Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam giai đoạn 2000- 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.62 KB, 43 trang )

Đề án môn học
LỜI NÓI ĐẦU
Năm 2006, cùng với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, Đảng và nhà nước đã
có những thay đổi lớn trong chính sách kinh tế xã hội. Đồng hành với những cơ hội
khi tiếp cận với thị trường thế giới, Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều thách thức.
Để đáp ứng được nhu cầu đó, nước ta đã chú trọng ưu tiên một số ngành trong đó
có ngành Dệt may. Vì vậy, để giữ vững vai trò là một ngành mũi nhọn trong nền
kinh tế đất nước thì ngoài sự hỗ trợ của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế
vĩ mô cần phải có sự thay đổi từ chính các doanh nghiệp trong ngành mà quan
trọng nhất là tăng cường đầu tư cho đổi mới công nghệ. Xuất phát từ nhu cầu đó,
em quyết định chọn đề tài :
“Đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam giai đoạn 2000-
2005”.
Đề tài gồm ba phần:
Chương I: Cơ sở lý luận
Chương II: Thực trạng đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo, Th.s Đinh Đào Ánh Thủy đã tận tình hướng dẫn
em để em hoàn thành đề tài.
1
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C
1
Đề án môn học
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ
1. Khái niệm công nghệ và đổi mới công nghệ
1.1. Khái niệm công nghệ
Theo Ngân hàng Thế giới (1985): “Công nghệ là phương pháp chuyển hoá
các nguồn thành sản phẩm, gồm ba yếu tố: (1) Thông tin về phương pháp; (2)
Phương tiện, công cụ sử dụng phương pháp để thực hiện việc chuyển hóa; (3) Sự
hiểu biết phương pháp hoạt động như thế nào và tại sao”.


Theo UNIDO (Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc): “Công nghệ
là việc áp dụng khoa học công nghệ vào công nghiệp, bằng cách sử dụng các kết
quả nghiên cứu và xử lý nó một cách chính xác, có hệ thống và có phương pháp”.
Theo Luật Khoa học công nghệ Việt Nam (2000): “Công nghệ là tập hợp các
phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi
các nguồn lực thành sản phẩm”.
1.2. Khái niệm Đổi mới công nghệ
Đổi mới công nghệ là hoạt động nghiên cứu nhằm cải tiến, đổi mới công
nghệ đã có (trong và ngoài nước), góp phần cải thiện chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Đổi mới công nghệ đóng vai trò quan trọng nhất chi phối nền kinh tế, nó có
tác dụng kích thích sự phát triển của sản xuất, nâng cao năng suất lao động và góp
phần giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội.
Đổi mới công nghệ gồm ba giai đoạn: phát minh, đổi mới và truyền bá. Phát
minh là giai đoạn đầu tiên tạo ra những tiến bộ công nghệ. Đây là quá trình tìm tòi,
nghiên cứu các ý tưởng mới, biến chúng thành các giải pháp kĩ thuật công nghệ cụ
thể phục vụ cho sản xuất và đời sống. Kết quả của nó là ý tưởng khoa học, những
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C
22
Đề án môn học
giải pháp về sản phẩm mới, phương pháp mới để thực hiện một số dịch vụ hoặc sản
xuất một sản phẩm.
Sau khi phát minh ra các ý tưởng, giải pháp mới đó thì việc tiếp theo là phải
biến các ý tưởng đó thành ứng dụng thực tiễn. Dựa trên các ý tưởng khoa học hoặc
các giải pháp kĩ thuật đã có để chế thử các mẫu đầu tiên, phát triển, sản xuất thử và
thử nghiệm việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
Cuối cùng là giai đoạn truyền bá sản phẩm nghĩa là phải đem sản phẩm đi
các nơi khác và quảng bá để nó được ứng dụng rộng rãi phục vụ đời sống và sản
xuất.
Nói tóm lại, đổi mới công nghệ là những tiến bộ về công nghệ dưới dạng

