịn duy trì được khả năng ấy cho các thế hệ mai
sau, cũng có ý kiến cho rằng sự bền vững của hệ thống nông nghiệp là khả
năng duy trì hay tăng thêm năng suất và sản lượng nông sản trong một thời
gian dài mà không ảnh hưởng đến điều kiện sinh thái.
Năm 1992, Tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên hợp quốc
(FAO) đưa ra khái niệm: “Phát triển nông nghiệp bền vững là sự quản lý và
bảo tồn, sự thay đổi về tổ chức và kỷ thuật nhằm đảm bảo thỏa mãn nhu cầu
ngày càng tăng của con người cả cho hiện tại và mai sau. Sự phát triển như
vậy của nền nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp và thủy, hải sản) sẽ đảm
bảo không tổn hại đến môi trường không giảm cấp tài nguyên, sẽ phù hợp về
kỹ thuật và công nghệ, có hiệu quả kinh tế và được xã hội chấp nhận”.
Theo Ủy ban kỹ thuật của FAO, nền nông nghiệp bền vững bao gồm


15

việc quản lý có hiệu quả nguồn lực để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của
con người mà vẫn duy trì hay làm tăng thêm chất lượng của mơi trường và
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Ban cố vấn kỹ thuật thuộc nhóm chun gia quốc tế về nghiên cứu
nơng nghiệp (TAC/CGIAR) thì: “Nơng nghiệp bền vững phải bao hàm sự

quản lý thành công tài nguyên nông nghiệp, nhằm thỏa mãn nhu cầu của con
người đồng thời cải thiện chất lượng mơi trường và gìn giữ được tài ngun
thiên nhiên”.
Ở Việt Nam, thời gian gần đây Chính phủ, các nhà khoa học ngày càng
quan tâm nhiều hơn đến vấn đề phát triển bền vững nông nghiệp. Theo GS.TS
Lê Viết Ly, Hội khoa học chăn nuôi Việt Nam đưa ra định nghĩa tương tự nói
rõ sự ảnh hưởng của nơng nghiệp bền vững kinh tế, xã hội, môi trường:
“Nông nghiệp bền vững là một nền nông nghiệp về mặt kinh tế bảo đảm được
hiệu quả lâu dài cho cả tương lai; về mặt xã hội khơng làm gay gắt sự phân
hóa giàu nghèo, nhằm bảo hộ một bộ phận lớn nông dân, không gây ra tệ nạn
xã hội nghiêm trọng; về mặt tài nguyên môi trường, không làm cạn kiệt tài
nguyên, khơng làm suy thối và hủy hoại mơi trường”.
Giáo sư Lê Du Phong đưa ra nội dung phát triển bền vững nơng nghiệp
gồm:
- Một nền nơng nghiệp biết giữ gìn, phát triển bồi dưỡng và sử dụng đất
hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên của nông nghiệp, đặc biệt là đất và
nguồn nước.
- Một nền nơng nghiệp có trình độ thâm canh cao, biết kết hợp hài hòa
giữa việc sử dụng các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ sinh
học với kinh nghiệm và truyền thống sản xuất của người nông dân để tạo ra
ngày càng nhiều các sản phẩm nơng nghiệp có chất lượng tốt cung cấp cho xã
hội.


16

- Một nền nông nghiệp sạch, biết hạn chế một cách tối đa việc sử dụng
các chất hóa học có hại đến môi sinh, môi trường và sức khỏe con người. Kết
hợp một cách hài hòa việc phát triển sản xuất với bảo vệ và tôn tạo môi
trường. Các sản phẩm do nông nghiệp làm ra cung cấp cho người tiêu dùng

