Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tài liệu TIỂU LUẬN CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TẠI TRƯỜNG THCS : Lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng công tác pháp chế nghành giáo dục và đào tạo docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.54 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG CÁN BỘ QUẢN LÝ GIÁO DỤC TP. HỒ CHÍ MINH
_________________
TIỂU LUẬN
CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TẠI
TRƯỜNG THCS
Lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng công tác
pháp chế nghành giáo dục và đào tạo
MỤC LỤC
A- Mở đầu
B- Nội dung
1. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, từ thực tiễn thành phố hồ chí
minh.
2. Thực trạng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại trường trung học
cơ sở.
3. Vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt nam.
4. Vấn đề cần quan tâm trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật của
ngành giáo dục
Trang 1
5. Kỹ năng cần thiết để phổ biến giáo dục pháp luật.
C- Kết luận
D- Kiến nghị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, NXB Chính trị Quốc
gia Hà Nội – 2011.
2. Tập bài giảng “Lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng công tác pháp
chế ngành giáo dục.
3. Điều lệ Trường Trung học – Bộ giáo dục và Đào tạo- NXB Giáo dục 2000.
4. Quyết định số 1928/QĐ-TTg ngày 20/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật


trong Nhà trường”.
5. Chỉ thị 45/2007/CT-BGDĐT ngày 17/8/2007 của Bộ giáo dục và Đào tạo “về việc
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của ngành giáo dục”.
Trang 2
6. Kế hoạch số 143/KH-BGDĐT ngày 29/3/2011 của Bộ giáo dục và Đào tạo “về
việc công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2011 của ngành giáo dục”.
7. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09 tháng 12 năm 2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
về tăng cường sự chỉ đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.
A – MỞ ĐẦU
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới sâu sắc và
toàn diện về kinh tế xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền với mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Công cuộc đổi mới đòi hỏi đồng thời
phải thực hiện nhiều khâu quan trọng, trong đó xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp
luật thì vấn đề giáo dục nhận thức pháp luật cho nhân dân, thanh niên là một quan tâm
hang đầu của quốc gia dân tộc.
Con người ngày nay yêu cầu phải có sự phát triển toàn diện về trí tuệ, thể chất,
tinh thần và đạo đức. Đó là cả một quá trình giáo dục của nhà trường, gia đình, xã hội
và sự tu dưỡng rèn luyện của bản thân, trong đó giáo dục pháp luật có ý nghĩa rất quan
trọng. Song trong thực tế vấn đề này chưa đượcc quan tâm đúng mức. Cho nên đó là
một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho tình trạng vi phạm pháp luật, tệ nạn xã
hội có xu hướng ngày càng tăng lên và đang là vấn đề bức xúc, lo âu trong toàn xã hội
mà các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương phải đặc biệt quan tâm giải
quyết.
Nước ta đang trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội
bằng pháp luật thì đôi khi việc thi hành, hoàn thiện hệ thống pháp luật là làm sao cho
mọi người hiểu biết pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật. Tức là phải tổ chức
giáo dục pháp luật cho nhân dân nói chung và đặc biệt là các thế hệ thanh thiếu nên
học sinh. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng mà các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tồ
Trang 3

chức đoàn thể phải chăm lo. Trong đó nhiệm vụ giáo dục và đào tạo của trường phổ
thong, trung học cơ sở về giáo dục pháp luật cho họ sinh có ý nghĩa rất lớn và thiết
thực góp phần “tạo sự chuyển biến cơ bản toàn diện trong phát triển giáo dục và đào
tạo”.
Từ những nhận thức trên, Tôi chọn đề tài “CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT TẠI TRƯỜNG THCS” để viết tiểu luận cho khóa “ bồi dưỡng kiến
thức pháp luật và kỹ năng công tác pháp chế nghành giáo dục và đào tạo năm
2012”
B- NỘI DUNG
1. CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT, TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH:
Thành phố Hồ Chí Minh với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL)
đã có nhiều cố gắng và thu được nhiều kết quả đáng kể, đáp ứng được yêu cầu của
việc tăng cường quản lý Nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp
chế XHCN tại khu vực.
Trong những năm qua, công tác PBGDPL đã có những chuyển biến tích cực,
tạo nhận thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân, hình thức tuyên truyền có nhiều sáng
kiến mới, nội dung tuyên truyền phong phú qua đài truyền thanh, chương trình truyền
hình của Thành phố Hồ Chí Minh, qua các bài báo phát hành vào các buổi sáng . .
.Việc đó thể hiện qua cuộc sống và sinh hoạt của người dân như giảm vi phạm luật
giao thông, giảm tệ nạn ma túy, an ninh trật tự ngày càng được giữ vững, thanh niên
thực hiện nghĩa vụ Quân sự hằng năm đạt 100%; hạn chế đơn thư khiếu nại, tố cáo
của công dân; đặc biệt là ít án hình sự, dân sự Điều này đã cho chúng ta thấy được
rằng giữa công tác PBGDPL với việc tăng cường pháp chế XHCN thể hiện sự đan xen
và có mối quan hệ mật thiết với nhau, nó không thể tách rời nhau.
Tuy nhiên, công tác PBGDPL vẫn chưa ngang tầm với việc quản lý xã hội bằng
pháp luật, chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục, đồng bộ và rộng khắp, còn
thiếu cơ chế, kế hoạch phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành để huy động sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sự tham gia của toàn xã hội đối với công
tác này. Mặt khác:

- Đội ngũ báo cáo viên pháp luật và lực lượng tuyên truyền viên pháp luật hầu hết
là kiêm nhiệm nên đôi nơi, đôi lúc việc nghiên cứu, biên soạn tài liệu tuyên truyền
cũng như việc tham gia các buổi, đợt triển khai công tác PBGDPL xuống cơ sở còn
hạn chế, thiếu đồng bộ dẫn đến hiệu quả chưa cao.
- Một số cấp uỷ Đảng chưa quan tâm đúng mức, chưa quán triệt các văn bản luật
mới ban hành cho cán bộ, đảng viên của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình.
- Một số lãnh đạo các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể chưa vận động và tạo điều
kiện cho cán bộ công nhân viên chức tham gia học tập qua các đợt triển khai hội nghị
PBGDPL do địa phương tổ chức.
- Nhiều địa phương không tạo điều kiện về kinh phí để trang trải cho hoạt động
PBGDPL, chưa có kế hoạch tổ chức tập huấn cho lực lượng tuyên truyền viên pháp
luật và hoà giải viên cơ sở.
- Các ngành, các địa phương chưa thực sự phối hợp chặt trong công tác PBGDPL
và coi đây là một nhiệm vụ độc lập của ngành Tư pháp.
Trang 4
- Các thành viên của Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL chưa có kế hoạch
giám sát việc thực hiện công tác này theo Quy chế của Hội đồng phối hợp đề ra.
- Tủ sách pháp luật đã được xây dựng nhưng hiệu quả khai thác và sử dụng còn
thấp, số lượng người tham gia mượn đọc, nghiên cứu sách báo pháp luật còn quá
ít.
- Kinh phí đầu tư cho công tác PBGDPL còn quá hạn hẹp.
Để khắc phục những hạn chế, tồn tại trên, đưa công tác PBGDPL lên một tầm
cao mới thì các cấp, các ngành cần phải triển khai, tổ chức thực hiện những giải pháp
sau đây:
(1). Phát huy cao những thành quả đã đạt được trong thời gian qua và những bài
học kinh nghiệm đã được đúc kết, đồng thời tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị 32-
CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ,
nhân dân; Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg ngày 16/12/2005 của Thủ tướng Chính
phủ về ban hành chương trình PBGDPL giai đoạn 2005-2010; Quyết định số

