Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Bàn về tội phạm xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.25 KB, 7 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP

BÀN VỀ TỘI PHẠM XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CƠNG NGHIỆP
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2017

Trần Hữu Tuyên1

Tóm tắt: Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp được quy định tại Điều 226 Bộ luật hình sự
năm 2015(BLHS năm 2015) (sửa đổi, bổ sung năm 2017). So với quy định về tội danh này tại Điều
171 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), thì Điều 226 Bộ luật hình sự năm 2015
đã quy định rõ hơn các dấu hiệu định tội danh, đảm bảo tính minh bạch và tạo điều kiện thuận lợi
cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình áp dụng pháp luật như: Xác định cụ thể số tiền
thu lợi bất chính hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền, trị giá hàng hóa vi phạm; đặc biệt là phân
định rõ trách nhiệm hình sự của các chủ thể phạm tội là cá nhân và pháp nhân thương mại. Tuy
nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự về tội phạm này vẫn tồn tại một số hạn chế như: Chưa
xác định rõ nội hàm của khái niệm “quy mô thương mại” khi định danh tội phạm, đối tượng của tội
phạm quy định tại Điều 226 trong một số trường hợp đồng thời là đối tượng của tội phạm thuộc các
điều luật quy định tội phạm về hàng giả còn nhiều quan điểm xử lý chưa thống nhất. Vì vậy, trong
phạm vi bài viết này tác giả phân tích những nội dung cơ bản về tội phạm xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành; đưa ra một số hạn chế, bất cập
của pháp luật quy định về tội phạm xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp; trên cơ sở đó đề xuất hồn
thiện pháp luật về tội này.
Từ khố: Quyền sở hữu cơng nghiệp, tội phạm xâm phạm quyền sở hữu cơng nghiệp.
Nhận bài:10/05/2020; Hồn thiện biên tập: 05/06/2020; Duyệt đăng: 12/06/2020.
Abstract: Crime of infringing upon industrial property rights is prescribed in Article 226 of the
2015 Criminal Code, amended and supplemented in 2017. Compared with the provisions on this
crime in Article 171 of the 1999 Criminal Code amended and supplemented In 2009, Article 226 of
the 2015 Criminal Code has provided specific signs of criminal charges to ensure transparency and
create favourable conditions for procedure- conducting agencies in the process of applying law,
such as identifying specific the amount of money gained illegally or damage caused to the right


holder, the value of infringing goods; especially clearly defining the criminal responsibilities of
criminal offenders being individuals and commercial legal entities. However, the practice of
resolving criminal cases on this crime still has some limitations such as not clearly defining the
meaning of the concept of “commercial scale” when identifying criminals, the objects of crimes
violating the provisions of Article 226 in a number of cases and at the same time being the subject
of crimes under the provisions of the Criminal Law on counterfeit goods still has many points of view
to handle inconsistencies. In this article, the author analyzes the basic content of crimes infringing
upon industrial property rights, assesses the status of law and enforcement practices and introduces
some inadequacies of the law on crimes infringing upon industrial property rights to propose
recommendations to finalize laws on this crime.
Keywords: Industrial property rights; Crime of infringing upon industrial property rights.
Date of receipt: 10/05/2020; Date of revision: 05/06/2020; Date of Approval: 12/06/2020.
1

Thạc sỹ, Khoa Cảnh sát kinh tế, Học viện Cảnh sát nhân dân.


Số 06/2020 - Năm thứ mười lăm

1. Khái qt chung về tội phạm xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp
Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập khu
vực, hệ thống quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) đóng
một vai trị quan trọng, là chìa khóa để phát triển
kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Theo đó, quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) là
một trong những quyền quan trọng của quyền
SHTT, là quyền của tổ chức, cá nhân đối với
sáng chế, kiểu dáng cơng nghiệp, bố trí thiết kế
mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương

mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình
sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh
tranh không lành mạnh2.
Quyền SHCN mang những đặc điểm của
quyền SHTT nói chung, cịn có những đặc điểm
riêng như: Thứ nhất, quyền SHCN là một quyền
tài sản, dưới dạng tài sản vơ hình ln gắn liền
với hoạt động sản xuất kinh doanh thương mại;
thứ hai, việc xác lập quyền thông qua đăng ký tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đối tượng
quyền SHCN được bảo hộ kể từ khi được cấp
văn bằng bảo hộ; thứ ba, việc bảo hộ là có thời
hạn và được ghi nhận trong văn bằng bảo hộ, hết
thời hạn bảo hộ đối tượng quyền SHTT sẽ thuộc
về xã hội.
Đặc điểm pháp lý của tội phạm xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp.
Khách thể của tội phạm xâm phạm quyền
SHCN trực tiếp xâm hại tới trật tự quản lý nhà
nước về quyền SHCN. Ở góc độ hẹp, khách thể
của tội phạm xâm phạm quyền SHCN là quyền và
lợi ích hợp pháp của chủ SHCN đối với nhãn hiệu,
chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam. Đối
tượng tác động của tội phạm này là sản phẩm,
hàng hóa giả mạo nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý.
Mặt khách quan của tội phạm, Điều 226
BLHS năm 2015 không đề cập đến tất cả các dấu
hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm mà chỉ
quy định ngắn gọn là hành vi xâm phạm quyền
SHCN đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang

được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại
hoặc gây ra những thiệt hại nhất định cho chủ thể
quyền. Tuy nhiên, để xác định các hành vi xâm

phạm quyền đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý
cần căn cứ vào các quy định tại Luật SHTT.
Về mặt chủ quan của tội phạm, tội phạm
được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý mà mục
đích kinh doanh là dấu hiệu bắt buộc. Người
phạm tội nhận thức được hành vi sử dụng nhãn
hiệu, chỉ dẫn địa lý để gắn với sản phẩm, hàng
hóa của mình là xâm phạm SHCN của người
khác nhưng vẫn mong muốn thực hiện.
Chủ thể của tội phạm bao gồm bất kỳ cá nhân
nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự từ đủ 16
tuổi trở lên hoặc pháp nhân thương mại.
Lược sử quy định về tội phạm xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp.
Giai đoạn trước năm 1985, do điều kiện lịch
sử của đất nước ta mới bước vào công cuộc phát
triển kinh tế sau một thời gian dài kháng chiến
giải phóng dân tộc, nên pháp luật nước ta chưa
thực sự quan tâm nhiều đến bảo vệ quyền SHCN.
Các văn bản pháp luật hình sự lúc bấy giờ chưa
quy định tội xâm phạm quyền SHCN. Ngày
27/06/1985, BLHS năm 1985 ra đời, đánh dấu
bước ngoặt mới trong lịch sử phát triển pháp luật
hình sự Việt Nam, nhưng chưa có quy định riêng
về tội xâm phạm quyền SHCN, mà chỉ quy định
“Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả” tại

Điều 167 BLHS. Theo đó, các hành vi xâm phạm
nhãn hiệu, tên gọi xuất xứ hàng hóa, kiểu dáng
cơng nghiệp (giả mạo về hình thức) hay hành vi
sản xuất bn bán hàng hóa giả về chất lượng,
cơng dụng (giả mạo về nội dung) đều được coi là
hành vi làm hoặc buôn bán hàng giả. Như vậy
theo quy định của BLHS năm 1985, tội phạm về
làm hàng giả, buôn bán hàng giả không nêu cụ
thể đối tượng bị làm giả thơng qua hàng hóa là
giả mạo về hình thức hay giả mạo về nội dung.
Mặc dù, khách thể bị xâm hại đối với tội làm
hàng giả, buôn bán hàng giả về hình thức là:
nhãn hiệu, tên gọi xuất xứ hàng hóa hoặc kiểu
dáng cơng nghiệp đang được bảo hộ; còn khách
thể bị xâm hại của tội phạm làm hàng giả, buôn
bán hàng giả về nội dung là công dụng thật, chất
lượng thật (đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn) của
hàng hóa.

Khoản 4 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ (Công báo số 693-694 ngày 01/09/2019 văn bản hợp nhất Luật sở hữu trí tuệ
của Văn phịng Quốc hội).
2


HỌC VIỆN TƯ PHÁP

Do vậy, sau một thời gian tiến hành công
cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, cùng với sự ra
đời của Pháp lệnh Bảo hộ quyền SHCN năm
1989 đã ghi nhận các hành vi xâm phạm quyền

