Đề án môn học Nguyễn Thị Việt Dung
LỜI NÓI ĐẦU
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt của kinh tế thị trường hiện nay, để
đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi
các doanh nghiệp phải có các biện pháp quản lý phù hợp với sự biến đổi của
thị trường cũng như tình hình thực tế của doanh nghiệp mình. Việc đảm bảo
lợi ích cá nhân của người lao động là một động lực cơ bản trực tiếp khuyến
khích người lao động đem hết khả năng của mình lỗ lực phấn đấu sáng tạo
trong sản xuất. Một trong những công cụ hiệu quả nhất nhằm đạt tới mục tiêu
trên là hình thức trả lương cho người lao động. Tiền lương thực sự phát huy
được tác dụng của nó khi các hình thức tiền lương được áp dụng hợp lý nhất,
sát với tình hình thực tế của các đơn vị sản xuất kinh doanh, đúng với sự
cống hiến của người lao động, công bằng và hợp lý giữa những người lao
động trong doanh nghiệp. Có như vậy tiền lương mới thực sự trở thành đòn
bẩy kinh tế kích thích sản xuất phát triển. Việc trả lương theo lao động là tất
yếu khách quan. Nhưng lựa chọn hình thức trả lương nào cho phù hợp với
điều kiện đặc điểm sản xuất của từng ngành, từng doanh nghiệp. Để thúc đẩy
sản xuất, làm cho người lao động luôn quan tâm đến kết quả lao động của
mình, đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp. Để
góp phần tạo nên lợi nhuận cho doanh nghiệp, tăng thu nhập cho người lao
động.
Qua quá trình kiến tập tại Công ty cổ phần may Thăng Long với kiến
thức đã học tại trường, em xin trình bầy một số vấn đề về việc tổ chức tiền
lương trong Công ty cổ phần may Thăng Long cùng với sự giúp đỡ của thầy
giáo Nguyễn Trung Kiên. Nếu có những gì sai sót, em rất mong sự cảm thông
và mong được sự hướng dẫn chỉ bảo của thầy và những người đã giúp em
hoàn thành bài báo cáo này.
1 1
Đề án môn học Nguyễn Thị Việt Dung
PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
TIỀN LƯƠNG CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MAY THĂNG LONG.
1. KHÁI NIỆM TIỀN LƯƠNG VÀ VAI TRÒ CỦA TIỀN LƯƠNG.
1.1. Khái niệm về tiền lương
Tiền lương (tiền công) là số tiền thù lao lao động phải trả cho người lao
động theo số lượng và chất lượng lao động mà họ đóng góp để tái sản xuất
sức lao động bù đắp hao phí của họ trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Để hiểu sâu hơn về khái niệm tiền lương chúng ta có các khái niệm
liên quan: tiền lương danh nghĩa, tiền lương thực tế và tiền lương tối thiểu.
* Tiền lương danh nghĩa
Là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động thông
qua hợp đồng thoả thuận giữa hai bên theo qui định của pháp luật. Số tiền
này nhiều hay ít phụ thuộc trực tiếp vào năng suất lao động, hiệu quả làm
việc của người lao động, phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm làm việc,…của
họ ngay trong quá trình lao động.
* Tiền lương thực tế
Tiền lương thực tế được hiểu là số lượng các loại hàng hoá tiêu dùng
và các loại dịch vụ cần thiết mà người lao động hưởng lương có thể mua
được bằng tiền lương danh nghĩa của họ.
Tiền lương thực tế không chỉ phụ thuộc vào số tiền lương danh nghĩa
mà còn phụ thuộc vào giá cả của các loại hàng hoá tiêu dùng và các loại dịch
vụ cần thiết mà người lao động muốn mua. Mối quan hệ giữa tiền lương danh
nghĩa và tiền lương thực tế được thể hiện qua công thức sau:
I
LTT
= I
LDN
/ I
P
Trong đó:
I
LTT
: Chỉ số tiền lương thực tế
2 2
Đề án môn học Nguyễn Thị Việt Dung
I
LDN
: Chỉ số tiền lương danh nghĩa
I
P
: Chỉ số giá cả
* Tiền lương tối thiểu
Theo điều 56 Bộ Luật Lao Động: “Mức lương tối thiểu là mức tiền
lương trả cho người lao động làm những công việc đơn giản nhất trong điều
kiện lao động bình thường, bù đắp sức lao động đơn giản và một phần tái sản
xuất mở rộng. Đó là những công việc thông thường mà một người lao động
có sức khoẻ bình thường, không qua đào tạo chuyên môn…cũng có thể làm
được”.