28/2006/QĐ-TTg ngày 28/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án chi
tiết thuộc chương trình hành động quốc gia PBGDPL và nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật của cán bộ, nhân dân xã, phường, thị trấn từ năm 2005-2010 và Quyết định
112/2007/QĐ-TTg ngày 20/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chính
sách hỗ trợ các dịch vụ cải thiện đời sống nhân dân và trợ giúp pháp lý cho người
nghèo thuộc chương trình 135, giai đoạn II. Đổi mới công tác PBGDPL theo hướng
mở rộng quy mô, phối kết hợp với nhiều cấp, nhiều ngành, sử dụng nhiều hình thức
phổ biến sinh động, phong phú, thiết thực, liên tục và bề bỉ như thông qua hình thức
tuyên truyền miệng, các hội thi, cuộc thi, các buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật,
thông qua Tủ sách pháp luật lưu động, thông qua xét xử án lưu động, hoà giải cơ sở,
giải quyết các vụ việc
(2). Kiện toàn và ổn định bộ máy hoạt động của Hội đồng phối hợp công tác
PBGDPL, mở rộng và thường xuyên tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ báo cáo viên và
lực lượng tuyên truyền viên pháp luật, phân công thành viên Hội đồng phối hợp phụ
trách cụm để theo dõi hoạt động của các địa phương.
(3). Đội ngũ báo cáo viên và lực lượng tuyên truyền viên pháp luật phải năng
động, nhiệt tình, tâm huyết nắm vững kiến thức pháp luật nhằm giúp cho nhân dân
tiếp thu một cách nhanh hơn và dễ hiểu hơn.
(4). Cần phải có sự phối hợp tốt giữa các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trong công
tác PBGDPL. Đưa công tác PBGDPL vào trường học để có sự phối hợp chặt chẽ giữa
gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục ý thức tôn trọng và chấp hành pháp
luật của thanh thiếu niên.
(5). Nâng cao vai trò hoạt động của tổ chức Đảng, Ban nhân dân, Mặt trận đoàn thể
thôn, tổ hòa giải cơ sở nhằm lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật đến người
dân.
(6). Phải xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, nhất là trong việc xử phạt vi
phạm hành chính trên các lĩnh vực.
(7). Cần có một nguồn kinh phí nhất định, có đầy đủ trang thiết bị, phương tiện kỹ
thuật để phục vụ cho công tác PBGDPL hằng năm đạt kết quả cao.
Trang 5

(8). Tiếp tục nâng cao số lượng và chất lượng chuyên trang, chuyên mục “Tìm hiểu
pháp luật” trên sóng truyền thanh, Bản tin buổi sáng để phục vụ cho nhân dân tìm hiểu
pháp luật luôn được thường xuyên, liên tục và rộng khắp.
Việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật sẽ tạo điều kiện cho việc nâng cao trình
độ văn hóa pháp lý của người dân. Hiệu quả tác động này lại phụ thuộc vào trình độ
văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ, công chức; phụ thuộc vào việc họ thực thi pháp
luật, có thái độ tôn trọng pháp luật. Bởi vậy, thực hiện nhiệm vụ nâng cao văn hóa
pháp lý đòi hỏi không chỉ nâng cao trình độ văn hóa chung của nhân dân mà còn phải
tăng cường cho đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan Nhà nước. Một trong những
nguyên nhân của tình trạng vi phạm pháp luật là do trình độ văn hóa pháp lý của một
bộ phận nhân dân, trong đó có cả cán bộ, công chức còn thấp. Rõ ràng, việc nâng cao
văn hóa pháp lý có quan hệ gắn bó mật thiết với việc tiếp tục tăng cường pháp chế
XHCN.
Trong điều kiện xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh thì một
trong những điều kiện quan trọng là làm sao để người dân được tham gia tích cực vào
hoạt động quản lý xã hội bằng pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần quan
trọng trong việc thúc đẩy sự lớn mạnh của tính tích cực, đảm bảo hành trang kiến thức
pháp lý cần thiết cho sự tham gia vào hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật trong
cả nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh chúng ta nói riêng.
2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TẠI
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ:
Xác định vai trò và tầm quan trọng của công tác PBGDPL trong trường học
nên trong thời gian qua, trường Trung học cơ sở trên địa bàn quận 12 luôn quan tâm
chú trọng công tác này, vì vậy đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ nên được một số
kết quả nhất định.
Tăng cường phối hợp: Trên cơ sở Kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật chung, hàng
năm Sở Tư pháp đã phối hợp với Sở giáo dục và Đào tạo tổ chức thực hiện nhiểu hoạt
động trong phổ biến, giáo dục trong trường học. Tổ chức tập huấn các kiến thức pháp
luật cho giáo viên dạy môn Giáo dục công dân, pháp luật, cán bộ quản lý giáo dục. Tổ
chức các cuộc tọa đàm, nói chuyện chuyên đề pháp luật cho học sinh, sinh viên một số

trường trên địa bàn; xây dựng và tổ chức hoạt động khảo sát lấy ý kiến của giáo viên
dạy môn Giáo dục công dân, pháp luật, học sinh, sinh viên nhằm đánh giá thực trạng
cũng như nhu cầu tìm hiểu pháp luật của các đối tượng trên để xây dựng kế hoạch, tài
liệu phổ biến pháp luật cho phù hợp, thiết thực. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp
luật chủ yếu là tập huấn, tuyên truyền miệng, biên soạn cấp phát tài liệu, tổ chức cuộc
thi, hoạt động ngoại khóa, lồng ghép với cuộc họp, phối hợp với các ngành có liên
quan, phát huy hiệu quả khai thác tủ sách pháp luật.
Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên,
học sinh bao gồm loại văn bản sau: các quy định pháp luật về cán bộ, viên chức; các
quy định pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; các quy định pháp luật về
hội nhập quốc tế; các quy định pháp luật về thực hiện quy chế dân chủ; các quy chế về
đào tạo, rèn luyện học sinh, sinh viên; các bộ luật, luật liên quan tới giáo dục ý thức
chấp hành pháp luật của giáo viên, học sinh.
Đến nay quận đã có 10 trường trung học cơ sở, tổng số giáo viên dạy giáo dục
công dân: gần 35 giáo viên; có tủ sách pháp luật đạt chuẩn (trường đạt chuẩn quốc
gia); các trường chưa xây dựng được tủ sách pháp luật đều có ngăn sách pháp luật;
Trang 6
tổng số sách pháp luật của toàn ngành tính đến thời điểm kết thúc năm học 2011-2012
là 10.693 cuốn.
Do thời gian học tập chính khóa ngắn so với khối lượng kiến thức của chương
trình môn học, song các trường đã lựa chọn nội dung và hình thức thích hợp nhằm
chuyển tải kiến thức pháp luật cho học sinh như tổ chức các cuộc thi tìm hiểu kiến
thức pháp luật, các buổi học ngoại khóa, tạo môi trường cởi mở, thân thiện giúp học
sinh dễ dàng tiếp thu các kiến thức pháp luật, tham gia các câu lạc bộ, xây dựng, bổ
sung đầu sách, khai thác tủ sách pháp luật, thông qua các bản tin, hệ thống loa truyền
thanh
Nhìn chung việc dạy và học pháp luật, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
trong trường học trong thời gian qua đã đi vào nề nếp và đạt nhiều kết quả tốt. 100%
đơn vị trường học đều xây dựng đầy đủ kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật trong
trường học; 100% trường học thực hiện nghiêm túc công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật, kịp thời phổ biến các quy định pháp luật đến với giáo viên, học sinh. Đội ngũ
giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công dân, pháp luật cơ bản được đào tạo đúng
chuyên ngành, tâm huyết với nghề nên chất lượng giảng dạy trong các tiết học được
nâng cao. Vì vậy ý thức chấp hành pháp luật của giáo viên, học sinh vi phạm pháp luật
được hạn chế ở mức thấp nhất.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác phổ biến, giáo dục pháp trong
trường học vẫn còn những hạn chế và khó khăn, đó là: Kinh phí để tổ chức cho công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường còn nhiều hạn chế. Sự phối hợp giữa
các ngành chức năng chưa thường xuyên, kịp thời; vai trò của các đoàn thể đối với
việc tham gia tuyên truyền pháp luật cho học sinh chưa cao. Nội dung bài giảng bộ
môn giáo dục pháp luật ở nhà trường quá khô khan, biên soạn cứng nhắc trên cơ sở
bám sát văn bản pháp quy, không truyền cảm đối với cả hai đối tượng: người dạy và
người học. Mặt khác một số thầy cô giáo chưa qua đào tạo mộ Giáo dục công dân
nhưng vẫn được phân công để dạy (dạy chéo môn) nên chất lượng tiết học không cao.
Chương trình đào tạo giáo viên dạy môn GIáo dục công dân ở trường sư phạm còn
chậm đổi mới dẫn đến một số ít giáo viên ra trường nhưng rất non về kiến thức, chưa
đam mê, thiếu sáng tạo, thiếu năng lực sư phạm. . .
Những giải pháp trong thời gian tới: Để thực hiện tốt công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật trong trường học cần thực hiện một số giải pháp sau:
(1). Tiếp tục quán triệt Chỉ thị số 32-CT/TW, các văn bản chỉ sạo của Đảng và Nhà
nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò,
tầm quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong trường học;
(2). Đổi mới phương pháp dạy học trong các giờ giáo dục công dân, tăng cường ứng
dụng công nghệ thông tin để cung cấp các hình ảnh, sự việc, con người thật, liên quan
đến bài dạy để tránh sự nhàm chá, khô khan cho học sinh;
(3). Tổ chức cho học sinh tham quan, quan sát các vụ xử án của Tòa án liên quan đến
kiến thức pháp luật hình sự, dân sự, học sinh, sinh viên;
(4). Giáo viên dạy môn Giáo dục công dân, pháp luật phải thường xuyên cập nhật
thông tin pháp luật thông qua các kênh thông tin như truyền thanh, truyền hình, sách,
báo ;