SHCN, BLHS năm 1999 đã tách hành vi xâm
phạm quyền SHCN ra khỏi cấu thành của tội sản
xuất, buôn bán hàng giả và cá thể hóa hành vi
xâm phạm quyền SHCN thành một tội danh độc
lập (tội xâm phạm quyền SHCN Điều 171) đã
phân hóa trách nhiệm hình sự cụ thể hơn.
Cần lưu ý rằng, hành vi khách quan của tội
xâm phạm quyền SHCN (Điều 171) là người
phạm tội thực hiện hành vi sản xuất, bn bán
hàng hóa có gắn nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang
được bảo hộ mà không được phép của chủ thể
quyền SHTT nhằm chiếm đoạt hoặc sử dụng bất
hợp pháp các đối tượng quyền SHCN đó với quy
mô thương mại. Tuy nhiên, Điều 156 không quy
định đối tượng tác động bao gồm những loại
hàng giả nào, nên hành vi khách quan của tội sản
xuất, buôn bán hàng giả được hiểu là sản xuất,
bn bán hàng hóa giả nói chung (bao gồm cả
hàng hóa giả mạo nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý).
Tuy nhiên, mục đích người phạm tội hướng tới
đều nhằm gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, lừa
dối người tiêu dùng để thu lợi bất chính.
Các thủ đoạn chiếm đoạt hoặc cố ý sử dụng
bất hợp pháp các đối tượng của quyền SHCN
đang được bảo hộ (Điều 171) như: các đối tượng
phạm tội trực tiếp sản xuất, thuê tổ chức cá nhân
khác sản xuất ở trong nước và gắn nhãn hiệu, chỉ
dẫn địa lý lên hàng hóa mà khơng được phép của
chủ thể quyền SHTT hoặc ra ngước ngoài đặt sản
xuất rồi nhập khẩu về Việt Nam để đưa ra thị

trường tiêu thụ hoặc xuất khẩu. Nội dung phương
thức, thủ đoạn của tội sản xuất, buôn bán hàng
giả (Điều 156) diễn ra phổ biến cũng giống như
tội phạm quy định tại Điều 171, nhưng hình thức
của việc làm giả là giả mạo công dụng, chất
lượng của hàng hố. Hàng hố sản xuất ra khơng

đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện của nhà sản
xuất chính hãng.
Nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, đặc
biệt là từ khi Quốc hội ban hành Luật sở hữu trí
tuệ năm 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009). Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm
1999 đã có những sửa đổi, bổ sung tội xâm phạm
quyền SHCN (Điều 171 BLHS) theo hướng thu
hẹp đáng kể phạm vi xử lý hình sự đối với hành
vi xâm phạm quyền SHCN cả về đối tượng
SHCN và tính chất, mức độ, quy mơ vi phạm.
Theo đó, chỉ xử lý hình sự đối với hành vi cố ý
xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu hoặc
chỉ dẫn địa lý với quy mô thương mại. Các hành
vi phạm tội xâm phạm quyền SHCN đối với sáng
chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng cơng nghiệp và
các đối tượng SHCN khác theo quy định tại Điều
171 BLHS năm 1999 đã được phi hình sự hóa để
xử lý bằng các biện pháp khác.
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018,
tội xâm phạm quyền SHCN được quy định tại
Điều 226 BLHS3. Căn cứ quy định tại điều luật

này cho thấy, mặc dù tên tội danh của điều luật và
các dấu hiệu pháp lý phản ánh đặc điểm tội phạm
không đổi, song dấu hiệu định tội của tội danh
này có một số thay đổi cơ bản theo yêu cầu của
tình hình mới:
Một là, thay vì quy định tại Điều 171 BLHS
năm 1999 chỉ xác định hành vi vi phạm với “quy
mô thương mại”, thì BLHS năm 2015 cịn bổ
sung các dấu hiệu định tội như các điều kiện “thu
lợi bất chính”, “gây thiệt hại cho chủ thể
quyền”, “giá trị hàng hóa vi phạm” các điều
kiện này đều được định lượng cụ thể, nhằm đảm
bảo tính khả thi và tạo thuận lợi cho các cơ quan
tiến hành tố tụng khi xử lý các hành vi xâm phạm
quyền SHCN;
Hai là, điểm khác biệt cơ bản giữa BLHS
năm 2015 so với BLHS năm 1999 là đối tượng

Khoản 1 Điều 226 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định như sau: “1. Người nào cố ý xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam mà đối tượng là
hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý với quy mơ thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng
đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý từ 200.000.000 đồng
đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị
phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm”.
3