phải là những sản phẩm sạch, có tác dụng tăng cường sức khỏe con người.
- Một nền nông nghiệp bền vững có cơ cấu cây trồng và vật ni hợp
lý, phù hợp với đặc điểm điều kiện tự nhiên của mỗi vùng. Cơ cấu này phải
bảo đảm cho nông nghiệp khai thác được tối đa lợi thế so sánh, phát triển tồn
diện với tốc độ nhanh.
Theo Võ Tịng Xn (2009), nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học An
Giang cho rằng, có thể hiểu ngắn gọn khái niệm sản xuất nơng nghiệp bền
vững là nên cần chọn một biện pháp sản xuất để cây trồng, vật nuôi tiếp tục
cho lãi mỗi năm, chất lượng nguồn nước và đất đai hàng năm vẫn được duy trì
tốt để thế hệ sau tiếp tục hưởng cái lợi từ đất và môi trường nước, chứ không
phải chỉ khai thác trong một khoảng thời gian vài năm rồi đất đai trở nên cằn
cỗi và môi trường nước bị hủy hoại. Bên cạnh đó, mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi
năm khi sản xuất thì tiền lãi cũng tăng, chứ không phải chỉ thu lợi một thời
gian vài năm rồi sau đó lại thua lỗ.
Như vậy, từ những quan điểm khác nhau về phát triển bền vững nông
nghiệp trên, có thể hiểu rằng: Phát triển bền vững nơng nghiệp là quá trình
phát triển theo hướng tăng lên của năng suất cây trồng, vật ni, tạo ra nhiều
sản phẩm có chất lượng ngày càng cao trong điều kiện khai thác hợp lý, hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên, không làm tổn hại đến môi trường nhằm thỏa mãn
nhu cầu hiện tại ngày càng tăng về sản phẩm nông nghiệp nhưng không làm
giảm khả năng ấy đối với các thế hệ tương lai.
1.1.2. Những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của


17

xã hội. Sản xuất nơng nghiệp có những đặc điểm riêng mà các ngành sản
xuất khác khơng thể có đó là:
- Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức

tạp, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên mang tính khu vực rõ rệt. Ở đâu
có đất và lao động thì có thể tiến hành sản xuất nông nghiệp. Thế nhưng ở
mỗi vùng mỗi quốc gia có điều kiện đất đai và thời tiết - khí hậu rất khác
nhau. Lịch sử hình thành các loại đất, quá trình khai phá và sử dụng các
loại đất ở các địa bàn có địa hình khác nhau, ở đó diễn ra các hoạt động
nông nghiệp cũng không giống nhau. Điều kiện thời tiết khí hậu với
lượng mưa, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng v.v... trên từng địa bàn gắn rất
chặt chẽ với điều kiện hình thành và sử dụng đất. Do điều kiện đất đai khí
hậu khơng giống nhau giữa các vùng đã làm cho nơng nghiệp mang tính
khu vực rất rõ nét. Đặc điểm này đòi hỏi quá trình tổ chức chỉ đạo sản xuất
nơng nghiệp cần phải chú ý các vấn đề kinh tế - kỹ thuật sau đây:
+ Tiến hành điều tra các nguồn tài nguyên về nông - lâm - thuỷ sản
trên phạm vi cả nước cũng như tính vùng để qui hoạch bố trí sản xuất
các cây trồng, vật nuôi cho phù hợp.
+ Việc xây dựng phương hướng sản xuất kinh doanh, cơ sở vật chất kỹ
thuật phải phù hợp với đặc điểm và yêu cầu sản xuất nông nghiệp ở từng
vùng.
+ Hệ thống các chính sách kinh tế phù hợp với điều kiện từng vùng,
từng khu vực nhất định.
- Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể
thay thế được. Đất đai là điều kiện cần thiết cho tất cả các ngành sản xuất,
nhưng nội dung kinh tế của nó lại rất khác nhau. Trong cơng nghiệp,
giao thơng v.v... đất đai là cơ sở làm nền móng, trên đó xây dựng các
nhà máy, cơng xưởng, hệ thống đường giao thông v.v... để con người điều