(5). Chỉ đạo các trường nên thành lập ban chỉ đạo tuyên truyền phổ biến pháp luật. Tổ
chức các câu lạc bộ pháp luật, tuyên truyền pháp luật bằng những hình thức hấp dẫn
các em tham gia như thi đua giải quyết các tình huống pháp luật có thưởng; trình bày
Trang 7
tiểu pháp về pháp luật; tổ chức phiên tòa giả định Hàng năm nên mời các báo cáo
viên đến trường để thuyết trình về kiến thức pháp luật cho giáo viên. Tổ chức thi giáo
viên dạy giỏi, học sinh giỏi môn Giáo dục công dân để khuyến khích giáo viên trong
công tác giảng dạy và việc học tập của học sinh.
Tổ chức hội thi tìm hiểu pháp luật với các nội dung phù hợp; sân chơi cuối
tuần; rung chuông vàng Lồng ghép phổ biến pháp luật thông qua các tiết chào cờ,
chương trình phát thanh của trường.
3. VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG
ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM:
Theo tôi, phổ biến, giáo dục pháp luật là trách nhiệm của Nhà nước và của toàn
bộ hệ thống chính trị. Thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật là một công tác xã hội,
là “của chung xã hội”, do Nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và của “toàn
thể công chúng” thực hiện, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt.
Do tầm quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trong thời gian
qua, Đảng và Nhà nước rất quan tâm chỉ đạo thực hiện các công tác này. Một loạt văn
kiện quan trọng đã được Đảng và Nhà nước ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý khá toàn
diện, đầy đủ trong việc thực hiện các công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Tuy nhiên, xét một cách tổng quát, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật vẫn
còn những tồn tại, hạn chế nhất định:
- Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở một số ngành, địa phương có nơi
chưa được quan tâm đúng mức, chưa đồng bộ, còn mang tính hình thức, dàn trải, thiếu
trọng tâm, chưa bảo đảm chiều sâu, chưa hướng về cơ sở, hiệu quả chưa cao;
- Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành nhiều, việc phân loại, hệ thống
hoá pháp luật chưa được thực hiện tốt, tính ổn định của hệ thống quy phạm còn yếu,
văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên vẫn phải chờ văn bản hướng thi hành của cơ
quan nhà nước cấp dưới làm cho làm cho hệ thống phổ biến, giáo dục pháp luật bị hạn

chế;
- Nguồn kinh phí chủ yếu vẫn là ngân sách nhà nước; cơ sở vật chất, phương
tiện làm việc, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật.
- Sự tham gia của các tổ chức xã hội vào hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật về cơ bản vẫn còn mang tính hình thức, bị động, trông chờ bao cấp, chưa chủ
động thực hiện cơ chế lấy thu bù chi, thu hút nguồn lực và tự trang trải bằng nguồn
phi ngân sách.
Nguyên nhân cơ bản của hạn chế, bất cập là:
- Thể chế cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được điều chỉnh
bằng một văn bản có giá trị pháp lý cao như Luật.
- Ở một số nơi, cấp uỷ đảng, chính quyền chưa nhận thức sâu sắc về tầm quan
trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa đồng đều, đội ngũ làm công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật còn thiếu nhiều, chủ yếu hoạt động kiêm nhiệm nên chưa đáp ứng
yêu cầu.
- Cơ sở vật chất, phương tiện, nguồn kinh phí dành cho công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu.
Trang 8
- Các tổ chức xã hội chưa nhận thức đầy đủ về trách nhiệm của mình trong các
hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. Một số tổ chức vẫn còn coi những hoạt động
này là trách nhiệm chỉ của các cơ quan nhà nước, chưa coi trọng việc phát huy vai trò
của các tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp trong các hoạt động phổ biến, giáo dục
pháp luật. Các tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp nói chung còn thiếu động lực, đầu
tư thích đáng để có phương pháp, hình thức tổ chức, nguồn nhân lực và kinh phí cho
hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật.
• Những thách thức của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
- Sự phức tạp của hệ thống pháp luật và sự gia tăng về số lượng luật. Một trong
những thách thức của nhà nước là làm thế nào cung cấp thông tin cho người dân về
pháp luật khi pháp luật ngày càng trở nên phức tạp và gia tăng về số lượng. Nhà nước