máy móc thiết bị hay phương pháp mới về sản xuất hay kỹ thuật, tổ chức, quản lý
hay marketing mà nhờ đó việc sản xuất ra sản phẩm sẽ đạt năng suất cao hơn, chi
phí thấp hơn, chất lượng cao hơn.
Như vậy có thể thấy , Đổi mới công nghệ là hoạt động bao gồm đổi mới sản
phẩm và đổi mới quy trình sản xuất. Đổi mới sản phẩm là việc tạo ra sản phẩm
hoàn toàn mới hoặc cải tiến các sản phẩm đã có của công ty mình hoặc công ty
khác. Điều này giúp công ty tiết kiệm nguyên vật liệu, tăng độ hấp dẫn của sản
phẩm. Đổi mới quy trình sản xuất là việc tạo ra một quy trình sản xuất mới hoặc đạt
được những tiến bộ đáng kể về mặt công nghiệp đối với quy trình sản xuất. Đổi
mới quy trình sản xuất chính là đổi mới máy móc thiết bị.
2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đổi mới công nghệ
2.1. Chỉ tiêu định lượng
2.1.1. Tỷ trọng máy móc thiết bị được hiện đại hóa (I
hd
):
I
hd
= x 100%
∆G
hd
= G
hd1
- G
hd0
: mức gia tăng MMTB
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C
33
Đề án môn học
G
hd1

: Giá trị MMTB hiện đại kỳ báo cáo
G
hd0
: Giá trị MMTB hiện đại kỳ nghiên cứu
Chỉ tiêu này phản ánh giá trị máy móc thiết bị hiện đại gia tăng so với mỗi
đồng vốn đầu tư vào đổi mới công nghệ. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả đổi mới
công nghệ càng lớn.
2.1.2. Chỉ tiêu đánh giá mức tiết kiệm nguyên vật liệu khi đổi mới công nghệ
(I
nvl
):
I
nvl
= x 100%
K
nvl
=
G
nvl
: Giá trị nguyên vật liệu
G
sp
: Giá trị sản phẩm
Thể hiện khả năng tiết kiệm nguyên vật liệu do đổi mới công nghệ và được
đo bằng tỷ lệ giữa mức gia tăng hệ số chi phí cho nguyên vật liệu bình quân một
sản phẩm và một đơn vị vốn đầu tư đổi mới công nghệ trong kì.
2.1.3. Chỉ tiêu gia tăng năng suất lao động (Iw):
I
w
= x 100%


W
= W
1
- W
0
: Mức gia tăng năng suất lao động
Chỉ tiêu phản ánh mức độ tăng trưởng về năng suất lao động của doanh
nghiệp nhờ đổi mới công nghệ. Nó cho biết một đồng vốn đầu tư cho đổi mới công
nghệ sẽ làm tăng năng suất lao động lên bao nhiêu. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu
quả đổi mới công nghệ càng cao.
2.1.4. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đổi mới công nghệ tác động đến mức tăng
lợi nhuận (I
ln
):
I
ln
= x 100%

LN
= LN
1
- LN
0
LN
1
: Lợi nhuận kỳ báo cáo
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C
44
Đề án môn học

LN
0
: Lợi nhuận kỳ nghiên cứu
Ý nghĩa của chỉ tiêu này là mỗi đồng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ tạo
ra bao nhiêu lợi nhuận tăng thêm.
2.2. Chỉ tiêu định tính:
Chỉ tiêu này phản ánh những biến đổi quan trọng về chất đối với xã hội,
doanh nghiệp, cơ cấu lao động, trình độ lao động do đổi mới công nghệ mang lại.
Các chỉ tiêu thường được sử dụng là:
- Tác động tới việc làm của người lao động
- Tác động tới trình độ quản lý, cơ cấu sản xuất, phương pháp lao động, điều
kiện lao động, kỹ thuật lao động.
- Góp phần tăng thị phần do giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm
của đổi mới công nghệ.
- Đóng góp của đổi mới công nghệ trong việc thực hiện các chiến lược kinh
tế xã hội của doanh nghiệp, của ngành, đất nước.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ NGÀNH DỆT MAY
VIỆT NAM
1. Đặc trưng công nghệ ngành Dệt may Việt Nam
1.1. Tính đồng bộ về trình độ công nghệ trong ngành Dệt may còn thấp
Trong ngành Dệt may có rất nhiều công đoạn: kéo sợi, dệt, in, nhuộm, hoàn
tất, may, công đoạn phụ. Các công đoạn này mang tính liên tục, sản phẩm của công
đoạn trước là đầu vào của công đoạn sau. Vì thế, nếu như có một sản phẩm tồi sẽ
dẫn đến sản phẩm cuối là phế phẩm. Điều này đòi hỏi công nghệ ngành Dệt may
phải đồng bộ. Nhưng thực tế thì trong lĩnh vực dệt, trang thiết bị còn quá lạc hậu,
mới đổi mới 40% số thiết bị, còn lại phần lớn là máy móc thiết bị thuộc những năm
60-70. Trong khi đó, lĩnh vực may đã được đổi mới 90% trang thiết bị, trình độ
công nghệ thiết bị khá so với khu vực. Do vậy, khâu dệt không đáp ứng được đầu
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C
55