Số 06/2020 - Năm thứ mười lăm

tác động của tội phạm quy định tại BLHS năm

2015 hẹp hơn so với trước đây. Nếu như BLHS
năm 1999 đối tượng tác động là mọi hàng hóa
xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu và chỉ
dẫn địa lý bao gồm cả hàng hóa giả mạo về
SHTT, thì BLHS năm 2015 đã xác định đối
tượng của tội phạm chỉ bao gồm hàng hóa giả
mạo nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý.
Ba là, điều luật đã có sự điều chỉnh nghiêm
khắc hơn đối với các chế tài được áp dụng khi xử
lý loại tội phạm này, như: tăng thời hạn cải tạo
không giam giữ ở cấu thành cơ bản và tăng mức
phạt tiền đối với các hành vi vi phạm ở khung
tăng nặng; đặc biệt là bổ sung quy định trách
nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại.
2. Thực trạng tội phạm xâm phạm quyền
quyền sở hữu công nghiệp
Theo thống kê của Cục Cảnh sát kinh tế,
trong giai đoạn từ năm 2010 đến hết năm 2019,
lực lượng Cảnh sát kinh tế đã phát hiện, xử lý
2.268 vụ, việc xâm phạm quyền SHCN, chiếm
1,1% trong tổng số vụ vi phạm về kinh tế trên
phạm vi cả nước với 2.386 tổ chức, cá nhân vi
phạm, phạt tiền trên 100 tỷ đồng. Tuy nhiên, số
lượng vụ án bị khởi tố hình sự rất ít chỉ 15 vụ,
với hơn 20 đối tượng, chiếm tỷ lệ 0,6% trong
tổng số vụ việc xâm phạm quyền SHCN do lực
lượng Công an bắt giữ.
Các vụ án xâm phạm quyền SHCN xảy ra
gần đây cho thấy, các đối tượng phạm tội
thường cấu kết với nhau hình thành các đường

dây, ổ nhóm để sản xuất, bn bán hàng hố
xâm phạm quyền SHCN với số lượng lớn, có
nhiều đối tượng tham gia. Điển hình như các vụ:
Huỳnh Ngọc Quang - Giám đốc Công ty cổ
phần dược phẩm Việt – Pháp tại Thành phố Hồ
Chí Minh cùng đồng bọn đã tổ chức mạng lưới
sản xuất thuốc tân dược giả mạo 41 nhãn hiệu,
thu lời bất chính hàng chục tỷ đồng năm 2012.
Năm 2017 Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí
Minh phát hiện 04 container hàng hố giả mạo
hơn 20 nhãn hiệu nổi tiếng thế giới như: Apple,
Samsung, Nike, Puma, Adidas, Louis Vuiton
Chanel, Gucci, MontBlanc…, gồm các sản
phẩm: phụ kiện điện thoại, quần áo thể thao,
giầy dép, túi xách, đồng hồ, phụ kiện thời trang

các loại; trị giá hơn 40 tỷ đồng.
Gần đây nhất, ngày 16/05/2020, thông qua
các biện pháp nghiệp vụ Phịng ccanhr sát kinh tế
Cơng an thành phố Hà Nội đã kiểm tra, bắt giữ
một cơ sở sản xuất quần áo thời trang ở xã Tam
Hiệp, huyện Phúc Thọ, Hà Nội sản xuất hàng
nghìn bộ quần áo thời trang giả mạo nhiều nhãn
hiệu nổi tiếng. Vào thời điểm kiểm tra, phát hiện
hơn 4.000 bộ quần áo đang được tập kết, chuẩn
bị đưa lên xe đưa đi tiêu thụ và hơn 6000 sản
phẩm quần áo giả mạo các nhãn hiệu như: Nike,
Louis Vuitton, Addidas tại xưởng sản xuất. Cơ
sở sản xuất này đã thu mua các loại quần áo trôi
nổi trên thị trường hoặc mua vải cắt, th gia