có thể ban hành luật và các quy định pháp luật nhưng các luật này sẽ ít phát huy tác
dụng khi mà các đối tượng phải tuân thủ và thực thi lại không biết sự tồn tại của các
luật này.
- Cản trở về địa lý và hậu cần để đưa thông tin và áp dụng luật ở các vùng nông
thôn, vùng sâu, vùng xa. Thách thức về thông tin và giáo dục luật càng trở lên khó
khăn hơn đối với đưa thông tin và áp dụng luật đối với các cộng đồng nông thôn và
đồng bào dân tộc ở vùng sâu, vùng xa.
- Các luật lệ, phong tục, ngôn ngữ địa phương. Ở mỗi vùng khác nhau thường
có những phong tục tập quán khác nhau mà những tập quán này thường mâu thuẫn với
các luật do nhà nước ban hành, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, bên cạnh các
cản trở của các tập quán địa phương, ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau có thể cản
trở quá trình tuyên truyền và chấp nhận pháp luật.
- Nguồn lực (nhân lực và tài chính). Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật luôn
đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực, nguồn tài chính thoả đáng, trong khi nhà nước
còn rất nhiều khoản phải chi. Thực tế cho thấy hiện nay Nhà nước không có đủ nguồn
lực thoả đáng để tự thiết kế và thực hiện các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, là
những nhu cầu cần thiết ở các nhà nước hiện đại với hệ thống pháp luật phức tạp.
Chúng ta phải đối mặt với rất nhiều mục tiêu ưu tiên xong lại xung đột với nhau, trong
khi đó cũng có quá nhiều mục tiêu được coi là quan trọng từ xoá đói giảm nghèo tới y
tế và vô số các tệ nạn xã hội khác.
- Sự hợp tác, phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan. Thực hiện công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật thường rất phức tạp đòi hỏi sự hợp tác (ít nhất là sự
phối hợp) của các bộ, ngành trung ương, các cơ quan liên bộ trong Nhà nước, phân bổ
thoả đáng các nguồn lực, có kế hoạch ưu tiên và sự phối hợp của các cấp chính quyền
để việc thực hiện các chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật có thể tiếp cận được
tới cấp cơ sở và cộng đồng dân cư địa phương.
• Vấn đề đặt ra cho giải pháp giải quyết những thách thức này
Nhà nước có nên hướng tới các tổ chức xã hội trong hoạt động phổ biến giáo
dục pháp luật để họ tham gia vào hoạt động này, thậm chí bao gồm cả việc thiết kế,
lập chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật. Ở một số quốc gia, các bên hữu quan là

các tổ chức xã hội dân sự tiến hành thiết kế và thực hiện các dịch vụ phổ biến, giáo
dục pháp luật độc lập mà không cần tới sự hỗ trợ về tài chính và hậu cần của nhà
nước. Ở những nước khác, thì các tổ chức được thành lập trên cơ sở hợp danh để thực
hiện các chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật.
Sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự vào hoạt động phổ biến, giáo dục
pháp luật là một vấn đề mới. Các tổ chức xã hội dân sự trên thế giới, cho dù được định
Trang 9
nghĩa thế nào chăng nữa thì cũng đã và đang tham gia vào các hoạt động phổ biến,
giáo dục pháp luật từ lâu. Điểm đang thay đổi chính là vai trò ngày càng đang mở
rộng của các tổ chức này thông qua các hoạt động độc lập, đồng thời qua các liên danh
của các chính quyền địa phương, khu vực và quốc gia. Xã hội dân sự cũng đã được đề
nghị đóng vai trò lớn hơn trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật nhất là đối với
các vấn đề quan trọng có tính toàn cầu như nhận thức về thay đổi khí hậu và y
tế/AIDS Các nước có chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật công phu nhất là
các quốc gia đã kết hợp và tạo điều kiện hoàn toàn cho sự tham gia của các tổ chức xã
hội dân sự hữu quan và nhờ đó có thể tập trung vào xác định mục tiêu kết quả mà họ
khó có thể làm được bằng cách khác.
Các vấn đề mà các nhà nước gặp phải trong công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật không thể giải quyết được bởi một mình Nhà nước hoặc chỉ bằng các nguồn lực
của Nhà nước. Ngay cả khi một nhà nước có các nguồn lực đáng kể thì họ vẫn chọn
sử dụng các tổ chức xã hội dân sự trong quá trình thiết kế và thực hiện hoạt động phổ
biến, giáo dục pháp luật để tăng cường tính khách quan, độc lập, sáng tạo và sự tin
tưởng của người dân - vốn là các mục đích có thể khó đạt được thông qua chương
trình phổ biến, giáo dục pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh việc tranh thủ các năng lực
và nguồn lực của nhóm xã hội dân sự này, còn có một lý do khác khiến nhiều Nhà
nước không có ý định tự mình thực hiện nhiệm vụ cung cấp các thông tin và phổ biến,
giáo dục pháp luật, đó là: người dân (thậm chí cả các Nhà nước) đều được hưởng lợi
từ vị thế độc lập của các nhóm xã hội dân sự so với Nhà nước. Các nhóm phi Nhà
nước hoạt động khách quan hơn và duy trì một mối quan hệ có chừng mực với Nhà
nước nhờ thế mọi người lĩnh hội thông tin dễ dàng hơn và tin tưởng hơn vào các thông

tin mà họ đang tiếp nhận.
Song ngay cả khi Nhà nước quyết định sử dụng kỹ năng và nguồn lực của xã
hội dân sự vào các chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật thì vẫn cần đặt ra câu
hỏi là: Nhà nước nên duy trì vai trò gì, vai trò của Nhà nước trong xác định các mục
tiêu ưu tiên; liệu có nên tham gia vào các liên danh tư nhân/nhà nước với xã hội dân
sự không; liệu có nên tài trợ cho các tổ chức xã hội dân sự không thay vì để Nhà nước
tự thực hiện các chương trình đó trên thực tế, và nếu Nhà nước chọn cách làm việc với
xã hội dân sự trong các chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật, thì làm sao để Nhà
nước duy trì mức độ chính xác của các thông tin được tuyên truyền mà vẫn đảm bảo
được chất lượng cung cấp.
Và câu hỏi khó ở đây không phải là liệu các tổ chức xã hội dân sự có nên tham
gia trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật hay không mà là vai trò tốt nhất của
tổ chức xã hội dân sự trong quy trình phổ biến, giáo dục pháp luật là gì. Làm thế nào
để có thể phát huy tốt nhất vai trò của Nhà nước, làm sao để Nhà nước có thể đặt ra
cho mục tiêu cho chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật và lại cộng tác với xã hội
dân sự trong việc thiết kế và thực hiện chương trình. Trên thế giới có nhiều ví dụ minh
hoạ cho phương thức phối hợp giữa Nhà nước và xã hội dân sự trong việc phổ biến,
giáo dục pháp luật.
Trong giai đoạn đầu tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật của các tổ chức xã
hội dân sự, điều quan trọng là Nhà nước cần phải duy trì một vai trò nhất định bởi có
những vấn đề chỉ có Nhà nước mới có thể giải quyết và những nguồn lực mà Nhà
nước cần cung cấp. Cụ thể là:
(1). Vai trò của Nhà nước
Sau đây là những việc mà xã hội dân sự không thể làm, uỷ thác của Nhà nước
và những việc Nhà nước có thể làm một cách tốt nhất:
Trang
10
- Hợp tác và phối hợp ở cấp bộ, ngành của Nhà nước (luật, giáo dục, nâng cao
nhận thức, cung cấp thông tin và tiếp cận thông tin);
- Xác định các ưu tiên;

- Mạng lưới;
- Các trung tâm tự lực và thông tin pháp lý: các hệ thống thông tin vô hình và
hữu hình;
- Hệ thống giáo dục (xây dựng chương trình học từ phổ thông tới đại học, các
khoa luật, sử dụng thư viện);
- Tham vấn trong quá trình thiết kế và thực hiện các chương trình phổ biến, giáo
dục pháp luật (xác định các ưu tiên và tiêu chuẩn và kiểm soát chất lượng);
- Các chiến dịch tuyên truyền;
- Thông tin từ các cơ quan; thông tin trực tuyến (trang web, công báo);
- Tham vấn công chúng và các bên liên quan về xây dựng chính sách và luật;
- Tập huấn và đào tạo;
- Cung cấp tài lực và hỗ trợ đường lối;
- Thu thập thông tin: đánh giá một cách khoa học các vấn đề.
(2) Khung pháp lý
Một trong những vai trò đầu tiên và quan trọng nhất mà Nhà nước cần đảm
đương trong phổ biến, giáo dục pháp luật là xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật: đó là các luật, quy định hình thành nên nghĩa vụ thực
hiện phổ biến, giáo dục pháp luật.
(3) Sự phối hợp và hợp tác của Nhà nước: cấp bộ và sở, ban, ngành
Sau khi cơ sở pháp lý cơ bản và hỗ trợ về nguồn lực đã được hình thành, vai trò
quan trọng tiếp theo của Nhà nước là phân công nhiệm vụ cho các bộ, ngành liên quan
đến các hợp phần của một chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật. Các bộ, ngành
phải chia sẻ trách nhiệm và phối hợp hoạt động với nhau và trên thực tế cơ chế phối
hợp liên bộ và liên ngành là một hợp phần khó khăn.
4. VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM TRONG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT CỦA NGÀNH GIÁO DỤC:
• Thực trạng công tác tuyên truyền pháp luật
Nhận thức chung của các cấp, các ngành trong công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật cho thanh, thiếu niên còn những hạn chế, đó là nhiệm vụ của ngành
tư pháp, của tổ chức Đoàn – Đội. Một số đơn vị, địa phương nhận thức đây là công tác