Tiền lương tối thiểu được Nhà nước qui định theo từng thời kỳ dựa
trên trình độ phát triển về kinh tế – xã hội của đất nước và yêu cầu tái sản
xuất sức lao động xã hội. Tiền lương tối thiểu được xác định qua phân tích
các chi phí về ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chi phí bảo hiểm, y tế, giáo dục đào tạo,
…Theo nghị định mới nhất của năm 2005 thì mức lương tối thiểu chung là
350.000 đồng/ người/ tháng.
1.2. Vai trò chức năng của tiền lương
Trong nền kinh tế quốc dân thì tiền lương được coi là một trong những
đòn bẩy kinh tế quan trọng mà không có một quốc gia nào lại không quan
tâm tới và nó cũng là một công cụ quản lý ở các đơn vị sản xuất kinh doanh,
là một động lực thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển. Trong phạm vi doanh
nghiệp, tiền lương có vai trò quan trọng trong việc kích thích lao động tăng
năng suất, nâng cao trách nhiệm của người lao động với quá trình sản xuất và
tái sản xuất đồng thời tiền lương phù hợp với đóng góp của người lao động sẽ
đem lại niềm lạc quan tin tưởng vào doanh nghiệp. Tiền lương là nguồn thu
nhập chủ yếu của cán bộ công nhân viên, là yếu tố để đảm bảo tái sản xuất xã
hội.
Vì vậy tiền lương đóng vai trò quyết định trong việc ổn định và phát
triển lực lượng lao động. Người lao động dùng tiền lương để trang trải các
3 3
Đề án môn học Nguyễn Thị Việt Dung
chi phí trong gia đình, ngoài ra còn dùng để tích luỹ. Nhưng trước hết tiền
lương phải đảm bảo nhu cầu sinh hoạt tối thiểu hàng ngày của người lao
động. Có thể nói đây là một tác động quan trọng nhất, trực tiếp nhất của tiền
lương. Vì "chức năng kinh tế quan trọng nhất của tiền lương là đảm bảo tái
sản xuất sức lao động".
Tiền lương phù hợp với hao phí lao động mà người lao động đã bỏ ra
trong quá trình sản xuất, sẽ gắn bó họ với công việc với tinh thần trách nhiệm
cao hơn. Được nhận tiền lương phù hợp với sức lao động mình bỏ ra, người
lao động tự cảm thấy mình phải không ngừng nâng cao bồi dưỡng trình độ về
mọi mặt.
Tiền lương có vai trò điều phối lao động. Với tiền lương thoả đáng
người lao động tự nguyện nhận mọi công việc mình được giao dù ở đâu hay
bất cứ công việc nào.
Để cho tiền lương thực sự là đòn bẩy kinh tế quan trọng phát huy được
vai trò tích cực cho người lao động, đòi hỏi các doanh nghiệp phải lựa chọn
đúng hình thức trả lương cho phù hợp với những đặc điểm riêng cho doanh
nghiệp mình, phù hợp với quy định trả lương theo đúng giá trị sức lao động
đã hao phí,giải quyết hài hoà lợi ích của người lao động và của doanh
nghiệp .
2.CÁC HÌNH THỨC TRẢ LƯƠNG CỦA CÔNG TY.
2.1. Các hình thức tiền lương
Trong thực tiễn của đời sống xã hội và trong quan hệ lao động vẫn tồn
tại 2 hình thức trả lương phổ biến:
- Hình thức tiền lương theo sản phẩm.
- Hình thức trả tiền lương theo thời gian.
Việc lựa chọn áp dụng hình thức tiền lương nào trong tổ chức lao động
tuỳ thuộc yêu cầu sản xuất, nghĩa là:
+ Phù hợp tính chất công việc và trình độ tổ chức công việc ở nơi làm việc.
4 4
Đề án môn học Nguyễn Thị Việt Dung
+ Phải có tác dụng khuyến khích người lao động quan tâm đến kết quả
lao động, kết quả sản xuất.
+ Làm cho tiền lương thể hiện rõ chức năng đòn bẩy kinh tế trong việc
kích thích sản xuất, kinh doanh.
+ Trả lương phải đem lại hiệu quả kinh tế.