Đề án môn học
vào cho khâu may, sản xuất dệt trong nước mới đáp ứng được 70-80% nhu cầu tiêu
dùng trong nước và hàng Dệt may Việt Nam chưa đủ sức cạnh tranh với sản phẩm
nước ngoài. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do sự đầu tư theo nhiều giai
đoạn, theo nhiều loại công nghệ và công nghệ của nhiều nước khác nhau dẫn tới
hiệu quả sản xuất toàn ngành không cao.
1.2. Trình độ công nghệ lạc hậu
Ngành Dệt may là một trong những ngành công nghiệp ra đời sớm nhất nước
ta và có nhu cầu về lao động rất lớn. Một kết quả thống kê cho thấy, ở miền Bắc
vẫn còn nhiều cơ sở Dệt may sử dụng thiết bị từ thập kỷ 60-70 , còn ở miền Nam
cũng còn nhiều nơi sử dụng máy móc của thập kỷ 70 . Thậm chí vẫn còn máy móc
thiết bị được sản xuất từ những năm 30-40. Mặc dù vậy, trên thực tế có một khó
khăn rất lớn là hầu hết các công ty đều có vốn nhỏ, hạn hẹp. Điều này là trở ngại
lớn cho việc đầu tư thay thế máy móc thiết bị.
2. Sự cần thiết phải đầu tư đổi mới công nghệ
Tổng công ty Dệt may Việt Nam nay là Tập đoàn Dệt may Việt Nam
(Vinatex) đặt ra mục tiêu phát triển đến năm 2010: “Hướng ra xuất khẩu nhằm tăng
nguồn thu ngoại tệ, đảm bảo trả nợ và tái sản xuất mở rộng các cơ sở sản xuất của
ngành, đồng thời chiếm lĩnh thị trường tiêu dùng trong nước với những sản phẩm
phù hợp, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thực hiện đường lối
CNH-HĐH đất nước”. Để thực hiện được những mục tiêu đã đề ra, Tập đoàn Dệt
may nói riêng và các doanh nghiệp Dệt may nói chung cần phải đề ra các giải pháp
thích hợp để từng bước vươn lên đáp ứng yêu cầu hội nhập mà quan trọng nhất là
đầu tư đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hiện có và tạo ra
những sản phẩm mới có tính cạnh tranh cao trên thị trường.
2.1. Đổi mới công nghệ nhằm phát huy vai trò của ngành Dệt may Việt
Nam với sự phát triển kinh tế xã hội
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C
66
Đề án môn học

2.1.1. Góp phần tăng tích luỹ vốn cho quá trình CNH-HĐH đất nước
Trong giai đoạn hiện nay, giá trị sản xuất của ngành Dệt may chiếm 9% giá
trị toàn ngành công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu 12-15% tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước. Dệt may là ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai (sau xuất khẩu
dầu thô) với tổng giá trị xuất khẩu là 4,4 tỷ USD (2004); 5,2 tỷ USD (2005). Vì vậy
ngành đã đóng góp một lượng ngoại tệ đáng kể cho ngân sách quốc gia.
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu ngành Dệt may Việt Nam qua các năm
Chỉ số
2000 2001 2002 2003 2004 2005
Giá trị xuất khẩu (tỷ USD) 1,892 1,975 2,732 3,687 4,4 5,2
Tăng trưởng (%) 4 38 35 19 17,4