của riêng Đoàn thanh niên. Vì vậy sự quan tâm và đầu tư cho công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật cho lớp trẻ chưa được bảo đảm. Việc phổ biến, giáo dục pháp luật ở một
số trường học còn mang tính phong trào, chưa đi sâu vào những nội dung thiết thực
mà học sinh cần. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật chậm đổi mới, chưa theo kịp
tình hình. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể trong việc tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thiếu đồng bộ, trách nhiệm chưa rõ ràng, dẫn tới
hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế.
Một số cấp ủy Đảng, chính quyền và các ngành, đoàn thể chưa quan tâm công
tác quan trọng này. Việc đầu tư, chỉ đạo, triển khai công tác giáo dục pháp luật cho
học sinh là của Đoàn – Đội với tư cách là một nội dung giáo dục độc lập chưa được
Trang
11
thực hiện. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở trường học chưa chặt
chẽ, còn chồng chéo, mang nặng tính sự vụ, hình thức, chưa có kế hoạch giám sát cụ
thể, rõ ràng. Bên cạnh đó, đội ngũ báo cáo viên pháp luật hầu hết là kiêm nhiệm, năng
lực, trình độ còn không ít những hạn chế; trong khi đó, việc bồi dưỡng kỹ năng nghiệp
vụ cho đội ngũ này thực hiện không thường xuyên, thiếu cơ bản nên đôi lúc việc
nghiên cứu, biên soạn tài liệu tuyên truyền cũng như việc tham gia các buổi, đợt triển
khai công tác phổ biến giáo dục pháp luật xuống cơ sở còn thiếu đồng bộ, hiệu quả
chưa cao.
Hiện nay, nghiên cứu nguyên nhân của sự hình thành các loại tội phạm trong
thanh, thiếu niên thì phần lớn xuất phát từ việc không hiểu biết pháp luật, không biết
hoặc cố tình làm trái những quy định của Nhà nước. Đây là điều đáng báo động cho
tương lai nếu như học sinh nói riêng và thanh niên nói chung không được giáo dục
pháp luật đầy đủ ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường
Một trong những mô hình tuyên truyền, phổ biến pháp luật được nhiều nơi
triển khai là xây dựng Tủ sách pháp luật, nhưng tại nhiều trường hiệu quả khai thác và
sử dụng còn thấp, số lượng học sinh tham gia mượn đọc, nghiên cứu sách, báo pháp
luật rất thấp. Mặt khác, kinh phí đầu tư cho công tác phổ biến giáo dục pháp luật còn
quá hạn hẹp, trong khi cơ chế, chính sách, nguồn lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị,

phương tiện kỹ thuật để phục vụ cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật còn nhiều
khó khăn, các thiết chế văn hóa dành cho học sinh vừa thiếu về số lượng, hạn chế về
chất lượng.
• Cần những hoạt động thiết thực
Nguyên nhân của tình hình vi phạm pháp luật trong thanh, thiếu niên, học sinh
trước hết là do thiếu hiểu biết về pháp luật; do vốn sống và hiểu biết xã hội của thanh,
thiếu niên, học sinh còn hạn chế; khả năng tiếp nhận thông tin nhanh nhưng ít chọn
lọc và dễ bị lôi kéo, lợi dụng. Mặt khác, quá trình hội nhập, giao lưu kinh tế - văn hóa
- xã hội không ngừng được tăng cường nhưng chưa có sự chuẩn bị kỹ càng về mọi
mặt đã có tác động xấu đến lối sống của một bộ phận thanh, thiếu niên trong việc chấp
hành pháp luật Tất cả những vấn đề đó đang trở nên bức xúc, đòi hỏi sự quan tâm
nhiều hơn nữa của các cấp, các ngành, toàn xã hội và mỗi gia đình trong nhiệm vụ
tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho thanh, thiếu niên, học sinh.
Nhận thức rõ thực trạng trên, trong những năm qua, nhiều hoạt động giáo dục,
tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho thanh, thiếu niên, học sinh đã được chú trọng
bằng những việc làm cụ thể. Trong đó, đáng chú ý là việc triển khai thực hiện Đề án
tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho
thanh, thiếu niên giai đoạn 2011-2015. Đây là đề án quan trọng đã được Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 2160/QĐ-TTg phê duyệt vào ngày 26-11-2010. Vụ
trưởng Phổ biến, Giáo dục pháp luật (Bộ Tư pháp) Nguyễn Duy Lãm cho biết: Đề án
phấn đấu 100% số thanh, thiếu niên trong trường học được phổ biến chính sách, pháp
luật trong các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống, công việc, học tập phù hợp
với lứa tuổi của các em; 80% số thanh, thiếu niên vi phạm pháp luật được tuyên
truyền, phổ biến chính sách, pháp luật nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật, hạn chế tái
vi phạm pháp luật và tạo điều kiện hòa nhập tốt với cộng đồng Đây là những con số,
mục tiêu mà nếu đạt được một cách thực chất thì tình hình vi phạm pháp luật trong
thanh, thiếu niên sẽ được cải thiện rõ nét.
Tuy nhiên, để có thể đạt được những kết quả như mong muốn, công tác giáo
dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho thanh, thiếu niên cần nhận được sự quan
tâm, đầu tư và tham gia tích cực, chủ động của toàn xã hội, nhất là ngành giáo dục.

Các hoạt động liên quan công tác này cần được triển khai thực chất, có kế hoạch riêng
Trang
12
và thước đo sự thành công phải được thể hiện bằng ý thức chấp hành pháp luật của
thanh, thiếu niên học sinh trong thực tế cuộc sống
5. KỸ NĂNG CẦN THIẾT ĐỂ PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT:
5.1. Gây thiện cảm ban đầu cho người nghe
Việc gây thiện cảm ban đầu cho người nghe rất quan trọng. Thiện cảm ban đầu
thể hiện ở nhân thân, tâm thế và biểu hiện của người nói khi bước lên bục tuyên
truyền. Danh tiếng, phẩm chất đạo đức, học hàm, học vị, chức vụ của người nói là
nguồn thiện cảm ban đầu cho người nghe; kích thích người nghe háo hức chờ đón
buổi tuyên truyền. Thiện cảm ban đầu tạo ra sự hứng thú, say mê của người nghe,
củng cố được niềm tin về vấn đề đang tuyên truyền. Thiện cảm ban đầu còn được tạo
ra bởi khung cảnh của hội trường, khung cảnh của diễn đàn, dáng vẻ bề ngoài, y
phục, nét mặt, cử chỉ, phong thái, lời giao tiếp ban đầu. Như vậy, báo cáo viên cần
phải tươi cười bao quát hội trường, có lời chào mừng, chúc tụng, có câu mở đầu dí
dỏm, hài hước, công bố thời gian, chương trình làm việc rõ ràng, thoải mái sẽ gây
được thiện cảm ban đầu đối với người nghe. Thế nhưng, thiện cảm ban đầu chủ yếu là
ở cách đặt vấn đề đầu tiên của người nói. Trong những phút đầu tiên của bài giới
thiệu, người nói phải nêu được khoảng từ 3, 4 vấn đề chủ yếu mà người nghe cần tìm
hiểu nhất. Ví dụ khi tuyên truyền cho đối tượng là học sinh về Luật giáo dục thì các
vấn đề mà học sinh quan tâm nhất là quyền trẻ em, quy chế học tập Việc nêu các
vấn đề đó còn tuỳ thuộc ở khả năng thuyết trình của báo cáo viên. Báo cáo viên có thể
bắt đầu từ một câu chuyện pháp luật được các phương tiện thông tin đại chúng nói
đến nhiều thời gian qua hoặc có thể bắt đầu từ một bộ phim đã chiếu khá phổ biến
hoặc cũng có thể bằng các tình huống xảy ra gần địa bàn nơi tổ chức tuyên truyền
5.2. Tạo sự hấp dẫn, gây ấn tượng trong khi nói
Nghệ thuật tuyên truyền là tạo nên sự hấp dẫn, gây ấn tượng bằng giọng nói,
điệu bộ, ngôn ngữ. Giọng nói phải rõ ràng, mạch lạc nhưng truyền cảm. Hết sức tránh
lối nói đều đều. Giọng nói, âm lượng phải thay đổi theo nội dung và nhấn mạnh vào