2.1.1. Hình thức trả lương theo sản phẩm
Trả lương theo sản phẩm là hình thức trả lương dựa trên cơ sở; số lượng
sản phẩm giao nộp của người lao động đơn giá trả lương và chất lượng sản
phẩm đã quy định của doanh nghiệp. Đây là hình thức trả lương cơ bản mà
hiện nay được các đơn vị áp dụng chủ yếu trong khu vực sản xuất vật chất.
Tiền lương của công nhân viên phụ thuộc vào đơn giá tiền lương của một đơn
vị sản phẩm và số sản phẩm sản xuất ra.
Hình thức trả lương này phù hợp với nguyên tắc phân phối lao động,
gắn thu nhập của người lao động với kết quả lao động, khuyến khích lao
động hăng say lao động. Hình thức này tỏ ra có hiệu quả hơn so với việc trả
lương theo thời gian, do đó xu hướng hiện nay, hình thức trả lương theo sản
phẩm được mở rộng phổ biến.
Tuy nhiên, việc xác định tiền lương sản phẩm phải dựa trên cơ sở các tài
liệu về hạch toán kết quả lao động (như phiếu xác nhận lao động công việc
hoàn thành ) và đơn giá tiền lương sản phẩm của doanh nghiệp đối với từng
loại sản phẩm hay công việc.
Hình thức trả lương theo sản phẩm có thể được thực hiện theo nhiều
dạng khác nhau.
*. Trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân
T = V
đg
x q
Trong đó:
T: Số lương phải trả cho người lao động
V
đg
: Đơn giá tiền lương trên một đơn vị sản phẩm
q: Số lượng sản phẩm hoàn thành
Hình thức này áp dụng cho những người lao động trực tiếp sản xuất mà
quá trình lao động của họ mang tính độc lập tương đối, quan hệ giữa năng
5 5
Đề án môn học Nguyễn Thị Việt Dung
suát lao động và thu nhập tiền lương sản phẩm của công nhân được phản ánh
rõ rệt. Tiền lương của họ do chính năng suất lao động cá nhân quyết định.
Hình thức trả lương này phù hợp với nguyên tắc phân phối lao động,
gắn được thu nhập tiền lương với kết quả lao động với năng suất, với chất
lượng lao động cá nhân do đó khuyến khích người lao động phấn đấu tăng
năng suất lao động.
Hình thức trả lương này đơn giản, dễ tính, công nhân, có thể tính được
số tiền lương của mình. Tuy vậy, hình thức tiền lương này có nhược điểm là
công nhân ít quan tâm đến việc tiết kiệm nguyên vật liệu, coi nhẹ việc tiết
kiệm chi phí sản xuất, ít quan tâm đến việc bảo quản máy móc, thiết bị, nếu
thiếu những quy định chặt chẽ.
*. Trả lương theo sản phẩm nhóm lao động
Việc tiến hành chia lương cho từng người lao động trong nhóm căn cứ
vào lương cấp bậc và thời gian làm việc thực tế của từng người người làm
việc trong tháng.Hình thức này áp dụng đối với công việc đòi hỏi một nhóm
lao động lắp ráp thiết bị, sản xuất ở các bộ phận làm việc theo dây chuyền,
sửa chữa cơ khí .
Trả lương theo sản phẩm nhóm có tác dụng khuyến khích lao động trong
nhóm, nâng cao trách nhiệm trước tập thể, quan tâm đến kết quả cuối cùng
của nhóm. Song, nhược điểm là sản phẩm của mỗi lao động không trực tiếp
tác động đến tiền lương của họ nên ít kích thích sự nâng cao lao động cá
nhân. Mặt khác, chưa xác định được sự cố gắng của mỗi cá nhân trong quá
trình lao động nên chưa tiến hành được phân phối theo lao động và chất
lượng sản phẩm.
*. Trả lương theo sản phẩm gián tiếp
Chế độ trả lương sản phẩm gián tiếp chỉ áp dụng đối với công nhân phụ
mà công việc của họ ảnh hưởng nhiếu đến công việc của công nhân chính
(người hưởng lương theo sản phẩm) như: công nhân sửa chữa, công nhân
điện....
DG =
Trong đó:
DG: Đơn giá tính theo sản phẩm gián tiếp
L: Lương cấp bậc của công nhân phụ
6 6
Đề án môn học Nguyễn Thị Việt Dung
Q: Mức sản lượng của công nhân chính
M: Mức phục vụ của công nhân phụ
Cách trả lương này kích thích công nhân phục vụ tốt hơn cho công việc
lao động. Nhưng vì tiền lương phụ thuộc kết quả lao động của công nhân
chính, do đó việc trả lương chưa thật chính xác với công nhân phụ.