18

khiến các máy móc, các phương tiện vận tải hoạt động.
Trong nơng nghiệp, đất đai có nội dung kinh tế khác, nó là tư liệu sản

xuất chủ yếu khơng thể thay thế được. Ruộng đất bị giới hạn về mặt diện
tích, con người khơng thể tăng thêm, theo ý muốn chủ quan, nhưng
sức sản xuất ruống đất là chưa có giới hạn, nghĩa là con người có thể
khai thác chiều sâu của ruộng đất nhằm thoả mãn nhu cầu tăng lên của
lồi người về nơng sản phẩm. Chính vì thế trong q trình sử dụng phải biết
q trọng ruộng đất, sử dụng tiết kiệm, hạn chế việc chuyển đất nông
nghiệp sang xây dựng cơ bản, tìm mọi biện pháp để cải tạo và bồi dưỡng
đất làm cho ruộng đất ngày càng màu mỡ hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm
trên mỗi đơn vị diện tích với chi phí thấp nhất trên đơn vị sản phẩm.
- Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cơ thể sống - cây trồng và
vật nuôi. Các loại cây trồng và vật nuôi phát triển theo qui luật sinh học nhất
định (sinh trưởng, phát triển và diệt vong). Chúng rất nhạy cảm với yếu tố
ngoại cảnh, mọi sự thay đổi về điều kiện thời tiết, khí hậu đều tác động trực
tiếp đến phát triển và diệt vọng. Chúng rất nhạy cảm với yếu tố ngoại cảnh,
mọi sự thay đổi về điều kiện thời tiết, khí hậu đều tác động trực tiếp đến sự
phát triển của cây trồng, vật nuôi, đến kết quả thu hoạch sản phẩm cuối
cùng. Cây trồng và vật nuôi với tư cách là tư liệu sản xuất đặc biệt được sản
xuất trong bản thân nông nghiệp bằng cách sử dụng trực tiếp sản phẩm thu
được ở chu trình sản xuất trước làm tư liệu sản xuất cho chu trình sản xuất
sau. Để chất lượng giống cây trồng và vật nuôi tốt hơn, đòi hỏi phải thường
xuyên chọn lọc, bồi dưởng các giống hiện có, nhập nội những giống tốt,
tiến hành lai tạo để tạo ra những giống mới có năng suất cao, chất lượng
tốt thích hợp với điều kiện từng vùng và từng địa phương.
- Sản xuất nơng nghiệp mang tính thời vụ cao. Đó là nét đặc thù điển
hình nhất của sản xuất nơng nghiệp, bởi vì một mặt thời gian lao động tách


19

rời với thời gian sản xuất của các loại cây trồng nông nghiệp, mặt khác do sự

biến thiên về điều kiện thời tiết - khí hậu, mỗi loại cây trồng có sự thích ứng
nhất định với điều kiện đó, dẫn đến những mùa vụ khác nhau. Đối tượng của
sản xuất nơng nghiệp là cây trồng - loại cây xanh có vai trị cực kỳ to lớn là
sinh vật có khả năng hấp thu và tàng trữ nguồn năng lượng mặt trời để biến từ
chất vô cơ thành chất hữu cơ, tạo nguồn thức ăn cơ bản cho con người và vật
ni. Như vậy, tính thời vụ có tác động rất quan trọng đối với nơng dân. Tạo
hố đã cung cấp nhiều yếu tố đầu vào thiết yếu cho nông nghiệp, như: ánh
sáng, ơn độ, độ ẩm, lượng mưa, khơng khí. Lợi thế tự nhiên đã ưu ái rất lớn
cho con người, nếu biết lợi dụng hợp lý có thể sản xuất ra những nơng sản với
chi phí thấp chất lượng. Để khai thác và lợi dụng nhiều nhất tặng vật của thiên
nhiên đối với nơng nghiệp địi hỏi phải thực hiện nghiêm khắc những khâu
công việc ở thời vụ tốt nhất như thời vụ gieo trồng, bón phân, làm cỏ, tưới
tiêu v.v... Việc thực hiện kịp thời vụ cũng dẫn đến tình trạng căng thẳng về
lao động địi hỏi phải có giải pháp tổ chức lao động hợp lý, cung ứng vật tư kỹ thuật kịp thời, trang bị công cụ, máy móc thích hợp, đồng thời phải coi
trọng việc bố trí cây trồng hợp lý, phát triển ngành nghề dịch vụ, tạo thêm
việc làm ở những thời kỳ nông nhàn.
- Sản xuất nông nghiệp chậm phát triển, phát triển mang tính chất phân
tán lạc hậu
1.1.3. Ý nghĩa của phát triển bền vững nông nghiệp
a. Về kinh tế
Sự phát triển của nơng nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát
triển kinh tế của đất nước và tốc độ tăng trưởng GDP. Nơng nghiệp là ngành
sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của tất cả các ngành, các
lĩnh vực của nền kinh tế. Nếu khả năng cung cấp lương thực phẩm cho
xã hội giảm sút, khả năng cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp


20

chế biến và dịch vụ không đảm bảo tất yếu sẽ dẫn đến sự suy thối của nền

kinh tế.
- Nơng nghiệp cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp và
dịch vụ phát triển như: các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp nhẹ,
tiểu thủ công nghiệp, một số ngành công nghiệp nặng và các ngành dịch vụ
ăn uống, giải khát… có thể nói sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp
và dịch vụ phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu công nghiệp do nông nghiệp
cung cấp.
- Nông nghiệp là nơi cung cấp những mặc hàng xuất khẩu có giá trị,
tạo nguồn tích lũy ban đầu và thường xuyên cho nền kinh tế. Thông qua
xuất khẩu nông sản, nông nghiệp đã đóng góp tích lũy ngày nhiều cho nền
kinh tế, đồng thời góp phần tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
- Nơng nghiệp cịn là thị trường rộng lớn để tiêu thụ các sản phẩm hàng
hóa của ngành cơng nghiệp và dịch vụ, góp phần quan trọng thúc đẩy các
ngành tăng trưởng và phát triển.
b. Về xã hội
-

Nông nghiệp sản xuất và cung cấp những sản phẩm tiêu dùng thiết

yếu, có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của loài người như
lương thực, thực phẩm.
-

Phát triển nơng nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo an

ninh lương thực quốc gia, tăng cường khả năng phòng thủ cho đất nước. An
ninh lương thực là vấn đề sống còn của mỗi nước, là tiềm lực kinh tế thể hiện
sức mạnh của mỗi quốc gia. Đảm bảo an ninh lương thực sẽ hạn chế những
khó khăn, những rủi ro trong phát triển kinh tế và đời sống nhân dân, tạo cơ
sở cho việc ổn định và phát triển kinh tế đất nước, giữ vững an ninh và chủ