những điểm quan trọng, cần phải chú ý. Động tác, cử chỉ cần phải phù hợp với nội
dung và giọng nói để nâng cao hiệu quả tuyên truyền của lời nói. Sắc thái có tác dụng
truyền cảm rất lớn. Vẻ mặt của người nói cần thay đổi theo diễn biến của nội dung.
Khi nói, cần chú ý nhìn vào một nhóm người ngồi dưới, thỉnh thoảng người nói cần
thay đổi vị trí nhìn để tạo sự chú ý của cử tọa. Người nói cần đưa ra số liệu, sự kiện
để minh hoạ, đặt câu hỏi để tăng thêm sự chú ý của người nghe.
Người nói cũng cần phát huy vai trò thông tin, truyền cảm của ngôn ngữ bằng
cách sử dụng chính xác, đúng mực thuật ngữ pháp lý, thuật ngữ chuyên ngành và
ngôn ngữ phổ thông. Người nói có thể kết hợp, lồng ghép, sử dụng hợp lý, chính xác ý
tứ, ngôn từ trong kinh điển, thơ văn, ca dao, dân ca vào buổi tuyên truyền pháp luật để
tăng tính hấp dẫn, thuyết phục đối với người nghe.
5.3. Bảo đảm các nguyên tắc sư phạm trong tuyên truyền miệng
Người nói cần tôn trọng các nguyên tắc sư phạm. Từ bố cục bài nói, diễn đạt
các đoạn văn, liên kết giữa các đoạn văn đến cách nói đều phải rõ ràng, mạch lạc,
lôgic. Người nghe cần được dẫn dắt từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ gần
đến xa (phương pháp suy diễn) hoặc từ xa đến gần (phương pháp quy nạp) và tuỳ từng
vấn đề mà dùng lý luận soi sáng cho thực tiễn hoặc từ thực tiễn mà đi sâu vào lý luận.
Mục đích cuối cùng vẫn là để người nghe hiểu rõ hơn, toàn diện hơn về những vấn đề
mà người nói đã nêu ra. Tuy nhiên dù phân tích, diễn giải rộng hay hẹp đều phải luôn
bám sát trọng tâm của vấn đề.
Trang
13
5.4. Sử dụng phương pháp thuyết phục trong tuyên truyền miệng
Tuyên truyền miệng về pháp luật chủ yếu dùng phương pháp thuyết phục với
ba bộ phận cấu thành là chứng minh, giải thích và phân tích.
- Chứng minh là cách thuyết phục chủ yếu dựa vào các dẫn chứng xác thực,
khách quan để làm sáng tỏ và xác nhận tính đúng đắn của vấn đề. Các dẫn chứng đưa
ra gồm số liệu, sự kiện, hiện tượng, nhân chứng, danh ngôn, kinh điển. Để có sức
thuyết phục, các dẫn chứng được đưa ra phải chính xác, tiêu biểu, toàn diện và sát hợp
với vấn đề nêu ra.

- Giải thích là việc dùng lý lẽ để giảng giải giúp người nghe hiểu rõ và hiểu
đúng vấn đề. Lập luận trong khi giải thích phải chặt chẽ, chính xác, mạch lạc, khúc
triết, không ngụy biện.
- Phân tích là diễn giải, đánh giá vấn đề nhằm tìm được đặc điểm, bản chất,
điểm mạnh, điểm yếu, điểm tốt, điểm xấu, sự phù hợp, không phù hợp của vấn đề.
Việc phân tích phải dựa trên cơ sở khoa học, không được cường điệu mặt này hay hạ
thấp mặt kia. Sau khi phân tích phải có kết luận, đánh giá, hướng người nghe vào định
hướng tư duy đúng đắn, không làm cho người nghe hoài nghi, dao động, hoang mang.
5.5. Các bước tiến hành một buổi tuyên truyền miệng về pháp luật
Để có một buổi tuyên truyền miệng pháp luật cần qua 2 bước:
5.5.1. Bước chuẩn bị: gồm 5 nội dung chính sau đây :
- Nắm vững đối tượng truyên truyền: Báo cáo viên cần nắm vững đối tượng
tuyên truyền qua các yếu tố về số lượng; thành phần (trí thức, công nhân, nông dân,
học sinh, thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi, phụ lão ); trình độ văn hoá; tình hình thực
hiện pháp luật ở cơ sở; ý thức thực hiện pháp luật và nhu cầu tìm hiểu pháp luật của
đối tượng.
Báo cáo viên có thể nắm vững đối tượng bằng phương pháp trực tiếp (tự điều
tra, tìm hiểu, gặp gỡ, quan sát ) hoặc bằng phương pháp gián tiếp (qua tài liệu, sách
báo, báo cáo tổng kết, trao đổi với người tổ chức buổi tuyên truyền ). Cần có thông
tin đầy đủ từ phía cơ quan tổ chức tuyên truyền về thành phần dự. Chú ý những thay
đổi có thể diễn ra về thành phần người nghe.
- Nắm vững vấn đề liên quan đến lĩnh vực mà văn bản điều chỉnh: Đó là các
vấn đề về kỹ thuật nghiệp vụ chuyên ngành, đường lối của Đảng, pháp luật của nhà
nước trong lĩnh vực đó, các tài liệu lý luận, giáo khoa, các tài liệu của nước ngoài
trong lĩnh vực đó. Để nắm vững vấn đề liên quan đến lĩnh vực mà văn bản điều chỉnh
đòi hỏi báo cáo viên ngoài trình độ chuyên môn tốt cần phải có quá trình tích lũy, sưu
tầm với một ý thức trách nhiệm và lòng say mê với nghề nghiệp.
- Nắm vững nội dung văn bản, cụ thể là hiểu rõ bản chất pháp lý của vấn đề
được văn bản điều chỉnh, sự cần thiết phải ban hành văn bản; hiểu rõ đối tượng điều
chỉnh, phạm vi điều chỉnh của văn bản; hiểu rõ ý nghĩa của các quy phạm, đặc biệt là