*. Trả lương theo sản phẩm luỹ tiến
Theo cách trả lương này thì tiền lương gồm 2 phần:
+ Phần 1: Tiền lương hoàn thành mức được giao
+ Phần 2: Căn cứ vào số lượng vượt định mức thì số lượng vượt định
mức càng nhiều số tiền thưởng càng lớn.
Hình thức trả lương này áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp cần
hoàn thành gấp 1 số công việc trong khoảng thời gian nhất định (ví dụ: để kịp
giao sản phẩm cho khách hàng theo hợp đồng). Thực chất đây là trả lương
theo sản phẩm kết hợp hình thức tiền thưởng (hoặc đơn giá tiền lương luỹ
tiến) theo một tỷ lệ nhất định đối với định mức lao động một cách chính xác.
Với cách trả lương này, tốc độ tăng tiền lương vượt tốc độ tăng sản
phẩm. Nó có tác dụng kích thích công nhân tích cực làm việc, tăng năng suất
lao động, phấn đấu vượt định mức được giao. Nhưng người lao động ít quan
tâm đến máy móc, không tiết kiệm nguyên vật liệu.
Mặt khác, các doanh nghiệp cần chú ý không nên áp dụng rộng rãi chế
độ này vì tốc độ tăng tiền lương của công nhân nhanh hơn tốc độ tăng năng
suất lao động. Thời gian trả lương không nên quá ngắn (hàng tuần) để tránh
tình trạng công nhân nhận lương luỹ tiến nhưng không đạt định mức tháng.
*. Hình thức trả lương khoán
Hình thức trả lương khoán được áp dụng trong trường hợp sản phẩm hay
công việc khó giao chi tiết, mà phải giao nộp cả khối lượng công việc, hay
nhiều việc tổng hợp phải làm trong một thời gian nhất định, với yêu cầu chất
lượng nhất định, trả lương khoán có thể cho tạm ứng lương theo phần khối
lượng đã hoàn thành trong từng đọt và thanh toán lương sau khi đã làm xong
toàn bộ khối lượng công việc được hợp đồng giao khoán.
Đơn giá khoán xác định theo đơn vị thi công hoặc cũng có thể trọn gói
cho cả khối lượng công việc hay công trình.
7 7
Đề án môn học Nguyễn Thị Việt Dung
Yêu cầu của chế độ trả lương này đơn giá phải tính toán chặt chẽ và phải
có bản hợp đồng giao khoán. Nội dung hợp đồng giao khoán phải rõ ràng
công việc, khối lượng giao khoán, điều kiện lao động định mức, đơn giá tổng
số tiền lương khoán, điều kiện lao động và kết thúc ... Nếu tập thể nhận
khoán thì chia tiền lương như hình thức trả lương tập thể.
Ưu điểm của chế độ này là: khuyến khích người lao động hoàn thành
công việc vượt thời gian và đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên, nếu sự kiểm tra
kém thì hiệu quả thấp.
*. Chế độ trả lương sản phẩm có thưởng.
Chế độ trả lương theo sản phẩm có thưởng, là chế độ trả lương theo sản
phẩm kết hợp với chế độ tiền thưởng, nhằm tác động vào những khâu yếu của
dây chuyền sản xuất, để giải quyết sự đồng bộ trong sản xuất, thúc đẩy năng
suất lao động. Với chế độ trả lương này, toàn bộ sản phẩm đều được trả một
đơn giá cố định, còn tiền thưởng sẽ căn cứ vào mức độ hoàn thành và hoàn
thành vượt mức, các chỉ tiêu về chất lượng và số lượng theo tiêu chuẩn của
chế độ tiền thưởng để thưởng và tiền lương sản phẩm có thưởng sẽ bao gồm
cả tiền lương.
Với chế độ trả lương này cần quy định đúng đắn chỉ tiêu tiền thưởng,
điều kiện thưởng và tỉ lệ thưởng và xác định nguồn tiền thưỏng.
2.1.2 Trả lưởng theo thời gian
Đây là hình thức trả lương căn cứ vào thời gian lao động, vào cấp bậc
lương để tính lương cho từng người lao động. Hình thức này chỉ áp dụng chủ
yếu cho lao động gián tiếp, còn với lao động trực tiếp chỉ áp dụng với bộ
phận không áp dụng được định mức sản phẩm.