Nguồn: Niên giám thống kê 2005
2.1.2. Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may sẽ làm cho ngành phát triển hơn,
từ đó không những làm biến đổi cơ cấu cây trồng ở vùng trồng nguyên liệu (như
cây đay, cây bông, cây dâu…) mà còn thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển theo
hướng phá vỡ thế độc canh khi chỉ trồng cây lương thực, hoa màu sang trồng cây
công nghiệp. Mặt khác, ngành Dệt may phát triển còn kéo theo sự phát triển các
ngành nghề sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may, ngành hoá chất cung cấp
thuốc nhuộm cho ngành Dệt may, ngành cơ khí cung cấp máy móc thiết bị. Ngoài
ra còn tác động đến sự phát triển những ngành sử dụng sản phẩm của ngành Dệt
may như: giày da, nội thất… từ đó làm tăng tỷ trọng ngành công nghiệp trong cơ
cấu kinh tế.
2.1.3. Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước
Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều mặt hàng Dệt may của nước ngoài nên
sản phẩm của nước ta phải cạnh tranh gay gắt với hàng Dệt may các nước đặc biệt
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C
77
Đề án môn học

là Trung Quốc và Đài Loan. Sự cạnh tranh này sẽ càng khốc liệt hơn khi Việt Nam
gia nhập WTO bởi sự tràn vào ồ ạt của các doanh nghiệp nước ngoài. Trước đây,
vải sản xuất trong nước tiêu thụ chậm, ở thành phố lớn hàng sản xuất trong nước
không được ưa chuộng, ở nông thôn tiêu thụ chậm vì chất lượng thua kém, giá cao
hơn hàng Trung Quốc, mẫu mã kém phong phú hơn. Trong vài năm trở lại đây, do
nắm bắt nhu cầu người tiêu dùng nên ngành Dệt may đã có nhiều đổi mới. Hàng
Dệt may Việt Nam đang dần khẳng định vị trí trong lòng người tiêu dùng trong và
ngoài nước. Nhiều sản phẩm của các công ty Dệt may như May 10, Việt Tiến, Nhà
Bè, May Đức Giang… đang ngày càng trở nên quen thuộc với người dân và thoả
mãn về số lượng cũng như chất lượng, được nhiều người ưa thích và đoạt được giải
thưởng tại Hội chợ thời trang tháng 12/2005 tổ chức tại Hà Nội.
2.2. Đáp ứng nhu cầu công nghệ của ngành
Với tình trạng công nghệ hiện nay thì nhu cầu công nghệ của ngành là rất lớn
và rất cấp thiết. Để ngành Dệt may tiếp tục giữ vững vai trò của mình thì việc đáp
ứng nhu cầu về công nghệ là hết sức cần thiết.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các doanh nghiệp đều nhận
ra tầm quan trọng của đầu tư đổi mới công nghệ để đứng vững trên thị trường. Điều
này thể hiện trong điều tra của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW ở 65 doanh
nghiệp Dệt may Việt Nam.

Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C
88
Đề án môn học
Bảng 2: Mức độ cần thiết tiến hành đổi mới công nghệ
của các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam
Các hoạt động
Tỷ lệ doanh
nghiệp đánh giá là rất
cần thiết (%)
Điểm số trung

bình
Cải tiến các dây
chuyền công nghệ hiện đại
49 2,4
Đầu tư mới DCCN,
MMTB
45 2,3
Nghiên cứu thiết kế
và sản xuất sản phẩm mới
55 2,5
Nâng cao nguồn nhân
lực công nghệ
38 2,3
Bố trí lại tổ chức sản
xuất
38 2,3
Nguồn: Báo cáo kết quả khảo sát về đầu tư đổi mới công nghệ tại các doanh
nghiệp Dệt may Việt Nam.
Đổi mới công nghệ là xu hướng tất yếu của ngành Dệt may Việt Nam để
khẳng định chỗ đứng của mình trên thị trường trong và ngoài nước. Nhìn vào kết
quả điều tra trên có thể thấy rằng các doanh nghiệp đã đánh giá cao vai trò của việc
đầu tư đổi mới công nghệ. Đây là một dấu hiệu đáng mừng hứa hẹn việc đầu tư
trong tương lai sẽ được các doanh nghiệp xúc tiến.
Từ những lý do trên, chúng ta đã thấy được sự cần thiết của việc đầu tư đổi
mới công nghệ nhưng trên thực tế thì ở nước ta, tình hình đầu tư diễn ra như thế
nào? Chúng ta đi vào phân tích thực trạng của đầu tư đổi mới công nghệ.