ý nghĩa về mặt quản lý Nhà nước, về tác dụng điều chỉnh của từng quy phạm cụ thể;
nghiên cứu các văn bản hướng dẫn thi hành, tài liệu hướng dẫn tuyên truyền và hệ
thống văn bản điều chỉnh lĩnh vực đó.
Muốn vậy, người nói cần nắm được thông tin liên quan đến văn bản từ giai
đoạn soạn thảo, lấy ý kiến đến khi ban hành (tờ trình về dự án Luật, các báo cáo tổng
hợp ý kiến tham gia xây dựng Luật ). Như vậy, người nói phải nắm được một cách
toàn diện không những nội dung văn bản mà còn cả những vấn đề có liên quan đến
Trang
14
việc ra đời và triển khai văn bản đó, cụ thể cần nắm vững tư tưởng, quan điểm chỉ đạo
của việc ban hành các văn bản đó thông qua các nghị quyết của Đảng, kế hoạch phát
triển kinh tế, xã hội hoặc trực tiếp hơn là qua tờ trình về việc ban hành văn bản, qua
các bài báo, bình luận khoa học về văn bản. Ngoài ra, trong quá trình tuyên truyền,
người nói cũng cần giới thiệu có chọn lọc ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà
nghiên cứu, các nhà hoạt động thực tiễn liên quan đến văn bản đó.
- Sưu tầm tài liệu dẫn chứng, minh họa: Đây là nội dung rất quan trọng vì nó
ảnh hưởng đến chất lượng, độ sâu và sức thuyết phục của buổi tuyên truyền. Tài liệu,
dẫn chứng minh họa có tính chính thức, độ tin cậy cao, có thể được sưu tầm trên Báo
Nhân dân, Đài Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam hoặc các tạp chí
chuyên ngành; các công trình khoa học đã được công bố; bài viết trên các báo, đặc san
khoa học; số liệu, dẫn chứng trên các trang thông tin điện tử (trang Web) cần được lựa
chọn phù hợp. Khi sưu tầm tài liệu, báo cáo viên cần chú ý đến tính chất, yêu cầu của
tài liệu đó, tuyệt đối tránh tài liệu, dẫn chứng minh họa thuộc diện mật của Đảng và
Nhà nước; số liệu, dẫn chứng đã cũ không còn phù hợp với hiện tại.
- Chuẩn bị đề cương: Đề cương tuyên truyền miệng (bao gồm đề cương sơ bộ
và đề cương chi tiết) cần đầy đủ về nội dung, thích hợp với đối tượng, chặt chẽ về bố
cục, sắc sảo về lập luận. Khi chuẩn bị đề cương cần chú ý những yêu cầu sau:
+ Đề cương không phải là một bài viết hoàn chỉnh, cụ thể mà là tài liệu nêu lên
các trọng tâm cần tập trung tuyên truyền, phổ biến. Trên cơ sở đó, báo cáo viên phân
tích cụ thể, mở rộng những vấn đề nêu trong đề cương. Đề cương tuyên truyền có

nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo việc tổ chức triển khai tuyên truyền văn bản pháp luật
cho phù hợp với từng loại đối tượng, trên từng địa bàn.
+ Cần lựa chọn vấn đề cốt lõi của văn bản có liên hệ với hệ thống pháp luật để
làm rõ mối quan hệ của văn bản với hệ thống pháp luật.
+ Để thu hút người nghe và tạo điều kiện cho người nghe hiểu văn bản có tính
hệ thống, toàn bộ các phần trong đề cương phải có mối quan hệ hữu cơ với nhau như
một câu chuyện là: yêu cầu, nhiệm vụ của văn bản; cơ chế quản lý như thế nào; quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể ra sao; chế tài áp dụng đối với người vi phạm thế nào để
sao cho đạt được yêu cầu, nhiệm vụ cần tuyên truyền.
5.5.2. Tiến hành một buổi tuyên truyền miệng về pháp luật
Một buổi tuyên truyền miệng về pháp luật thường có các phần sau:
- Vào đề: Là phần giới thiệu vấn đề, định hướng tư duy, khơi gợi nhu cầu của
đối tượng, thiết lập quan hệ giữa người nói với người nghe. Với tuyên truyền miệng
về pháp luật, cách vào đề có hiệu quả thường là gợi ra nhu cầu tìm hiểu ý nghĩa, sự
cần thiết phải ban hành văn bản pháp luật.
Trước khi bắt đầu phần này, báo cáo viên cần có những lời chào mừng, chúc
tụng đối với người nghe để gây thiện cảm và không khí gần gũi. Trong phần vào đề,
người nói phải nêu được khoảng từ 3, 4 vấn đề chủ yếu mà người nghe cần tìm hiểu
nhất để tạo sự chú ý, sức hấp dẫn cho người nghe (như đã trình bày ở điểm 3.1). Việc
nêu các vấn đề đó còn tuỳ thuộc ở khả năng diễn thuyết của báo cáo viên. Báo cáo
viên có thể bắt đầu từ một câu chuyện pháp luật được các phương tiện thông tin đại
chúng nói đến nhiều thời gian qua; có thể bằng các tình huống xảy ra gần địa bàn nơi
tổ chức tuyên truyền hoặc một câu chuyện có liên quan mà tình cờ báo cáo viên biết
được qua trao đổi trước buổi tuyên truyền với một số người nghe
Trang
15
- Nội dung: Là phần chủ yếu của buổi nói, làm cho đối tượng hiểu, nắm được
nội dung, chuyển biến nhận thức, nâng cao ý thức pháp luật cho đối tượng. Cần lưu ý
là phải nêu được những điểm mới, thời sự để người nghe chú ý; khi tuyên truyền
không được sao chép, đọc nguyên văn văn bản để tránh sự nhàm chán. Khi giảng cần

phân tích, giải thích và nêu ý nghĩa của văn bản pháp luật đó. Viết, đọc một đoạn nào
đó trong văn bản chỉ có tính chất dẫn chứng, minh họa những gì mà người nói đã phân
tích, dẫn chứng ở trước.
Trong tuyên truyền văn bản phải chú ý tới hai điều, đó là: lựa chọn cách trình
bày phù hợp với đối tượng và nêu được vấn đề cơ bản, cốt lõi, trọng tâm để người
nghe thâu tóm được tinh thần văn bản. Sử dụng hợp lý kênh ngôn ngữ (nói) và kênh
phi ngôn ngữ (cử chỉ, động tác).
* Trong thực tiễn tuyên truyền miệng pháp luật, vì nhiều lý do, có thể xảy ra
những “trục trặc” ngoài ý muốn khi đang thực hiện buổi tuyên truyền miệng pháp luật.
Những “trục trặc” thường gặp trong thực tế là:
- Nói lắp, nói nhịu: Đôi khi trong khi đang nói vì căng thẳng hay mệt mỏi báo
cáo viên nói lắp, nói nhịu. Đây là hiện tượng vô thức xảy ra ngoài ý muốn của con
người. Khi xảy ra hiện tượng này, thường sẽ gây nên tiếng cười, ồn ào trong người
nghe. Để khắc phục hiện tượng này, báo cáo viên cần phải bình tĩnh, không được mất
tinh thần; lấy lại sự tập trung vào bài giảng. Báo cáo viên có thể kể một câu chuyện
vui hoặc có những câu nói hài hước để tạo nên không khí thoải mái, vui vẻ trong buổi
tuyên truyền, sau đó khéo léo dẫn dắt vào bài giảng.
- Lạc đề: Hiện tượng này xảy ra do báo cáo viên phân tích, diễn giải vấn đề quá
rộng dẫn đến những nội dung báo cáo viên nói không có liên quan hoặc ít liên quan
đến bài giảng. Trong trường hợp này, báo cáo viên không được mất bình tĩnh; sử dụng
phương pháp quy nạp, từ những vấn đề đã phân tích, diễn giải rộng ở trên, báo cáo
viên khéo léo dẫn dắt người nghe đến những nội dung chính của bài giảng. Để kiểm
soát được bài giảng của mình đúng trọng tâm, không lạc đề đòi hỏi báo cáo viên phải
chuẩn bị kỹ nội dung bài giảng, trong khi giảng bài cần tập trung, luôn quan tâm theo
dõi đến thái độ (phản ứng) của người nghe để điều chỉnh bài giảng hợp lý.
- Thừa giờ hoặc thiếu giờ: Tình huống này thường xảy ra đối với những báo
cáo viên còn thiếu kinh nghiệm trong nghề. Đây là trường hợp thời gian dự kiến ban
đầu của buổi tuyên truyền miệng vẫn còn nhưng báo cáo viên đã truyền đạt hết các nội
dung văn bản pháp luật hoặc đã hết giờ mà chưa truyền đạt hết nội dung. Nếu gặp
phải trường hợp này, tuỳ vào từng hoàn cảnh cụ thể mà báo cáo viên cần phải nhanh