Hình thức trả lương theo thời gian được áp dụng với viên chức nhà nước
thuộc khu vực hành chính sự nghiệp, những người hoạt động trong lĩnh vực
quản lý, chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh. Với công nhân sản xuất chỉ áp dụng cho những người làm công việc
không thể định mức được sản phẩm lao động chính xác, hoặc do tính chất của
sản xuất nếu trả lương theo sản phẩm sẽ không đạt chất lượng. Chẳng hạn,
công việc sửa chữa, công việc sản xuất hay pha chế thuốc chữa bệnh ...
Như vậy trả lương theo thời gian là dựa vào độ dài thời gian làm việc,
trình độ chuyên môn khoa học kỹ thuật và mức độ phức tạp của công việc.
8 8
Đề án môn học Nguyễn Thị Việt Dung
Nếu ta so sánh với trả lương theo sản phẩm thì trả lương theo thời gian có thể
tính bình quân trong trả lương, vì nó chưa gắn được thu nhập tiền lương của
mỗi người với thu nhập lao động mà họ đã đạt được.
*. Trả lương theo thời gian lao động giản đơn
Chế độ trả lương theo thời gian lao động gian đơn quy định mức tiền
lương của mỗi người lao động được hưởng phụ thuộc vào mức lương cấp
bậc, chức vụ hay cấp hàm và thời gian làm việc thực tế của họ.
Hình thức trả lương này bao gồm:
- Lương tháng: là tiềnlương trả cho người lao động theo tháng, theo bậc
lương đã sắp xếp. Người lao động hưởng lương tháng sẽ nhận tiền lương theo
cấp bậc, chức vụ hay cấp hàm và thời gian làm việc thực tế của họ.
Hình thức trả lương này bao gồm:
- Lương tháng = Mức lương theo bảng của nhà nước + Các khoản phụ
cấp (nếu có).
- Lương ngày: là tiền lương tính trả cho người lao động theo mức lương
ngày và số ngày làm việc thực tế trong tháng.
Lương ngày =
Lương tháng
=
Lương tháng
Ngày chế độ tháng 22 ngày làm việc theo chế độ
Mức lương dùng để trả theo chế độ với người lao động theo hợp
đồng thời hạn từ 1 tháng trở lên, thường thì cơ quan hợp đồng lao động
hay doanh nghiệp tổ chức chấm công theo ngày và trả gộp 15 ngày 1 lần
cùng kì với người hưởng lương tháng. Đối với lao động làm công nhật
hoặc làm công công việc có tính tạm thời theo mùa vụ, làm công việc có
tính thời hạn dưới 3 tháng thì có thể gộp 1 số ngày để trả 1 lần, cũng có thể
trả ngay sau mỗi ngày làm việc nhưng phải tính thêm cho họ khoản bảo
hiểm xã hội, ít nhất 15% vào tiền lương để người lao động tự lo vấn đề bảo
hiểm xã hội cho mình.
- Lương giờ để trả cho số giờ làm việc, hoặc số giờ làm thêm:
Lương giờ =
Lương ngày
=
Lương ngày
Độ dài lao động 8 giờ
*. Hình thức trả lương theo thời gian có thưởng:
9 9
Đề án môn học Nguyễn Thị Việt Dung
Thực chất là sự kết hợp trả lương theo thời gian giản đơn và tiền
thưởng thường xuyên từ quỹ (vì đảm bảo ngày công, giờ công ...)
Tiền lương =
Tiền lương theo thời gian
lao động đơn giản
+ Tiền thưởng
Hình thức trả lương theo thời gian có ưu điểm là dễ tính, dễ trả lương
cho người lao động. Nhưng bản thân hình thức tiền lương theo thời gian
cũng còn nhiều hạn chế như chưa gắn chặt tiền lương với kết quả chất
lượng lao động.