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C
99

Đề án môn học
I. KHỐI LƯỢNG VỐN ĐẦU TƯ VÀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ
1. Khối lượng vốn đầu tư
Khối lượng vốn đầu tư toàn ngành trong những năm qua có xu hướng tăng
và vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu vốn đầu tư,
thường là 40-60%. Theo kết quả thống kê cho bảng sau:
Bảng 3: Khối lượng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ Tổng công ty Dệt may
Việt Nam giai đoạn 2000-2005
Năm Tổng mức đầu tư
(tỷ đồng)
Vốn đầu tư đổi mới công nghệ
(tỷ đồng)
Tỷ trọng
(%)
2000 2.066,8 1.126,0 54,48
2001 3.157,0 1.774,0 56,19
2002 2.111,8 1.036,0 48,89
2003 1.245,3 598,0 48,02
2004 1.514,6 709,6 46,85
2005 1.863,4 808,9 43,41
Tổng 11.948,9 6.052,5 TB:50,65

Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam (Vinatex)
Tuy vốn đầu tư giai đoạn 2000-2005 có tăng so với giai đoạn trước nhưng
xét về tỷ trọng vốn đầu tư dành cho đổi mới công nghệ thì có giảm. Nếu tỷ trọng
vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ giai đoạn 1996-2000 là 81,1 % thì sang đến giai
đoạn này chỉ còn trên 50% trên tổng vốn đầu tư. Có sự giảm tỷ trọng như trên là do
giai đoạn 1996-2000 có sự tập trung đầu tư hiện đại hóa máy móc thiết bị, nâng cao
năng lực sản xuất nhằm tạo ra bước nhảy vọt trong toàn ngành. Chính vì vậy từ
năm 2000 đến nay ngành không phải đầu tư nhiều cho công nghệ nữa mà chủ yếu

tập trung đầu tư theo chiều rộng. Trung bình mỗi doanh nghiệp Dệt may giành
2,9% doanh thu để đầu tư để cho đổi mới công nghệ.
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C
1010
Đề án môn học
Giai đoạn 2006-2010, Vinatex dự kiến triển khai 24 dự án đầu tư trọng điểm
cho ngành với tổng vốn đầu tư khoảng 16.000 tỷ đồng. Lĩnh vực tập trung nhiều
nhất là ngành dệt với mục tiêu đến năm 2010 sẽ sản xuất 302 triệu m
2
vải dệt thoi
và 106 triệu m
2
vải dệt kim. Dự án sản xuất xơ sợi tổng hợp có công suất 140.000
tấn/năm, đầu tư 300.000 cọc sợi cao cấp tại các khu công nghiệp ở đồng bằng Bắc
Bộ, miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long.
2. Nguồn vốn đầu tư đổi mới công nghệ
Nếu với các nước phát triển trên thế giới thì kênh huy động vốn hiệu quả là
thị trường chứng khoán thì ở Việt Nam, do thị trường chứng khoán chưa phát triển
nên chủ yếu chúng ta huy động thông qua nguồn tích lũy trong nước và vốn đầu tư
nước ngoài. Vì vậy cần xem xét các kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp Dệt
may bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Nguồn vốn trong
nước gồm có vốn từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà
nước, vốn tự có và khấu hao của doanh nghiệp. Nguồn vốn nước ngoài gồm có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn tín
dụng từ các ngân hàng thương mại.
2.1. Nguồn vốn trong nước
2.1.1. Nguồn vốn ngân sách nhà nước
Nguồn vốn ngân sách nhà nước là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho
những dự án đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội quốc gia.
Trong lĩnh vực Dệt may nó bao gồm:

-Vốn cấp cho doanh nghiệp nhà nước Dệt may để đầu tư chiều sâu, mở
rộng các cơ sở sản xuất
-Vốn nhà nước đầu tư mới các cơ sở Dệt may
-Vốn nhà nước liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C
1111
Đề án môn học
Tuy nhiên, ở nước ta do nguồn thu cho vốn ngân sách chưa đáp ứng được các
khoản chi tiêu, ngân sách thường xuyên phải đi vay nước ngoài nên đây chưa phải
là nguồn chính để giúp các doanh nghiệp Dệt may đầu tư đổi mới công nghệ. Theo
Bộ Công Nghiệp thì tổng nhu cầu vốn đầu tư toàn ngành đến năm 2006 cần 900
nghìn tỷ đồng nhưng huy động ngân sách chỉ chiếm 7%, còn lại phải do các doanh
nghiệp tự tìm kiếm. Như vậy, mặc dù Dệt may Việt Nam nằm trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội nhưng vốn đầu tư từ ngân sách còn rất thiếu thốn. Dù đã có sự
gia tăng giữa các năm nhưng xét về mặt tỷ trọng thì tỷ trọng hiện nay không vượt
quá 0,6% lượng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ.
2.1.2. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
Đây là hình thức cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, được áp dụng cho các dự án
trong lĩnh vực ưu tiên của kế hoạch ngân sách nhà nước. Do lãi suất vay thấp và
thời gian vay dài nên nguồn vốn này ngày càng tăng và có vị trí quan trọng. Đây
được xem là nguồn vốn nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp Dệt may đổi mới
công nghệ.
Thực tế cho thấy nguồn vốn này biến động mạnh và khó dự đoán. Giai đoạn
1991-1997 là 236 tỷ đồng, trung bình là 26,2 tỷ/năm. Giai đoạn 2000-2005, nguồn
vốn này đạt cao nhất là vào năm 2002 là 224,0. Nhưng vào năm 2004 lại giảm đột
ngột xuống còn 135,4 tỷ đồng. Có thể thấy là qua các năm, nguồn vốn tín dụng này
đã tăng lên đáng kể, nếu duy trì được tốc độ như những năm 2001, 2002 thì chắc
chắn sẽ đảm bảo được nhu cầu về vốn cho ngành
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C
1212

Đề án môn học
Bảng 4: Vốn trong nước đầu tư đổi mới công nghệ của Vinatex
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tín dụng nhà nước
81,2 224,0 224,5 220,2 135,4 144,6
Ngân sách nhà nước
4,9 9,3 3,9 4,2 4,7 5,0
Nguồn khác
68,1 75,3 70,7 96 73,5 74,6

Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam
2.1.3. Nguồn vốn tự có và khấu hao của doanh nghiệp
Nguồn vốn tự có là nguồn do các chủ sở hữu đóng góp hoặc từ lợi nhuận
chưa phân phối. Vốn khấu hao là toàn bộ số tiền trích khấu hao được tích lũy lại.
Vốn khấu hao không thuộc sản xuất kinh doanh mà là nguồn vốn để tái sản xuất
giản đơn tài sản cố định. Ở Việt Nam, đối với mỗi doanh nghiệp thì tỷ lệ vốn khấu
hao được quy định khác nhau và luôn được đề cao nhằm phát huy đổi mới tính tự
chủ của doanh nghiệp trong ngành và nâng cao hiệu quả đầu tư. Các doanh nghiệp
nhà nước luôn có ưu thế hơn các doanh nghiệp tư nhân vì ngay từ đầu đã được nhà
nước hỗ trợ.
Để huy động vốn trong nước phục vụ cho đầu tư đổi mới công nghệ, các
doanh nghiệp phải có sự lựa chọn cho riêng mình: dựa vào tiềm lực của mình là
vốn tự có và khấu hao, vay tín dụng nhà nước hay ngân sách nhà nước. Đây là câu
hỏi lớn mà các doanh nghiệp phải tìm ra hướng giải quyết để phù hợp với tiềm lực
và tình hình của doanh nghiệp mình.
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C
1313
Đề án môn học

Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn có thể hy vọng vào nguồn khác triển vọng
hơn là nguồn vốn từ nước ngoài.
2.2. Nguồn vốn nước ngoài
Đây là nguồn vốn đóng vai trò hết sức quan trọng đối với các nước đang phát
triển. Một mặt nó giải quyết tình trạng thiếu vốn cản trở quá trình đổi mới công
nghệ, mặt khác nước nhận đầu tư sẽ thu được lợi ích từ việc chuyển giao công
nghệ.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài
mà chủ đầu tư trực tiếp quản lý và sử dụng vốn, đầu tư cho sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ nhằm mục đích lợi nhuận với ba hình thức: hợp đồng hợp tác kinh doanh,
doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Nếu chúng ta kêu
gọi và khuyến khích đầu tư FDI đúng hướng sẽ phục vụ cho phát triển kinh tế xã
hội nước ta, phát huy được lợi thế so sánh của nước ta và tạo điều kiện tiếp thu
những công nghệ, kỹ thuật sản xuất tiên tiến, kinh nghiệm quản lý hiện đại của thế
giới.
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là khoản viện trợ không hoàn lại hoặc
các khoản vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng
vay lớn của các chính phủ, tổ chức tài chính tiền tệ thế giới. Đây là hình thức đầu tư
mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn là hai chủ thể khác nhau. ODA cho ngành
Dệt may thời gian qua chủ yếu là dành cho xây dựng, cải tạo cơ sở hạ tầng cho
ngành và hỗ trợ công tác xuất khẩu.
Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại là nguồn vốn các doanh
nghiệp vay từ các tổ chức tài chính, ngân hàng nước ngoài lãi suất cao, thời hạn trả
nợ nhanh đáp ứng mục tiêu đầu tư ngắn hạn như: hỗ trợ nhập khẩu hàng hoá,
nguyên liệu nước ngoài, thâm nhập thị trường, nhập khẩu máy móc thiết bị…
Giai đoạn 1991-1996, đầu tư nước ngoài đạt 985,76 triệu USD; trong đó hình
thức liên doanh liên kết có tổng vốn đầu tư là 126,77 triệu USD chiếm 87,14%.
Đầu tư nước ngoài vào ngành Dệt may có 88 dự án với tổng vốn đầu tư là 189,46
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C
1414

Đề án môn học
triệu USD; hình thức liên doanh liên kết chiếm 35,13%, loại hình doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài chiếm 64,87%.
Trong năm 2006 hứa hẹn sẽ có rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào
ngành Dệt may Việt Nam. Điển hình là hội nghị tài trợ và đầu tư cho ngành Dệt
may lần đầu tiên tổ chức vào 2/6/2006 tại thành phố Hồ Chí Minh với sự tham gia
của 30 ngân hàng, tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, 150 doanh nghiệp Dệt
may Việt Nam và các nhà cung cấp thiết bị nước ngoài với mục đích chính là xúc
tiến đầu tư vào Dệt may Việt Nam.
Theo hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), Tập đoàn Pamatex Berhad
(Malaixia) với vốn đầu tư hơn 100 triệu USD đã được cấp phép đầu tư vào khu
kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam), Công ty Daewon (Hàn Quốc) quyết định đầu tư
xây dựng 1 nhà máy may xuất khẩu trị giá 8 triệu USD tại khu công nghiệp Hòa
Khánh (Đà Nẵng) sau khi đã đầu tư 1 nhà máy may tại khu công nghiệp Vĩnh Lộc (
thành phố Hồ Chí Minh) và một nhà máy dệt tại khu công nghiệp Nhơn Trạch I
(Đồng Nai). Qua các sự kiện trên cho thấy triển vọng huy động vốn cho ngành từ
đầu tư nước ngoài là rất lớn.
Hiện nay, trong tất cả các nguồn vốn trong và ngoài nước thì vốn tín dụng
đầu tư phát triển của nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhất, vốn tín dụng thương mại
chiếm 30%, ODA là 20%, vốn tự có và ngân sách là thấp nhất.
II. PHƯƠNG THỨC ĐẦU TƯ CHO ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ
Đa số các doanh nghiệp sử dụng kết hợp nhiều phương thức, rất ít doanh
nghiệp chỉ sử dụng một phương thức đổi mới công nghệ. Trong đó, tự tổ chức
nghiên cứu được tiến hành song song với việc mua công nghệ mới nhằm mục đích
tăng hiệu quả ứng dụng và vận hành công nghệ.
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C
1515
Đề án môn học
Bảng 5: Phương thức đầu tư đổi mới công nghệ
của 64 doanh nghiệp Dệt may Việt Nam.