cơng, sau đó đặt mua logo, nhãn hiệu, mác vải
trên mạng. Sau khi thu gom hàng về, chủ cơ sở
dùng máy là nhiệt, dán nhãn mác vào vị trí mặt
trước, cổ áo như hàng chính hiệu và thuê cơng
nhân đóng gói đưa ra thị trường. Qua kiểm tra
cho thấy, hoạt động sản xuất và buôn bán hàng
giả tại cơ sở này được tổ chức quy mô, chặt chẽ
và trang bị đẩy đủ các trang thiết bị để sản xuất
hàng giả như: xưởng sản xuất, các máy cắt vải,
máy ép dập nhãn hiệu...
Từ thực trạng trên cho thấy, tội phạm xâm
phạm quyền SHCN hiện nay diễn ra ở hầu hết
các lĩnh vực, trên mọi sản phẩm, hàng hoá, từ các
mặt hàng thiết yếu đến các mặt hàng được người
tiêu dùng u thích, có nhu cầu tiêu thụ cao, hàng
hố xa xỉ có giá trị lớn. Hàng hố giả mạo nhãn
hiệu và chỉ dẫn địa lý được sản xuất trong nước
thường là hàng hoá phục vụ sinh hoạt hàng ngày
như: Lương thực, thực phẩm. Những hàng hố
vi phạm có nguồn gốc từ nước ngồi là hàng hố
trong nước khơng sản xuất được, có giá thành
cao địi hỏi phải đạt đến trình độ cơng nghệ nhất
định mới sản xuất được như: Rượu, bia, thuốc lá,
quần áo thời trang, đồ gia dụng, điện tử, thuốc
chữa bệnh, mỹ phẩm… Các đối tượng phạm tội
đặt sản xuất ở nước ngồi, sau đó nhập khẩu về
Việt Nam như: Vòi tắm giả nhãn hiệu Joden,
Clever, bếp ga giả mạo nhãn hiệu Rinai,
Paloma…
Đối với những mặt hàng giả được sản xuất từ

Trung Quốc hầu hết được tập kết từ các tỉnh phía
Bắc, giáp biên giới rồi vận chuyển dần vào


HỌC VIỆN TƯ PHÁP

Thành phố Hồ Chí Minh tiêu thụ. Tùy từng loại
hàng mà bọn chúng vận chuyển trên từng loại
phương tiện cho phù hợp: đường hàng không,
chuyển phát nhanh, tàu hỏa hoặc các chuyến xe
tải Bắc - Nam… Thậm chí có phương thức
chuyển hàng bằng cách gọi điện thoại đặt mua
hàng từ Trung Quốc và được giao tại Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh và một số thành phố lớn
khác mới thu tiền cơng vận chuyển.
Sở dĩ tình trạng sản xuất, bn bán hàng hố
giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn ngày càng diễn
biến phức tạp là do ngày càng nhiều người tiêu
dùng có tâm lý sính hàng ngoại, hàng xách tay;
một số khác lại có tâm lý thích hàng rẻ, đẹp. Lợi
dụng điều này, các đối tượng tội phạm sản xuất,
buôn bán hàng giả lợi dụng thời điểm khan hiếm
các loại hàng này đưa hàng giả ra bán trên thị
trường. Mặt khác, sự phát triển ồ ạt của các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa
bàn, nhiều cơ sở không theo kịp thị trường, chậm
đổi mới cải tiến công nghệ dẫn đến làm ăn thua
lỗ, thậm chí phá sản. Chính điều này đã dẫn đến
việc các đối tượng tham gia vào hoạt động sản
xuất, buôn bán hàng hố xâm phạm quyền SHTT

để có điều kiện bám trụ trên thương trường trong
điều kiện cạnh tranh khốc liệt.
Mặc dù các vụ việc xâm phạm quyền SHCN
được các cơ quan chức năng bắt giữ nhiều,
nhưng thực tế cho thấy số lượng vụ việc bị khởi
tố hình sự về tội xâm phạm quyền SHCN rất ít,
chỉ chiếm khoảng 1,1% trong tổng số vụ vi
phạm về kinh tế trong cả nước. Nguyên nhân
dẫn đến tình trạng này xuất phát từ nhiều lý do
khác nhau như:
Một là, công tác thực thi quyền SHCN của
các cơ quan chức năng chưa được quan tâm đúng
mức. Nhiều cơ quan, đơn vị chưa nhận thức được
vai trị của cơng tác đấu tran, phịng chống tội
phạm về SHTT nên chưa xác định đây là một
trong những nhiệm vụ công tác trọng tâm cần tập
trung thực hiện.
Hai là, việc xử lý bằng biện pháp hành chính
đơn giản, nhanh chóng phù hợp với tâm lý ngại
yêu cầu cơ quan tố tụng xử lý hình sự do vụ việc
giải quyết kéo dài, gây tốn kém chi phí, nhân lực
và thời gian tham gia tố tụng. Do đó, các chủ thể