2.1.3. Lương nghỉ phép và các khoản phụ cấp làm đêm, làm thêm.
Theo chế độ hiện hành, khi người lao động nghỉ phép thì được trả
100% tiền lương theo cấp bậc. Tiền lương nghỉ phép và tiền lương phụ cấp
của người lao động. Hiện nay, một năm một người được nghỉ phép 12
ngày, nếu làm việc 5 năm liên tục thì tính thêm một ngày vào thời gian
nghỉ phép, từ 30 năm trở lên thì nghỉ thêm 6 ngày. Tiền lương nghỉ phép
được đưa vào chi phí sản xuất từng tháng. Nếu doanh nghiệp không chỉnh,
bố trí cho người lao động nghỉ phép ổn định đều đặn giữa các tháng trong
năm thì doanh nghiệp phải trích trước tiền lương nghỉ phép để đảm bảo chi
phí ổn định giữa các tháng trong năm.
Tỷ lệ trích trước
tiền lương
nghỉ phép
=
Tổng số tiền lương nghỉ phép
theo kế hoạch năm
x
1
0
0
Tổng số tiền lương trích trước
theo kế hoạch cả năm
Nhằm đảm bảo cho giá thành sản phẩm và chi phí quản lý, chi phí
bán hàng được chính xác, số tiền nhằm phân bổ trước về tiền lương nghỉ
phép năm được điều chỉnh vào những tháng cuối năm tăng thêm hoặc giảm
bớt tuỳ thuộc vào số tiền lương nghỉ phép thực tế của toàn thể người lao
động trong doanh nghiệp.
Nếu người lao động vì lý do gì đó mà không nghỉ phép được thì thanh
toán 100% lương cấp bậc theo số ngày nghỉ phép còn lại mà người đó chưa
nghỉ.
Khi người lao động làm thêm giờ thì phải có phiếu báo làm đêm làm
thêm giờ để có căn cứ tính lương thêm giờ và phụ cấp làm đêm. Khi người
lao động làm việc ngoài giờ tiêu chuẩn thì giờ làm thêm được trả bằng
10 10
Đề án môn học Nguyễn Thị Việt Dung
150% tiền lương giờ tiêu chuẩn nếu làm thêm vào ngày thường và được trả
200% nếu vào ngày nghỉ hàng tuần hoặc ngày lễ.
Lương
làm thêm
giờ
=
Lương cấp bậc tháng
x
Số
công
làm
thêm
giờ
x
30%
(40%)
22
11 11
Đề án môn học Nguyễn Thị Việt Dung
2.2. Quỹ tiền lương:
Quỹ tiền lương của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền lương tính theo
công nhân viên của doanh nghiệp do doanh nghiệp quản lý chi trả lương.
Quỹ tiền lương bao gồm:
- Tiền lương thời gian, tiền lương tính theo sản phẩm và tiền lương
khoán.
- Tiền lương trả cho người lao động trong thời gian ngừng sản xuất do
nguyên nhân khách quan, trong thời gian được điều động công tác làm
nghĩa vụ theo chế độ quy định, thời gian nghỉ phép, thời gian đi học.
- Các loại phụ cấp làm đêm, thêm giờ.
- Các khoản tiền thưởng có tính chất thường xuyên.
Quỹ tiền lương kế hoạch trong doanh nghiệp còn được tính cả các
khoản trợ cấp BHXH trong thời gian người lao động ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động. Trong doanh nghiệp để phục vụ cho công tác hạch toán, tiền
lương có thể được chia thành hai loại:
Tiền lương lao động trực tiếp và tiền lương lao động gián tiếp, trong
đó chi tiết theo tiền lương chính và tiền lương phụ.
Tiền lương chính: là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian
người lao động thực hiện nhiệm vụ chính của họ, gồm tiền lương trả theo
cấp bậc và các khoản phụ cấp kèm theo.
Tiền lương phụ: Là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian
người lao động thực hiện nhiệm vụ khác, ngoài nhiệm vụ chính và thời
gian người lao động nghỉ phép, nghỉ tết, nghỉ vì ngừng sản xuất ... được
hưởng lương theo chế độ.
Tiền lương chính của công nhân trực tiếp sản xuất gắn liền với quá
trình sản xuất ra sản phẩm. Vì vậy việc phân tích chia tiền lương chính và
tiền lương phụ có ý nghĩa quan trọng đối với công tác phân tích kinh tế. Để
đảm bảo hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất của doanh
nghiệp thì việc quản lý và chi tiêu quỹ tiền lương phải được đặt trong mối
quan hệ phục vụ tốt cho việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và chi tiêu tiết kiệm và hợp lý quỹ tiền lương.