quyền quốc gia.
-

Phát triển nơng nghiệp góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập


21

cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo.
c. Về mơi trường
Phát triển nơng nghiệp cịn có ý nghĩa trong việc cải tạo và bảo vệ môi
trường tự nhiên. Với đ ối tượng sản xuất cây trồng vật nuôi gắn liền với
đất đai, phát triển nông nghiệp tạo nên hệ thống sinh thái hoàn chỉnh, đảm
bảo sự phát triển cơng bằng giữa các vùng, góp phần vào việc bảo vệ mơi
sinh. Tuy nhiên muốn nơng nghiệp thực sự đóng góp vào việc bảo vệ mơi
trường, địi hỏi mỗi nước phải có một chiến lược phát triển nơng nghiệp đúng
đắn, phải khai thác lợi thế nông nghiệp từng vùng, phải biết kết hợp nhiều
loại nông sản theo một hệ sinh thái hồn chỉnh, trách sử dụng q mức các
loại hóa chất, tiến tới phát triển một ngành nông nghiệp sạch, nền nông
nghiệp sinh thái.
Như vậy, xét trên các mặt về kinh tế, xã hội và mơi trường thì nơng
nghiệp có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh
tế của mỗi nước. Trong điều kiện hiện nay hầu hết mỗi nước đều nhận rõ: nếu
khơng có một nền nơng nghiệp phát triển, một nền nơng nghiệp tiên tiến thì
nền kinh tế quốc dân khó có thể phát triển vững chắc với tốc độ cao được.
Thực tế nhiều nước đã chứng minh nước nào có nền nông nghiệp vững chắc
đều đạt được những bước phát triển ổn định về kinh tế. Nông nghiệp được coi
là điểm xuất phát của phát triển hay cải cách kinh tế của nhiều quốc gia. Vì
vậy, các quốc gia đều rất chú trọng đến phát triển nông nghiệp, tạo điều kiện
thuận lợi thúc đẩy sản xuất phát triển.

1.2. NỘI DUNG CỦA PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG NGHIỆP
1.2.1. Phát triển về kinh tế
Phát triển về kinh tế là sự tăng trưởng quy mô của nền sản xuất
nông nghiệp, sử dụng hiệu quả các nguồn lực góp phần nâng cao kết quả
và hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu xã


22

hội về sản phẩm nông nghiệp. Triển về kinh tế góp phần tăng trưởng, phát
triển ổn định lâu dài, tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng yêu cầu nâng
cao đời sống của người dân, tránh được sự suy thoái và gánh nặng nợ nần
cho thế hệ tương lai, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế của quốc gia,
cộng đồng. Để phát triển về kinh tế cần phải thực hiện các nội dung sau:
a. Tăng trưởng về quy mơ các cơ sở sản xuất
Q trình phát triển bền vững nông nghiệp thể hiện sự thay đổi
về lượng của nền kinh tế địi hỏi phải góp phần làm tăng trưởng quy mô
của nền sản xuất nông nghiệp. Điều này có nghĩa là hoạt động sản xuất
nơng nghiệp phải làm gia tăng số lượng cơ sở sản xuất nơng nghiệp góp
phần tạo ra nhiều nơng sản đáp ứng nhu cầu sử dụng của người dân và yêu
cầu ngày càng cao của thị trường.
b. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tạo ra một cơ cấu kinh tế tiến bộ hơn
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Phát triển bền vững nơng nghiệp phải hình
thành các vùng sản xuất nơng nghiệp hàng hóa với quy mơ lớn, tạo ra sự
chuyển đổi cơ cấu sản xuất, sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất một cách hợp lý
góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững kinh tế địa phương. Sự chuyển dịch
phải đảm bảo theo tăng giá trị sản xuất ở những sản phẩm có giá trị, hiệu
quả kinh tế cao phù hợp với việc khai thác tiềm năng và lợi thế của vùng.
c. Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực

Những nguồn lực cơ bản trong sản xuất nơng nghiệp đó là đất nơng
nghiệp, lực lượng lao động (cả về số lượng và chất lượng) tham gia sản xuất
nơng nghiệp và các nguồn vốn (tài chính) được huy động, đầu tư vào sản
xuất. Sử dụng hiệu quả các nguồn lực nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao cho
người nông dân. Với quy mô lao động đang có xu hướng ngày càng giảm dần
thì người nơng dân phải sử dụng hợp lý nguồn vốn, đất đai, phải lựa chọn