nhạy chuyển sang hình thức khác có liên quan đến bài giảng như tổ chức thảo luận về
những nội dung của văn bản quy phạm pháp luật, báo cáo viên sẽ trực tiếp giải đáp
những thắc mắc của người nghe hoặc báo cáo viên chuẩn bị sẵn những câu hỏi liên
quan đến nội dung bài giảng để hỏi người nghe hoặc tổ chức giao lưu, học hỏi kinh
nghiệm về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật giữa báo cáo viên và người nghe,
nhất là khi người nghe là những cán bộ tuyên truyền pháp luật
Ngoài ra, cần xử lý các tình huống khác trong hội trường như: Học viên ngủ
gật, nghe điện thoại di động, mất điện, học viên nói chuyện riêng
5.5.3. Phần kết luận:
Là phần người nói thường điểm lại và tóm tắt những vấn đề cơ bản đã tuyên
truyền. Tùy từng đối tượng mà nêu những vấn đề cần lưu ý đối với họ. Trong phần
này, người nói sau khi đã phân tích, diễn giải cần phải tóm tắt lại những nội dung
chính của buổi tuyên truyền miệng và những vấn đề cần lưu ý. Tuy nhiên với mỗi một
Trang
16
đối tượng khác nhau sẽ có cách thức tóm tắt khác nhau căn cứ vào nhu cầu, lĩnh vực
công tác của đối tượng.
5.5.4. Trả lời câu hỏi của người nghe:
Người nói cần dành thời gian cần thiết trả lời các câu hỏi mà người nghe quan
tâm, chưa hiểu rõ. Đây là phần người nói có thể đánh giá được mức độ hiểu bài của
người nghe; là dịp để người nói trao đổi những kinh nghiệm, hiểu biết của mình cho
người nghe.
Tóm lại, hiệu quả của tuyên truyền miệng về pháp luật phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố. Để đạt hiệu quả tuyên truyền cao, người tuyên truyền cần phải dày công tích
luỹ, chuẩn bị đề cương, phải có nghệ thuật vượt qua hàng rào ngăn cách ban đầu về
mặt tâm lý, gây thiện cảm, gây sự chú ý của người nghe từ khi bắt đầu buổi nói
chuyện; phải biết tạo ra nhu cầu, kích thích, hấp dẫn, gây ấn tượng cho người nghe
trong suốt buổi nói; biết kết luận đúng cách để khi kết thúc còn đọng lại những điều
cần thiết cho người nghe tiếp tục suy nghĩ.
KIẾN NGHỊ

Công tác giáo dục pháp luật cho học sinh đã được Đảng và Nhà nước các cấp
ban hành các Nghị quyết, văn bản chỉ đạo. Nhưng đây là một vấn đề còn rất mới mẽ
và rất khó đối với đơn vị của trường trung học cơ sở, do vậy để nhà trường làm tốt
nhiệm vụ của mình, xin kiến nghị:
-Các trường Đại học sư phạm cần chú trọng hơn nữa chất lượng đào tạo giáo
viên dạy môn Giáo dục công dân, không nên ghép 2 môn (như Sử - GDCD; Văn –
GDCD . . .) và trong chương trình đào tạo nên tăng thêm một số tiết học về kiến thức
pháp luật, nhất là pháp luật về Chủ nghĩa xã hội.
-Đối với Sở giáo dục và đào tạo: Có kế hoạch bồi dưỡng về pháp luật cho giáo
viên dạy môn Giáo dục công dân trong các trường phổ thông và trung học cơ sở. Đầu
tư các phương tiện, thiết bị dạy học cho bộ môn Giáo dục công dân thêm phong phú,
đa dạng. Để giáo viên sử dụng các phương tiện thiết bị dạy học trong tiết dạy một
cách hợp lí, thiết thực và có hiệu quả, xem phương tiện, thiết bị dạy học như một
thành tố của phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa, tránh lạm dụng hoặc sử
dụng mang tính hình thức.
-Đối với nhà trường: Trang bị nhiều loại sách giáo dục pháp luật, đủ để cung
cấp cho từng giáo viên tham khảo, nghiên cứu.
KẾT LUẬN
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Thực
hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lí tưởng, giáo dục
truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực
hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”.
Cho nên, công tác giáo dục công dân nói chung và giáo dục pháp luật cho học
sinh trung học cơ sở nói riêng đang là vấn đề cấp thiết do yêu cầu phát triển của xã hội
đặt ra, lại có tính chiến lược do yêu cầu xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa
nhằm đáp ứng cho công cuộc đổi mới của đất nước.
Công tác giáo dục còn là một bộ phận quan trọng trong công tác chính trị tư
tưởng của Đảng trở thành hiện thực, đi vào đời sống xã hội, đời sống cộng đồng. Nói

Trang
17
cách khác chúng ta phải tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống của
nhân dân, làm cho mọi người dân hiểu được pháp luật, thực hiện theo pháp luật và tôn
trọng pháp luật. Trong đó, các thế hệ thanh thiếu niên học sinh là chủ nhân tương lai
của đất nước, các em phải được giáo dục rèn luyện về hạnh kiểm đạo đức, có đầy đủ
kiến thức văn hóa và kiến thức pháp luật để trở thành công dân hữu ích cho xã hội,
cán bộ có đủ “đức” và “tài” phục vụ cho Tổ quốc. Nhiệm vụ to lớn đó, trước hết các
trường trung học cơ sở phải gánh vác với nhận thức sâu sắc và đầy đủ tinh thần trách
nhiệm, chủ động cải tiến phương pháp giảng dạy, học tập để nâng cao chất lượng các
môn văn hóa, đặc biệt là môn Giáo dục công dân, giáo dục pháp luật. Đồng thời phối
hợp chặt chẽ với gia đình và xã hội, đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật cho học
sinh. Đây là việc làm thiết thực và đầy ý nghĩa, chính thông qua các hoạt động giáo
dục pháp luật cho học sinh vận dụng kiến thức pháp luật vào đời sống thực tiễn và từ
thực tiễn sinh động giúp cho học sinh có nhận thức sâu sắc về kiến thức pháp luật.
Tuy nhiên công tác giáo dục pháp luật cho học sinh còn là một vấn đề mới mẻ,
đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện. Bản thân với điều kiện nghiên
cứu còn hạn chế, tầm nhìn còn hạn hẹp, các vấn đề nêu trong tiểu luận chưa thể đáp
ứng được yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn nên bản thân phải tiếp tục nghiên cứu, học
tập bằng nhiều phương pháp để hoàn thiện và có thể mở rộng đề tài nghiên cứu đáp
ứng được yêu cầu công tác giáo dục pháp luật cho học sinh trong các trường trung học
cơ sở nói riêng và ngành giáo dục nói chung, góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp
giáo dục và đào tạo của đất nước./.
Quận 12, ngày /7/2012
Người viết
Lâm Thị Ngọc Vân

Trang
18

×