quyền SHCN khơng muốn giải quyết vụ việc
bằng biện pháp hình sự.
Ba là, các chủ thể quyền SHCN bị xâm phạm
nhất là doanh nghiệp có tâm lý ngại hợp tác, sợ
mất thời gian hoặc ngại tham gia quá trình tranh
tụng tại Tồ án; sợ tốn kém chi phí nên đã chủ
động đề nghị giải quyết vụ việc theo thủ tục hành

chính. Nhiều trường hợp lực lượng Cảnh sát kinh
tế và các cơ quan thực thi quyền SHCN chưa chủ
động khai thác thông tin, thu thập tài liệu chứng
minh tội phạm để xử lý các vụ việc xâm phạm
quyền SHCN bằng biện pháp hình sự.
3. Hạn chế về pháp luật và đề xuất hoàn
thiện quy định về tội phạm xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp
Bên cạnh những bước tiến về mặt luật pháp
nhằm hoàn thiện quy định về tội phạm xâm phạm
quyền SHCN trong BLHS năm 2015, thực tiễn
cơng tác phịng chống tội phạm này đã chỉ ra một
số hạn chế về pháp luật như sau:
Một là, xác định dấu hiệu “với quy mơ
thương mại” là một trong những khó khăn lớn
nhất trong việc chứng minh tội phạm liên quan
đến SHTT hiện nay. Cho đến nay, khái niệm này
vẫn chưa được quy định trong BLHS cũng như
các văn bản hướng dẫn thi hành. Vì vậy, khi vận
dụng các quy định của Điều 226, các cơ quan tiến
hành tố tụng khó có thể áp dụng thống nhất và
dẫn đến tình trạng mỗi cơ quan hiểu nội hàm của
khái niệm “quy mô thương mại” theo những
cách khác nhau.
Mặc dù điều luật đã định lượng số tiền thu
lợi bất chính và thiệt hại do hành vi xâm phạm
quyền gây ra cho chủ thể quyền nhưng đây là hậu
quả của tội phạm. Trong khi đó, dấu hiệu “quy
mô thương mại” không đồng nghĩa với dấu hiệu
hậu quả của tội phạm, vì hậu quả của tội phạm là

kết quả của hành vi phạm tội, là thiệt hại gây ra
cho chế độ quản lý của Nhà nước về SHCN và
thiệt hại gây ra cho chủ sở hữu, vốn được cho là
rất khó xác định và địi hỏi phải có yếu tố thời
gian; trong khi dấu hiệu “với quy mơ thương
mại” phản ánh tính chất của hành vi khách quan:
hành vi gắn với hoạt động bn bán, có tính chất
vụ lợi và được thực hiện ở quy mô sản xuất kinh
doanh nhất định.


Số 06/2020 - Năm thứ mười lăm

Nghiên cứu u tơ quy mô thương mại quy
định tại Điêu 61 của Hiệp định về các khía cạnh
thương mại liên quan đến quyền SHTT (gọi tắt
là TRIPS) năm 1994 cho thấy, Hiệp định này
không yêu câu phải chứng minh vê lơi nhuân
bât hợp pháp của người xâm phạm hoặc mức
độ tôn thât nhât định của chủ thể quyên. Chi
riêng việc cô ý sử dụng một nhãn hiệu giông hệt
hoặc không khác biệt vê cơ bản với một nhãn
hiệu của người khác cho cùng một loại hàng hóa
vi mục đich kinh doanh đã có thể bị coi là quy
mô thương mại. Thông thường theo thơng lệ
qc tê, trách nhiệm hình sự đơi với hành vi
giả mạo nhãn hiệu không phụ thuộc vào khoản
lợi nhuận thu được từ số hàng vi phạm cũng như
không phụ thuộc vào giá trị tôn thât gây ra cho
chủ thể quyên.