23

hình thức tổ chức sản xuất phù hợp để tăng năng suất lao động.
- Nguồn lực đất đai: đất đai là yếu tố quan trọng tạo ra sự tăng trưởng
kinh tế nói chung và phát triển nền nơng nghiệp nói riêng. Đất đai là nguồn
lực tự nhiên có khả năng tái tạo. Chính sách quản lý và khai thác đất đai
có vai trị quan trọng đảm bảo tính tái tạo của nguồn lực này. Mỗi quốc
gia có diện tích đất hữu hạn, vì vậy việc quản lý và sử dụng có hiệu quả
nguồn lực này ln ln dành được sự quan tâm đặc biệt.
Đất nông nghiệp là tài sản vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt
trên cả hai mặt: thứ nhất đất nông nghiệp là môi trường tự nhiên tạo ra hệ sinh
thái cần thiết cho sự sống; thứ hai đất nông nghiệp là đối tượng lao động, tại
đó bằng hoạt động lao động của mình, con người tác động lên các yếu tố tự
nhiên trong đất để ni dưỡng cây trồng, gia súc từ đó tạo ra sản phẩm cần
thiết cho xã hội.
Để phát triển bền vững nơng nghiệp thì trong q trình sử dụng
nguồn lực đất đai, con người phải tìm mọi cách sử dụng có hiệu quả, tiết
kiệm và có ý thức chăm sóc, bảo vệ đất. Q trình canh tác độ màu mở giảm
dần do cây trồng đã hấp thụ, con người phải sử dụng những phương pháp
canh tác của mình để không ngừng giúp đất nông nghiệp tái tạo độ màu mở
theo các quy luật sinh học, diễn ra liên tục trong q trình canh tác đất nơng
nghiệp.

- Nguồn lực lao động: nguồn lao động là nhân tố không thể thiếu
được của bất kỳ quá trình kinh tế, xã hội nào. Đây là nhân tố quyết định việc
tổ chức và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khác của nền kinh tế hay nói
cách khác nguồn lao động trở thành động lực của phát triển bền vững nông
nghiệp. Nguồn lao động là một bộ phận của dân số trong độ tuổi quy định,
thực tế có tham gia lao động và những người khơng có việc làm, đang tích
cực tìm kiếm việc làm.


24

Với tư cách là một yếu tố đầu vào của q trình sản xuất, để phát triển
bền vững nơng nghiệp thì nguồn lao động phải đ ược sử dụng có hiệu quả
nhằm đảm bảo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống.
- Nguồn lực vốn: vốn có vai trị rất lớn đối với q trình phát triển kinh
tế - xã hội. Sự gia tăng nhanh các nguồn vốn, phân bổ và sử dụng chúng
một cách có hiệu quả có tác động lớn đến tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, tạo việc làm.
d. Gia tăng kết quả và hiệu quả kinh tế
Một trong những nhiệm vụ đặt ra của q trình phát triển bền vững
nơng nghiệp là đảm bảo kết quả và hiệu quả kinh tế của sản xuất nơng
nghiệp khơng ngừng tăng lên. Để có được kết quả và hiệu quả kinh tế trong
sản xuất nơng nghiệp thì người sản xuất phải sử dụng các yếu tố sản xuất
như giống, thức ăn, thuốc phòng trừ dịch bệnh, máy móc thiết bị, phương
thức tổ chức sản xuất … nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành,
giảm chi phí, gia tăng mức danh lợi cho q trình đầu tư sản xuất.
e. Tiêu chí đánh giá
Phát triển bền vững về kinh tế cần phải đáp ứng các tiêu chí cụ thể sau:
- Tổng số cơ sở sản xuất (cơ sở)
- Tỷ lệ cơ sở sản xuất nông nghiệp so với tổng số hộ dân của huyện (%)

- Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp (%)
- Tỷ lệ diện tích đất sử dụng, chưa sử dụng so với tổng DTTN
- Số lượng, chất lượng cơ cấu lao động trong ngành nông nghiệp
- Năng suất lao động = giá trị sản xuất / số lao động
- Mức độ đáp ứng nhu cầu vốn
- Giá trị sản xuất ngành trồng trọt
- Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi
- Tốc độ phát triển giá trị sản xuất


×