Phương thức đầu tư Tỷ lệ (%)
Tự tổ chức nghiên cứu và thiết kế trong nội bộ doanh nghiệp 32
Hợp tác với cơ quan khoa học nước ngoài 26
Hợp tác với cơ quan khoa học trong nước 5
Bắt chước thiết kế lại theo mẫu 54
Mua công nghệ từ trong nước 20
Mua công nghệ từ nước ngoài 54
Liên doanh liên kết với doanh nghiệp trong nước 20
Liên doanh liên kết với doanh nghiệp nước ngoài 23
Thuê tư vấn trong nước 18
Thuê tư vấn nước ngoài 3

Nguồn: Báo cáo kết quả khảo sát về đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp công
nghiệp Việt Nam.
Từ kết quả nghiên cứu trên thấy rằng đa số các doanh nghiệp lựa chọn hình
thức khép kín, ít có sự giao lưu hợp tác với nước ngoài. Phương thức được áp dụng
nhiều nhất là mua công nghệ từ nước ngoài và bắt chước thiết kế lại theo mẫu đều
được 54% doanh nghiệp áp dụng. Hai phương thức này có chung một ưu điểm là
đều tiết kiệm được thời gian và chi phí nghiên cứu. Đặc biệt với phương thức mua
công nghệ từ nước ngoài thì có thêm một số ưu điểm như:
Tạo được sự tiến bộ đáng kể về thương mại và kỹ thuật thông qua việc mua
công nghệ từ nước ngoài: Khi mua công nghệ thì các doanh nghiệp sẽ có cơ hội
nhận được sự cung cấp tài liệu và huấn luyện đầy đủ để nâng cao kiến thức của
mình trong vận hành và sử dụng công nghệ, từ đó tăng khả năng sản xuất của máy
móc thiết bị và áp dụng quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm một cách thành
công. Đôi khi sự giúp đỡ thêm về tài chính, tìm thị trường và tiêu thụ sản phẩm của bên
cung cấp còn mở ra một khả năng thương mại cho các doanh nghiệp của chúng ta.
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C
1616
Đề án môn học

Được tiếp xúc, trao đổi thông tin và kinh nghiệm với bên cung cấp công
nghệ nhằm phục vụ cho lợi ích của mình: Ngoài khả năng có những tiến bộ trực
tiếp về thương mại và công nghệ, sự hợp tác này còn đem lại cho các doanh nghiệp
Dệt may sự tiếp xúc và đối thoại thường xuyên với nhà cung cấp nước ngoài. Các
doanh nghiệp sẽ có địa chỉ của nhà cung cấp để giải đáp những thắc mắc của mình
và có nguồn thông tin để giải quyết những vấn đề khác, được phổ biến tình hình
thực tế về những cải tiến và sáng kiến, các thị trường và xu hướng phát triển. Các
doanh nghiệp nên tận dụng những thông tin có giá trị đó. Ngoài ra bên nhận công
nghệ còn có thể sử dụng kinh nghiệm của bên cung cấp để sử dụng công nghệ có
hiệu quả.
Có thể có được những điều khoản hợp đồng có lợi: Việc đàm phán hợp đồng
tiếp nhận công nghệ có thể tạo ra nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, việc mua công nghệ từ nước ngoài cũng có nhiều hạn chế, có thể
gây cho các doanh nghiệp Dệt may nhiều rủi ro.
Thứ nhất, bên nhận công nghệ sẽ trở nên thụ động, bị lệ thuộc vào cơ quan
nước ngoài đến khi nào nắm vững đầy đủ và thích ứng tới mức cần thiết công nghệ
với điều kiện của mình. Mua công nghệ đồng nghĩa với việc doanh nghiệp không
tự nghiên cứu trong nội bộ và như vậy thì doanh nghiệp sẽ đánh mất sự chủ động
sáng tạo, công tác tổ chức nghiên cứu sẽ không thể phát triển được. Thậm chí còn
xảy ra tình trạng doanh nghiệp phải thay đổi điều kiện của mình để có thể tiếp nhận
công nghệ.
Thứ hai, có thể có rủi ro, thất bại về kỹ thuật khi được chuyển giao: Với
trường hợp mua công nghệ đã qua sử dụng thì rủi ro mua phải công nghệ đã quá lạc
hậu là rất lớn. Còn đối với công nghệ mới thì mặc dù đã được xem xét cẩn thận vẫn
còn có những rủi ro do những thiếu sót trong công nghệ. Các doanh nghiệp phải hết
sức thận trọng khi đánh giá năng lực sở tại hiện có và khả năng của mình để tiếp
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C
1717

×