Hai là, các văn bản pháp luật hình sự hiện
hành chưa làm rõ được sự khác nhau về đối
tượng tác động của tội xâm phạm quyền SHCN
(Điều 226 BLHS) với các các tội phạm về hàng
giả khác quy định tại các Điều 192, 193, 194 và
195 BLHS. Trong đó, vấn đề mấu chốt là chưa
giải quyết được nội dung chồng lấn giữa các
Điều luật trong trường hợp hàng hóa giả mạo
nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý (giả về hình thức)
nhưng đồng thời cũng là hàng giả thuộc đối
tượng của các tội phạm quy định tại các Điều
192, 193, 194 và 195 BLHS) thì định tội danh
theo Điều 226 hay theo một trong các điều về
hàng giả (từ Điều 192 đến Điều 195). Mặc dù,
các điều quy định tội phạm về hàng giả đã chỉ
ra hàng giả “có cùng tính năng kỹ thuật, công
dụng” với hàng thật, nhưng không loại trừ đối
tượng hàng giả về SHTT. Quy định hiện hành
đã gây khó khăn cho các cơ quan tố tụng, vì trên
thực tế nhiều vụ việc cơ quan tố tụng áp dụng
các Điều 192, 193, 194 và 195 để xử lý (không
phân biệt là hành vi giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn
địa lý hay giả chất lượng sản phẩm, hàng hóa),
điều này chưa phù hợp với bản chất của vụ việc.
Do đó những vướng mắc nêu trên sẽ cịn tiếp
tục gây những khó khăn cho các cơ quan thực
thi pháp luật.
Những hạn chế pháp lý nêu trên dẫn đến
hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp


không bị xử lý theo Điều 226. Trong thực tế,
nhiều vụ việc đáng lẽ phải bị xử lý theo Điều 226
mà bị xử lý theo tội danh về hàng giả.
Ba là, một trong những khó khăn, vướng mắc
khi xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHTT
bằng biện pháp hình sự là cơng tác giám định về
SHTT. Hiện nay chỉ có Viện Khoa học SHTT là
cơ quan giám định duy nhất về SHTT. Tuy nhiên,
để xử lý tội phạm thì cơ quan điều tra khơng thể
dùng kết quả giám định của Viện Khoa học
SHTT làm chứng cứ mà phải trưng cầu cơ quan
giám định tư pháp để thực hiện mới đảm bảo đáp
ứng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật
giám định tư pháp.
Bốn là, thực tế đấu tranh với các loại tội
phạm này nhiều trường hợp cơ quan điều tra
khơng tìm được chủ sở hữu của đối tượng bị xâm
hại (chủ thể quyền). Trong khi đó, theo quy định
tại Khoản 1 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự, tội
danh quy định tại Điều 226 là tội danh bắt buộc
phải khởi tố và chỉ khởi tố theo yêu cầu của bị
hại. Quy định này đã ảnh hưởng đến hiệu quả
công tác đấu tranh, phòng chống các tội phạm
xâm phạm quyền SHTT của lực lượng Công an
nhân dân.
4. Đề xuất, kiến nghị
Để nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh
phịng chống tội phạm xâm phạm quyền SHCN,
cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, cần quy định thêm tình tiết định

khung tăng nặng “phạm tội có tính chất chun
nghiệp” trong cấu thành tội phạm tăng nặng của
tội này. Vì trong thực tế nhiều người đã đang
thực hiện hành vi xâm phạm quyền SHCN một
cách thường xuyên và coi đây là hoạt động tạo ra
thu nhập chính của họ.
Hai là, hiện nay hệ thống văn bản pháp của
Việt Nam cơ bản đầy đủ và đáp ứng được các
chuẩn mực chung của thế giới. Tuy nhiên vẫn có
những nội dung cịn bất cập, khơng có khả năng
thực thi mới chỉ dừng lại quy định ở những khái
niệm thuật ngữ giống pháp luật quốc tế, nhưng
thiếu những quy định phù hợp như quy định về
“quy mô thương mại” là một thuật ngữ của Hiệp
định TRIPS, nhưng không rõ ràng. Cho đến nay
nội hàm này đã khơng được giải thích ở bất cứ