2.3. Quỹ bảo hiểm xã hội , bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn.
12 12
Đề án môn học Nguyễn Thị Việt Dung
Quỹ BHXH: được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ quy định trên
tổng số quỹ tiền lương cơ bản và các khoản phụ cấp (chức vụ, khu vực ...)
của công nhân viên thực tế phát sinh trong tháng. Theo chế độ hiện hành,
tỷ lệ trích BHXH là 20%. Trong đó 15% do đơn vị hoặc chủ sử dụng lao
động nộp được tính vào chi phí kinh doanh, 5% còn lại do người lao động
đóng góp và được tính trừ vào thu nhập người lao động. Quỹ BHXH được
chi tiêt cho các trường hợp người lao động ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất. Quỹ này do cơ quan BHXH quản
lý.
Quỹ BHYT : được sử dụng để thanh toán các khoản tiền khám chữa
bệnh, thuốc chữa bệnh, viện phí... cho người lao động trong thời gian ốm
đau, sinh đẻ... Quỹ này được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ quy định
trên tổng số tiền lương cơ bản và các khoản phụ cấp của công nhân viên
thực tế phát sinh trong tháng. Tỷ lệ trích BHYT hiện hành là 3% trong đó
2% trích vào chi phí kinh doanh và 1% trừ vào thu nhập của người lao
động.
Kinh phí công đoàn: Hình thành do việc trích lập theo một tỷ lệ quy
định trên tổng số tiền lương cơ bản và các khoản phụ cấp của công nhân
viên thực tế phát sinh trong tháng, tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Tỷ
lệ trích kinh phí công đoàn theo chế độ hiện hành là 2%.
Số kinh phí công đoàn doanh nghiệp trích được một phần nộp lên cơ
quan quản lý công đoàn cấp trên một phần để lại doanh nghiệp để chi tiêu
cho hoạt động công đoàn tại doanh nghiệp.
Tiền lương phải trả cho người lao động, cùng các khoản trích BHXH,
BHYT, KPCD hợp thành chi phí nhân công trong tổng chi phí sản xuất
kinh doanh.
Ngoài chế độ tiền lương và các khoản trích theo lương doanh nghiệp
còn xây dựng chế độ tiền thưởng cho tập thể, cá nhân có thành tích trong
hoạt động sản xuất kinh doanh, tiền thưởng bao gồm thưởng thi đua (lấy từ
quỹ khen thưởng) và thưởng trong sản xuất kinh doanh : thưởng nâng cao
chất lượng sản phẩm, thưởng tiết kiệm vật tư, thưởng phát sinh sáng
kiến ...(lấy từ quỹ tiền lương) .
13 13
Đề án môn học Nguyễn Thị Việt Dung
PHẦN II
KHẢO SÁT THỰC TRẠNG TIỀN LƯƠNG
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MAY THĂNG LONG
1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÔNG TY
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty cổ phần may
Thăng Long
1.1.1. Quá trình ra đời và phát triển của Công ty
*. Tình hình Công ty những năm đầu thành lập
Ngày 8 tháng 5 năm 1958 Bộ Ngoại thương chính thức ra quyết định
thành lập Công ty may mặc xuất khẩu thuộc Tổng Công ty xuất nhập khẩu
tạp phẩm (đây là tiền thân của Công ty may Thăng Long). Ban đầu Công
ty chỉ vẻn vẹn có 28 người và có trụ sở văn phòng Công ty ở 15 Cao Bá
Quát.
Tháng 9 năm 1985 do đòi hỏi về chất lượng của mặt hàng xuất khẩu,
Công ty tuyển thêm công nhân có tay nghề và nhập thêm nhiều máy móc.
Tổng số cán bộ công nhân viên trong Công ty đã tăng lên 550 người.
Cũng trong năm 1958 Công ty đã hoàn thành xuất sắc năm kế hoạch
đầu tiên của mình với tổng sản lượng là 391.129 sản phẩm so với chỉ tiêu
kế hoạch đạt 112,8% giá trị tổng sản lượng tăng 840.882.
Thị trường xuất khẩu của Công ty năm 1958 chỉ có Liên Xô cũ và
Đức thì đến năm 1961 tăng thêm Mông Cổ, Pháp, Tiệp Khắc và Thuỵ
Điển. Cũng trong năm 1961 Công ty chuyển về 250 Minh Khai, địa chỉ
hiện nay của Công ty.
Năm Giá trị tổng sản lượng (đồng) Tỷ lệ (%)
1966 3.758.600 101,38
1973 5.696.900 100,77
1974 6.596.036 102,28
14 14