HỌC VIỆN TƯ PHÁP

một văn bản pháp luật nào dẫn đến khó truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với tội xâm phạm quyền
SHCN. Vì vậy, cần phải có văn bản hướng dẫn
cụ thể về nội dung này để đảm bảo áp dụng thống
nhất giữa các cơ quan thực thi pháp luật.
Ba là, do chưa có hướng dẫn cụ thể giải quyết
một số nội dung chồng lấn liên quan đến hàng
hóa giả mạo nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý theo
Điều 226 BLHS và hàng giả theo các Điều 192,
193, 194 và 195 đã dẫn đến không thống nhất

trong việc định tội danh giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng. Do vậy, Quốc hội nên nghiên cứu
sửa đổi, bổ sung các điều luật quy định các tội
phạm liên quan đến hàng giả của BLHS hiện
hành theo hướng không áp dụng đối với hàng
hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý thuộc
đối tượng quy định tại Điều 226.
Bốn là, để nâng cao hiệu quả cơng tác đấu
tranh, phịng chống các tội phạm về SHTT, cần

nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều
155 Bộ luật tố tụng hình sự theo hướng cơ quan
điều tra được ra quyết định khởi tố vụ án khi
khơng có u cầu của bị hại.
Năm là, tăng cường công tác tuyên truyền
giáo dục về tác hại của hàng hóa xâm phạm
quyền SHCN đối với xã hội, quy định pháp luật
và vai trị của cơng tác đấu tranh, phòng chống
các tội phạm về SHCN nhằm nâng cao nhận thức
cộng đồng về vấn đề này, đặc biệt là các chủ thể
quyền SHCN./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên
quan đến quyền sở hưu trí tuệ (TRIPS) năm 1994.
2. “Phù phép”quần áo trơi nổi thành thời
trang hàng hiệu Nike, Louis Vuitton, Adidas,
nguồn: 93420546.htm.

ĐẤU GIÁ TÀI SẢN KHÔNG THÀNH THEO QUY ĐỊNH
CỦA LUẬT ĐẤU GIÁ TÀI SẢN


(Tiếp theo trang 49)
Thứ tư, cần bổ sung chế tài nghiêm khắc hơn đấu giá chỉ phải trả các chi phí cho việc đấu giá
đối với các trường hợp rút lại giá đã trả, từ chối lần đầu (Điều 36 Luật về bán đấu giá tài sản của
kết quả trúng đấu giá, từ chối ký biên bản đấu giá Trung Quốc năm 1996). Việc rút lại giá đã trả, từ
để hạn chế các trường hợp đấu giá không thành. chối kết quả trúng đấu giá, từ chối ký biên bản
Hiện nay, theo quy định của Luật ĐGTS, người đấu giá có thể gây thiệt hại cho người có tài sản
rút lại giá đã trả, người từ chối kết quả trúng đấu đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản. Do vậy, có thể
giá, người từ chối ký biên bản đấu giá chỉ không tham khảo chế tài quy định trong Luật về bán đấu
được hoàn trả lại khoản tiền đặt trước; đối với giá tài sản của Trung Quốc năm 1996 như đã nêu
trường hợp rút lại giá đã trả, người rút lại giá đã trên để quy định bổ sung trong Luật ĐGTS.
trả sẽ không được tham gia đấu giá tiếp trong
Thứ năm, bổ sung quy định về giá bảo lưu
cuộc đấu giá mà mình đã rút lại giá đã trả. Pháp và đấu giá không thành đối với những cuộc đấu
luật một số nước cũng có những quy định xử lý giá có giá bảo lưu. Tại nhiều nước trên thế giới,
khá nghiêm khắc đối với các trường hợp này, ví trong đấu giá tài sản có giá bảo lưu. Nếu giá đấu
dụ như Trung Quốc. Điều 36 Luật về bán đấu giá cao nhất khơng cao hơn giá bảo lưu thì tài sản sẽ
tài sản của Trung Quốc năm 1996 cấm người không được bán và cuộc đấu giá là không thành13.
tham gia đấu giá không được rút lại giá đã trả khi Tuy nhiên đến nay, Luật ĐGTS khơng có quy
giá đã được công bố. Trong trường hợp đấu giá định về vấn này. Do vậy, cần nghiên cứu để bổ
lại, người từ chối mua tài sản phải trả phí. Trường sung những quy định này trong Luật ĐGTS để có
hợp giá tài sản lần bán đấu giá lại thấp hơn giá đã căn cứ pháp lý giải quyết khi phát sinh tranh chấp,
trả trước đó thì người từ chối mua tài sản đấu giá đặc biệt là những cuộc đấu giá tài sản được thực
phải trả khoản tiền chênh lệch. Người có tài sản hiện theo phương thức đặt giá xuống./.
Đào Ngọc Báu, Lê Quang Hòa (2016), Nhận diện và điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong hoạt động đấu giá
tài sản, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 16 (320), tr 25-32.
13




×